Tài liệu bài triết | Trường Đại học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội

Tài liệu bài triết | Trường Đại học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội. Tài liệu gồm 12 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Vận dung quy luật này trong cuộc sống và học tập của
bản thân. Ý nghĩa của quy luật đối với sự phát triển của xã hội việt nam ngày nay thì phải
Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định và ý nghĩa của phương pháp luận.
- Vị trí của quy luật (0,5đ)
- Khái niệm phủ đinh, phủ định biện chứng (1đ)
Phủ định: là sự thay thế bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ phủ định tự thân, là mắt khâu của quá trình dẫn đến
ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ
Mọi quá trình vận động và phát triển các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy diễn ra thông qua những sự
thay thế, trong đó có sự thay thế chấm dứt sự phát triển, nhưng cũng có sự thay thế tạo ra điều kiện, tiền
đề cho quá trình phát triẻn của sự vật. Những sự thay thế tạo ra điều kiện, tiền đề cho qúa trình phát triển
của sự vất thì gọi là phủ định biện chứng.
- Tính chất của phủ định (2đ)
Tính khách quan
Nguyên nhân của phủ định nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng, nó là quá trình đấu tranh, giải quyết
mâu thuẫn tất yếu bên trong bản thân sự vật, tạo kả năng ra đời cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu
hướng phát triển của chính bản thân sự vật.
Tính kế thừa
Tính kế thừa của Phủ định được thể hiện mà trong đó cá mới hình thành và phát triển tự thân thông qua
quá trình chọn lọc, loại bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội dung tích cực.
Phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật
quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự
vật - giữa mặt khẳng định và phủ định.
Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình (cái phủ định, phủ
định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề là cái cũ, cái phủ định là cái mới xuất hiện sau cái phủ định
là cái đối lập với cái bị phủ định. Cái phủ định sau khi khi phủ định cái bị phủ định, cái phủ định định lại
tiếp tục biến đổi và tạo ra chu khỳ phủ định lần thứ hai) . Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới
sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó dường như lập lại
cái ban đầu nhưng nó được bổ sung nhiều nhân tố mới cao hơn, tích cực hơn.
VD Hạt thóc Cây mạ Cây lúa
Hạt thóc cho ra đời cây mạ (đây là phủ định lần 1)
Cây mạ cho ra đời cây lúa (đây là phủ định lần 2).
Cây lúa cho ra bông thóc (thóc lại cho ra thóc nhưng lần này không phải là 1 hạt mà là nhiều hạt)
Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc
điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định.
Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực đã có
và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những lần phủ định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới
với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung toàn diện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng
định bạn đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là diểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi
đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục phủ định biện chứng chính mình để phát triển. Cứ
như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật - xu hướng phát triển. Song
phát triển đó không theo hướng thẳng mà theo đường "xoáy ốc".
Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng
của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường xoáy ốc dường như thể hiện sự lặp
lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến
cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau từ dưới lên của các vòng trong đường "xoáy ốc".
Ý nghĩa của phương pháp luận (1,5đ)
Qúa trình phủ định mang tính đi lên, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải có liềm tin vào xu hướng
của sự phát triển.
Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước.trong sự thay thế đó có sự tác động của các nhân tố chủ
quan của con người, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải phát huy tính năng động sáng tạo, phát hiện
những cái mới thay thế những cái cũ lỗi thời.
Phủ định mang tính kế thừa, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải kế thừa những yếu tố tích cực. Kế
thừa phát triển những tinh hoa văn hoá của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Loại bỏ những
hủ tục lạc hậu, những tư tưởng lỗi thời mang tính bảo thủ.
Trong quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều tiết của nhà nước tạo tiền đề phủ định nền kinh
tế tập trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Tuy nhiên ở mỗi mô hình đều có đặc điểm riêng, do đó, chúng ta đã nhận thức được vấn đề và đã có cách
thức tác động phù hợp với sự phát triển của thực
tiễn đất nước, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và từng bước xóa bỏ đói nghèo nhưng không
vì thế mà chúng ta không trân trọng cái cũ.
Chúng ta đã biết giữ hình thức cải tạo nội dung, biết kế thừa và sử dụng đặc trựng tiến bộ của nền kinh tế
tập trung là tiền đề để phát triển nền kinh tế thị trường trên cơ sở đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa.chính vì vậy mới có kết quả đáng mừng của 20 năm đổi mới.
Tuy nhiên để có thành công như hôn nay, trong hoạt động của chúng ta, cả hoạt động nhận thức cũng như
hoạt động thực tiến chúng ta phải vận dụng tổng hợp tất cả những quy luật một cách đầy đủ sâu sắc, năng
động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể. Chỉ có như vậy hoạt động của chúng ta, kể cả hoạt động học
tập, mới có chất lượng và hiệu quả cao.
Quy luật phủ định của phủ định - ý nghĩa phương pháp luận áp dụng thực tiễn vào tình hình kinh tế nước
ta hiện nay
Quy luật phủ định của phủ định là phủ định biện chứng để phát triển, cứ sau mỗi lần phủ định là xã hội sẽ
phát triển thêm một bước. Trong công cuộc đổi mới của đất nước, để phát triển đất nước là phải giải quyết
mâu thuẫn.
Qua gần 20 năm đổi mới, nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân
dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn. Song, để đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên,
chúng ta phải giải quyết rất nhiều mâu thuẫn phức tạp mà trong bài viết này mới điểm danh đại thể 8 mâu
thuẫn. Việc giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn là điều kiện căn bản để nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới.
Nhà triết học Hêgen đã khẳng định: Cuộc sống tiến lên thông qua những mâu thuẫn. Thực tiễn phát triển
đất nước ta hiện nay một lần nữa khẳng định tính đúng đắn của luận điểm đó.
Qua gần 20 năm đổi mới, nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân
dân trong việc hiện thực hoá đường lối đó, chúng ta đã đạt dược những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng. Nền dân chủ
XHCN với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết định trên những đường nét cơ bản.
Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, sự thống nhất trong đa dạng đã hình thành. Khối đại đoàn
kết toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức ngày càng được củng cố, thực sự trở thành một động lực quan trọng của đổi mới đất nước.
Nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân với lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại ngày càng đủ mạnh để bảo vệ Tổ quốc và cuộc sống yên lành của nhân dân.
Nền ngoại giao độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam sắn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển,
không ngừng mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế đã
phát huy vai trò to lớn của mình trong đổi mới đất nước. Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã góp
phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, đủ sức gánh vác được sứ mệnh lịch sử mà dân tộc ta giao
phó. Những thành tựu đó đã làm cho sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên nhiều, vị thế nước ta
trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
Những bài học được rút ra từ 20 năm đổi mới giúp chúng ta hoàn thiện hơn nữa đường lối, chủ trương,
chính sách và cách thức triển khai trong tổ chức thực tiễn sẽ góp phần đẩy mạnh hơn sự phát triển của đất
nước. Sắp tới, việc tham gia WTO là bước hội nhập kinh tế quốc tế ở tầm cao nhất về cấp đối tác sẽ mang
lại nhiều thuận lợi cho sự phát triển...
Đó là những yếu tố quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới nhằm đưa nước
ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2010 và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020.
Song, bên cạnh những thành tựu, tiến bộ đã đạt được sau gần 20 năm đổi mới, vẫn còn những yếu kém,
khuyết điểm làm gay gắt những mâu thuẫn của quá trình phát triển.
Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Khó khăn này sẽ tăng
lên rất lớn, đặc biệt là đối với doanh nghiệp, khi AFTA có hiệu lực đầy đủ đối với nước ta và nước ta
chính thức gia nhập WTO. Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước để phát triển kinh tế chưa được huy
động và sử dụng tốt. Thất thoát, lãng phí trong quản lý kinh tế, đặc biệt trong quản lý đất đai, đầu tư xây
dựng cơ bản, quản lý doanh nghiệp Nhà nước còn rất nghiêm trọng. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và cải cách hành chính trong hệ thống chính quyền chưa đạt yêu cầu đề ra. Nhiều nơi còn vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân, việc thực hiện luật pháp, kỷ cương không nghiêm. Nhiều vấn đề xã hội bức
xúc chậm hoặc chưa giải quyết tốt.
Từ đó, có thể thấy, để đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên, chúng ta phải giải quyết rất nhiều mâu
thuẫn phức tạp, trong đó nổi lên những mâu thuẫn sau:
1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế với sự bất cập của cơ chế, chính sách khai thác
nguồn lực hiện nay.
Để đạt mục tiêu đến năm 2010 thoát khỏi tình trạng một nước kém phát triển, tốc độ phát triển kinh tế
thời gian tới phải đạt mức trung bình khoảng 8%/năm(1). Chỉ bằng cơ chế, chính sách như hiện nay,
chúng ta khó có thể thực hiện phát triển đột biến về khả năng khai thác những tiềm năng lớn về tài
nguyên, lao động trong nước, về khả năng tận dụng những cơ hội quốc tế để gia tăng mạnh và sử dụng tốt
các nguồn lực từ bên ngoài. Nền kinh tế hiện vẫn rất dễ bị tổn thương trước tác động không lớn lắm của
những biến đổi kinh tế bên ngoài. Khoảng cách về kinh tế giữa nước ta với nhiều nước trong khu vực và
thế giới ngày càng mở rộng. Sự tụt hậu trên lĩnh vực này chưa được ngăn chặn.
2. Mâu thuẫn giữa tính ưu việt của nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN với những hạn chế trong
việc tìm ra quyết sách khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường.
Tính ưu việt của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải được thể
hiện ngày càng đậm nét trước hết và chủ yếu ở khả năng bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, trong khi đó, chúng ta chưa tìm
được những giải pháp hữu hiệu để giải quyết những hậu quả xã hội do tác động tiêu cực của những mặt
trái thuộc kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra. Nhiều vấn đề xã hội có xu hướng ngày
càng gay gắt. Đặc biệt, điều làm cho nhân dân hết sức bất bình, lo lắng là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, nhũng nhiễu dân, suy thoái về tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của .một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng. Văn hoá lai căng có xu hướng phát triển. Hiện tượng ma
chay, cưới xin, hội hè với nhiều hủ tục được khôi phục ở nhiều nơi. Đạo lý xã hội, gia đình xuống cấp.
