



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 60692662
TÀI LIỆU HỌC TẬP 
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG 
(CHƯƠNG TRÌNH CỬ NHÂN  LƯU HÀNH NỘI BỘ)      lOMoAR cPSD| 60692662  GIỚI THIỆU 
Pháp luật đại cương là học phần cung cấp những kiến thức cơ bản nhất về 
nhà nước và pháp luật: nguồn gốc, bản chất, vai trò xã hội, những quy luật đặc thù 
của sự xuất hiện, tồn tại của nhà nước và pháp luật; đồng thời cung cấp những 
kiến thức khái quát, cơ bản nhất về bản chất, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của 
bộ máy nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các ngành luật cơ 
bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam, học phần bao gồm những nội dung cơ bản  sau: 
- Một số vấn đề chung về nhà nước và nhà nước Cộng hòa xã hội chủnghĩa 
Việt Nam - đề cập đến một số vấn đề chung, cơ bản về nhà nước như: nguồn gốc, 
bản chất, vai trò, chức năng của nhà nước, hình thức, kiểu nhà nước, bộ máy nhà 
nước nói chung và nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. 
- Một số vấn đề chung về pháp luật và pháp luật Việt Nam - đề cập đếnmột 
số vấn đề cơ bản về pháp luật và pháp luật Việt nam hiện nay: sự ra đời, bản chất, 
chức năng, thuộc tính, quy phạm pháp luật nói chung và hệ thống văn bản quy 
phạm pháp luật của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 
- Một số ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam - giới 
thiệumột cách khái quát một số ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt  Nam: 
luật Dân sự; luật Hình sự; luật đất đai và pháp luật về phòng, chống tham nhũng. 
Đây được xem là một học phần có khả năng trang bị cho sinh viên không 
chuyên ngành luật những kiến thức cơ bản, phổ thông, thiết thực về nhà nước và 
pháp luật, làm cơ sở cho sinh viên có thể tìm hiểu và nhận thức đúng các quy định 
của pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động hàng ngày. Vì vậy, pháp luật đại 
cương là một học phần bắt buộc và không thể thiếu đối với sinh viên của tất cả 
các cơ sở giáo dục đại học không chuyên luật trong điều kiện xây dựng nhà nước  pháp quyền hiện nay. 
Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC I. KHÁI 
QUÁT VỀ NHÀ NƯỚC 
1. Nguồn gốc của nhà nước 
a. Một số quan điểm phi mác xít về nguồn gốc nhà nước 
Nhà nước là một hiện tượng xã hội đa dạng và phức tạp, liên quan chặt chẽ 
đến lợi ích của các giai cấp, tầng lớp, dân tộc. Để nhận thức đúng đắn về nhà 
nước, cần làm sáng tỏ về sự xuất hiện của nhà nước. 
Có nhiều lý thuyết về sự xuất hiện của nhà nước. Một trong những thuyết 
cổ điển nhất về nhà nước là thuyết thần học. Những người theo thuyết này cho 
rằng thượng đế là người sáng lập, sắp đặt mọi trật tự xã hội trong đó có nhà nước. 
Nhà nước là do đấng tối cao sáng tạo thể hiện ý chúa. Do vậy, nhà nước tồn tại 
vĩnh cửu, tuân theo quyền lực nhà nước là tuân theo ý chúa.    lOMoAR cPSD| 60692662
Những người theo thuyết gia trưởng cho rằng nhà nước ra đời từ gia đình, 
là hình thức tổ chức tự nhiên của đời sống con người, vì vậy, cũng như gia đình, 
nhà nước tồn tại ở mọi xã hội, quyền lực nhà nước cũng giống như quyền lực gia  đình. 
Thuyết khế ước xã hội cho rằng sự ra đời của nhà nước là kết quả của một 
khế ước được ký kết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không  có nhà nước. 
b. Quan điểm mác xít về sự ra đời của nhà nước 
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà 
nước” của Ph.Ăngghen và được V.I.Lênin phát triển trong tác phẩm “Nhà nước 
và cách mạng” đã khẳng định: Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nhà nước không 
phải là một hiện tượng vĩnh cửu và bất biến, nó xuất hiện, phát triển và tiêu vong 
khi có những điều kiện nhất định, nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã hội, là sản 
phẩm của xã hội loài người. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội phát triển đến một 
trình độ nhất định và tiêu vong khi có những điều kiện khách quan cho sự tồn tại  và tiêu vong của nó. 
Muốn hiểu rõ nguồn gốc của nhà nước, cần tìm hiểu các điều kiện, hoàn 
cảnh của xã hội cộng sản nguyên thủy - chế độ dân chủ sơ khai của xã hội loài 
người khi chưa có nhà nước. 
- Cơ sở kinh tế, xã hội và quyền lực trong xã hội cộng sản nguyên thủy 
Chế độ cộng sản nguyên thủy là hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên của xã 
hội loài người. Trong xã hội đó mọi người đều bình đẳng trong lao động sản xuất 
và hưởng thụ dựa trên chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất: Trình độ lực lượng 
sản xuất thấp kém, công cụ lao động thô sơ, năng xuất lao động thấp, con người 
chưa có hiểu biết về thiên nhiên và bản thân mình nên họ luôn hoảng sợ và bất 
lực khi thiên tai xảy ra. Điều đó làm cho họ không thể sống riêng biệt mà phải 
dựa vào nhau, cùng chung sống, cùng lao động và cùng hưởng thụ những thành 
quả lao động chung. Trong giai đoạn này xã hội đã có sự phân công lao động 
nhưng là sự phân công lao động tự nhiên giữa đàn ông và đàn bà, giữa người già 
và trẻ em để thực hiện những loại công việc khác nhau chứ không phải là phân 
công lao động xã hội xuất phát từ sự chuyên môn hóa lao động và sự khác biệt về  địa vị xã hội. 
Hình thức tổ chức xã hội của chế độ Cộng sản nguyên thủy là thị tộc và bộ 
lạc, thực hiện quyền lực xã hội, phục vụ lợi ích chung của xã hội với hệ thống 
quản lý là hội đồng thị tộc, tù trưởng và thủ lĩnh quân sự, trong đó hội đồng thị 
tộc bao gồm tất cả các thành viên đã trưởng thành trong thị tộc, hội đồng bàn bạc 
dân chủ và quyết định tất cả những vấn đề quan trọng nhất của thị tộc. Tù trưởng 
và thủ lĩnh quân sự là những người đứng đầu thị tộc do toàn thể thị tộc bầu ra, họ 
không có bất cứ đặc quyền riêng nào so với những người khác trong thị tộc, họ có 
thể bị bãi miễn nếu không được cộng đồng tín nhiệm.    lOMoAR cPSD| 60692662
Sự phát triển của xã hội cùng với các yếu tố tác động khác đòi hỏi thị tộc 
phải mở rộng quan hệ với các thị tộc khác, dẫn đến sự xuất hiện các bào tộc và bộ 
lạc. Bào tộc là một liên minh gồm nhiều thị tộc hợp lại, nhiều bào tộc hợp lại hình 
thành bộ lạc. Tổ chức quyền lực của bào tộc, bộ lạc cũng giống như trong thị tộc, 
nhưng có mức độ tập trung quyền lực cao hơn. Ở bào tộc có hội đồng bào tộc bao 
gồm thủ lĩnh quân sự, tù trưởng của các thị tộc; ở bộ lạc thì có hội đồng bộ lạc. 
