CHƯƠNG 1 CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
PHÁP LUẬT
I. Đại cương về Nhà nước
1. Nguồn gốc và bản chất Nhà nước
1.1. Tổ chức xã hội và quyền lực trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ
Từ thời kỳ cổ đại trung đại đã nhiều tưởng tiếp cận đưa ra những
giải khác nhau về nguồn gốc nhà nước. Các nhà tưởng theo thuyết thần
học cho rằng: Thượng đế là người sắp đặt trật tự xã hội, nhà nước là do thượng
đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung. Do vậy nhà nước lực lượng siêu nhân,
quyền lực nhà nước vĩnh cửu sự phục tùng quyền lực là cần thiết tất
yếu. Trong khi đó, những nhà tư tưởng theo thuyết gia trưởng lại cho rằng nhà
nước là kết quả phát triển của gia đình, là nh thức tổ chức tự nhiên của cuộc
sống con người.
Đến khoảng thế kỷ 16 đến 18 đã xuất hiện hàng loạt quan niệm mới về
nguồn gốc nhà nước. Nhằm chống lại schuyên quyền, độc đoán của Nhà nước
phong kiến, đòi hỏi sự bình đẳng cho giai cấp sản trong việc tham gia nắm
giữ quyền lực nhà nước, đa số các học giả tư sản đều tán thành quan điểm cho
rằng sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của một khế ước (hợp đồng) được ký
kết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước.
vậy, Nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên trong hội và mỗi thành
viên đều có quyền yêu cầu nhà nước phục vụ họ, bảo vệ lợi ích của họ.
Vì thế, thuyết khế ước xã hội đã có vai trò quan trọng là tiền đề cho thuyết
dân chủ cách mạng và cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản để lật đổ ách thống
trị phong kiến.
Tuy nhiên học thuyết này giải thích nguồn gốc nhà nước trên sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy tâm, coi nhà nước lập ra do ý muốn, nguyện vọng
chủ quan của các bên tham gia khế ước, không giải thích được cội nguồn vật
chất và bản chất giai cấp của nhà nước.
Một số học thuyết khác tuy mức độ phổ biến có hạn chế hơn so với thuyết
khế ước xã hội, nhưng đã xuất hiện và nhiều tập đoàn thống trị đã sử dụng làm
sở lý luận để giải thích nguồn gốc bản chất của nhà nước như: Thuyết bạo
lực cho rằng, nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của thị tộc
này đối với thị tộc khác kết quả thị tộc chiến thắng “nghĩ ra” một hệ thống
cơ quan đặc biệt (nhà nước) để nô dịch kẻ chiến bại.
Các học giả của thuyết tâm lý lại cho rằng, nhà nước xuất hiện do nhu cầu
tâm lý của con người nguyên thuỷ luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo
sĩ…Vì vậy, nhà nước tổ chức của những siêu nhân sứ mạng lãnh đạo
hội. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, những học thuyết quan điểm trên
chưa giải thích được đúng nguồn gốc của nhà nước.
Với quan điểm duy vật biện chứng duy vật lịch sử Chủ nghĩa MácLênin
đã chứng minh một cách khoa học rằng, nhà nước không phải là những hiện
tượng hội vĩnh cửu bất biến. Nhà nước chỉ xuất hiện khi hội loài người
đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Chúng luôn vận động, phát triển
sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại phát triển của
chúng không còn nữa.
Chế độ cộng sản nguyên thuỷ hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên trong
lịch sử nhân loại. Đó một hội không giai cấp, chưa nhà nước pháp
luật. Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thuỷ là chế độ sở hữu chung về
liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất thấp kém, công cụ lao động thô sơ, con người chưa có nhận thức đúng đắn
về thiên nhiên về bản thân mình, họ luôn bất lực trước những tai họa của
thiên nhiên, năng suất lao động thấp.
Trong điều kiện đó, con người không thể sống riêng biệt mà phải dựa vào
nhau, cùng chung sống, cùng lao động và hưởng thụ những thành quả lao động
chung. Mọi người đều bình đẳng trong lao động hưởng thụ, không ai tài
sản riêng, không có người giàu, kẻ nghèo, không có tình trạng người này chiếm
đoạt tài sản của người kia. Lúc này hội chưa phân thành giai cấp không
có đấu tranh giai cấp.
Do những điều kiện kinh tế đó đã quyết định đời sống xã hội của chế độ
cộng sản nguyên thủy. Tế bào sở của hội không phải gia đình thị
tộc. Sự xuất hiện của tổ chức thị tộc đã đặt nền móng cho việc hình thành hình
thái kinh tế - xã hội đầu tiên trong lịch sử - hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản
nguyên thuỷ.sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thuỷ tạo ra hình thức tổ
chức xã hội là thị tộc (tổ chức cơ cấu đầu tiên của loài người). Thị tộc là một tổ
chức lao động, sản xuất, một bmáy kinh tế hội. Sự phát triển của hội
cộng với các yếu tố tác động khác đòi hỏi thị tộc phải mở rộng quan hệ với các
thị tộc khác, dẫn đến sự xuất hiện các bào tộc và bộ lạc bao gồm nhiều bào tộc
hợp thành.
Để tổ chức và quản lý thị tộc, xã hội đã hình thành hình thức Hội đồng thị
tộc bao gồm tất cả những người lớn tuổi trong thị tộc với quyền hạn rất lớn. Tổ
chức quản lý bào tộc là hội đồng bào tộc bao gồm các tù trưởng, thủ lĩnh quân
sự của các thị tộc. Hội đồng bộ lạc là hình thức tổ chức quản lý của bộ lạc với
nguyên tắc tổ chức quyền lực của thị tộc nhưng có sự tập trung cao hơn.
