








Preview text:
Giám sát sử dụng kháng sinh và dư lượng trong nước ngọt 
Nuôi trồng thủy sản nội địa tại Việt Nam 
A. TỔNG QUAN VỀ KHÁNG SINH 
 1 . Khái niệm  (Nguồn: Hướng dẫn sử dụng kháng sinh-Bộ Y tế) 
• Kháng sinh là những chất kháng khuẩn được tạo ra bởi các chủng vi sinh vật 
(vi khuẩn, nấm,..) có tác dụng ức chế sự phát triển của vi sinh vật khác 
• Hiện nay từ kháng sinh được mở rộng đến cả những chất kháng khuẩn có 
nguồn gốc tổng hợp như các sulfonamid và quinolon 
• Ước tính đến nay, con người biết được khoảng 8000 loại kháng sinh, trong 
đó khoảng 100 loại được sử dụng trong y học.  2. Phân loại   • Theo cấu trúc: 9 nhóm 
• Theo mức độ tác dụng: Diệt khuẩn và kìm khuẩn 
 Diệt khuẩn: Làm phân giải vi khuẩn 
 Kìm khuẩn: Ngăn cản sự sinh trưởng và phát triển của vi khuẩn 
• Theo phổ tác dụng: Kháng sinh phổ hẹp và kháng sinh phổ rộng Phổ 
hẹp: có hoạt tính đối với một hay một số ít vi khuẩn như: Penicilline chỉ 
có tác dụng với các loại vi khuẩn Gram dương Phổ rộng: có hoạt tính 
đối với nhiều loại vi khuẩn khác nhau: Tetracilline tác dụng với cả Gram  âm và Gram dương 
• Phân loại theo nguồn gốc: Tự nhiên, tổng hợp, bán tổng hợp Tự nhiên: 
có sẵn trong thực phẩm như: tỏi, mật ong, nghệ,.. 
(http://soyte.hatinh.gov.vn/tin-tuc-su-kien/pho-bien-kien-thuc/9-khang-
sinhtu-nhien-tot-hon-thuoc.html) 
• Dựa vào tác dụng, các nhóm kháng sinh lại được chia thành kháng 
sinh tác dụng đến tế bào vi khuẩn và kháng sinh làm rối loạn hoạt đông 
sống của tế bào nguyên sinh.̣ 
3. Vai trò của kháng sinh  
• Đối với sức khoẻ của con người 
 Kháng sinh dùng để điều trị các bệnh lý gây ra bởi vi khuẩn, ví dụ như: viêm 
xoang, nhiễm khuẩn răng, nhiễm khuẩn da mô mềm, viêm màng não,     
nhiễm khuẩn đường niệu, nhiễm khuẩn hô hấp trên, nhiễm khuẩn hô hấp  dưới v.v   Trong chăn nuôi: 
 http://khuyennong.lamdong.gov.vn/thong-tin-nong-nghiep/chan-nuoi/513-vai-
tròcủa-kháng-sinh-trong-an-toàn-thực-phẩm-động-vật-và-sản-xuất-bền-vững 
https://khoathuy.vnua.edu.vn/su-dung-khang-sinh-trong-thuc-an-chan-nuoi-va- suckhoe-cong-dong/ 
 Điều trị bệnh: Khi vật nuôi được chẩn đoán bị nhiễm bệnh, thì chúng sẽ 
được sử dụng kháng sinh ở liều cao trong thời gian ngắn để điều trị 
 Kiểm soát lan truyền bệnh: Các dấu hiệu bệnh được nhìn thấy ở nhiều vật 
nuôi trong đàn, thì kháng sinh sẽ được sử dụng cho tổng đàn nhằm giảm tối 
đa lan truyền mầm bệnh. 
 Ngăn chặn bệnh: Kháng sinh được sử dụng để ngăn chặn các mầm bệnh đã 
Cải thiện tăng trưởng sức khỏe: thuốc kháng sinh thường được đưa vào thức 
ăn với liều thấp trong thời gian dài để thúc đẩy sự phát triển của gia súc và  gia cầm. 
được biết đến trước đây dựa theo kinh nghiệm và lịch sử trại.   