- Sự tan rã chế độ cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện nhà nước 
Chế độ cộng sản nguyên thủy không có nhà nước nhưng chính trong lòng 
nó đã nảy sinh những tiền đề kinh tế - xã hội cho sự xuất hiện nhà nước, nguyên 
nhân làm cho chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã cũng đồng thời là nguyên nhân 
làm xuất hiện nhà nước. 
Về mặt kinh tế: lực lượng sản xuất phát triển, năng xuất lao động tăng, các 
hoạt động kinh tế, xã hội ngày càng đa dạng, phong phú, đòi hỏi có sự phân công 
lao động theo hướng chuyên môn hóa. Cuối chế độ cộng sản nguyên thủy xuất 
hiện lần lượt ba lần phân công lao động xã hội lớn: một là chăn nuôi tách ra khỏi 
trồng trọt; hai là thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp; ba là buôn bán phát triển, 
thương nghiệp xuất hiện cùng với nó là sự xuất hiện của chế độ tư hữu về tư liệu  sản xuất. 
Về mặt xã hội: Trong xã hội xuất hiện quá trình phân hóa kẻ giầu người 
nghèo, xuất hiện sự phân chia giai cấp. Giữa các tầng lớp, giai cấp mới có sự xung 
đột về lợi ích ngày càng gay gắt làm cho các cộng đồng thị tộc không thể đứng 
vững được và trở nên bất lực. Một xã hội mới như vậy đòi hỏi phải có một tổ chức 
quyền lực mới, đủ sức dập tắt các cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp, hoặc 
để những cuộc đấu tranh đó diễn ra trong một trật tự nhất định. Tổ chức quyền lực  đó là nhà nước. 
Như vậy, Nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của sự 
phát triển lịch sử loài người, nhà nước là “một lực lượng nảy sinh từ xã hội, một 
lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và 
giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự”1 
2. Bản chất của nhà nước 
Trên cơ sở giải thích đúng đắn và khoa học về sự ra đời của nhà nước, các 
nhà tư tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra bản chất của nhà nước là một 
thể thống nhất mang tính giai cấp và tính xã hội. Tuy nhiên cách thức thể hiện bản 
chất giai cấp và xã hội ở mỗi nhà nước và trong từng thời kỳ phát triển của xã hội  là khác nhau. 
a. Tính giai cấp của nhà nước 
Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp, do đó nhà nước mang tính giai 
cấp sâu sắc. Bản chất giai cấp của nhà nước thể hiện ở các đặc điểm:   
1 Mác-Ăngghen: Tuyển tập, tập VI,NXB sự thật, Hà Nội 1984, trang 260 - 261.    lOMoAR cPSD| 60692662 - 
Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay giai cấp thống 
trị,là công cụ sắc bén để duy trì sự thống trị giai cấp về kinh tế, chính trị và tư  tưởng.  - 
Trong các nhà nước bóc lột, nhà nước của giai cấp bóc lột đều có 
bảnchất chung là bộ máy thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột là giai 
cấp chiếm thiểu số so với giai cấp bị bóc lột chiếm đa số trong xã hội.  - 
Ngược lại, các nhà nước xã hội chủ nghĩa là bộ máy củng cố địa vị 
lãnhđạo và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, lực lượng 
chiếm đa số trong xã hội, trấn áp lực lượng thống trị cũ đã bị lật đổ và những phần 
tử chống đối, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và bình đẳng. 
Các nhà nước tuy khác nhau về bản chất giai cấp nhưng đều có đặc điểm 
chung, theo V.I.Lênin: Nhà nước là bộ máy để cho giai cấp này áp bức giai cấp 
khác, một bộ máy để duy trì dưới sự thống trị của một giai cấp lên tất cả các giai 
cấp bị lệ thuộc khác. 
b. Tính xã hội của nhà nước 
Nhà nước, một mặt là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, mặt 
khác còn là tổ chức quyền lực công đại diện cho lợi ích chung của xã hội nhằm 
duy trì và phát triển xã hội. Do vậy, bên cạnh bản chất giai cấp, nhà nước còn 
mang tính xã hội. Tính xã hội là một thuộc tính tất yếu khách quan của bất kỳ nhà 
nước nào, nhà nước sẽ không tồn tại được nếu không quan tâm đến quyền lợi của 
các giai tầng khác trong xã hội, không giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh. Điều 
này đặc biệt được thể hiện nõ nét trong xã hội hiện đại. 
Mức độ thể hiện tính xã hội ở các nhà nước khác nhau và ngay cả trong một 
nhà nước ở vào những giai đoạn lịch sử khác nhau cũng rất khác nhau, vì nó phụ 
thuộc vào các yếu tố khách quan và chủ quan như: điều kiện kinh tế, văn hóa, xã 
hội, bối cảnh quốc tế, trình độ nhận thức và quan điểm đạo đức, chính trị của nhà 
cầm quyền và các cá nhân trong xã hội. 
Từ sự phân tích bản chất của nhà nước, có thể khái niệm nhà nước như sau: 
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên 
trách để cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý xã hội nhằm thực hiện và 
bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng, của giai 
cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong  chủ nghĩa xã hội. 
3. Đặc trưng cơ bản, chức năng và bộ máy nhà nước 
a. Đặc trưng cơ bản của nhà nước 
Nhà nước là tổ chức quyền lực mới, khác hẳn với tổ chức tự quản thị tộc bộ 
lạc trước đây, cũng như các tổ chức xã hội khác, sự khác biệt đó thể hiện ở một số  đặc trưng cơ bản sau: 
Thứ nhất: Nhà nước thiết lập quyền lực công    lOMoAR cPSD| 60692662
Khác với quyền lực xã hội trong tổ chức thị tộc, bộ lạc, quyền lực của nhà 
nước là quyền lực chính trị thể hiện ý chí, lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước 
thiết lập bộ máy cưỡng chế, có đội ngũ công chức chuyên làm nhiệm vụ quản lý 
xã hội, duy trì, củng cố địa vị và bảo vệ lợi ích của gia cấp thống trị. Thứ hai: Nhà 
nước phân chia lãnh thổ quốc gia thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và quản lý 
dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ. 