Như vậy, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã xuất hiện và tồn tại quyền
lực nhưng đó là quyền lực hội xuất phát từ xã hội phục vcho lợi ích của
toàn xã hội. Bởi những người đứng đầu thị tộc, bào tộc, bộ lạc hoàn toàn không
đặc quyền, đặc lợi nào, mà họ cùng chung sống, cùng lao động và hưởng thụ
như mọi thành viên khác.
1.2. Sự tan rã của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện của nhà nước
Lịch sử đã trải qua 3 lần phân công lao động xã hội lớn (một là, chăn nuôi
tách khỏi trồng trọt; hai là, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp; ba là, buôn
bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện), mỗi lần lại có những bước tiến mới
làm sâu sắc thêm qtrình tan của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, chế độ
hữu xuất hiện đã phân chia xã hội thành kẻ giàu, người nghèo, hình thành hai
giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ. Một xã hội mới với sự phân chia giai cấp và
đấu tranh giai cấp, xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức quyền lực mới đủ sức
để dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp đó. Tổ chức đó nhà nước
nhà nước đã xuất hiện.
Như vậy, nhà nước đã xuất hiện mt cách khách quan, nó là sản phẩm của
một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước“không phải là
một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội” mà là “một lực lượng nảy sinh
từ xã hội”, một lực lượng “tựa hồ đứng trên xã hội”, có nhiệm vụ làm dịu bớt
sự xung đột và giữ cho xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”.
1.3. Bản chất nhà nước
Xuất phát từ việc nghiên cứu nguồn gốc của nhà nước, chủ nghĩa Mác
Lênin đi đến kết luận “Nhà nước sản phẩm biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hoà được”. Nghĩa là, nhà nước chỉ sinh ra và tồn
tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc.
Bản chất đó thể hiện trước hết chỗ nhà nước một bộ máy cưỡng chế đặc
biệt nằm trong tay của giai cấp cầm quyền, công cụ sắc bén nhất để thực hiện
sự thống trị giai cấp, thiết lập và duy trì trật tự xã hội.
Trong hội giai cấp, sthống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác
đều thể hiện dưới ba loại quyền lực là quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế và
quyền lực tư tưởng. Trong đó, quyền lực kinh tế giữ vai trò quyết định, sở
để đảm bảo cho sự thống trị giai cấp. Nhưng bản thân quyền lực kinh tế không
thể duy trì được các quan hệ bóc lột. vậy, cần phải nhà nước, một bộ máy
cưỡng chế đặc biệt để củng cố quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế và đ
đàn áp sphản kháng của các giai cấp bị bóc lột. Nhờ nhà nước, giai cấp
thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị. Nói cách khác, giai
cấp thống trị đó trở thành chủ thể của quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị “là bạo lực tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai
cấp khác”. Nhà nước là một bộ máy bạo lực do giai cấp thống trị tổ chức ra để
trấn áp các giai cấp đối địch. Do đó, nhà nước chính là một tổ chức đặc biệt của
quyền lực chính trị. Giai cấp thống trị sử dụng nhà nước để tổ chức thực hiện
quyền lực chính trị của giai cấp mình. Thông qua nhà nước ý chí của giai cấp
thống trị được thể hiện một cách tập trung thống nhất và hợp pháp hóa thành ý
chí nhà nước. Ý chí nhà nước có sức mạnh bắt buộc các giai cấp khác phải tuân
theo một “trật tự” do giai cấp thống trị đặt ra, phải phục vụ cho lợi ích của giai
cấp thống trị.
Trong các xã hội bóc lột, nền chuyên chính của các giai cấp bóc lột đều có
đặc điểm chung là duy trì sự thống trị về chính trị, kinh tế và tư tưởng của thiểu
số người bóc lột đối với đông đảo nhân dân lao động. Các nhà nước bóc lột đều
chung bản chất bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc
lột: Nhà nước chủ công cụ chuyên chính của giai cấp chủ nô, nhà nước
phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp địa chủ phong kiến, nhà nước
tư sản là công cụ chuyên chính của giai cấp tư sản. Khác với điều đó, nhà nước
xã hội chủ nghĩa với bản chất chuyên chính vô sản, là bmáy để củng cố địa vị
thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân nhân dân lao động chiếm
đa số trong hội, để trấn áp những lực lượng thống trị đã bị lật đổ những
phần tử chống đối cách mạng.
Tuy nhiên để thực hiện sự chuyên chính giai cấp không thể chỉ đơn thuần
dựa vào bạo lực cưỡng chế còn cần đến sự tác động về tưởng nữa. Giai
cấp thống trị đã thông qua nnước để xây dựng hệ tưởng của giai cấp mình
thành htưởng thống trị trong hội, bắt các giai cấp khác phải lệ thuộc
mình về mặt tư tưởng.
Như vậy, nhà nước là một tổ chức đặc biệt để bảo đảm sự thống trị về kinh
tế, để thực hiện quyền lực về chính trị và thực hiện sự tác động về tư tưởng đối
với quần chúng. Ngoài việc thực hiện các chức năng trên, nhà nước còn phải
giải quyết tất cả các vấn đề khác nảy sinh trong xã hội, nghĩa là phải thực hiện
chức năng hội. Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó nhà nước còn thể hiện nét tính hội. trong
hội nào, nhà nước cũng một mặt bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, nhưng
đồng thời cũng phải chú ý đến lợi ích chung của toàn xã hội.