Tình huống mất ổn định cục bộ có khả năng xảy ra nhiều hơn, mức độ phức tạp của tình hình gia tăng
hơn... Chúng ta chưa tìm được những phương hướng ngăn chặn có hiệu quả tình trạng đó.
3. Mâu thuẫn giữa tính tất yếu khách quan phải nâng cao sự đồng thuận xã hội trong đổi đất nước với sự
tấn công của các thế lực thù địch trong và ngoài nước nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân là một điều kiện tất yếu để đưa công cuộc đổi
mới tiến lên mạnh mẽ hơn. Nhưng, cùng với những yếu kém của chính chúng ta, thì sự tác động của các
thế lực thù địch nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình" đối với nước ta bằng nhiều con đường,
nhiều biện pháp và phương tiện, cả trực tiếp lẫn gián tiếp qua một số phần tử cơ hội về chính trị để chống
phá trên lĩnh vực tư tưởng -lý luận đã làm cho một bộ phận cán bộ, Đảng viên và nhân dân phân tâm...
Chúng ta có phần còn lúng túng, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này.
4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao tính tích cực chính trị với lối sống thực dụng trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân.
Trong khi cuộc sống đòi hỏi phải thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của nhân dân, phát huy đóng góp của
nhân dân vào việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới, thì tình trạng thờ Ơ chính trị, chỉ lo
vun vén cho lợi ích của bản thân và gia đình, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền của một bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân có chiều hướng gia tăng. Chúng ta chưa tìm được cách để khắc phục tình hình
này với hiệu quả cao.
5. Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị với sự thiếu hụt trong những biện pháp
mang tính đột phá trên lĩnh vực này.
Công cuộc đổi mới kinh tế đã phát triển tới mức đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới tổ chức,
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, sự kết hợp hài hoà hơn nữa giữa các bộ phận cấu thành hệ
thống đó, song, chúng ta chưa có những đột phá trên lĩnh vực này. Đã có nhiều nghị quyết, nhiều chủ
trương chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhưng hiệu quả thực tiễn còn thấp. Bộ máy của hệ thống
chính trị còn quá cồng kềnh, cơ chế vận hành chưa thật khoa học, tình trạng lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ
giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị còn xuất hiện ở nhiều cấp, nhiều địa phương. Việc thực
hiện luật pháp, kỷ cương không nghiêm. Nhiều nơi còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Đội ngũ
cán bộ, công chức chưa đủ mạnh, phương pháp hoạt động của nhiều cán bộ đảng, đoàn thể còn trong tình
trạng viên chức hoá... Sự yếu kém đó, nếu không được khắc phục có hiệu quả, thì một số phương diện của
hệ thống chính trị sẽ trở thành lực cản lớn đối với đổi mới trên lĩnh vực kinh tế.
6. Mâu thuẫn giữa quá trình phát triển dân chủ với tình trạng thiếu giá đỡ về lý luận và thực tiễn cho quá
trình đó.
Dân chủ hoá đời sống xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi mới. Nhưng chúng ta chưa tìm
được những giải pháp tất nhất để xác lập vững chắc quan điểm khoa học về dân chủ phù hợp với điều
kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, không đa nguyên về chính trị, không tổ chức quyền lực Nhà nước
theo nguyên tắc phân quyền, chưa tìm được những cơ chế và hình thức thực hiện dân chủ thích hợp với
truyền thống văn hoá chính trị, với trình độ dân trí, trình độ văn hoá chung của nhân dân. Dân chủ trong
Đảng, trong xã hội và ở cơ sở tuy đã được nhấn mạnh trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng và các văn
bản pháp quy của Nhà nước, nhưng kết quả đạt được trên thực tế còn nhiều hạn chế. Cải cách hành chính
tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Chưa có cơ chế để bảo đảm quyền lực Nhà nước thực sự
thuộc về nhân dân, vai trò giám sát thực hiện quyền kiểm tra của nhân dân đối với chính quyền và cán bộ,
Đảng viên còn mờ nhạt.
7. Mâu thuẫn giữa tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với khả năng giữ vững độc lập tự chủ trong
hội nhập và khắc phục những tác động tiêu cực của hội nhập.
Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là một nhân tố tất yếu để phát triển, nhưng chúng ta còn thiếu nhất
quán và lúng túng, bị động trong việc xử lý mối quan hệ giữa mặt tích cực và tiêu cực của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, giữa độc lập tự chủ về kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, lúng túng trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa hội nhập đồng thời nhiều cấp độ hơn, sâu hơn, rộng hơn, đa dạng hơn... với việc
giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc.
8. Mâu thuẫn giữa việc giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng nhân tố quyết định thành công
sự nghiệp đổi mới với tình trạng một số mặt của Đảng chưa thật ngang tầm trước đòi hỏi của tình hình.
Để đổi mới thành công, điều kiện tiên quyết là phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
Điều đó chỉ có được duy trì được với tiền đề: Đảng phải vững vàng về chính trị - tư tưởng, mạnh về tổ
chức và cán bộ, trong sạch về đạo đức, lối sống, đứng ở tầm cao về trí tuệ, có phương thức lãnh đạo thực
sự khoa học. Yêu cầu đó đặt ra trong tình hình Đảng đang đứng trước sự bất cập không nhỏ trên hầu hết
các phương diện đó.
Đảng ta nói chung, hầu hết cán bộ, đảng viên nói riêng kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn,
kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì đổi mới vì chủ
nghĩa xã hội... song, cũng có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, thậm chí cả một bộ phận tổ chức
đảng phai nhạt lý tưởng, rơi vào dòng xoáy của thị trường, bệnh tham nhũng chưa có dấu hiệu suy giảm,
một bộ phận sa đoạ về đạo đúc, lối sống. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu đề
ra. Những yếu kém này đã và đang làm suy giảm một cách đáng kể mềm tin của một bộ phận nhân dân
vào tiền đồ của đổi mới, vào vị trí của Đảng ta. Đó là nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của Đảng, của chế
độ.
Sự tiên phong về lý luận là biểu hiện tập trung nhất sự tiên phong của Đảng. Nhưng, ngay trên lĩnh vực
quan trọng này cũng có những hẫng hụt không nhỏ. Sự phát triển lý luận chưa đủ cung cấp cơ sở khoa
học cho việc tìm ra những lời giải đáp đúng đắn, kịp thời nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề nảy
sinh từ thực tiễn trên đây đang là một trở ngại lớn cho việc tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Tuy sau 20 năm đổi mới, nhiều vấn đề lý luận về CNXH và con dường đi lên
CNXH ở nước ta đã được làm sáng tỏ hơn, song cũng còn không ít vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Chẳng
hạn:
Toàn cầu hoá kinh tế kéo theo toàn cầu hoá trên nhiều lĩnh vực khác. Hội nhập kinh tế đòi hỏi phải hội
nhập trên nhiều lĩnh vực khác, kể cả lĩnh vực văn hoá, chính trị. Chẳng hạn, để làm ăn kinh tế với nhau,
chúng ta phải điều chỉnh hệ chuẩn pháp luật kinh tế, làm cho nó tương thích với hệ chuẩn kinh tế của
nước đối tác mà phần lớn là tư bản chủ nghĩa: Từ giác độ lý luận, độc lập, tự chủ trên các lĩnh vực này
được hiểu như thế nào, từ đó, thiết kế thực tiễn ra sao?
Những yếu tố quan trọng nhất quyết định tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta
là gì? Phải chăng, đó là: mục tiêu phát triển vì con người, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Lại có ý kiến cho rằng, tiến bộ và công bằng xã hội là mục tiêu quan trọng nhất, thể hiện
tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Phải đảm bảo công bằng xã hội trong tiếp
cận các cơ hội và nguồn lực để phát triển, trong phân bổ nguồn lực quốc gia, phân phối kết quả làm ra,
thực hiện điều tiết xã hội và phân phối lại.
Có cái gọi là những cơ chế vận hành có tính quy luật, tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN không, hay chỉ có những cơ chế vận hành có tính quy luật, tất yếu của nền kinh tế thị trường,
không tuỳ thuộc vào chế độ xã hội? Nếu có sự phụ thuộc vào tính chất xã hội, thì tính đặc thù của những
cơ chế đó ở nước ta là gì?
Nhà nước đóng vai trò như thế nào trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN? Phải chăng,
Nhà nước chỉ đóng vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và phát huy
các nguồn lực đầu tư phát triển hay còn phải trực tiếp quản lý doanh nghiệp Nhà nước và phần Nhà nước
trong các loại doanh nghiệp khác?
Sở hữu và thành phần kinh tế vẫn là vấn đề lớn. Phân định sở hữu như thế nào, 3 hình thức (toàn dân, tập
thể, tư nhân) hay 4 hình thức (toàn dân, tập thể, tư nhân, hỗn hợp), thậm chí là 5 hình thức (toàn dân, tập
thể, tư nhân, hỗn hợp, sở hữu của nước ngoài đang đầu tư ở nước ta, trong đó có thể có phần thuộc sở hữu
Nhà nước của nước ngoài)? Hơn nữa, nên gọi là "sở hữu toàn dân" hay để làm rõ trách nhiệm và quyền
hạn của người sở hữu, nên xác định là "sở hữu Nhà nước"? Có nên phân định thành phần kinh tế, trong đó
có kinh tế tư bản tư nhân không? Hay nên phân định khu vực kinh tế, hoặc phân định theo quy mô sản
xuất - kinh doanh để dễ quản lý Nhà nước như hiện nay bên Nhà nước vẫn phân định? Giải quyết như thế
nào yêu cầu xoá bỏ triệt để mọi hình thức phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế với tính tất yếu
phải "đỡ đầu” cho một số loại doanh nghiệp thiết yếu cần cho quốc kế dân sinh nhưng hiệu quả kinh tế
thấp?
Ngoài vai trò của các nhân tố chính trị, không có vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước thì không giữ vững
được định hướng XHCN trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. Nhưng, hiểu như thế nào về vai trò
"chủ đạo" của kinh tế Nhà nước, khi mà ở khu vực này, rất nhiều doanh nghiệp làm ăn với hiệu quả và
sức cạnh tranh thấp? Điều đó không chỉ ở nước ta, mà là hiện tượng tương đối phổ biến ở ngay những
nước có nền kinh tế phát triển thuần thục như những nước tư bản phát triển. Đây vẫn tiếp tục là vấn đề
trọng đại và bức xúc của đất nước trong nhiệm kỳ Đại hội X, vì nhiều doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã
vẫn đang trong tình trạng làm ăn kém hiệu quả, tham nhũng nặng nề và tình trạng mất đoàn kết trong bộ
máy quản lý đang là phổ biến.