Lãnh thổ và dân cư là những yếu tố cấu thành quốc gia, quyền lực chính trị 
của nhà nước được thực hiện trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Nhà nước thực hiện 
sự quản lý dân cư theo lãnh thổ - theo các đơn vị hành chính, không phụ thuộc 
chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp…Việc phân chia này đảm bảo cho sự quản 
lý tập trung, thống nhất của nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội từ trung 
ương đến địa phương. 
Thứ ba: Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và thực hiện 
sự quản lý xã hội bằng pháp luật. 
Với tư cách là chủ thể đại diện chính thức cho xã hội, chỉ có nhà nước mới 
có quyền ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý xã hội bằng pháp luật. Pháp 
luật có tính bắt buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp 
giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế tùy theo bản chất nhà nước và các điều kiện  khách quan khác. 
Thứ tư: Nhà nước quy định thuế và tiến hành thu thuế. 
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, nhà nước phải 
tiêu dùng một lượng của cải vật chất nhất định, nhưng bản thân hoạt động của nhà 
nước không tạo ra của cải vật chất để đảm bảo cho hoạt động của mình. Do vậy, 
nhà nước phải huy động sự đóng góp tài chính từ xã hội để đảm bảo nguồn tài 
chính cho hoạt động. Có nhiều hình thức huy động của cải vật chất của xã hội, 
trong đó việc định ra và thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc là hình thức huy 
động có tính ổn định thường xuyên và lâu dài hơn cả. Thuế là nguồn thu chủ yếu 
và quan trọng của nhà nước, là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô và phân phối lại 
thu nhập, thực hiện phúc lợi xã hội. Thuế là khoản thu bắt buộc mà người dân 
phải nghiêm chỉnh chấp hành. Chỉ có nhà nước mới có quyền đặt ra thuế và thu  các loại thuế. 
Thứ năm: Nhà nước có chủ quyền quốc gia. 
Chủ quyền quốc gia là phạm trù mang tính chính trị- pháp lý. Chủ quyền 
quốc gia thể hiện quyền tự quyết của nhà nước về đối nội và đối ngoại, mà không 
phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Nhà nước là người đại diện chính thức (đại 
diện về mặt pháp lý) cho toàn xã hội về đối nội và đối ngoại. Mọi cá nhân, tổ chức 
sống và hoạt động trên lãnh thổ quốc gia đều phải tuân thủ pháp luật của nhà nước  đó. 
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, quá trình hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ, việc 
bảo vệ chủ quyền quốc gia càng có ý nghĩa quan trọng, do vậy, nguyên tắc “tôn    lOMoAR cPSD| 60692662
trọng, bảo vệ độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi” được áp dụng cho tất cả 
các mối quan hệ của Việt Nam với các nước khác vừa khẳng định được chủ quyền 
quốc gia, vừa thể hiện tinh thần hợp tác hòa bình của Việt Nam trong các quan hệ  quốc tế. 
b. Chức năng của nhà nước 
Chức năng của nhà nước là những phương diện (mặt) hoạt động chủ yếu của 
nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra cho nhà nước. 
Chức năng của nhà nước xuất phát từ bản chất của nhà nước, do cơ sở kinh tế 
và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định. 
Căn cứ vào phạm vi hoạt động, chức năng của nhà nước được chia thành 
chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội là những mặt hoạt 
động chủ yếu trong nội bộ đất nước như: đảm bảo trật tự an toàn xã hội, trấn áp 
những phần tử chống đối, xây dựng phát triển kinh tế - xã hội… Chức năng đối 
ngoại là những mặt hoạt động của nhà nước trong quan hệ với các nhà nước và 
các dân tộc khác trên thế giới như: phòng thủ đất nước, chống sự xâm lược từ bên 
ngoài, thiết lập mối quan hệ giao bang với các nước khác… 
Các chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau tạo 
thành một thể thống nhất. chức năng đối ngoại được xác định trên cơ sở tình hình 
thực hiện các chức năng đối nội, kết quả thực hiện chức năng đối ngoại sẽ tác động 
mạnh mẽ tới việc tiến hành các chức năng đối nội. c. Bộ máy nhà nước 
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa 
phương, được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc chung thống nhất, tạo 
thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. 
Cơ quan nhà nước là những bộ phận tạo thành bộ máy nhà nước, mỗi cơ 
quan nhà nước có những chức năng, nhiệm vụ riêng phù hợp với phạm vi, quyền 
hạn được giao. Ở đây cần phân biệt chức năng của nhà nước và chức năng của các 
cơ quan nhà nước. Chức năng của nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu 
của toàn thể bộ máy nhà nước, trong đó mỗi cơ quan nhà nước có tham gia thực 
hiện theo sự phân công, phối hợp của nhà nước ở những mức độ khác nhau. Còn 
chức năng của một cơ quan nhà nước là những hoạt động chủ yếu của riêng cơ 
quan đó nhằm góp phần thực hiện những chức năng và nhiệm vụ chung của nhà  nước. 
Các cơ quan nhà nước rất đa dạng, thông thường bộ máy nhà nước chia 
thành ba loại cơ quan: cơ quan lập pháp (xây dựng, ban hành pháp luật), cơ quan 
hành pháp (tổ chức thực hiện, thi hành pháp luật), cơ quan tư pháp (bảo vệ pháp  luật).    lOMoAR cPSD| 60692662
II. KIỂU NHÀ NƯỚC VÀ HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC 
1. Kiểu nhà nước 
Kiểu nhà nước là tổng thể các đặc trưng cơ bản (dấu hiệu) của nhà nước, 
thể hiện bản chất giai cấp, vai trò xã hội và những điều kiện phát triển của nhà 
nước trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. 
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù triết học dùng để chỉ xã hội ở một 
giai đoạn nhất định được đặc trưng bởi một phương thức sản xuất nhất định và 
một kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng của thời kỳ đó. Lịch sử xã 
hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế - xã hội: chiếm hữu nô lệ, phong 
kiến, tư bản, xã hội chủ nghĩa. Tương ứng với bốn hình thái kinh tế - xã hội đó là 
bốn kiểu nhà nước: kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ (kiểu nhà nước chủ nô), kiểu 
nhà nước phong kiến, kiểu nhà nước tư sản, kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đặc 
điểm chung của mỗi hình thái kinh tế - xã hội sẽ quyết định những dấu hiệu cơ 
bản, đặc thù của một kiểu nhà nước tương ứng. 
Sự thay thế kiểu nhà nước là do sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội quyết 
định. Kiểu nhà nước mới thay thế cho kiểu nhà nước cũ thông qua cuộc cách mạng 
xã hội. Kiểu nhà nước sau bao giờ cũng tiến bộ hơn kiểu nhà nước trước, vì nó 
dựa trên phương thức sản xuất mới tiến bộ, đồng thời nó có khả năng thúc đẩy sự 
phát triển của phương thức đó. 