Từ những kết luận trên thể đi đến định nghĩa sau: Nhà nước một tổ
chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng
chế thực hiện các chức năng quản đặc biệt nhằm duy trì trật tự hội,
thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.
2. Đặc trưng, kiểu và hình thức nhà nước
2.1. Đặc trưng
So với các tổ chức trong xã hội có giai cấp, nhà nước có một số đặc trưng
sau đây:
- Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt không còn hoà nhập với
dân cư nữa; chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị về kinh tế và chính
trị. Để thực hiện quyền lực này để quản hội, nhà nước một lớp người
đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý, họ tham gia vào các quan nhà ớc
hình thành nên một bộ máy cưỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp thống
trị, bắt các giai cấp khác phải phục tùng theo ý chí của giai cấp thống trị.
- Nhà nước phân chia dân theo lãnh thổ thành các đơn vị hành chính,
không phụ thuộc vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính…
Việc phân chia này quyết định phạm vi tác động của nhà nước trên quy rộng
lớn nhất và dẫn đến việc hình thành các quan trung ương và địa phương của
bộ máy nhà nước.
- Nhà nước chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia thể hiện quyền
độc lập tự quyết của nhà nước về những chính sách đối nội và đối ngoại không
phụ thuộc các yếu tố bên ngoài. Chủ quyền quốc gia thuộc tính không thể
chia cắt của nhà nước.
- Nhà nước ban hành pháp luật thực hiện sự quản bắt buộc đối với
mọi công dân. Với cách người đại diện chính thức của toàn hội, nhà
nước là tổ chức duy nhất quyền ban hành pháp luật. Pháp luật do nhà nước
ban hành nên có tính bắt buộc chung, mọi người đều phải tôn trọng pháp luật.
- Nhà nước quy định thực hiện việc thu các loại thuế. Việc thu thuế
nhằm “nuôi dưỡng” bộ máy nhà nước bao gồm một lớp người đặc biệt, tách ra
khỏi xã hội để thực hiện chức năng quản lý.
Những đặc điểm nói trên nói lên sự khác nhau giữa nhà nước với các tổ
chức chính trị hội khác, đồng thời cũng phản ánh vị tvà vai trò của nhà
nước trong xã hội có giai cấp.
2.2. Kiểu nhà nước
Bản chất của nhà nước trong những thời kỳ lịch sử khác nhau rất khác
nhau. Để phân biệt chúng, khoa học lý luận chung về nhà nước và pháp luật đã
đưa ra khái niệm kiểu nhà nước: Kiểu nhà nước là tổng thể những đặc điểm cơ
bản, đặc tcủa nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp những điều kiện tồn
tại và phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Trong lịch sử hội giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế hội:
Chiếm hữu lệ, phong kiến, bản chủ nghĩa hội chủ nghĩa. Phù hợp
với bốn hình thái kinh tế xã hội đó đã có bốn kiểu nhà nước:
- Kiểu nhà nước chủ nô.
- Kiểu nhà nước phong kiến.
- Kiểu nhà nước tư sản.
- Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, sản mặc mỗi kiểu những
đặc điểm riêng nhưng chúng đều những kiểu nhà nước bóc lột được xây dựng
trên sở của chế độ hữu về tư liệu sản xuất. Các nhà nước đó đều công
cụ để bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, duy trì sự thống trị của giai cấp
bóc lột đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới có bản chất khác với các
kiểu nhà nước bóc lột khác. Nhiệm vụ của nhà nước hội chủ nghĩa thực
hiện dân chxã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện
công bằng xã hội.
Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng một kiểu nhà nước mới tiến bộ hơn là
một quy luật tất yếu. Cách mạng là con đường dẫn đến sự thay thế đó. Một kiểu
nhà nước mới xuất hiện trong quá trình cách mạng khi giai cấp cầm quyền
bị lật đổ giai cấp thống trị mới giành được chính quyền. Các cuộc cách mạng
khác nhau diễn ra trong lịch sử đều tuân theo quy luật đó: Nhà nước phong kiến
thay thế nhà nước chủ , nhà nước sản thay thế nhà nước phong kiến, nhà
nước xã hội chủ nghĩa thay thế nhà nước tư sản.
Nhà nước XHCN một kiểu nhà nước tiến bộ nhất nhưng cũng kiểu
nhà nước cuối cùng trong lịch sử. Sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình,
nhà nước XHCN sẽ tiêu vong sau đó sẽ không còn một kiểu nhà nước nào
khác nữa.
2.3. Hình thức nhà nước.
Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền lực nhà nước và những phương
pháp để thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước một khái niệm
chung được hình thành từ ba yếu tố cụ thể: Hình thức chính thể, hình thức cấu
trúc nhà nước và chế độ chính trị.
- Hình thức chính thể: Là cách tổ chức và trình tự để lập ra các cơ quan tối
cao của nhà nước xác lập những mối quan hệ bản của các quan đó.
Hình thức chính thể hai dạng bản chính thể quân chủchính thể cộng
hoà.
+ Chính thể quân chủhình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước
tập trung toàn b (hay một phần) trong tay người đứng đầu nhà nước theo
nguyên tắc thừa kế, truyền ngôi. Vua, Hoàng đế là nguyên thủ quốc gia của các
nhà nước theo chính thể này.
Chính thể quân chủ được chia thành chính thể quân chủ tuyệt đối và chính
thể quân chủ hạn chế. Quân chủ tuyệt đối hình thức chính thể quân chủ, trong
đó nguyên thủ quốc gia (Vua, Hoàng đế) có quyền lực vô hạn.