Hướng phát triển tới là thu hẹp hơn nữa diện doanh nghiệp Nhà nước, tập trung vào một số lĩnh vực mà
doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn. Song, trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, nếu doanh
nghiệp tư nhân được làm thì phần lớn lại có hiệu quả cao hơn. Vậy, về mặt lý luận, giải quyết vấn đề này
như thế nào?
Thực tiễn 20 năm đổi mới cho thấy rằng, kinh tế tư nhân là một động lực khai thác có hiệu quả mọi nguồn
lực tiềm tàng trong xã hội để phát triển kinh tế, tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo, là một động lực rất
quan trọng để phát triển nền kinh tế nước ta. Song, giải quyết như thế nào về mối quan hệ, sự tương hợp
giữa kinh tế tư nhân là phổ biến với chế độ chính trị XHCN, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân?
Đại hội IX đã xác định mục tiêu: "Đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại". Nhưng, điều chưa rõ là lấy những tiêu chí nào để có thể xếp một nước vào hàng ngũ các
nước công nghiệp hay hàng ngũ các nước công nghiệp theo hướng hiện đại, và đến đâu thì có thể coi là cơ
bản trở thành một nước công nghiệp hay một nước công nghiệp theo hướng hiện đại? Nếu không làm rõ
vấn đề này, ít nhất là về những tiêu chí chính, thì sẽ không có cơ sở để Đại hội X xác định được mục tiêu
cụ thể cho năm 2010 thoát khỏi nước nghèo, kém phát triển, "tạo nền tảng" để đến năm 2020 Việt Nam
cơ bản trở thành một nước công nghiệp và bước đi cho các giai đoạn từ 2010 đến 2020.
Để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả cao hơn, vấn đề hàng đầu đặt ra là cần làm rõ hơn
những yêu cầu, nội dung của nền kinh tế độc lập, tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là thế
nào? Đặc biệt là cần xác định cụ thể hai nhóm vấn đề then chốt liên quan đến phạm vi và mức độ của tính
độc lập tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế là: những vấn đề gì là những vấn đề chính trị, kinh tế, xã
hội, an ninh cần cương quyết giữ vững, không được phép nhân nhượng trong các quan hệ hợp tác, liên kết
kinh tế quốc tế, những vấn đề gì, mặc dù cũng rất quan trọng, nhưng có thể nhân nhượng có mức độ đủ
phù hợp với quy định và thông lệ quốc tế để đem lại lợi ích cho đất nước? Hơn nữa, có nên thay khái
niệm "nền kinh tế độc lập tự chủ" bằng khái niệm "nền kinh tế tự chủ" không, khi khái niệm "độc lập”
thường chỉ dùng theo nghĩa về mặt chính trị.
Để tăng trưởng và phát triển kinh tế, cần tập trung vào những ngành, lĩnh vực, những vùng có điều kiện
phát triển thuận lợi, thù lao cao cho người làm ăn có hiệu quả... Nhưng, vì vấn đề xã hội, có khi lại không
thể làm như thế. Vậy, giải quyết như thề nào mối quan hệ này để vừa có sự phát triền kinh tế thị trường
nhanh, vừa giải quyết tốt vấn đề xã hội? Tổng quát hơn, những điều kiện cơ bản bảo đảm tăng trưởng
kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát
triển ở nước ta là gì? Xử lý như thê nào mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phân hoá giàu nghèo
trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta?
Việc phân định chức năng, nhiệm vụ, sớm quyền hạn của các cơ quan Nhà nước theo phá cách nào để
khỏi chồng chéo? Chẳng hạn theo quy định của Hiến pháp và luật hiện hành, Quốc hội là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến và lập pháp, nhưng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng có quyền ban hành các nghị
định độc lập. Trên thực tế các quy định của pháp lệnh và nghị định cùng có hiệu lực thi hành. Cùng với
thẩm quyền lập pháp, Quốc hội lại còn có các thẩm quyền khác như thẩm quyền quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước (các công trình lớn, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất
nước...), thẩm quyền liên quan đến tư pháp như quyết định đại xá, bầu Chánh án Toà án Nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao... Giải quyết như thế nào địa vị phán lý của Chính phủ là cơ
quan chấp hành của Quốc hội và cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất? Nói cách khác, cẩn làm rõ quan
điểm về sự thống nhất quyền lực Nhà nước, đồng thời, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
“Cuộc sống tiến lên thông qua những mâu thuẫn. Những mâu thuẫn sinh động thì muôn hình, muôn vẻ,
dồi dào hơn nhiều so với điều mà người ta suy nghĩ ban đầu” (Hêgen). Một số mâu thuẫn và vấn đề có
tính mâu thuẫn nêu trên không phải là tất cả những mâu thuẫn đang có trong quá trình đổi mới hiện nay ở
nước ta. Song, việc điểm danh một cách đại thể như vậy cũng đủ cho chúng ta thấy tính phức tạp của tình
hình mà chúng ta đang phải giải quyết.
Việc giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn và những vấn đề có tính mâu thuẫn trên đây là một điều
kiện căn bản để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển.
1. Phân tích nội dung Quy luật phủ định của phủ định:
Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật, những nhân
tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra. Sự vật đó không còn nữa
và bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại
bị phủ định bởi sự vật mới khác. Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự
trùng lặp hoàn toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực,
thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra 2 lần thì sự phủ định của phủ định
được thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Ph.Ăngghen đã đưa ra một thí dụ để hiểu về
quá trình phủ định này:” Hãy lấy ví dụ hạt đại mạch. Có hàng nghìn triệu hạt đại mạch được xay ra, nấu
chín và đem làm rượu, rồi lại tiêu dùng đi. Nhưng nếu một hạt đại mạch như thế gặp những điều kiện bình
thường đối với nó, nếu nó rơi vào một miếng đất thích hợp, thì nhờ ảnh hưởng của sức nóng và độ ẩm,
đối với nó sẽ diễn ra một sự biến hoá riêng, nó nẩy mầm: hạt đại mạch biến đi, không còn là hạt đại mạch
nữa , nó bị phủ định, bị thay thế bởi cái cây do nó đẻ ra, đấy là sự phủ định hạt đại mạch. Nhưng cuộc
sống bình thường của cái cây này sẽ như thế nào? Nó lớn lên, ra hoa, thụ phấn và cuối cùng sinh ra những
hạt thóc mới, và khi hạt đại mạch nó chín thì thân cây chết đi, bản thân nó bị phủ định. Kết quả của sự
phủ định này là chúng ta lại có hạt đại mạch như ban đầu không chỉ là một hạt thocs mà nhiều gấp mười,
hai mươi, ba mươi lần”.(Các Mác và Ăngghen toàn tập , NXBCTQG, HN 1994, T20, tr 195)
Ví dụ trên cho thấy, từ sự khẳng định ban đầu (hạt thóc ban đầu), trải qua sự phủ định lần thứ nhất (cây
lúa phủ định hạt thóc) và sự phủ định lần thứ hai ( những hạt thóc mới phủ định cây lúa) sự vật dường
như quay trở lại sự khẳng định ban đầu (hạt thóc), nhưng trên cơ sở cao hơn(số lượng hạt thóc nhiều hơn,
chất lượng hạt thóc cũng sẽ thay đổi, song khó nhận thấy ngay).
Sơ đồ cụ thể: Khẳng định (hạt thóc) - phủ định lần 1 ( cây lúa) - phủ định lần 2 (hạt thóc).
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là sự thống nhất hữu cơ giữa
lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do vậy, thông qua những lần phủ định biện
chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật
quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản thân sự
vật- giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển
thành cái đối lập với mình. Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này
đối lập với cái đựợc sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó được bổ sung nhiều nhân tố mới. Như vậy, sau
hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan
trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định.
Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực đã có
và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những làn phủ định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới
với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung hoàn thiện hơn, phong phú hơn, có cái
khẳng định ban đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi
đầu cho kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật
mới ngày càng mới hơn.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật- xu hướng phát triển. Song
sự phát triển đó không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường “ xoáy ốc”.
Sự phát triển theo đường “xoáy ốc” là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển
biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường “xoáy ốc” dường như
thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát
triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp từ dưới lên của các vòng trong đường “xoáy ốc”.
Nghiên cứu quá trình phát triển của sự vật theo quy luật phủ định của phủ định chúng ta không được hiểu
một cách máy móc là mọi sự vật trong thế giới hiện thực đều phải trải qua hai lần phủ định phủ định mới
hoàn thành một chu kỳ nhất định của chúng. Trong hiện thực, một chu kỳ phát triển của sự vật cụ thể có
thể bao gồm số lượng các lần phủ định nhiều hơn hai. Có sự vật trải qua hai lần phủ định, có sự vật trải
qua ba, bốn, năm lần phủ định … mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Điều đó phụ thuộc vào từng sự
vật cụ thể. Chẳng hạn:
Vòng đời của con tằm: trứng - tằm - nhộng - ngài - trứng. Ở đây vòng đời của tằm trải qua bốn lần phủ
định.
Các nguyên tố hoá học trong bản Hệ thống tuần hoàn do Menđêlêép thể hiện khá rõ điều khái quát nêu
trên. Các nguyên tố hoá học phải trải qua rất nhiều lần phủ định mới hoàn thành chu kỳ phát triển của
chúng.
Từ sự phân tích đã được nêu ra ở trên, chúng ta khái quát về nội dung cơ bản của quy luật phủ định của
phủ định như sau:
Quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng định và cái phủ định, nhờ
đó phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo tồn nội dung tích cực của các giai đoạn
trước và bổ xung thêm những thuộc tính mới làm cho sự phát triển đi theo đường “xoáy ốc”.
Nguồn:2. Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đỏi mới ở nước:
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. quá
trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo đường thẳng mà diễn ra quanh co, phức
tạp trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Vì vậy,
quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Nền kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều tiết của nhà nước tạo tiền đề phủ định nền kinh tế
tập trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ
nghĩa.
tuy nhiên ở mỗi mô hình đều có đặc điểm riêng, do đó, chúng ta đã nhận thức được vấn đề và đã có cách
thức tác động phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đất nước, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh
tế và từng bước xóa bỏ đói nghèo nhưng không vì thế mà chúng ta không trân trọng cái cũ.