2. Hình thức nhà nước 
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, trình tự thành 
lập các cơ quan nhà nước, xác định vị trí, vai trò của mỗi cơ quan nhà nước đối 
với việc thực hiện quyền lực chính trị, quy định mối quan hệ giữa các cơ quan 
nhà nước với nhau, mức độ tham gia của nhân dân vào việc thành lập các cơ  quan nhà nước đó. 
Hình thức nhà nước do bản chất của nhà nước quy định, bao gồm hai hình 
thức chủ yếu: hình thức chính thể và hình thức cấu trúc, ngoài ra chế độ chính trị 
cũng là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới hình thức nhà nước. a. Hình thức  chính thể 
Hình thức chính thể là cách thức tổ chức và trình tự thành lập các cơ quan 
có quyền lực cao nhất của nhà nước cùng với mối quan hệ giữa các cơ quan đó. 
Hình thức chính thể có hai dạng cơ bản là chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa. 
- Chính thể quân chủ: là hình thức chính thể trong đó quyền lực tối cao 
của nhà nước tập trung toàn bộ hoặc một phần vào tay người đứng đầu nhà nước 
là vua, hoàng đế, quốc vương theo nguyên tắc kế thừa (truyền ngôi). Chính thể 
quân chủ được chia thành quân chủ tuyệt đối, quân chủ hạn chế. 
+ Chính thể quân chủ tuyệt đối: là hình thức chính thể quân chủ, trong đó 
nhà vua có quyền lực vô hạn. Dạng chính thể này tồn tại chủ yếu trong kiểu nhà 
nước Phong kiến, tuy nhiên hiện nay trên thế giới còn tồn tại bốn quốc gia là 
Vaticăng, Ả-rập xê-út, Brunây và Ôman có hình thức chính thể này, trong các nhà    lOMoAR cPSD| 60692662
nước này đã có một số cải cách dân chủ, nhưng mọi mặt của đất nước vẫn phụ 
thuộc vào một người - Quốc vương hoặc Giáo hoàng - nắm trong tay quyền lực 
tối cao của nhà nước. Trong bộ máy nhà nước, bên cạnh nhà vua còn có Hội đồng 
lập pháp, nhưng chỉ là cơ quan tư vấn, không phải là cơ quan quyền lực đối trọng  với nhà vua. 
+ Chính thể quân chủ hạn chế: là chính thể quân chủ mà nhà vua chỉ nắm 
giữ một phần quyền lực nhà nước hoặc không có thực quyền chỉ là hình ảnh đại 
diện cho quốc gia. Trong các nhà nước này, quyền lực nhà vua bị hạn chế bởi Hiến 
pháp (chính thể quân chủ lập hiến). Bên cạnh nguyên thủ quốc gia là nhà vua được 
hình thành bằng con đường truyền ngôi còn có các cơ quan nhà nước quan trọng 
khác là nghị viện (quốc hội), chính phủ, tòa án do nhân dân trực tiếp hoặc gián 
tiếp bầu ra và làm việc theo nhiệm kỳ. Dựa vào đặc điểm nhà vua có nắm giữ một 
phần quyền lực nhà nước hay không mà loại chính thể này lại phân chia thành hai 
biến dạng: quân chủ nhị nguyên và quân chủ đại nghị. Quân chủ nhị nguyên là 
hình thức chính thể trong đó giữa nhà vua và nghị viện có sự phân chia đều quyền 
lực, nghị viện nắm giữ quyền lập pháp, nhà vua nắm giữ quyền hành pháp, quyền 
tư pháp giao cho tòa án thực hiện. Chính thể này tồn tại ở các nước: Monaco, 
Marốc, Butan, Cô-oét, Quata, Tôngga… Quân chủ đại nghị là hình thức chính thể 
trong đó nhà vua không nắm giữ quyền lực nhà nước mà chỉ tượng trưng đại diện 
cho quốc gia, còn nghị viện nắm quyền lập pháp, chính phủ nắm quyền hành pháp, 
tòa án nắm quyền tư pháp. Chính thể quân chủ đại nghị đang tồn tại ở nhiều nước 
tư sản hiện nay: Vương quốc Anh, Nhật Bản, Thụy Điển, Đan Mạch… 
- Chính thể cộng hòa: Là hình thức chính thể trong đó quyền lực tối cao 
của nhà nước thuộc về các cơ quan nhà nước do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp 
bầu ra và làm việc trong một thời hạn nhất định. Chính thể cộng hòa có hai hình 
thức chủ yếu là cộng hòa quý tộc và cộng hòa dân chủ. 
+ Cộng hòa quý tộc: là hình thức chính thể, trong đó cơ quan đại diện do 
giới quý tộc bầu ra. Chính thể này chỉ tồn tại ở nhà nước chủ nô và nhà nước  phong kiến. 
+ Cộng hòa dân chủ: là hình thức chính thể trong đó cơ quan đại diện do 
nhân dân bầu ra. Chính thể này tồn tại ở cả bốn kiểu nhà nước, hiện nay nó là hình 
thức nhà nước phổ biến nhất ở các nước tư sản với các biến dạng: Cộng hòa tổng 
thống (tổng thống có vai trò quan trọng vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người 
đứng đầu chính phủ, do nhân dân bầu ra, tổng thống có toàn quyền trong lĩnh vực 
hành pháp, nghị viện có quyền lập pháp, nghị viện không có quyền lật đổ chính 
phủ); cộng hòa đại nghị (Nghị viên có vai trò quan trọng, nghị viện bầu ra tổng 
thống. Chính phủ do các đảng phái chính trị chiếm đa số phiếu trong nghị viện 
thành lập và chịu trách nhiệm trước nghị viện, nghị viện có thể bỏ phiếu không 
tán thành chính phủ - Cộng hòa liên bang Đức, cộng hòa Áo, cộng hòa Italia); 
cộng hòa lưỡng tính (sự kết hợp cả hai hình thức cộng hòa tổng thống, cộng hòa    lOMoAR cPSD| 60692662
đại nghị: tổng thống là nguyên thủ quốc gia, nắm quyền lập pháp có quyền giải 
tán nghị viện, thành lập chính phủ, chính phủ gồm thủ tướng và các bộ trưởng do 
tổng thống bổ nhiệm - Cộng hòa Pháp, các nước thuộc Liên Xô cũ, Đông Âu,  Châu Phi). 
Chính thể cộng hòa cũng tồn tại ở một số nước: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam, Cu Ba, Trung Quốc, Lào… b. Hình thức cấu trúc nhà nước 
Hình thức cấu trúc nhà nước là sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành 
chính - lãnh thổ và xác lập các mối quan hệ giữa các đơn vị ấy với nhau cũng như 
giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương. 
Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là hình thức nhà nước đơn nhất 
và hình thức nhà nước liên bang.  - 
Nhà nước đơn nhất: là nhà nước có chủ quyền lãnh thổ, có hệ thống 
pháp luật thống nhất, có hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. 
Các đơn vị hành chính - lãnh thổ bao gồm tỉnh (thành phố, huyện (quận), xã 
(phường) hoạt động trên cơ sở các quy định của chính quyền trung ương. Những 
nước có hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn  Quốc, Pháp…  - 
Nhà nước liên bang: là nhà nước được hình thành từ hai hay nhiều 
nhà nước thành viên hợp lại, trong nhà nước này có các cơ quan nhà nước, hệ 
thống pháp luật chung cho toàn liên bang và mỗi nhà nước thành viên còn có hệ 
thống các cơ quan nhà nước, hệ thống pháp luật riêng của mỗi nhà nước thành 
viên. Những nước có hình thức cấu trúc nhà nước liên bang gồm: Hợp chủng quốc 
Hoa Kỳ, Cộng hòa liên bang Đức, Cộng hòa liên bang Nga… c. Chế độ chính trị 
Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp, cách thức, phương tiện mà 
các cơ quan nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. Những phương 
pháp và cách thức này phụ thuộc vào bản chất nhà nước cũng như các yếu tố khác 
của mỗi giai đoạn ở mỗi nhà nước cụ thể. Nhìn chung những phương pháp, biện 
pháp được phân ra hai loại chính: dân chủ và phản dân chủ.  - 
Phương pháp dân chủ: là phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước 
mà người dân được tham gia vào việc giải quyết các công việc của nhà nước.  - 
Phương pháp phản dân chủ: là phương pháp người dân không được 
tham gia giải quyết các công việc của nhà nước, là phương pháp được dùng trong 
nhà nước chủ nô, phong kiến. 
Tóm lại, hình thức nhà nước có thể được phản ánh qua sơ đồ sau:    lOMoAR cPSD| 60692662 Hình thức nhà nước  Hình thức  Hình thức  Chế độ  chính thể  cấu trúc  chính trị  Quân  Cộng  Nhà  Nhà  Dân  Phản  chủ  hòa  nước  nước  chủ  dân  đơn  liên  chủ  nhất  bang   
III. BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ  HỘI   CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 
1. Bản chất của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 
 Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc kiểu nhà nước xã hội chủ 
nghĩa, hình thức chính thể cộng hòa dân chủ thuộc cấu trúc nhà nước đơn nhất. 
Bản chất của nhà nước do cơ sở kinh tế - xã hội và đặc điểm của quyền lực chính 
trị quy định. Ngay từ khi ra đời nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã 
thể hiện bản chất của một nhà nước gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của nhân 
dân, của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Bản chất của Nhà nước được khẳng định trong Hiến pháp nước Cộng hòa 
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tại Khoản 1, Khoản 2, Điều 2: “Nhà nước 
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền 
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí  thức”. 
Như vậy cũng như các nhà nước khác, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam cũng mang bản chất giai cấp và thực hiện chức năng xã hội, do giai cấp 
công nhân thiết lập, thực hiện mục tiêu và thể hiện ý chí, lợi ích của giai cấp công 
nhân. Tuy nhiên, lợi ích của giai cấp công nhân về cơ bản và lâu dài thống nhất 
với lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội, thống nhất với lợi ích của dân tộc 
trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giầu, 
nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Tất cả các hoạt động quản lý nhà 
nước đề nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân về mọi mặt: đảm bảo 
an toàn tính mạng, thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của Nhân dân.    lOMoAR cPSD| 60692662
Như vậy có thể nói, bản chất của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 
là: tính giai cấp sâu sắc kết hợp với tính Nhân dân rộng rãi. 
Bản chất nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân được thể hiện  qua các đặc điểm sau: 
- Nhân dân thiết lập nên nhà nước bằng quyền bầu cử, ứng cử vào QuốcHội 
và Hội đồng nhân dân các cấp, sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội 
và Hội đồng nhân dân các cấp; 
- Nhân dân thực hiện quyền lực thông qua quyền giám sát, kiểm tra,  khiếunại, tố cáo; 
- Nhân dân tham gia thảo luận các vấn đề của nhà nước và xã hội; 
- Nhà nước ta là nhà nước của tất cả các dân tộc trong quốc gia Việt Nam; 
- Nhà nước ta là thiết chế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; 
- Bản chất của nhà nước thể hiện qua các chính sách đối nội và đối ngoạicủa  nhà nước. 
2. Chức năng của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 
Cũng như các nhà nước khác, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam có hai chức năng cơ bản: chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Các 
chức năng của nhà nước gắn liền với hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay là xây 
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội  chủ nghĩa. 
a. Các chức năng đối nội 
Chức năng đối nội được chia làm ba nhóm: nhóm các chức năng tổ chức và 
quản lý kinh tế; nhóm chức năng quản lý xã hội về các mặt kinh tế, văn hóa, giáo 
dục, y tế, việc làm và chăm lo đời sống Nhân dân; nhóm chức năng đảm bảo trật 
tự ổn định an ninh chính trị, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của nhân dân, bảo vệ 
trật tự an toàn xã hội. 
- Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế 
Đây là chức năng cơ bản, quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển 
đất nước. Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, chức năng này có những đặc điểm 
và nội dung chủ yếu khác nhau. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế có những nội dung  chủ yếu sau: 
+ Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, hướng vào chuyển dịch cơ 
cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; 
+ Không ngừng đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền 
kinh tế, đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các thành phần kinh tế; 
+ Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần 
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể phát triển với nhiều 
hình thức hợp tác đa dạng trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Đồng thời tạo ra môi 
trường kinh doanh cho kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân phát triển;    lOMoAR cPSD| 60692662
phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà 
đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam nhằm tranh thủ học hỏi kinh nghiệm tổ 
chức quản lý và khả năng công nghệ của họ để phát triển kinh tế; 
+ Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị 
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, áp dụng khoa học công nghệ trong tất 
cả các khâu của thị trường, đặc biệt là công nghệ thông tin. 
- Chức năng quản lý xã hội về các mặt văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ, 
y tế, việc làm và chăm lo đời sống Nhân dân: 
Cùng với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường, nhà nước phải đảm bảo 
những mục tiêu xã hội cơ bản như sau: 
+ Nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của Nhân dân, xây dựng nền văn 
hóa mới, lối sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Chọn lọc, giữ gìn và nâng 
cao tinh hoa văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đồng thời tiếp thu 
những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Khuyến khích tự do sáng tạo các giá trị văn  hóa, vun đắp tài năng. 
+ Hiện đại hóa và nâng cao chất lượng thông tin đại chúng để thỏa mãn nhu 
cầu thông tin và nâng cao sự hiểu biết của Nhân dân. 
+ Xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động 
lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước coi trọng việc 
phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. 