Trong chính thể quân chủ hạn chế thì quyền lực tối cao ca nhà nước được
trao một phần cho người đứng đầu nhà nước, còn một phần được trao cho một
quan khác (như Nghị viện trong nhà nước tư sản hay Hội nghị đại diện đẳng
cấp trong nhà nước phong kiến). Chính thể quân chủ hạn chế trong các nhà nước
tư sản gọi là quân chủ lập hiến (quân chủ đại nghị). Trong các nhà nước tư sản
theo chính thể quân chủ đại nghị, quyền lực của nguyên thủ quốc gia (Vua,
Hoàng đế) bị hạn chế rất nhiều. Nguyên thủ quốc gia chỉ mang tính chất tượng
trưng, đại diện cho truyền thống, sự thống nhất của quốc gia, không nhiều
quyền hành. Chính thể quân chủ lập hiến theo hình đại nghị đang tồn tại
các nước như Nhật Bản, Thụy Điển, Vương quốc Anh…
+ Chính thể cộng hoà hình thức chính thể, trong đó quyền lực tối cao
của nhà nước thuộc về một cơ quan được bầu ra trong một thời gian nhất định.
Chính thể cng hoà có hai hình thức chính là cộng hoà quý tộc cộng hoà dân
chủ.
Cộng hòa quý tộc hình thức chính thể, trong đó quan đại diện do
giới quý tộc bầu ra. Chính thể này tồn tại ở kiểu nhà nước chủ nô và nhà nước
phong kiến.
Cộng hoà dân chủ nh thức chính thể, trong đó người đại diện do
nhân dân bầu ra. Chính thể này tồn tại tất cả bốn kiểu nhà nước đã trong
lịch sử. Tuy nhiên, tính chất mức độ dân chủ khác nhau. Chính thể cộng
hoà dân chủ là hình thức tổ chức chính quyền nhà nước phổ biến nhất hiện nay
các nhà nước sản. Chính thể cộng hòa tư sản hai biến dạng: Cộng hoà
đại nghị và Cộng hoà tổng thống
Trong chính thể cộng hoà đại nghị, thì nghị viện là trung tâm. Vai trò thực
thi quyền lực của Nghị viện trong nhà nước rất lớn. Nguyên thủ quốc gia
(Tổng thống) do nghị viện bầu ra, chịu trách nhiệm trước nghị viện. Chính phủ
do các đảng chính trị chiếm đa số ghế trong nghị viện thành lập chịu trách
nhiệm trước nghị viện, nghị viện thể bỏ phiếu không tín nhiệm Chính phủ.
Do đó, nghị viện khả năng thực tế kiểm tra các hoạt động của Chính phủ còn
Thủ tướng hầu như không trực tiếp tham gia giải quyết các công việc của đất
nước. Hiện nay những nước có chính thể cộng hoà đại nghị như:
CHLB Đức, CH Áo, CH Italia…
Trong chính thể Cộng hoà tổng thống, nguyên thủ quốc gia (Tổng thống)
vị trí rất quan trọng. Tổng thống do nhân dân bầu ra. Tổng thống vừa
nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu Chính phủ. Chính phủ không phải
do nghị viện thành lập. Các thành viên của Chính phủ do Tổng thống bổ nhiệm,
chịu trách nhiệm trước Tổng thống. Tổng thống các Bộ trưởng toàn quyền
trong lĩnh vực hành pháp, Nghị viện quyền lập pháp; Nghị viện không
quyền lật đổ chính phủ. Tổng thống không quyền giải tán nghị viện. Các
nước tổ chức theo chính thể cộng hoà tổng thống như: Hợp chủng quốc Hoa
Kỳ, Các nước Mỹ La Tinh…
Ngoài chính thể cộng hoà đại nghị và cộng hoà Tổng thống, hiện nay còn
tồn tại một hình thức cộng hoà “lưỡng tính”, nó vừa mang tính chất cộng hoà
đại nghị vừa mang tính chất cộng hoà tổng thống.
Cộng hoà “lưỡng tính” có những đặc điểm sau:
Nghị viện do nhân dân bầu ra;
Tổng thống do nhân bân bầu ra quyền hạn rất lớn kể cả
quyềngiải tán nghị viện, quyền thành lập chính phủ, giải quyết công việc quốc
gia.
Tổng thống là trung tâm của bộ máy quyền lực;
Chính phủ Thủ tướng đứng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực
tiếpcủa Tổng thống, chịu trách nhiệm trước nghị viện và tổng thống. Điển hình
cho chính thể này là CH Pháp và một số nước Châu Âu.
Chính thể cộng hòa cũng tồn tại các nước XHCN với những tên gọi khác
nhau (Việt Nam, Trung Quốc…)
- Hình thức cấu trúc nhà nước
Đây sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ xác
lập những mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước, giữa trung ương với
địa phương.
hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu hình thức nhà nước đơn nhất
và hình thức nhà nước liên bang.
Nhà nước đơn nhất là nhà nước có chủ quyền chung, có hệ thống cơ quan
quyền lực quản thống nhất từ trung ương đến địa phương các đơn
vị hành chính bao gồm tỉnh (thành phố), huyện (quận), xã (phường). dụ: Việt
Nam, Lào, Pháp, Ba Lan …là những nước đơn nhất.
Nhà nước liên bang nhà nước có từ hai hay nhiều nước thành viên hợp
lại. Nhà nước liên bang hai hthống quan quyền lực quản lý; một hệ
thống chung cho toàn liên bang và một hệ thống trong mi nước thành viên;
chủ quyền quốc gia chung của nnước liên bang và đồng thời mỗi nước thành
viên cũng chquyền riêng. Ví dụ: M, Đức, Ấn Độ, Malaixia… các nước
liên bang.