Chúng ta đã biết giữ hình thức cải tạo nội dung, biết kế thừa và sử dụng đặc trựng tiến bộ của nền kinh tế
tập trung là tiền đề để phát triển nền kinh tế thị trường trên cơ sở đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa.chính vì vậy mới có kết quả đáng mừng của 20 năm đổi mới.
Tuy nhiên để có thành công như hôn nay, trong hoạt động của chúng ta, cả hoạt động nhận thức cũng như
hoạt động thực tiến chúng ta phải vận dụng tổng hợp tất cả những quy luật một cách đầy đủ sâu sắc, năng
động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể. Chỉ có như vậy hoạt động của chúng ta, kể cả hoạt động học
tập, mới có chất lượng và hiệu quả cao.
Chúc bạn thành công!
Câu h i c a b n c n đ c tr l i nh sau: ượ ư
B t c s v t, hi n t ng nào trong th gi i đ u tr i qua quá trình sinh ra, t n t i, phát tri n và di t vong. ượ ế
S v t cũ m t đi đ c thay b ng s v t m i. S thay th đó là t t y u trong quá trình v n đ ng và phát ượ ế ế
tri n c a s v t. Không nh v y s v t không th phát tri n đ c. s thay th đó đ c tri t h c g i là ư ượ ế ượ ế
ph đ nh.
- Ph đ nh biênh ch ng là ph m trù tri t h c dùng đ ch s ph đ nh t thân, s phát tri n t thân, là ế
m t khâu trong quá trình d n t i s ra đ i s v t m i ti n b h n s v t cũ. ế ơ
Ph đ nh bi n ch ng có các đ c tr ng c b n đó là: ư ơ
+ Ph đ nh bi n ch ng mang tính khách quan do nguyên nhân c a s ph đ nh n m ngay trong b n thân
s v t. Đó chính là k t qu gi i quy t mâu thu n bân trong c a s v t. Nh vi c gi i quy t mâu thu n mà ế ế ế
s v t luân phát tri n, vì th , ph đ nh bi n ch ng là m t t t y u khách quan trong quá trình v n đ ng và ế ế
phát tri n c a s v t.
+ Ph đ nh bi n ch ng là k t qu c a s phát tri n t thân c a s v t, nên nó không ph i là s th tiêu, ế
s phá h y hoàn toàn cái cũ. Cái m i ch có th ra đ i trên n n t ng c a cái cũ, chúng không th t h ư
vô. Cái m i ra đ i là s phát tri n ti p t c c a cái cũ trên c s g t b nh ng m t tiêu c c, l i th i, l c ế ơ
h u c a cái cũ và ch n l c, gi l i, c i t o nh ng m t còn thích h p, nh ng m t tích c c, b sung nh ng
m t m i phù h p v i hi n th c. Do v y, thông qua nh ng l n ph đ nh bi n ch ng c a b n thân, s v t
s ngày càng phát tri n.
- Quy lu t ph đ nh c a ph đ nh bi u hi n s phát tri n c a s v t là do mâu thu n trong b n thân s
v t quy t đ nh. M i l n ph đ nh là k t qu đ u tranh và chuy n hóa gi a các m t đ i l p trong b n thân ế ế
s v t - gi a m t kh ng đ nh và ph đ nh. S ph đ nh l n th nh t di n ra là cho s v t cũ chuy n
thành cái đ i l p v i mình. S ph đ nh l n th hai đ c th c hi n d n t i s v t m i ra đ i. S v t này ượ
đ i l p v i cái đ c sinh ra l n ph đ nh th nh t. Nó đ c b sung nhi u nhân t m i. Nh v y sau ượ ượ ư
hai l n ph đ nh s v t d ng nh quay tr l i cái cũ, nh ng trên c s m i cao h n là đ c đi m quan ườ ư ư ơ ơ
tr ng nh t c a s phát tri n bi n ch ng thông qua ph đ nh c a ph đ nh.
Ph đ nh c a ph đ nh làm xu t hi n s v t m i là k t qu c a s t ng h p t t c nhân t tích c c đã có ế
và đã phát tri n trong cái kh ng đ nh ban đ u và trong nh ng l n ph đ nh ti p theo. Do v y, s v t m i ế
v i t cách là k t qu c a ph đ nh c a ph đ nh có n i dung toàn di n h n, phong phú h n, có cái ư ế ơ ơ
kh ng đ nh b n đ u và k t qu c a s ph đ nh l n th nh t. ế
K t qu c a s ph đ nh c a ph đ nh là di m k t thúc c a m t chu kỳ phát tri n và cũng là đi m kh i ế ế
đ u c a chu kỳ phát tri n ti p thei. S v t l i ti p t c ph đ nh bi n ch ng chính mình đ phát tri n. C ế ế
nh v y s v t m i ngày càng m i h n.ư ơ
Quy lu t ph đ nh c a ph đ nh khái quát xu h ng t t y u ti n lên c a s v t - xu h ng phát tri n. ướ ế ế ướ
Song phát tri n đó không theo h ng th ng mà theo đ ng "xoáy c". ướ ườ
S phát tri n "xoáy c" là s bi u th rõ ràng, đ y đ các đ c tr ng c a quá trình phát tri n bi n ch ng ư
c a s v t: tính k th a, tính l p l i, tính ti n lên. M i vòng c a đ ng xoáy c d ng nh th hi n s ế ế ườ ườ ư
l p l i, nh ng cao h n, th hi n trình đ cao h n c a s phát tri n. Tính vô t n c a s phát tri n t th p ư ơ ơ
đ n cao đ c th hi n s n i ti p nhau t d i lên c a các vòng trong đ ng "xoáy c".ế ượ ế ướ ườ
Nghiên c u quá trình phát tri n c a s v t theo quy lu t ph đ nh c a ph đ nh chúng ta không đ c ượ
hi u m t cách máy móc là m i s v t trong th gi i hi n th c đ u ph i tr i qua hai l n ph đ nh c a ph ế
đ nh m i hoàn thành m t chu kỳ phát tri n c a chúng. Trong hi n th c, m t chu kỳ phát tri n c a s v t
c th có th bao g m s l ng các l n ph đ nh nhi u h n hai. Có s v t tr i qua hai l n ph đ nh, có ượ ơ
s v t tr i qua ba, b n, lăm... l n ph đ nh m i hoàn thành m t chu kỳ phát tri n Ví d vòng đ i c a T m
đã tr i qua 4 l n ph đ nh...
T nh ng phân tích trên chúng ta có th khái quát Quy lu t ph đ nh c a ph đ nh nêu lên m i liên h ,
s k th a gi a cái kh ng đ nh và cái ph đ nh, nh đó ph đ nh bi n ch ng là đi u ki n cho s phát ế
tri n; nó b o t n n i dung tích c c c a các giai đo n tr c và b sung thêm nh ng thu c tính m i là cho ướ
s phát tri n theo đ ng "xoáy c". ườ
- V n d ng v i quá trình đ i m i n c ta: Quy lu t ph đ nh c a ph đ nh giúp chúng ta nh n th c ướ
đúng đ n v xu h ng phát tri n c a s v t. quá trình phát tri n c a b t kỳ s v t nào cũng không bao ướ
gi đi theo đ ng th ng mà di n ra quanh co, ph c t p trong đó bao g m nhi u chu kỳ khác nhau. Chu ườ
kỳ sau bao gi cũng ti n b h n chu kỳ tr c. Vì v y, quá trình đ i m i c a n c ta cùng đ u di n ra ế ơ ướ ướ
theo chi u h ng đó. N n kinh t nhi u thành ph n theo đ nh h ng xã h i ch nghĩa đ t d i s qu n ướ ế ướ ướ
lý đi u ti t c a nhà n c t o ti n đ ph đ nh n n kinh t t p trung, bao c p đ t n n móng cho xã h i ế ướ ế
phát tri n cao h n nó trong t ng lai đó là xã h i xã h i ch nghĩa. ơ ươ
tuy nhiên m i mô hình đ u có đ c đi m riêng, do đó, chúng ta đã nh n
Ph đ nh bi n ch ng là không ph i là ph đ nh s ch tr n, nó có tính k th a, l y h t nhân đúng đ n c a ơ ế
cái tr c làm ti n đ phát tri n cho cái sau và lo i b cái không h p qui lu t.ướ
Đ ng c ng s n Vi t Nam v n d ng tính ch t c a phép ph đ nh bi n ch ng vào công cu c c i cách đ t
n c : tr i qua nh ng l n thay đ i hi n pháp và hi n pháp cu i cung là hi n pháp 92, công cu c c i t ướ ế ế ế
đ t n c nh ng chính sách ướ
| 1/12

Preview text:

Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Vận dung quy luật này trong cuộc sống và học tập của
bản thân. Ý nghĩa của quy luật đối với sự phát triển của xã hội việt nam ngày nay thì phải
Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định và ý nghĩa của phương pháp luận.
- Vị trí của quy luật (0,5đ)
- Khái niệm phủ đinh, phủ định biện chứng (1đ)
Phủ định: là sự thay thế bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ phủ định tự thân, là mắt khâu của quá trình dẫn đến
ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ
Mọi quá trình vận động và phát triển các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy diễn ra thông qua những sự
thay thế, trong đó có sự thay thế chấm dứt sự phát triển, nhưng cũng có sự thay thế tạo ra điều kiện, tiền
đề cho quá trình phát triẻn của sự vật. Những sự thay thế tạo ra điều kiện, tiền đề cho qúa trình phát triển
của sự vất thì gọi là phủ định biện chứng.
- Tính chất của phủ định (2đ) Tính khách quan
Nguyên nhân của phủ định nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng, nó là quá trình đấu tranh, giải quyết
mâu thuẫn tất yếu bên trong bản thân sự vật, tạo kả năng ra đời cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu
hướng phát triển của chính bản thân sự vật. Tính kế thừa
Tính kế thừa của Phủ định được thể hiện mà trong đó cá mới hình thành và phát triển tự thân thông qua
quá trình chọn lọc, loại bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội dung tích cực.
Phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật
quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự
vật - giữa mặt khẳng định và phủ định.
Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình (cái phủ định, phủ
định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề là cái cũ, cái phủ định là cái mới xuất hiện sau cái phủ định
là cái đối lập với cái bị phủ định. Cái phủ định sau khi khi phủ định cái bị phủ định, cái phủ định định lại
tiếp tục biến đổi và tạo ra chu khỳ phủ định lần thứ hai) . Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới
sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó dường như lập lại
cái ban đầu nhưng nó được bổ sung nhiều nhân tố mới cao hơn, tích cực hơn.