+ Xây dựng và thực hiện chính sách khoa học công nghệ, xây dựng nền 
khoa học công nghệ tiên tiến, phát triển đồng bộ các ngành khoa học, trên cơ sở 
tận dụng tiến bộ khoa học công nghệ của nhân loại, đi tắt đón đầu. Khuyến khích 
áp dụng các thành tựu khoa học, công nghệ để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội 
phục vụ đời sống vật chất tinh thần của Nhân dân. 
+ Giải quyết việc làm, cải cách chế độ tiền lương, chăm lo cải thiện điều 
kiện làm việc cho người lao động. 
+ Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo; thực hiện các chính sách xã 
hội; chính sách ưu đãi đối với người có công; chính sách cứu trợ xã hội; chính 
sách bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân, chăm sóc, bảo vệ trẻ em. 
- Chức năng đảm bảo sự ổn định an ninh - chính trị, bảo vệ các quyền tự do 
dân chủ của Nhân dân, bảo vệ trật tự an toàn xã hội. 
Nội dung cơ bản của chức năng này cụ thể như sau: 
+ Phòng ngừa, ngăn chặn mọi âm mưu xâm phạm nền an ninh quốc gia, 
kiên quyết trấn áp mọi hành động chống phá của các lực lượng thù địch để bảo vệ 
sự nghiệp cách mạng của Nhân dân. 
+ Đảm bảo các quyền tự do dân chủ của Nhân dân, xác lập cơ chế bảo vệ 
và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo ra các điều kiện về 
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội để công dân thực hiện đầy đủ, có hiệu quả các    lOMoAR cPSD| 60692662
quyền tự do, dân chủ của mình; kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh mọi 
hành vi xâm phạm đến các quyền tự do, dân chủ của nhân dân. 
+ Đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tổ chức, nâng cao chất 
lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật; tiến hành các biện pháp cần 
thiết ngăn ngừa tội phạm, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật. b. 
Các chức năng đối ngoại 
Chức năng đối ngoại chia làm hai nhóm: nhóm chức năng bảo vệ tổ quốc 
xã hội chủ nghĩa; nhóm chức năng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ 
chức quốc tế và khu vực trên thế giới. 
- Chức năng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa 
Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính quy luật, vì trong suốt 
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội sẽ luôn luôn tồn tại những 
lực lượng chống đối. Do vậy, các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều phải chú trọng 
thực hiện chức năng này. Trong thời kỳ hiện nay, nội dung cụ thể của chức năng  này là: 
+ Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ từng bước 
hiện đại; xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu; xây dựng 
công nghiệp quốc phòng, tăng cường khả năng bảo vệ tổ quốc; tăng cường sự lãnh 
đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang. 
+ Xây dựng, củng cố và tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp 
sức mạnh của toàn dân với sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân nhằm bảo 
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã  hội xã hội chủ nghĩa. 
+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, thể chế hóa các chủ 
trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh 
Nhân dân. Tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng an ninh. 
- Chức năng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế và  khu vực trên thế giới 
+ Thiết lập, củng cố và phát triển các mối quan hệ hữu nghị hợp tác với tất 
cả các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên nguyên tắc cùng tồn tại 
hòa bình, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. 
+ Mở rộng quan hệ và hợp tác với các tổ chức quốc tế; tăng cường hoạt 
động ở Liên hợp quốc; tích cực tham gia các tổ chức tài chính, thương mại và các 
diễn đàn quốc tế; mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân với các tổ chức phi chính  phủ. 
+ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối 
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định 
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia. 
+ Ủng hộ tích cực, tham gia các phong trào đấu tranh của nhân dân thể giới vì 
hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.    lOMoAR cPSD| 60692662
IV. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT  NAM  1. Khái niệm 
Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống cơ quan 
nhà nước từ trung ương đến địa phương, được tổ chức và hoạt động theo những 
nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện những 
chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Mỗi cơ quan nhà nước có những nhiệm 
vụ, chức năng riêng do pháp luật quy định.  
2. Phân loại các cơ quan trong bộ máy nhà nước 
a. Căn cứ vào cấu trúc hành chính lãnh thổ và phạm vi thẩm quyền 
Bộ máy nhà nước chia thành hai loại cơ quan: 
- Các cơ quan nhà nước ở trung ương: Quốc Hội, Chính Phủ… 
- Các cơ quan nhà nước ở địa phương: Hội đồng nhân dân, Ủy ban  nhândân… 
b. Căn cứ vào chức năng, thẩm quyền của các cơ quan nhà nướcBộ 
máy nhà nước chia thành các loại cơ quan sau: 
- Các cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan đại biểu, đại diện, dân 
cử) baogồm Quốc Hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Đây là những cơ quan 
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do cử tri 
cả nước hoặc từng địa phương trực tiếp bầu ra thông qua tuyển cử phổ 
thông đầu phiếu. Các cơ quan quyền lực có quyền bầu ra, kiểm tra giám sát 
hoạt động của các cơ quan nhà nước khác. 
- Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, đại diện chính thức cho 
nhànước trong quan hệ đối nội, đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu 
ra trong số đại biểu Quốc hội và có thể bị Quốc hội bãi miễn. Chủ tịch nước 
được Hiến pháp quy định nhiều quyền trong cả 3 lĩnh vực lập pháp, hành 
pháp, tư pháp, song đó chủ yếu là những quyền có tính chất đại diện cho  nhà nước. 
- Các cơ quan quản lý nhà nước (cơ quan chấp hành, cơ quan hành 
chínhnhà nước), bao gồm Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp. Đây là 
những cơ quan có chức năng trực tiếp quản lý các lĩnh vực hoạt động cơ 
bản của đời sống xã hội, do các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp bầu 
ra, chấp hành và tổ chức thực hiện các quy định của cơ quan quyền lực nhà 
nước cùng cấp; chịu trách nhiệm, báo cáo công tác, chịu sự giám sát của cơ 
quan quyền lực nhà nước cùng cấp. 
- Các cơ quan Tòa án: Bao gồm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân 
dânđịa phương và Tòa án quân sự các cấp. Là các cơ quan có chức năng 
xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính… và giải quyết các tranh chấp 
khác theo quy định của pháp luật. Hệ thống cơ quan này được hình thành 
do Hiến pháp và pháp luật quy định.    lOMoAR cPSD| 60692662
- Các cơ quan kiểm sát, bao gồm Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, 
Việnkiểm sát Nhân dân các địa phương và Viện kiểm sát quân sự các cấp, 
là những cơ quan chức năng thực hành quyền công tố nhà nước và kiểm sát 
các hoạt động tư pháp. Hệ thống cơ quan này được hoạt động theo nguyên 
tắc phụ thuộc ngành dọc một chiều, chỉ phụ thuộc vào cơ quan cấp trên trực  tiếp. 