Các chuyên gia Viện Thú y của Mỹ đã ước tính rằng, nếu không sử dụng thuốc 
kháng sinh thúc đẩy tăng trưởng, Mỹ sẽ phải chăn nuôi thêm môt số lượng gồṃ
 452 triêu gà, 23 triệu gia súc và 12 triệu con lợn để đạt mức sản xuất như hiệṇ
 nay.Các chuyên gia Viện Thú y của Mỹ đã ước tính rằng, nếu không sử dụng 
thuốc kháng sinh thúc đẩy tăng trưởng, Mỹ sẽ phải chăn nuôi thêm môt số lượng 
gồṃ 452 triêu gà, 23 triệu gia súc và 12 triệu con lợn để đạt mức sản xuất như  hiện nay.̣ 
Nguồn: https://khoathuy.vnua.edu.vn/su-dung-khang-sinh-trong-thuc-an-chan-  nuoi-va-suc-khoe-cong-dong/      B. CƠ CHẾ 
1.Ức chế tổng hợp vách tế bào 
Vách tế bào của vi khuẩn (đặc biệt là các vi khuẩn Gram dương) được cấu tạo bởi các 
phức hợp peptidoglycan, phức hợp này được trùng hợp bởi các enzyme 
transpeptidases. Các KS nhóm b – lactamin gắn chọn lọc vào các transpeptidase này 
làm cho vách tế bào của vi khuẩn bị tan rã khiến vi khuẩn bị tiêu diệt. 
2. Ức chế tổng hợp protein 
2.1. Phong bế mạch polypeptid 
Nhóm phenicol, macrolid có khả năng gắn vào phần 50S của ribosom vi khuẩn, phong 
bế enzyme transferase (enzyme chuyển acid amin từ ARN vận chuyển) làm quá trình 
tổng hợp protein của vi khuẩn bị ngừng. 
2.2. Tạo protein bất thường, vô dụng 
Tetracyclin và aminoside có khả năng gắn vào phần 30S của ribosom vi khuẩn, gây 
nên đọc sai mã của ARN – thông tin khiến protein được tạo ra bất thường, vô dụng đối 
với đời sống của vi khuẩn. 
3.Ức chế chức năng màng bào tương 
KS gắn lên màng bào tương, làm thay đổi tính thấm chọn lọc khiến một số chất cần 
thiết cho vi khuẩn (nucleotid, pyrimidin, purin…) lọt ra ngoài, làm tổn hại và chết vi 
khuẩn. Các KS nhóm polymycin, aminosid. 
4. Tác động trực tiếp vào acid nhân 
Các quinolon ức chế enzyme ADN-gyrase khiến ADN sợi kép của vi khuẩn không thể 
duỗi xoắn, quá trình tổng hợp ADN của vi khuẩn bị ngừng hoàn toàn. 
5. Cạnh tranh đối kháng 
Đây là kiểu tác dụng của các sunfonamit. Acid folic giữ vai trò cần thiết trong quá 
trình tổng hợp acid nucleic. Để tổng hợp ra acid folic, một số vi khuẩn phải sử dụng 
acid paraaminobenzoic (PAB) có trong môi trường. Sunfonamit có cấu trúc hóa học 
tương tự PAB nên đã cạnh tranh thay thế PAB, dẫn đến ngừng tổng hợp acid nucleic  của vi khuẩn.     
C. THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRONG NUÔI 
TRỒNG THỦY SẢN Ở VIỆT NAM 
1. Tình hình ngành thủy sản ở Việt Nam 
• Theo số liệu thống kê năm 2009 của Tổ chức Lương thực và Nông 
nghiệp Liên hợp quốc (FAO), Việt Nam đã trở thành nước sản xuất 
các sản phẩm nuôi trồng thủy sản lớn thứ ba, sau Trung Quốc và Ấn  Độ (Anonymous 2009 ). 
• Tính đến năm 2010, có 37.142 trang trại nuôi cá ở Việt Nam, sản xuất 
hơn 2.700 nghìn tấn sản phẩm thủy sản mỗi năm 
2. Chloramphenicol, Quinolon và Fluoroquinolon 
• Chlorpramphenicol: Là một chất thuộc thể rắn được chế tạo từ một loại nấm, 
rất đắng, rất bền vững trong axít và trong nhiệt độ cao, Chloramphenicol 
thường được dùng để chữa bệnh thương hàn, bệnh viêm màng não, bệnh 
Rickettsia, các bệnh do cầu trùng "Gram âm" (Gram -) gây ra. Khi người 
bệnh uống, hoặc chích Chloramphenicol, thuốc đi vào các mô, kể cả dịch 
não tủy. Tuy nhiên, Chloramphenicol được sử dụng rất hạn chế vì nếu dùng 
dài ngày, nó có thể gây ra chứng không tái tạo máu dẫn đến chết người. 