VD Hạt thóc Cây mạ Cây lúa
Hạt thóc cho ra đời cây mạ (đây là phủ định lần 1)
Cây mạ cho ra đời cây lúa (đây là phủ định lần 2).
Cây lúa cho ra bông thóc (thóc lại cho ra thóc nhưng lần này không phải là 1 hạt mà là nhiều hạt)
Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc
điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định.
Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực đã có
và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những lần phủ định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới
với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung toàn diện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng
định bạn đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là diểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi
đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục phủ định biện chứng chính mình để phát triển. Cứ
như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật - xu hướng phát triển. Song
phát triển đó không theo hướng thẳng mà theo đường "xoáy ốc".
Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng
của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường xoáy ốc dường như thể hiện sự lặp
lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến
cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau từ dưới lên của các vòng trong đường "xoáy ốc".
Ý nghĩa của phương pháp luận (1,5đ)
Qúa trình phủ định mang tính đi lên, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải có liềm tin vào xu hướng của sự phát triển.
Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước.trong sự thay thế đó có sự tác động của các nhân tố chủ
quan của con người, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải phát huy tính năng động sáng tạo, phát hiện
những cái mới thay thế những cái cũ lỗi thời.
Phủ định mang tính kế thừa, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải kế thừa những yếu tố tích cực. Kế
thừa phát triển những tinh hoa văn hoá của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Loại bỏ những
hủ tục lạc hậu, những tư tưởng lỗi thời mang tính bảo thủ.
Trong quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều tiết của nhà nước tạo tiền đề phủ định nền kinh
tế tập trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên ở mỗi mô hình đều có đặc điểm riêng, do đó, chúng ta đã nhận thức được vấn đề và đã có cách
thức tác động phù hợp với sự phát triển của thực
tiễn đất nước, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và từng bước xóa bỏ đói nghèo nhưng không
vì thế mà chúng ta không trân trọng cái cũ.
Chúng ta đã biết giữ hình thức cải tạo nội dung, biết kế thừa và sử dụng đặc trựng tiến bộ của nền kinh tế
tập trung là tiền đề để phát triển nền kinh tế thị trường trên cơ sở đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa.chính vì vậy mới có kết quả đáng mừng của 20 năm đổi mới.
Tuy nhiên để có thành công như hôn nay, trong hoạt động của chúng ta, cả hoạt động nhận thức cũng như
hoạt động thực tiến chúng ta phải vận dụng tổng hợp tất cả những quy luật một cách đầy đủ sâu sắc, năng
động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể. Chỉ có như vậy hoạt động của chúng ta, kể cả hoạt động học
tập, mới có chất lượng và hiệu quả cao.
Quy luật phủ định của phủ định - ý nghĩa phương pháp luận áp dụng thực tiễn vào tình hình kinh tế nước ta hiện nay
Quy luật phủ định của phủ định là phủ định biện chứng để phát triển, cứ sau mỗi lần phủ định là xã hội sẽ
phát triển thêm một bước. Trong công cuộc đổi mới của đất nước, để phát triển đất nước là phải giải quyết mâu thuẫn.
Qua gần 20 năm đổi mới, nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân
dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn. Song, để đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên,
chúng ta phải giải quyết rất nhiều mâu thuẫn phức tạp mà trong bài viết này mới điểm danh đại thể 8 mâu
thuẫn. Việc giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn là điều kiện căn bản để nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới.
Nhà triết học Hêgen đã khẳng định: Cuộc sống tiến lên thông qua những mâu thuẫn. Thực tiễn phát triển
đất nước ta hiện nay một lần nữa khẳng định tính đúng đắn của luận điểm đó.
Qua gần 20 năm đổi mới, nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân
dân trong việc hiện thực hoá đường lối đó, chúng ta đã đạt dược những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng. Nền dân chủ
XHCN với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết định trên những đường nét cơ bản.
Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, sự thống nhất trong đa dạng đã hình thành. Khối đại đoàn
kết toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức ngày càng được củng cố, thực sự trở thành một động lực quan trọng của đổi mới đất nước.
Nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân với lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại ngày càng đủ mạnh để bảo vệ Tổ quốc và cuộc sống yên lành của nhân dân.
Nền ngoại giao độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam sắn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển,
không ngừng mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế đã
phát huy vai trò to lớn của mình trong đổi mới đất nước. Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã góp
phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, đủ sức gánh vác được sứ mệnh lịch sử mà dân tộc ta giao
phó. Những thành tựu đó đã làm cho sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên nhiều, vị thế nước ta
trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
Những bài học được rút ra từ 20 năm đổi mới giúp chúng ta hoàn thiện hơn nữa đường lối, chủ trương,
chính sách và cách thức triển khai trong tổ chức thực tiễn sẽ góp phần đẩy mạnh hơn sự phát triển của đất
nước. Sắp tới, việc tham gia WTO là bước hội nhập kinh tế quốc tế ở tầm cao nhất về cấp đối tác sẽ mang
lại nhiều thuận lợi cho sự phát triển..
Đó là những yếu tố quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới nhằm đưa nước
ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2010 và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Song, bên cạnh những thành tựu, tiến bộ đã đạt được sau gần 20 năm đổi mới, vẫn còn những yếu kém,
khuyết điểm làm gay gắt những mâu thuẫn của quá trình phát triển.
Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Khó khăn này sẽ tăng
lên rất lớn, đặc biệt là đối với doanh nghiệp, khi AFTA có hiệu lực đầy đủ đối với nước ta và nước ta
chính thức gia nhập WTO. Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước để phát triển kinh tế chưa được huy
động và sử dụng tốt. Thất thoát, lãng phí trong quản lý kinh tế, đặc biệt trong quản lý đất đai, đầu tư xây
dựng cơ bản, quản lý doanh nghiệp Nhà nước còn rất nghiêm trọng. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và cải cách hành chính trong hệ thống chính quyền chưa đạt yêu cầu đề ra. Nhiều nơi còn vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân, việc thực hiện luật pháp, kỷ cương không nghiêm. Nhiều vấn đề xã hội bức
xúc chậm hoặc chưa giải quyết tốt.
Từ đó, có thể thấy, để đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên, chúng ta phải giải quyết rất nhiều mâu
thuẫn phức tạp, trong đó nổi lên những mâu thuẫn sau:
1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế với sự bất cập của cơ chế, chính sách khai thác nguồn lực hiện nay.
Để đạt mục tiêu đến năm 2010 thoát khỏi tình trạng một nước kém phát triển, tốc độ phát triển kinh tế
thời gian tới phải đạt mức trung bình khoảng 8%/năm(1). Chỉ bằng cơ chế, chính sách như hiện nay,
chúng ta khó có thể thực hiện phát triển đột biến về khả năng khai thác những tiềm năng lớn về tài
nguyên, lao động trong nước, về khả năng tận dụng những cơ hội quốc tế để gia tăng mạnh và sử dụng tốt
các nguồn lực từ bên ngoài. Nền kinh tế hiện vẫn rất dễ bị tổn thương trước tác động không lớn lắm của
những biến đổi kinh tế bên ngoài. Khoảng cách về kinh tế giữa nước ta với nhiều nước trong khu vực và
thế giới ngày càng mở rộng. Sự tụt hậu trên lĩnh vực này chưa được ngăn chặn.
2. Mâu thuẫn giữa tính ưu việt của nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN với những hạn chế trong
việc tìm ra quyết sách khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường.
Tính ưu việt của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải được thể
hiện ngày càng đậm nét trước hết và chủ yếu ở khả năng bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, trong khi đó, chúng ta chưa tìm
được những giải pháp hữu hiệu để giải quyết những hậu quả xã hội do tác động tiêu cực của những mặt
trái thuộc kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra. Nhiều vấn đề xã hội có xu hướng ngày
càng gay gắt. Đặc biệt, điều làm cho nhân dân hết sức bất bình, lo lắng là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, nhũng nhiễu dân, suy thoái về tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của .một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng. Văn hoá lai căng có xu hướng phát triển. Hiện tượng ma
chay, cưới xin, hội hè với nhiều hủ tục được khôi phục ở nhiều nơi. Đạo lý xã hội, gia đình xuống cấp.
Tình huống mất ổn định cục bộ có khả năng xảy ra nhiều hơn, mức độ phức tạp của tình hình gia tăng
hơn.. Chúng ta chưa tìm được những phương hướng ngăn chặn có hiệu quả tình trạng đó.
3. Mâu thuẫn giữa tính tất yếu khách quan phải nâng cao sự đồng thuận xã hội trong đổi đất nước với sự
tấn công của các thế lực thù địch trong và ngoài nước nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân là một điều kiện tất yếu để đưa công cuộc đổi
mới tiến lên mạnh mẽ hơn. Nhưng, cùng với những yếu kém của chính chúng ta, thì sự tác động của các
thế lực thù địch nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình" đối với nước ta bằng nhiều con đường,
nhiều biện pháp và phương tiện, cả trực tiếp lẫn gián tiếp qua một số phần tử cơ hội về chính trị để chống
phá trên lĩnh vực tư tưởng -lý luận đã làm cho một bộ phận cán bộ, Đảng viên và nhân dân phân tâm. .
Chúng ta có phần còn lúng túng, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này.
4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao tính tích cực chính trị với lối sống thực dụng trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân.
Trong khi cuộc sống đòi hỏi phải thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của nhân dân, phát huy đóng góp của
nhân dân vào việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới, thì tình trạng thờ Ơ chính trị, chỉ lo
vun vén cho lợi ích của bản thân và gia đình, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền của một bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân có chiều hướng gia tăng. Chúng ta chưa tìm được cách để khắc phục tình hình này với hiệu quả cao.
5. Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị với sự thiếu hụt trong những biện pháp
mang tính đột phá trên lĩnh vực này.