- Chế độ chính trị
Chế độ chính trị tổng thể các phương pháp, thủ đoạn các cơ quan
nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước
Trong lịch sử, từ khi nhà nước xuất hiện cho đến nay, các giai cấp thống trị
đã sử dụng nhiều phương pháp thủ đoạn để thực hiện quyền lực nhà nước.
Những phương pháp thủ đoạn đó trước hết xuất phát từ bản chất của n
nước đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố của mỗi giai đoạn trong mỗi nước
cụ thể. vậy, rất nhiều phương pháp thủ đoạn khác nhau nhưng tựu
chung chúng được phân thành hai loại chính là: Phương pháp dân chủ
phương pháp phản dân chủ.
Những phương pháp dân chủ cũng có nhiều loại, thể hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau như những phương pháp dân chủ thực sự và dân chủ giả hiệu,
dân chủ rộng rãi dân chủ hạn chế, dân chủ trực tiếp dân chủ gián tiếp…Chế
độ dân chủ hội chnghĩa được đặc trưng bằng việc sdụng các hình thức
dân chủ thực sự, rộng rãi với chế độ dân chủ tư sản đặc trưng bằng các phương
pháp dân chủ hạn chế và hình thức.
Các phương pháp phản dân chủ thể hiện tính chất độc tài cũng nhiều
loại, đáng chú ý nhất là khi những phương pháp này khi phát triển đến mức độ
cao trở thành những phương pháp tàn bạo, quân phiệt và phát xít.
Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước luôn liên quan mật
thiết với chế độ chính trị. Ba yếu tố này có tác động qua lại lẫn nhau tạo thành
khái niệm hình thức nhà nước, phản ánh bản chất và nội dung của nhà nước.
3. Chức năng của nhà nước, b máy nhà nước.
3.1. Chức năng
Chức năng của nhà nước những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà
nước nhằm để thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. Chức năng của
nhà nước được xác định xuất phát tbản chất của nhà nước, do sở kinh tế
và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định. Ví dụ, các nhà nước bóc lột được xây
dựng trên sở của chế đhữu về liệu sản xuất và bóc lột nhân dân lao
động cho nên chúng có những chức năng bản như bảo vệ chế độ hữu v
liệu sản xuất, đàn áp sự phản kháng và phong trào cách mạng của nhân dân
lao động, tiếnnh chiến tranh xâm lược, nô dịch cácn tộc khác…Nhà nước
xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, là công cụ
để bảo vệ lợi ích của đông đảo quần chúng lao động, vì vậy chức năng của nhà
nước xã hội chủ nghĩa khác với chức năng của nhà nước bóc lột cả về nội dung
và phương pháp tổ chức thực hiện
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của nnước, các chức năng được chia
thành chức năng đối nội và đối ngoại.
- Chức năng đối nội: những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong
nội bộ đất nước. dụ: Đảm bảo trật tự hội, trấn áp những phần tử chống
đối chế độ, bảo vệ chế độ kinh tế…
- Chức năng đối ngoại: Thể hiện vai tcủa nhà nước trong quan hệ với
các nhà nước và dân tộc khác. Ví dụ: Phòng thủ đất nước, chống sự xâm lược
từ bên ngoài, thiết lập các mối quan hệ bang giao với các quốc gia khác…
Để thực hiện chức năng đối nội đối ngoại, nhà nước sdụng nhiều hình
thức phương pháp hoạt động khác nhau, trong đó 3 hình thức hoạt động
chính là:
Xây dựng pháp luật
Tổ chức và thực hiện pháp luật
Bảo vệ pháp luật
Mỗi kiểu nhà nước bản chất riêng nên chức năng của các nhà nước thuộc
mỗi kiểu nhà nước cũng khác nhau việc tổ chức bộ máy để thực hiện các
chức năng đó cũng có những đặc điểm riêng.
3.2. Bộ máy của nhà nước
Bộ máy nhà nước là hệ thống các quan từ Trung ương đến địa phương,
bao gồm nhiều loại quan như quan lập pháp, hành pháp pháp…
Toàn bộ hoạt động của bộ máy nhằm thực hiện các chức năng của nnước,
phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị.
Bộ máy nhà nước bao gồm nhiều quan, mỗi quan những chức
năng, nhiệm vụ riêng phù hợp với phạm vi quyền hạn được giao. Mỗi kiểu nhà
nước bản chất riêng nên chức năng của các nhà nước thuộc mỗi kiểu n
nước cũng khác nhau việc tổ chức bộ máy để thực hiện các chức năng đó
cũng có những đặc điểm riêng.
II. Đại cương về pháp luật
1. Nguồn gốc, khái niệm và bản chất, đặc điểm pháp luật
1.1. Nguồn gốc pháp luật.
Những nguyên nhân làm phát sinh nhà nước cũng những nguyên nhân
dẫn đến sự ra đời của pháp luật. Khi chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội đã phân
chia thành giai cấp thì những xung đột về lợi ích giai cấp diễn ra gay gắt
cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được, thì cần thiết phải một
quy phạm mới để thiết lập cho hội một “trật tự”, một loại quy phạm thể hiện
ý chí của giai cấp thống trị, đó là quy phạm pháp luật.