• Trong nuôi trồng thủy sản, cụ thể là nuôi tôm, có bà con nông dân do chưa 
hiểu biết đầy đủ khi thấy tôm bị bệnh, nhất là bệnh nấm trên thân đã tự ý 
mua Chloramphenicol về trộn vào thức ăn, hoặc hòa loãng với nước rồi đổ 
xuống vuông tôm. Đúng là sau khi cho tôm ăn thức ăn có Chloramphenicol, 
hoặc đổ Chloramphenicol vào vuông tôm thì chỉ sau một thời gian ngắn, tôm 
khỏi bệnh. Tuy nhiên, về lâu dài Chloramphenicol sẽ tích lũy trong thịt tôm 
và khi nó vượt quá mức tiêu chuẩn an toàn thực phẩm cho phép thì lợi bất  cập hại. 
• Sau khi kháng sinh ra đời, cứu sống hàng trăm triệu con người, thì xuất hiện 
hiện tượng kháng thuốc. Sở dĩ có điều này là vì vi trùng, sau một thời gian 
tiếp xúc với kháng sinh (nhất là kháng sinh không đủ liều lượng để tiêu diệt 
nó, hoặc kháng sinh không phù hợp với cơ chế tiêu diệt nó), thì vi trùng trở 
nên thích ứng và thuốc dường như không có tác dụng với những thế hệ vi  trùng sinh ra tiếp theo. 
• Chính vì thế, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) mới đề ra biện pháp “kháng sinh 
dự trữ” (là những loại kháng sinh mới, có tầm hoạt động rộng, rất cần thiết 
cho việc điều trị trong các trường hợp mà các loại kháng sinh khác đã vô tác  dụng) 
• Quinolon, Fluoroquinolon nằm ở nhóm “kháng sinh dự trữ này”. Nó thường 
được biết đến dưới tên thương mại là Ciprofloxacin, Enoxacin, 
Levofloxacin, Ofloxacin, Norfloxacin, Lomefloxacin... trong đó, nhóm     
Fluoroquinolon thế hệ thứ ba, ra đời vào năm 1999, như Trovafloxacin, 
Levofloxacin..., rất dễ khuếch tán vào tế bào, đặc biệt là xương, tiền liệt 
tuyến, dịch não tủy. Cũng theo WHO thì nhóm Fluoroquinolon được xem là 
“vũ khí cuối cùng” để điều trị các bệnh nhiễm trùng trong giai đoạn hiện 
nay. 3. Kháng sinh trong chăn nuôi thủy sản  Kết quả khảo sát 
• Điều kiện khảo sát: 94 trang trại được tham gia vào nghiên cứu, 48 từ đồng 
bằng sông Hồng, 46 từ đồng bằng sông Cửu Long. Các trang trại hầu như 
chỉ nuôi tôm hoặc cá, khoảng 10 (11%) trang trại nuôi cả hai. 
• Các loại cá được nuôi phổ biến: cá rô phi, cá chép, trắm cỏ, các lóc và cá trê 
• Loại tôm được nuôi phổ biến là tôm càng xanh 
• Kết quả kháng sinh được sử dụng trong các trang trại (94) được khảo sát: 
• 68 trang trại (72,3%) sử dụng ít nhất một loại kháng sinh tại bất kỳ thời điểm 
nào trong chu kỳ sản xuất. Trong đó có 7 trang trại sử dụng kháng sinh. 
• 26 trang trại báo cáo không sử dụng kháng sinh trong thời gian khảo sát. 
• 10 loại kháng sinh khác nhau đã được sử dụng 
• 3 loại kháng sinh được sử dụng phổ biến nhất: trimethoprin (30,8%), 
oxytetracycline (30,9%) và sulfat thoxazole (41,5%). 
• Tại các trang trại báo cáo có sử dụng kháng sinh, trung bình 3,3kg kháng 
sinh được sử dụng cho mỗi tấn thuỷ sản. 
Đồ thị biểu diễn số trang trại sử dụng kháng sinh và số loại kháng sinh được sử  dụng  25  20  20  17  15  10    10  9    6  6    5  5  5    5  4      3  2    1 1  0    0  1  2  3  4  5  6 
Số loại thuốc kháng sinh được sử dụng   
Đồng bằng sông Mê Kông  Đồng bằng sông Hồng 
Bảng 1. Kháng sinh được sử dụng trong các trang trại nuôi thuỷ sản nước ngọt   
 Nhiều kháng sinh nằm trong danh sách kháng sinh quan trọng của WHO, 
đây là những kháng sinh cần được sử dụng một cách cẩn trọng 
4. Dư lượng kháng sinh trong thủy sản 
• Tổng cộng có 53 mẫu tôm và 51 mẫu cá mua từ các chợ trong khu vực 
(không phải từ các trang trại bị điều tra) đã được kiểm tra dư lượng kháng  sinh. 