Công cuộc đổi mới kinh tế đã phát triển tới mức đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới tổ chức,
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, sự kết hợp hài hoà hơn nữa giữa các bộ phận cấu thành hệ
thống đó, song, chúng ta chưa có những đột phá trên lĩnh vực này. Đã có nhiều nghị quyết, nhiều chủ
trương chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhưng hiệu quả thực tiễn còn thấp. Bộ máy của hệ thống
chính trị còn quá cồng kềnh, cơ chế vận hành chưa thật khoa học, tình trạng lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ
giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị còn xuất hiện ở nhiều cấp, nhiều địa phương. Việc thực
hiện luật pháp, kỷ cương không nghiêm. Nhiều nơi còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Đội ngũ
cán bộ, công chức chưa đủ mạnh, phương pháp hoạt động của nhiều cán bộ đảng, đoàn thể còn trong tình
trạng viên chức hoá. . Sự yếu kém đó, nếu không được khắc phục có hiệu quả, thì một số phương diện của
hệ thống chính trị sẽ trở thành lực cản lớn đối với đổi mới trên lĩnh vực kinh tế.
6. Mâu thuẫn giữa quá trình phát triển dân chủ với tình trạng thiếu giá đỡ về lý luận và thực tiễn cho quá trình đó.
Dân chủ hoá đời sống xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi mới. Nhưng chúng ta chưa tìm
được những giải pháp tất nhất để xác lập vững chắc quan điểm khoa học về dân chủ phù hợp với điều
kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, không đa nguyên về chính trị, không tổ chức quyền lực Nhà nước
theo nguyên tắc phân quyền, chưa tìm được những cơ chế và hình thức thực hiện dân chủ thích hợp với
truyền thống văn hoá chính trị, với trình độ dân trí, trình độ văn hoá chung của nhân dân. Dân chủ trong
Đảng, trong xã hội và ở cơ sở tuy đã được nhấn mạnh trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng và các văn
bản pháp quy của Nhà nước, nhưng kết quả đạt được trên thực tế còn nhiều hạn chế. Cải cách hành chính
tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Chưa có cơ chế để bảo đảm quyền lực Nhà nước thực sự
thuộc về nhân dân, vai trò giám sát thực hiện quyền kiểm tra của nhân dân đối với chính quyền và cán bộ,
Đảng viên còn mờ nhạt.
7. Mâu thuẫn giữa tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với khả năng giữ vững độc lập tự chủ trong
hội nhập và khắc phục những tác động tiêu cực của hội nhập.
Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là một nhân tố tất yếu để phát triển, nhưng chúng ta còn thiếu nhất
quán và lúng túng, bị động trong việc xử lý mối quan hệ giữa mặt tích cực và tiêu cực của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, giữa độc lập tự chủ về kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, lúng túng trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa hội nhập đồng thời nhiều cấp độ hơn, sâu hơn, rộng hơn, đa dạng hơn.. với việc
giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc.
8. Mâu thuẫn giữa việc giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng nhân tố quyết định thành công
sự nghiệp đổi mới với tình trạng một số mặt của Đảng chưa thật ngang tầm trước đòi hỏi của tình hình.
Để đổi mới thành công, điều kiện tiên quyết là phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
Điều đó chỉ có được duy trì được với tiền đề: Đảng phải vững vàng về chính trị - tư tưởng, mạnh về tổ
chức và cán bộ, trong sạch về đạo đức, lối sống, đứng ở tầm cao về trí tuệ, có phương thức lãnh đạo thực
sự khoa học. Yêu cầu đó đặt ra trong tình hình Đảng đang đứng trước sự bất cập không nhỏ trên hầu hết các phương diện đó.
Đảng ta nói chung, hầu hết cán bộ, đảng viên nói riêng kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn,
kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì đổi mới vì chủ
nghĩa xã hội. . song, cũng có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, thậm chí cả một bộ phận tổ chức
đảng phai nhạt lý tưởng, rơi vào dòng xoáy của thị trường, bệnh tham nhũng chưa có dấu hiệu suy giảm,
một bộ phận sa đoạ về đạo đúc, lối sống. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu đề
ra. Những yếu kém này đã và đang làm suy giảm một cách đáng kể mềm tin của một bộ phận nhân dân
vào tiền đồ của đổi mới, vào vị trí của Đảng ta. Đó là nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của Đảng, của chế độ.
Sự tiên phong về lý luận là biểu hiện tập trung nhất sự tiên phong của Đảng. Nhưng, ngay trên lĩnh vực
quan trọng này cũng có những hẫng hụt không nhỏ. Sự phát triển lý luận chưa đủ cung cấp cơ sở khoa
học cho việc tìm ra những lời giải đáp đúng đắn, kịp thời nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề nảy
sinh từ thực tiễn trên đây đang là một trở ngại lớn cho việc tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Tuy sau 20 năm đổi mới, nhiều vấn đề lý luận về CNXH và con dường đi lên
CNXH ở nước ta đã được làm sáng tỏ hơn, song cũng còn không ít vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Chẳng hạn:
Toàn cầu hoá kinh tế kéo theo toàn cầu hoá trên nhiều lĩnh vực khác. Hội nhập kinh tế đòi hỏi phải hội
nhập trên nhiều lĩnh vực khác, kể cả lĩnh vực văn hoá, chính trị. Chẳng hạn, để làm ăn kinh tế với nhau,
chúng ta phải điều chỉnh hệ chuẩn pháp luật kinh tế, làm cho nó tương thích với hệ chuẩn kinh tế của
nước đối tác mà phần lớn là tư bản chủ nghĩa: Từ giác độ lý luận, độc lập, tự chủ trên các lĩnh vực này
được hiểu như thế nào, từ đó, thiết kế thực tiễn ra sao?
Những yếu tố quan trọng nhất quyết định tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta
là gì? Phải chăng, đó là: mục tiêu phát triển vì con người, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Lại có ý kiến cho rằng, tiến bộ và công bằng xã hội là mục tiêu quan trọng nhất, thể hiện
tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Phải đảm bảo công bằng xã hội trong tiếp
cận các cơ hội và nguồn lực để phát triển, trong phân bổ nguồn lực quốc gia, phân phối kết quả làm ra,
thực hiện điều tiết xã hội và phân phối lại.
Có cái gọi là những cơ chế vận hành có tính quy luật, tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN không, hay chỉ có những cơ chế vận hành có tính quy luật, tất yếu của nền kinh tế thị trường,
không tuỳ thuộc vào chế độ xã hội? Nếu có sự phụ thuộc vào tính chất xã hội, thì tính đặc thù của những
cơ chế đó ở nước ta là gì?
Nhà nước đóng vai trò như thế nào trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN? Phải chăng,
Nhà nước chỉ đóng vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và phát huy
các nguồn lực đầu tư phát triển hay còn phải trực tiếp quản lý doanh nghiệp Nhà nước và phần Nhà nước
trong các loại doanh nghiệp khác?
Sở hữu và thành phần kinh tế vẫn là vấn đề lớn. Phân định sở hữu như thế nào, 3 hình thức (toàn dân, tập
thể, tư nhân) hay 4 hình thức (toàn dân, tập thể, tư nhân, hỗn hợp), thậm chí là 5 hình thức (toàn dân, tập
thể, tư nhân, hỗn hợp, sở hữu của nước ngoài đang đầu tư ở nước ta, trong đó có thể có phần thuộc sở hữu
Nhà nước của nước ngoài)? Hơn nữa, nên gọi là "sở hữu toàn dân" hay để làm rõ trách nhiệm và quyền
hạn của người sở hữu, nên xác định là "sở hữu Nhà nước"? Có nên phân định thành phần kinh tế, trong đó
có kinh tế tư bản tư nhân không? Hay nên phân định khu vực kinh tế, hoặc phân định theo quy mô sản
xuất - kinh doanh để dễ quản lý Nhà nước như hiện nay bên Nhà nước vẫn phân định? Giải quyết như thế
nào yêu cầu xoá bỏ triệt để mọi hình thức phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế với tính tất yếu
phải "đỡ đầu” cho một số loại doanh nghiệp thiết yếu cần cho quốc kế dân sinh nhưng hiệu quả kinh tế thấp?
Ngoài vai trò của các nhân tố chính trị, không có vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước thì không giữ vững
được định hướng XHCN trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. Nhưng, hiểu như thế nào về vai trò
"chủ đạo" của kinh tế Nhà nước, khi mà ở khu vực này, rất nhiều doanh nghiệp làm ăn với hiệu quả và
sức cạnh tranh thấp? Điều đó không chỉ ở nước ta, mà là hiện tượng tương đối phổ biến ở ngay những
nước có nền kinh tế phát triển thuần thục như những nước tư bản phát triển. Đây vẫn tiếp tục là vấn đề
trọng đại và bức xúc của đất nước trong nhiệm kỳ Đại hội X, vì nhiều doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã
vẫn đang trong tình trạng làm ăn kém hiệu quả, tham nhũng nặng nề và tình trạng mất đoàn kết trong bộ
máy quản lý đang là phổ biến.
Hướng phát triển tới là thu hẹp hơn nữa diện doanh nghiệp Nhà nước, tập trung vào một số lĩnh vực mà
doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn. Song, trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, nếu doanh
nghiệp tư nhân được làm thì phần lớn lại có hiệu quả cao hơn. Vậy, về mặt lý luận, giải quyết vấn đề này như thế nào?
Thực tiễn 20 năm đổi mới cho thấy rằng, kinh tế tư nhân là một động lực khai thác có hiệu quả mọi nguồn
lực tiềm tàng trong xã hội để phát triển kinh tế, tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo, là một động lực rất
quan trọng để phát triển nền kinh tế nước ta. Song, giải quyết như thế nào về mối quan hệ, sự tương hợp
giữa kinh tế tư nhân là phổ biến với chế độ chính trị XHCN, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân?
Đại hội IX đã xác định mục tiêu: "Đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại". Nhưng, điều chưa rõ là lấy những tiêu chí nào để có thể xếp một nước vào hàng ngũ các
nước công nghiệp hay hàng ngũ các nước công nghiệp theo hướng hiện đại, và đến đâu thì có thể coi là cơ
bản trở thành một nước công nghiệp hay một nước công nghiệp theo hướng hiện đại? Nếu không làm rõ
vấn đề này, ít nhất là về những tiêu chí chính, thì sẽ không có cơ sở để Đại hội X xác định được mục tiêu
cụ thể cho năm 2010 thoát khỏi nước nghèo, kém phát triển, "tạo nền tảng" để đến năm 2020 Việt Nam
cơ bản trở thành một nước công nghiệp và bước đi cho các giai đoạn từ 2010 đến 2020.