Lúc đầu, các quy tắc xử sự của pháp luật chủ yếu được hình thành bằng
việc nhà nước thừa nhận các phong tục tập quán đã sẵn trong hội phù hợp
với lợi ích của giai cấp thống trị. Sau này, pháp luật được nhà nước trực tiếp đặt
ra và ban hành để toàn xã hội thực hiện.
vậy, pháp luật là hệ thống các quy phạm do nnước ban hành, thể hiện
ý chí của giai cấp thống trị. Pháp luật ra đời cùng với nnước, pháp luật
công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị bảo vệ lợi
ích của giai cấp thống trị. Nnước ban hành ra pháp luật và đảm bảo cho pháp
luật được thực hiện. Cả hai hiện tượng đều là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai
cấp.
1.2. Khái niệm và bản cht pháp luật.
1.2.1. Khái niệm
Pháp luật là hệ thống c quy tắc xử sự do nhà nước ban hành bảo đảm
thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong hội, nhân tố điều
chỉnh các quan hệ xã hội.
1.2.2. Bản chất
Học thuyết Mác-Lênin chỉ rõ, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại phát triển
trong xã hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của nó,
không có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật không mang tính giai cấp.
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện trước hết ở chỗ, pháp luật phản ánh ý
chí nhà nước của giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai
cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một
cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hoá thành ý chí nhà nước, ý chí đó được
cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành. Nhà nước ban hành bảo đảm cho pháp luật được thực hiện. vậy,
pháp luật là những quy tắc xử sự chung có tính bắt buộc đối với mọi người.
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các giai
cấp, tầng lớp trong hội. Do đó, pháp luật nhân tố điều chỉnh về mặt giai
cấp các quan hệ hội nhằm hướng các quan hhội pháp triển theo một
“trật tự” phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa vị của
giai cấp thống trị. Vì vậy, pháp luật chính công cụ đthực hiện sự thống trị
giai cấp. Bất kỳ kiểu pháp luật nào cũng mang bản chất giai cấp.
Pháp luật chủ công khai quy định quyền lực hạn của chủ nô, tình
trạng vô quyền của nô lệ. Pháp luật phong kiến công khai quy định đặc quyền,
đặc lợi của địa chủ phong kiến, quy định các chế tài hà khắc dã man để đàn áp
nhân dân lao động. Pháp luật tư sản thể hiện bản chất giai cấp một cách tinh vi
như quy định về mặt pháp lý những quyền tdo, dân chủ… nhưng thực chất
pháp luật sản luôn thhiện ý chí của giai cấp sản mục đích trước hết
nhằm phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản.
Pháp luật XHCN thể hiện ý chí của giai cấp công nhân nhân dân lao
động, là công cụ để xây dựng xã hội mới, mọi người đều được sống tự do, bình
đẳng, công bằng xã hội được bảo đảm.
Bên cạnh tính giai cấp pháp luật còn mang tính xã hội. Nghĩa là ở mức độ
nhiều hay ít pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của các giai tầng khác trong
xã hội.
Như vậy, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp vừa thể hiện
tính xã hội. Hai thuộc tính này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Do đó, không
pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp; ngược lại không pháp luật
chỉ thể hiện tính xã hôi
1.2.3. Đặc điểm pháp luật
Nhìn một cách tổng quát, pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau:
- Tính quyền lực (tính nhà nước, tính cưỡng chế): Pháp luật do nhà nước
ban hành và bảo đảm thực hiện. Nói một cách khác, pháp luật được hình thành
phát triển bằng con đường nhà nước chứ không thể bằng bất kcon đường
nào khác. Với tư cách của mình, nhà nước là một tổ chức hợp pháp, công khai
và có quyền lực bao trùm toàn xã hội.
vậy, khi pháp luật được nnước ban hành và bảo đảm thực hiện, sẽ
có sức mạnh của quyền lực nhà nước và có tác động đến tất cả mọi người.
- Tính quy phạm: Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự, đó là những khuôn
mẫu được xác định cụ thể, không trìu tượng, chung chung. Điều này nói lên
giới hạn cần thiết nhà nước quy định để mọi người thể xử sự một cách
tự do trong khuôn khổ pháp luật. Vượt quá giới hạn đó là trái pháp luật, những
giới hạn đó được xác định như cho phép, cấm đoán, bắt buộc…Vì vậy, nếu
không có quy phạm pháp luật được đặt ra thì cũng không thể quy kết một hành
vi nào vi phạm, trái pháp luật. “mọi người được làm tất cả mọi việc trừ
những điều mà pháp luật nghiêm cấm”, “mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật” được hình thành dựa trên scủa đặc trưng về tính quy phạm của
pháp luật.
- Tính ý chí: Pháp luật bao giờ cũng là hiện tượng ý chí, không phải là kết
quả của sự tphát hay cảm tính. Về bản chất, ý chí của pháp luật ý chí của
giai cấp thống trị, giai cấp cầm quyền. Ý chí đó thể hiện mục đích xây dựng
pháp luật, nội dung pháp luật khi áp dụng vào đời sống xã hội.
- Tính hội: Bên cạnh tính ý chí thì tính hội vẫn là một đặc trưng
bản của pháp luật. Bởi vì trong thực tế, bên cạnh các quy tắc xử sự bị chi phối
bởi lợi ích của giai cấp thống trị còn có các quy tắc xử sự khác xuất phát từ nhu
cầu chung của đời sống xã hội. Những quy tắc đó điều chỉnh các hành vi, cách
xử sự mang tính phổ biến phù hợp với lợi ích của đa số trong cộng đồng phản
ánh các nhu cầu, quy luật tồn tại khách quan của hội bất kỳ hội nào
cũng phải tuân theo.