3. Các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước 
Các nguyên tắc cơ bản là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo, là cơ 
sở cho toàn bộ quá trình tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà  nước. 
Các nguyên tắc này đều có cơ sở pháp lý là nguyên tắc Hiến định (được ghi 
nhận cụ thể trong Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam). a. 
Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng (Điều 4 - Hiến pháp 2013). Nội dung  của nguyên tắc:  - 
Đảng đề ra đường lối, chính sách có tính chất định hướng cho sự 
pháttriển của nhà nước trong từng giai đoạn nên cũng là sự định hướng cho việc 
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong mỗi giai đoạn đó, để nhà nước 
cụ thể hóa thành pháp luật và tổ chức thực hiện.  - 
Đảng hướng dẫn và kiểm tra các hoạt động của nhà nước nhằm kịp 
thờiphát hiện và uốn nắn những sai sót, lệch lạc trong hoạt động của nhà nước để 
vừa đảm bảo cho Nhà nước hoạt động theo đúng hướng Đảng vạch ra, vừa có thể 
phát hiện ra những thiếu sót, bất hợp lý trong đường lối, chính sách mà sửa đổi, 
bổ sung cho phù hợp với thực tiễn của đất nước.  - 
Đảng lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để giới thiệu cho Nhà 
nước,những cán bộ đó có thể được đảm nhiệm những nhiệm vụ nhất định trong 
bộ máy nhà nước thông qua bầu cử, ứng cử hoặc bổ nhiệm.  - 
Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với nhà nước bằng phương pháp 
tuyêntruyền, vận động, thuyết phục quần chúng, bằng chính vai trò tiên phong, 
gương mẫu của các đảng viên trong việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp  luật.  b. 
Nguyên tắc đảm bảo sự tham gia đông đảo của Nhân dân lao động vào 
tổchức và hoạt động của bộ máy nhà nước (Được thể hiện trong Điều 3 - Hiến  pháp 2013). 
Nội dung của nguyên tắc: 
- Nhân dân thành lập các cơ quan đại diện từ trung ương tới địa 
phươngthông qua việc thực hiện quyền bầu cử và ứng cử, đồng thời, thông 
qua các cơ quan đại diện để bầu ra các cơ quan nhà nước khác. 
- Nhân dân trực tiếp thực hiện các hoạt động của nhà nước khi được 
bầucử, bổ nhiệm hoặc tuyển dụng vào các cơ quan nhà nước hoặc thông 
qua các đại biểu của họ để thực hiện các hoạt động của nhà nước.    lOMoAR cPSD| 60692662
- Nhân dân trực tiếp tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của 
nhànước khi được nhà nước trưng cầu ý dân hoặc có thể thông qua các đại 
biểu trong các cơ quan dân cử để bàn bạc và quyết định những vấn đề quan 
trọng của đất nước hoặc từng địa phương. 
- Nhân dân trực tiếp đóng góp ý kiến vào các văn kiện quan trọng 
của nhànước: chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, dự án hiến  pháp, dự án luật… 
- Nhân dân có thể trực tiếp hoặc gián tiếp giám sát các hoạt động của 
cánbộ, công chức, viên chức và các cơ quan nhà nước. 
- Nhân dân có thể tham gia vào tổ chức và hoạt động của bộ máy 
nhànước thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội mà họ là 
hội viên, thông qua các tổ chức tự quản ở địa phương nơi họ cư trú.  c. 
Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước nhưng 
có sựphân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các 
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Được thể hiện ở khoản 2, Điều 2 - Hiến  pháp 2013). 
Nội dung của nguyên tắc: 
- Quyền lực nhà nước là thống nhất, không có sự phân chia. Việc 
giao chocác cơ quan riêng biệt thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư 
pháp là sự phân công lao động quyền lực, phân công thực hiện chức năng  của nhà nước. 
- Giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước không có sự đối trọng 
vớinhau, nhưng phải có sự giám sát lẫn nhau, đồng thời phải có sự phối hợp 
chặt chẽ trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Quốc hội là cơ quan duy 
nhất có quyền lập pháp đồng thời cũng có thẩm quyền trong lĩnh vực hành 
pháp và tư pháp; Chính phủ giữ quyền hành pháp nhưng cũng có vai trò 
quan trọng trong lĩnh vực lập pháp và tư pháp. Tòa án nhân dân, Viện kiểm 
sát nhân dân giữ quyền tư pháp đồng thời cũng có thẩm quyền nhất định 
trong lĩnh vực lập pháp và hành pháp. Hoạt động của các cơ quan hành 
pháp, tư pháp đều phải báo cáo trước Quốc hội và chịu sự giám sát của  Quốc hội.  d. 
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy 
nhànước (Điều 6,7 - Hiến pháp 2013). 
- Về mặt tổ chức, nguyên tắc này thể hiện ở những điểm sau: 
+ Nhân dân trực tiếp bầu ra các cơ quan đại diện hay cơ quan quyền lực nhà 
nước rồi ủy quyền cho các cơ quan này bầu ra hoặc phê chuẩn các chức vụ lãnh 
đạo của cơ quan đại diện và các cơ quan nhà nước khác. 
+ Các cơ quan nhà nước khác phải chịu trách nhiệm, báo cáo công tác, chịu 
sự kiểm tra, giám sát trước cơ quan đại diện.    lOMoAR cPSD| 60692662
+ Các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước phải chịu trách nhiệm trước 
nhân dân, báo cáo hoạt động và chịu sự giám sát của nhân dân.  - Về mặt hoạt động: 
+ Các cơ quan nhà nước trung ương có quyền quyết định các vấn đề cơ 
bản, quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… trên phạm vi toàn quốc. 
Các cơ quan nhà nước ở địa phương quyết định những vấn đề thuộc phạm vi địa phương  mình. 
+ Quan hệ giữa các cơ quan nhà nước phải dựa trên nguyên tắc cấp dưới 
phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương, cơ quan quản lý phục tùng 
cơ quan quyền lực cùng cấp. 
+ Khi quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền của mình, các cơ quan trung 
ương và cấp trên phải lắng nghe, cân nhắc ý kiến và điều kiện của cấp dưới và địa  phương. 
+ Các cơ quan nhà nước ở địa phương trong phạm vi thẩm quyền luật định, 
có quyền tự quyết định và chịu trách nhiệm về những vấn đề cụ thể ở địa phương. 