Để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả cao hơn, vấn đề hàng đầu đặt ra là cần làm rõ hơn
những yêu cầu, nội dung của nền kinh tế độc lập, tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là thế
nào? Đặc biệt là cần xác định cụ thể hai nhóm vấn đề then chốt liên quan đến phạm vi và mức độ của tính
độc lập tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế là: những vấn đề gì là những vấn đề chính trị, kinh tế, xã
hội, an ninh cần cương quyết giữ vững, không được phép nhân nhượng trong các quan hệ hợp tác, liên kết
kinh tế quốc tế, những vấn đề gì, mặc dù cũng rất quan trọng, nhưng có thể nhân nhượng có mức độ đủ
phù hợp với quy định và thông lệ quốc tế để đem lại lợi ích cho đất nước? Hơn nữa, có nên thay khái
niệm "nền kinh tế độc lập tự chủ" bằng khái niệm "nền kinh tế tự chủ" không, khi khái niệm "độc lập”
thường chỉ dùng theo nghĩa về mặt chính trị.
Để tăng trưởng và phát triển kinh tế, cần tập trung vào những ngành, lĩnh vực, những vùng có điều kiện
phát triển thuận lợi, thù lao cao cho người làm ăn có hiệu quả. . Nhưng, vì vấn đề xã hội, có khi lại không
thể làm như thế. Vậy, giải quyết như thề nào mối quan hệ này để vừa có sự phát triền kinh tế thị trường
nhanh, vừa giải quyết tốt vấn đề xã hội? Tổng quát hơn, những điều kiện cơ bản bảo đảm tăng trưởng
kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát
triển ở nước ta là gì? Xử lý như thê nào mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phân hoá giàu nghèo
trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta?
Việc phân định chức năng, nhiệm vụ, sớm quyền hạn của các cơ quan Nhà nước theo phá cách nào để
khỏi chồng chéo? Chẳng hạn theo quy định của Hiến pháp và luật hiện hành, Quốc hội là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến và lập pháp, nhưng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng có quyền ban hành các nghị
định độc lập. Trên thực tế các quy định của pháp lệnh và nghị định cùng có hiệu lực thi hành. Cùng với
thẩm quyền lập pháp, Quốc hội lại còn có các thẩm quyền khác như thẩm quyền quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước (các công trình lớn, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. .), thẩm quyền liên quan đến tư pháp như quyết định đại xá, bầu Chánh án Toà án Nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.. Giải quyết như thế nào địa vị phán lý của Chính phủ là cơ
quan chấp hành của Quốc hội và cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất? Nói cách khác, cẩn làm rõ quan
điểm về sự thống nhất quyền lực Nhà nước, đồng thời, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
“Cuộc sống tiến lên thông qua những mâu thuẫn. Những mâu thuẫn sinh động thì muôn hình, muôn vẻ,
dồi dào hơn nhiều so với điều mà người ta suy nghĩ ban đầu” (Hêgen). Một số mâu thuẫn và vấn đề có
tính mâu thuẫn nêu trên không phải là tất cả những mâu thuẫn đang có trong quá trình đổi mới hiện nay ở
nước ta. Song, việc điểm danh một cách đại thể như vậy cũng đủ cho chúng ta thấy tính phức tạp của tình
hình mà chúng ta đang phải giải quyết.
Việc giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn và những vấn đề có tính mâu thuẫn trên đây là một điều
kiện căn bản để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển.
1. Phân tích nội dung Quy luật phủ định của phủ định:
Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật, những nhân
tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra. Sự vật đó không còn nữa
và bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại
bị phủ định bởi sự vật mới khác. Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự
trùng lặp hoàn toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực,
thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra 2 lần thì sự phủ định của phủ định
được thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Ph.Ăngghen đã đưa ra một thí dụ để hiểu về
quá trình phủ định này:” Hãy lấy ví dụ hạt đại mạch. Có hàng nghìn triệu hạt đại mạch được xay ra, nấu
chín và đem làm rượu, rồi lại tiêu dùng đi. Nhưng nếu một hạt đại mạch như thế gặp những điều kiện bình
thường đối với nó, nếu nó rơi vào một miếng đất thích hợp, thì nhờ ảnh hưởng của sức nóng và độ ẩm,
đối với nó sẽ diễn ra một sự biến hoá riêng, nó nẩy mầm: hạt đại mạch biến đi, không còn là hạt đại mạch
nữa , nó bị phủ định, bị thay thế bởi cái cây do nó đẻ ra, đấy là sự phủ định hạt đại mạch. Nhưng cuộc
sống bình thường của cái cây này sẽ như thế nào? Nó lớn lên, ra hoa, thụ phấn và cuối cùng sinh ra những
hạt thóc mới, và khi hạt đại mạch nó chín thì thân cây chết đi, bản thân nó bị phủ định. Kết quả của sự
phủ định này là chúng ta lại có hạt đại mạch như ban đầu không chỉ là một hạt thocs mà nhiều gấp mười,
hai mươi, ba mươi lần”.(Các Mác và Ăngghen toàn tập , NXBCTQG, HN 1994, T20, tr 195)
Ví dụ trên cho thấy, từ sự khẳng định ban đầu (hạt thóc ban đầu), trải qua sự phủ định lần thứ nhất (cây
lúa phủ định hạt thóc) và sự phủ định lần thứ hai ( những hạt thóc mới phủ định cây lúa) sự vật dường
như quay trở lại sự khẳng định ban đầu (hạt thóc), nhưng trên cơ sở cao hơn(số lượng hạt thóc nhiều hơn,
chất lượng hạt thóc cũng sẽ thay đổi, song khó nhận thấy ngay).
Sơ đồ cụ thể: Khẳng định (hạt thóc) - phủ định lần 1 ( cây lúa) - phủ định lần 2 (hạt thóc).
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là sự thống nhất hữu cơ giữa
lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do vậy, thông qua những lần phủ định biện
chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật
quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản thân sự
vật- giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển
thành cái đối lập với mình. Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này
đối lập với cái đựợc sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó được bổ sung nhiều nhân tố mới. Như vậy, sau
hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan
trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định.
Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực đã có
và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những làn phủ định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới
với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung hoàn thiện hơn, phong phú hơn, có cái
khẳng định ban đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi
đầu cho kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật- xu hướng phát triển. Song
sự phát triển đó không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường “ xoáy ốc”.
Sự phát triển theo đường “xoáy ốc” là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển
biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường “xoáy ốc” dường như
thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát
triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp từ dưới lên của các vòng trong đường “xoáy ốc”.
Nghiên cứu quá trình phát triển của sự vật theo quy luật phủ định của phủ định chúng ta không được hiểu
một cách máy móc là mọi sự vật trong thế giới hiện thực đều phải trải qua hai lần phủ định phủ định mới
hoàn thành một chu kỳ nhất định của chúng. Trong hiện thực, một chu kỳ phát triển của sự vật cụ thể có
thể bao gồm số lượng các lần phủ định nhiều hơn hai. Có sự vật trải qua hai lần phủ định, có sự vật trải
qua ba, bốn, năm lần phủ định … mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Điều đó phụ thuộc vào từng sự
vật cụ thể. Chẳng hạn:
Vòng đời của con tằm: trứng - tằm - nhộng - ngài - trứng. Ở đây vòng đời của tằm trải qua bốn lần phủ định.
Các nguyên tố hoá học trong bản Hệ thống tuần hoàn do Menđêlêép thể hiện khá rõ điều khái quát nêu
trên. Các nguyên tố hoá học phải trải qua rất nhiều lần phủ định mới hoàn thành chu kỳ phát triển của chúng.
Từ sự phân tích đã được nêu ra ở trên, chúng ta khái quát về nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định như sau:
Quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng định và cái phủ định, nhờ
đó phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo tồn nội dung tích cực của các giai đoạn
trước và bổ xung thêm những thuộc tính mới làm cho sự phát triển đi theo đường “xoáy ốc”.
Nguồn:2. Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đỏi mới ở nước:
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. quá
trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo đường thẳng mà diễn ra quanh co, phức
tạp trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Vì vậy,
quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Nền kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều tiết của nhà nước tạo tiền đề phủ định nền kinh tế
tập trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
tuy nhiên ở mỗi mô hình đều có đặc điểm riêng, do đó, chúng ta đã nhận thức được vấn đề và đã có cách
thức tác động phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đất nước, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh
tế và từng bước xóa bỏ đói nghèo nhưng không vì thế mà chúng ta không trân trọng cái cũ.
Chúng ta đã biết giữ hình thức cải tạo nội dung, biết kế thừa và sử dụng đặc trựng tiến bộ của nền kinh tế
tập trung là tiền đề để phát triển nền kinh tế thị trường trên cơ sở đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa.chính vì vậy mới có kết quả đáng mừng của 20 năm đổi mới.