Những đặc trưng bản trên của pháp luật càng cho thấy bản chất và sự
khác biệt giữa pháp luật với các hiện tượng khác. Bốn đặc trưng cơ bản đó đều
ý nghĩa quan trọng quan hệ với nhau, không thể chú trọng điểm này
mà coi nhẹ điểm kia.
2. Mối quan hệ giữa pháp luật với các hiện tượng xã hội.
Để giải thích bản chất của pháp luật cần thiết phải phân tích các mối
quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo đức và nhà nước.
- Quan hệ pháp luật kinh tế: Pháp luật tính độc lập tương đối. Một
mặt, pháp luật phụ thuộc vào kinh tế; mặt khác, pháp luật có sự tác động trở lại
một cách mạnh mẽ đối với kinh tế. Sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế thể
hiện chỗ nội dung ca pháp luật là do các quan hệ kinh tế - hội quyết định,
kinh tế là cơ sở của pháp luật. Sự thay đổi chế độ kinh tế - xã hội sẽ dẫn đến sự
thay đổi của pháp luật. Pháp luật luôn phản ánh trình độ phát triển của chế đ
kinh tế, nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó.
Mặt khác, pháp luật có sự tác động trở lại đối với sự phát triển của kinh tế.
Sự tác động đó có thể là tích cực cũng có thể là tiêu cực. Sẽ là tiến bộ khi pháp
luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội, phản
ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế. Sẽ là tiêu cực khi pháp luật thể hiện ý
chí của giai cấp thống trị đã lỗi thời, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của kinh tế
- xã hội.
- Quan hệ pháp luật chính trị: Pháp luật một trong những hình thức
biểu hiện c thể của chính trị. Đường lối, chính sách của giai cấp thống trị luôn
giữ vai trò chủ đạo đối với pháp luật. Mặt khác, chính trị còn sự thể hiện mối
quan hệ giữa các giai cấp các lực lượng khác nhau trong xã hội trên tất cả
các lĩnh vực. vậy, pháp luật không chỉ phản ánh các chính sách kinh tế
còn thể hiện các quan hệ giai cấp, phản ánh đối sánh giai cấp mức độ của
cuộc đấu tranh giai cấp.
- Quan hệ pháp luật – đạo đức: Pháp luật chịu sự tác động của đạo đức và
các quy phạm hội khác nhưng pháp luật sự tác động mạnh mẽ tới các hiện
tượng đó thậm chí trong một chừng mực nhất định, nó n có khả năng cải
tạo các quy phạm đạo đức và các quy phạm xã hội khác.
- Quan hệ pháp luật – nhà nước: Nhà nước và pháp luật luôn có mối quan
hệ khăng khít, không thể tách rời nhau. Cả nhà nước và pháp luật đều có chung
nguồn gốc, cùng phát sinh và phát triển. Nhà nước là một tổ chức đặc biêt của
quyền lực chính trị, nhưng quyền lực đó chỉ có thể được triển khai và phát huy
hiệu lực trên cơ sở của pháp luật. Do vậy, nnước không thể tồn tại phát
huy quyền lực nếu thiếu pháp luật và ngược lại pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại
và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà nước.
vậy, không thể nói pháp luật đứng trên nhà nước hay nhà nước đứng
trên pháp luật. Đồng thời, khi xem xét các vấn đề nhà nước pháp luật phải
đặt chúng trong mối quan hệ qua lại với nhau.
3. Kiểu và hình thức pháp luật.
3.1. Các kiểu pháp luật
Kiểu pháp luật là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) bản, đặc thù của
pháp luật, thhiện bản chất giai cấp những điều kiện tồn tại phát triển của
pháp luật trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Đặc điểm của mỗi hình thái kinh tế - hội trong xã hội giai cấp sẽ
quyết định những dấu hiệu bản của pháp luật. Phù hợp với điều đó, trong
lịch sử đã tồn tại bốn kiểu pháp luật: Kiểu pháp luật chủ nô;
Kiểu pháp luật phong kiến;
Kiểu pháp luật tư sản;
Kiểu pháp luật XHCN;
Ba kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến sản những kiểu pháp luật bóc
lột được xây dựng trên sở của chế độ tư hữu về liệu sản xuất. Chúng
đặc điểm chung là thể hiện ý chí của giai cấp bóc lột trong hội, củng cố
bảo vệ chế độ tư hữu vtư liệu sản xuất, bảo đảm về mặt pháp lý sự áp bức bóc
lột của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động, duy trì tình trạng bất bình
đẳng trong xã hội.
Khác với các kiểu pháp luật trên, pháp luật XHCN được xây dựng trên cơ
sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thể hiện ý chí của giai cấp công
nhân nhân dân lao động, chiếm tuyệt đại đa số trong hội. Pháp luật XHCN
thủ tiêu mọi hình thức áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội bình đẳng, tự do.
Sự thay thế kiểu pháp luật này bằng một kiểu pháp luật khác tiến bộ hơn
một quy luật tất yếu. Sự thay thế các kiểu pháp luật gắn liền với sự thay thế của
các hình thái kinh tế hội tương ứng. Cách mạng con đường dẫn đến sự
thay thế đó. kết quả là: Pháp luật phong kiến thay thế pháp luật chủ nô; pháp
luật sản thay thế pháp luật phong kiến; pháp luật XHCN thay thế pháp luật
sản. Trong tương lai Pháp luật XHCN sẽ tiêu vong và không còn kiểu pháp
luật nào thay thế nữa.