• Xét nghiệm sàng lọc dư lượng cho thấy tổng số 26,9% (28/104) mẫu được 
phát hiện có chứa dư lượng kháng sinh     
Bảng 3: Kết quả sàng lọc dư lượng kháng sinh (sử dụng NTPT) của các mẫu được thu thập t ừ 
các chợ địa phươn g   
 Cá và tôm mua tại chợ trong khu vực có kết quả xét nghiệm sàng lọc dư 
lượng kháng sinh dương tính với khoảng 25%. Dư lượng fluoroquinolone và 
tetracycline được phát hiện trong cá bán trên thị trường, cho thấy thiếu thời  gian thu hồi thích hợp .   
D. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ  1. Nguyên nhân 
• Người nuôi trồng thủy sản còn thiếu kiến thức về mục đích và cách sử dụng 
kháng sinh đúng cách. Chỉ có 15/94 trang trại biết các quy định liên quan 
đến nuôi trồng thuỷ sản và sử dụng kháng sinh. 
• Nông dân thoải mái sử dụng kháng sinh mặc dù kiến thức về kháng sinh của 
họ còn hạn chế; bao gồm cả thuốc kháng sinh trên WHO đã mất các thuốc     
chống vi trùng cực kỳ quan trọng và các thuốc chống vi trùng bị cấm như  fluoroquinolones. 
• Chỉ có 34% trang trại sử dụng kháng sinh theo đơn thuốc của bác sĩ thú y 
• Nông dân không chuẩn đoán bệnh mà sử dụng kháng sinh theo kinh nghiệm 
đó và chuyển đổi thuộc cho đến khi tìm ra loại thuốc chữa khỏi bệnh 
• 23,4% trang trại sử dụng kháng sinh cho đến khi thu hoạch, Những con cá 
hoặc tôm này thường bị bệnh tật; do đó thuốc kháng sinh được sử dụng để 
duy trì vẻ ngoài khỏe mạnh nhằm giảm thiểu tổn thất và thu hồi vốn.  2. Hậu quả 
• Mối nguy hiểm chính của việc sử dụng kháng sinh là sự phát triển và chọn 
lọc các mầm bệnh kháng kháng sinh. Vì nhiều loại kháng sinh được sử dụng 
không thể phân hủy, kháng sinh công nghiệp được sử dụng trong các trang 
trại nuôi trồng thủy sản có thể tích tụ trong trầm tích ở đáy ao nuôi trong thời 
gian dài, tạo áp lực liên tục đối với quần thể vi sinh vật làm tăng nguy cơ 
kháng kháng sinh ở vi khuẩn gây bệnh có trong cá hoặc tôm. 
• Tôm, cá có chứa dư lượng kháng sinh dù chỉ với thành phần rất nhỏ, tưởng 
như vô hại, nhưng khi người tiêu dùng ăn vào và ăn thường xuyên sẽ dẫn 
đến hệ quả là cơ thể xuất hiện những loại vi khuẩn đề kháng với kháng sinh. 
Rồi khi người đó mắc các bệnh nhiễm trùng, phải cần đến kháng sinh như: 
Chloramphenicol hoặc Fluoroquinolon để điều trị, thì hầu như không có tác  dụng. 
• Theo WHO, Việt Nam là một trong những các quốc gia, trong những năm 
gần đây đã phải chứng kiến mối đe dọa ngày càng gia tăng của kháng kháng 
sinh , do việc sử dụng kháng sinh không hợp lý tại các cấp của hệ thống 
chăm sóc sức khỏe, trong nuôi trồng thủy sản, trong chăn nuôi và trong cộng  đồng.        E. GIẢI PHÁP 
• Phương pháp thích hợp được khuyến nghị để ngăn ngừa hoặc quản lý dịch 
bệnh bùng phát là duy trì chất lượng nước và giảm căng thẳng ở động vật do 
nuôi quá đông và mật độ nuôi cao 
• Tuyên truyền, kiểm soát và khuyến khích việc sử dụng kháng sinh hợp lý 
trong nuôi trồng thủy sản. 
• Cần có hướng dẫn rõ ràng về việc sử dụng và liều lượng kháng sinh cho 
người nuôi trồng thủy sản Việt Nam. 
• Các ngành chức năng cần kiểm tra thường xuyên mặt hàng thủy hải sản nuôi 
trồng, ngăn chặn và thu hồi kịp thời đối với những sản phẩm vi phạm quy 
định về kháng sinh và dư lượng kháng sinh. 
• Chủ trang trại nuôi trồng thủy sản mỗi khi vật nuôi bị bệnh, nên tham khảo ý 
kiến của các ngành chức năng như Thủy sản, Thú y để được hướng dẫn cụ 
thể cách chữa trị. Tuyệt đối không tự tiện mua kháng sinh - dù bất cứ loại gì 
để tự điều trị cho tôm, cá. 
• Phát triển những sản phẩm probiotic tăng sức đề kháng