Tuy nhiên để có thành công như hôn nay, trong hoạt động của chúng ta, cả hoạt động nhận thức cũng như
hoạt động thực tiến chúng ta phải vận dụng tổng hợp tất cả những quy luật một cách đầy đủ sâu sắc, năng
động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể. Chỉ có như vậy hoạt động của chúng ta, kể cả hoạt động học
tập, mới có chất lượng và hiệu quả cao. Chúc bạn thành công! Câu h i ỏ của b n ạ c n ầ đ c ượ tr ả l i ờ nh ư sau: Bất c ứ s ự v t ậ , hi n ệ t n ượ g nào trong th ế gi i ớ đ u ề tr i
ả qua quá trình sinh ra, t n ồ t i ạ , phát tri n ể và di t ệ vong. S ự vật cũ m t ấ đi đ c ượ thay b n ằ g s ự v t ậ m i ớ . S ự thay th ế đó là t t ấ y u ế trong quá trình v n ậ đ n ộ g và phát triển của s ự v t ậ . Không nh ư v y ậ s ự v t ậ không th ể phát tri n ể đ c. ượ s ự thay th ế đó đ c ượ tri t ế h c ọ g i ọ là phủ đ n ị h. - Phủ đ n ị h biênh ch n ứ g là ph m ạ trù tri t ế h c ọ dùng đ ể ch ỉs ự ph ủ đ n ị h t ự thân, s ự phát tri n ể t ự thân, là
mắt khâu trong quá trình d n ẫ t i ớ s ự ra đ i ờ s ự v t ậ m i ớ ti n ế b ộ h n ơ s ự v t ậ cũ. Phủ đ n ị h biện ch n ứ g có các đ c ặ tr n ư g c ơ b n ả đó là: + Phủ định bi n ệ ch n
ứ g mang tính khách quan do nguyên nhân c a ủ s ự ph ủ đ n ị h n m ằ ngay trong b n ả thân s ự v t ậ . Đó chính là k t ế qu ả gi i ả quy t ế mâu thu n ẫ bân trong c a ủ s ự v t ậ . Nh ờ vi c ệ gi i ả quy t ế mâu thu n ẫ mà s ự v t ậ luân phát tri n ể , vì th , ế ph ủ đ n ị h bi n ệ ch n ứ g là m t ộ t t ấ y u
ế khách quan trong quá trình v n ậ đ n ộ g và phát tri n ể c a ủ s ự v t ậ . + Phủ định bi n ệ ch n ứ g là k t ế qu ả c a ủ s ự phát tri n ể t ự thân c a ủ s ự v t ậ , nên nó không ph i ả là s ự th ủ tiêu, s ự phá h y
ủ hoàn toàn cái cũ. Cái m i ớ ch ỉcó th ể ra đ i ờ trên n n ề t n ả g c a
ủ cái cũ, chúng không th ể t ừ h ư vô. Cái mới ra đ i ờ là s ự phát tri n ể ti p ế t c ụ c a ủ cái cũ trên c ơ s ở g t ạ b ỏ nh n ữ g m t ặ tiêu c c, ự l i ỗ th i ờ , l c ạ hậu của cái cũ và ch n ọ l c, ọ gi ữ l i ạ , c i ả t o ạ nh n ữ g m t ặ còn thích h p ợ , nh n ữ g m t ặ tích c c, ự b ổ sung nh n ữ g mặt m i ớ phù h p ợ v i ớ hi n ệ th c. ự Do v y, ậ thông qua nh n ữ g l n ầ ph ủ đ n ị h bi n ệ ch n ứ g c a ủ b n ả thân, s ự v t ậ s ẽ ngày càng phát tri n ể . - Quy luật ph ủ định c a ủ ph ủ đ n ị h bi u ể hi n ệ s ự phát tri n ể c a ủ s ự v t ậ là do mâu thu n ẫ trong b n ả thân s ự v t ậ quy t ế đ n ị h. M i ỗ l n ầ ph ủ đ n ị h là k t ế qu ả đ u ấ tranh và chuy n ể hóa gi a ữ các m t ặ đ i ố l p ậ trong b n ả thân s ự v t ậ - gi a ữ m t ặ kh n ẳ g đ n ị h và ph ủ đ n ị h. S ự ph ủ đ n ị h l n ầ th ứ nh t ấ di n ễ ra là cho s ự v t ậ cũ chuy n ể thành cái đ i ố l p ậ v i ớ mình. S ự ph ủ đ n ị h l n ầ th ứ hai đ c ượ th c ự hi n ệ d n ẫ t i ớ s ự v t ậ m i ớ ra đ i ờ . S ự v t ậ này đối lập với cái đ c ượ sinh ra ở l n ầ ph ủ đ n ị h th ứ nh t ấ . Nó đ c ượ b ổ sung nhi u ề nhân t ố m i ớ . Nh ư v y ậ sau hai lần ph ủ định s ự v t ậ d n ườ g nh ư quay tr ở l i ạ cái cũ, nh n ư g trên c ơ s ở m i ớ cao h n ơ là đ c ặ đi m ể quan trọng nh t ấ c a ủ s ự phát tri n ể bi n ệ ch n ứ g thông qua ph ủ đ n ị h c a ủ ph ủ đ n ị h. Phủ đ n ị h của ph ủ định làm xu t ấ hi n ệ s ự v t ậ m i ớ là k t ế qu ả c a ủ s ự t n ổ g h p ợ t t ấ c ả nhân t ố tích c c ự đã có và đã phát tri n ể trong cái kh n ẳ g đ n ị h ban đ u ầ và trong nh n ữ g l n ầ ph ủ đ n ị h ti p ế theo. Do v y, ậ s ự v t ậ m i ớ v i ớ t ư cách là k t ế qu ả c a ủ ph ủ đ n ị h c a ủ ph ủ đ n ị h có n i ộ dung toàn di n ệ h n ơ , phong phú h n ơ , có cái khẳng đ n ị h b n ạ đ u ầ và k t ế qu ả c a ủ s ự ph ủ đ n ị h l n ầ th ứ nh t ấ . Kết qu ả c a ủ s ự ph ủ đ n ị h c a ủ ph ủ đ n ị h là di m ể k t ế thúc c a ủ m t ộ chu kỳ phát tri n ể và cũng là đi m ể kh i ở
đầu của chu kỳ phát tri n ể ti p ế thei. S ự v t ậ l i ạ ti p ế t c ụ ph ủ đ n ị h bi n ệ ch n ứ g chính mình đ ể phát tri n ể . C ứ nh ư v y ậ s ự v t ậ m i ớ ngày càng m i ớ h n ơ . Quy lu t ậ ph ủ đ n ị h c a ủ ph ủ đ n ị h khái quát xu h n ướ g t t ấ y u ế ti n ế lên c a ủ s ự v t ậ - xu h n ướ g phát tri n ể . Song phát tri n ể đó không theo h n ướ g th n ẳ g mà theo đ n ườ g "xoáy c" ố . S ự phát tri n ể "xoáy c" ố là s ự bi u ể th ịrõ ràng, đ y ầ đ ủ các đ c ặ tr n ư g c a ủ quá trình phát tri n ể bi n ệ ch n ứ g c a ủ s ự v t ậ : tính k ế th a ừ , tính l p ặ l i ạ , tính ti n ế lên. M i ỗ vòng c a ủ đ n ườ g xoáy c ố d n ườ g nh ư th ể hi n ệ s ự lặp lại, nh n ư g cao h n ơ , th ể hi n ệ trình đ ộ cao h n ơ c a ủ s ự phát tri n ể . Tính vô t n ậ c a ủ s ự phát tri n ể t ừ th p ấ đến cao đ c ượ th ể hi n ệ ở s ự n i ố ti p ế nhau t ừ dư i ớ lên c a ủ các vòng trong đư n ờ g "xoáy c" ố . Nghiên c u ứ quá trình phát tri n ể c a ủ s ự v t ậ theo quy lu t ậ ph ủ đ n ị h c a ủ ph ủ đ n ị h chúng ta không đ c ượ hi u ể m t ộ cách máy móc là m i ọ s ự v t ậ trong th ế gi i ớ hi n ệ th c ự đ u ề ph i ả tr i ả qua hai l n ầ ph ủ đ n ị h c a ủ ph ủ định mới hoàn thành m t ộ chu kỳ phát tri n ể c a ủ chúng. Trong hi n ệ th c, ự m t ộ chu kỳ phát tri n ể c a ủ s ự v t ậ c ụ th ể có th ể bao g m ồ s ố l n ượ g các l n ầ ph ủ đ n ị h nhi u ề h n ơ hai. Có s ự v t ậ tr i ả qua hai l n ầ ph ủ đ n ị h, có s ự v t ậ tr i ả qua ba, b n ố , lăm... l n ầ ph ủ đ n ị h m i ớ hoàn thành m t ộ chu kỳ phát tri n ể Ví d ụ vòng đ i ờ c a ủ T m ằ đã trải qua 4 l n ầ ph ủ đ n ị h... T ừ nh n
ữ g phân tích trên chúng ta có th ể khái quát Quy lu t ậ ph ủ đ n ị h c a ủ ph ủ đ n ị h nêu lên m i ố liên h , ệ s ự k ế th a ừ gi a ữ cái kh n ẳ g đ n ị h và cái ph ủ đ n ị h, nh ờ đó ph ủ đ n ị h bi n ệ ch n ứ g là đi u ề ki n ệ cho s ự phát triển; nó b o ả t n ồ n i ộ dung tích c c ự c a ủ các giai đo n ạ tr c ướ và b ổ sung thêm nh n ữ g thu c ộ tính m i ớ là cho s ự phát tri n ể theo đ n ườ g "xoáy c" ố . - V n ậ d n ụ g v i ớ quá trình đ i ỏ m i ớ ở n c ướ ta: Quy lu t ậ ph ủ đ n ị h c a ủ ph ủ đ n ị h giúp chúng ta nh n ậ th c ứ đúng đ n ắ v ề xu h n ướ g phát tri n ể c a ủ s ự v t ậ . quá trình phát tri n ể c a ủ b t ấ kỳ s ự v t ậ nào cũng không bao gi ờ đi theo đư n ờ g th n ẳ g mà di n ễ ra quanh co, ph c ứ t p ạ trong đó bao g m ồ nhi u ề chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao gi ờ cũng ti n ế b ộ h n ơ chu kỳ trư c. ớ Vì v y, ậ quá trình đ i ổ m i ớ c a ủ nư c ớ ta cùng đ u ề di n ễ ra theo chi u ề hư n ớ g đó. N n ề kinh t ế nhi u ề thành ph n ầ theo đ n ị h h n ướ g xã h i ộ ch ủ nghĩa đ t ặ d i ướ s ự qu n ả lý đi u ề ti t ế c a ủ nhà n c ướ t o ạ ti n ề đ ề ph ủ đ n ị h n n ề kinh t ế t p ậ trung, bao c p ấ đ t ặ n n ề móng cho xã h i ộ phát tri n ể cao h n ơ nó trong t n ươ g lai đó là xã h i ộ xã h i ộ ch ủ nghĩa. tuy nhiên ở m i ỗ mô hình đ u ề có đ c ặ đi m
ể riêng, do đó, chúng ta đã nh n ậ Phủ đ n ị h biện ch n ứ g là không ph i ả là ph ủ đ n ị h s ch ạ tr n ơ , nó có tính k ế th a ừ , l y ấ h t ạ nhân đúng đ n ắ c a ủ cái trước làm ti n ề đ ề phát tri n ể cho cái sau và lo i ạ b ỏ cái không h p ợ qui lu t ậ . Đảng c n ộ g s n ả Vi t ệ Nam v n ậ d n ụ g tính ch t ấ c a ủ phép ph ủ đ n ị h bi n ệ ch n ứ g vào công cu c ộ c i ả cách đ t ấ nước : tr i ả qua nh n ữ g l n ầ thay đ i ổ hi n ế pháp và hi n ế pháp cu i ố cung là hi n ế pháp 92, công cu c ộ c i ả t ổ đất nước nh n ữ g chính sách