+ Các cơ quan nhà nước ở trung ương và cấp trên có quyền kiểm tra, giám 
sát hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương, cấp dưới; có thể đình chỉ 
thi hành, bãi bỏ hoặc hủy bỏ những quyết định trái pháp luật của các cơ quan địa 
phương, cấp dưới; tạo điều kiện cho các cơ quan địa phương, cấp dưới chủ động, 
sáng tạo trong việc giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền địa phương. 
e. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (Được thể hiện trong Điều 8 - Hiến pháp  2013).  Nội dung nguyên tắc:  - 
Trong tổ chức bộ máy nhà nước, các cơ quan nhà nước phải theo 
đúngtrình tự thành lập, cơ cấu tổ chức mà pháp luật đã quy định. Việc chia, tách, 
sát nhập cơ quan nhà nước phải theo đúng quy định của pháp luật.  - 
Trong hoạt động cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước phải thực 
hiệnđúng chức năng, thẩm quyền do pháp luật quy định, phải hoạt động trong  khuôn khổ pháp luật.  - 
Mọi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước 
phảiđược phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp  luật.  - 
Quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau và quan hệ trong nội 
bộcủa một cơ quan phải được diễn ra theo đúng trật tự mà pháp luật đã quy định.  - 
Trong quá trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phải đảm 
bảosự phù hợp, không trái Hiến pháp, quy định của văn bản cấp dưới phải phù 
hợp quy định trong văn bản của cấp trên, văn bản của địa phương phải phù hợp 
với văn bản của trung ương; văn bản của cơ quan quản lý nhà nước phải phù hợp 
với văn bản của cơ quan quyền lực nhà nước.    lOMoAR cPSD| 60692662
V. NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM 
1. Khái niệm, đặc điểm hệ thống chính trị  a. Khái niệm 
 Hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổng thể các thiết 
chế chính trị tồn tại và hoạt động trong mối liên hệ hữu cơ với nhau nhằm tạo ra 
một cơ chế thực hiện quyền lực của Nhân dân dưới sự lãnh đạo của 
Đảng Cộng sản Việt Nam 
Hệ thống chính trị nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam; nhà nước 
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -  xã hội. 
b. Đặc điểm 
- Có tính dân tộc: hệ thống chính trị là sự thể hiện khối đại đoàn kết dântộc 
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tạo nên cơ cấu chính trị - xã hội, tăng cường 
sức mạnh của tất cả các dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. 
- Có tính nhân dân sâu sắc: tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị đềudo 
Nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp tổ chức ra để đại diện cho ý chí, nguyện vọng 
và thực hiện quyền lực của Nhân dân; đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên  tắc do dân, vì dân. 
- Có tính nhất nguyên chính trị: trong hệ thống chính trị không có sự tồntại 
của các đảng phái chính trị đối lập, ngay từ khi mới ra đời đến này đều chịu sự 
lãnh đạo của một đảng duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam. 
- Cả hệ thống chính trị và từng bộ phận trong hệ thống không ngừng 
hoànthiện và phát triển vì các mục tiêu dân chủ, văn minh, vì hạnh phúc của con 
người, nhằm phục vụ con người. 
2. Vị trí, vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị 
a. Vị trí 
Nhà nước ở vị trí trung tâm của hệ thống chính trị, là nơi hội tụ của đời 
sống chính trị xã hội. Nhà nước có quan hệ với tất cả các tổ chức khác trong hệ 
thống chính trị, thu hút các tổ chức đó về phía mình. Các tổ chức khác trong hệ 
thống chính trị là lực lượng hỗ trợ nhà nước. b. Vai trò  
Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng mang tính quyết định trong hệ 
thống chính trị. Nhà nước quyết định sự ra đời, tồn tại, phát triển của hệ thống 
chính trị; quyết định bản chất, đặc trưng, vai trò của hệ thống chính trị. Nhà nước 
là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện quyền lực của Nhân dân, Nhà nước chi phối 
tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị, nó có thể cho phép thành lập hoặc làm 
mất đi một thành tố nào đó trong hệ thống chính trị, nó có thể điều hòa được các 
quan hệ giữa các lực lượng chính trị trong xã hội, nó là biểu hiện tập trung nhất 
của quyền lực Nhân dân và là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện quyền lực nhân  dân.    lOMoAR cPSD| 60692662
Sở dĩ nhà nước có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính  trị, vì:  - 
Nhà nước là tổ chức có cơ sở xã hội và phạm vi tác động rộng lớn nhất;  - 
Nhà nước có hệ thống các cơ quan đại diện, cơ quan quản lý và 
cưỡngchế từ trung ương đến địa phương để đảm bảo cho việc thực hiện quyền lực  nhà nước;  - 
Nhà nước có hệ thống pháp luật có giá trị bắt buộc phải thực hiện đốivới 
mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội;  - 
Nhà nước được đại diện chính thức cho toàn xã hội thực hiện chủ 
quyềnquốc gia có quyền huy động mọi tiềm năng trong và ngoài nước để đảm bảo 
đáp ứng tốt nhất cho việc thực hiện quyền lực Nhân dân;  - 
Nhà nước có sức mạnh vật chất to lớn, có thể trang trải cho các hoạtđộng 
của nhà nước và toàn xã hội. 
3. Quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị 
a. Quan hệ giữa nhà nước với Đảng Cộng sản 
- Tác động của nhà nước đối với Đảng 
+ Nhà nước ghi nhận sự lãnh đạo của Đảng trong pháp luật, tạo ra cơ sở 
pháp lý vững chắc cho sự tồn tại, hoạt động và lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. 
+ Nhà nước thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật và 
đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, nhờ đó, Nhà nước đảm bảo 
cho đường lối chính sách được triển khai và thực hiện đồng bộ trên toàn xã hội, 
giúp cho Đảng thực hiện được quyền lãnh đạo của nó đối với xã hội. 
+ Thông qua hoạt động thực tiễn, Nhà nước kiểm nghiệm tính đúng đắn 
trong đường lối, chính sách của Đảng từ đó có cơ sở đóng góp cho Đảng hoạch 
định đường lối chính sách phù hợp hơn với hoàn cảnh của đất nước. 
+ Nhà nước bảo vệ đường lối, chính sách cũng như các tổ chức và hoạt 
động của Đảng, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và các điều kiện khác cho Đảng  hoạt động. 
+ Các tổ chức đảng, các Đảng viên là cán bộ, công chức, viên chức trong các 
cơ quan chịu sự quản lý của nhà nước theo pháp luật. 
- Tác động của Đảng đối với Nhà nước 
+ Đảng đề ra đường lối định hướng cho sự phát triển của Nhà nước 
+ Đảng hướng dẫn kiểm tra, giám sát các hoạt động của nhà nước nhằm kịp 
thời phát hiện và uốn nắn những sai sót, lệch lạc trong hoạt động của nhà nước 
+ Đảng lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để giới thiệu cho Nhà nước… 
b. Quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội 
- Tác động của Nhà nước đối với các tổ chức chính trị - xã hội 
+ Nhà nước cho phép các tổ chức chính trị được thành lập, tồn tại và hoạt 
động một cách hợp pháp, tạo ra cơ sở pháp lý cho sự tồn tại và hoạt động của các 
tổ chức chính trị - xã hội.