3.2. Hình thức pháp luật
Hình thức pháp luật là cách thức giai cấp thống trị sử dụng đnâng ý
chí của giai cấp mình lên thành pháp luật.
Trong lịch sđã 3 hình thức pháp luật là: Tập quán pháp; tiền lệ pháp
và văn bản pháp luật.
3.2.1. Tập quán pháp
hình thức nhà nước thừa nhận một số tập quán đã lưu truyền trong
hội, phù hợp lợi ích của giai cấp thống trị, nâng chúng thành những quy tắc xử
sự chung được nhà nước bảo đảm thực hiện. Đây hình thức pháp luật xuất
hiện sớm nhất được sdụng nhiều trong các nhà nước chủ phong kiến.
Trong nhà nước sản, hình thức này vẫn được sử dụng nhiều, nhất các
nhà nước có chế độ quân chủ.
Các nhà nước XHCN trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH vẫn còn thừa nhận
một số tập quán tiến bộ như truyền thống đạo đức dân tộc…tuy nhiên mức độ
hạn chế. Bởi vì tập quán hình thành một cách tự phát, ít biến đổi và có tính cục
bộ, không phù hợp với bản chất của pháp luật XHCN.
3.2.2. Tiền lệ pháp
hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của quan hành chính
hoặc xét xử giải quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng đối với các vụ việc
tương tự. Hình thức này được sdụng trong các nhà nước phong kiến hiện
nay vẫn chiếm v trí quan trọng trong pháp luật tư sản, nhất là ở Anh, Mỹ.
Tiền lệ pháp hình thành không phải do hoạt động của quan lập pháp mà
xuất hiện từ hoạt động của các quan hành pháp và tư pháp. vậy, hình thức
này dễ tạo ra sự tùy tiện, không phù hợp với các nguyên tắc pháp chế đòi hỏi
phải tôn trọng nguyên tắc tối cao của luật việc phân định chức năng, quyền
hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước trong việc xây dựng thực hiện
pháp luật.
3.2.3. Văn bản quy phạm pháp luật
hình thức pháp luật tiến bộ nhất. Văn bản quy phạm pháp luật văn
bản do quan nhà nước thẩm quyền ban hành trong đó quy định những quy
tắc xử sự chung được áp dụng nhiều lần trong đời sống hội. nhiều loại
văn bản văn bản pháp luật. Ở mỗi nước, trong những điều kiện cụ thể có những
quy định riêng về tên gọi hiệu lực pháp của các loại văn bản pháp luật.
Nhưng nhìn chung, các văn pháp luật đều được ban hành theo một trình tự, th
tục nhất định và chứa đựng những quy định cụ thể.
Trong pháp luật chủ phong kiến, các văn bản pháp luật còn chưa
hoàn chỉnh và kỹ thuật xây dựng chưa cao. Nhiều đạo luật chỉ sự ghi chép lại
một cách hệ thống các án lcác tập quán được thừa nhận. Pháp luật
sản đã nhiều hình thức văn bản phong phú được xây dựng với kỹ thuật
cao.
Pháp luật XHCN có hệ thống các văn bản thống nhất được xây dựng theo
nguyên tắc pháp chế hội chủ nghĩa, tôn trọng tính tối cao của hiến pháp
luật. Hệ thống các văn bản pháp luật XHCN ngày càng được xây dựng hoàn
chỉnh, đồng bộ với kỹ thuật cao phản ánh đúng bản chất của pháp luật XHCN.
Ở nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về nguyên tắc thì nhà nước không
thừa nhận tập quán pháp tiền lệ pháp chỉ một hình thức duy nhất
văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong điều kiện các văn bản quy
phạm pháp luật còn chưa hoàn thiện, chưa điều chỉnh hết các quan hệ xã hội.
đứng trước yêu cầu cấp bách cần phải giải quyết ngay một svụ việc cần
thiết tnhà nước sdụng tiền lệ pháp nhưng với cách làm mới. Chẳng hạn,
tổng kết quá trình giải quyết một số vụ việc cụ thể, điển hình để đề ra đường lối
hướng dẫn giải quyết các vụ việc tương tự trong khi hệ thống pháp luật còn
thiếu. Và khi hệ thống pháp luật được xây dựng đồng bộ, hoàn chỉnh thì hình
thức này sẽ thu hẹp dần và tiến tới không còn tồn tại trong nhà nước ta.
CHƯƠNG 2
BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. Giới thiệu về Hiến pháp Việt Nam
1. Lược sử
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam một nước thuộc địa nửa
phong kiến với chính thquân chủ chuyên chế nên không hiến pháp. Vào
những năm đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của tưởng cách mạng dân chủ
sản Pháp năm 1789, ảnh hưởng của cách mạng Trung Hoa năm 1911 chính
sách duy tân Minh Trị thiên hoàng đã áp dụng tại Nhật Bản, giới trí thức Việt
Nam đã xuất hiện tư tưởng lập hiến.
Có hai khuynh hướng chính trị chủ yếu trong thời gian này.
- Khuynh hướng thứ 1: Xây dựng nhà nước quân chủ lập hiến trong sự thừa
nhận quyền bảo hộ của chính phủ Pháp.
- Khuynh hướng thứ 2: Chủ trương giành độc lập, tự do cho dân tộc, sau
đó xây dựng hiến pháp của nhà nước độc lập.
Ngay sau khi nước Việt Nam DCCH ra đời, trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ, Hồ Chủ tịch đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ, một trong
những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng hiến pháp. Ngày 9/11/1946 Quốc hội
đã thông qua bản hiến pháp đầu tiên của nước ta.
Hiến pháp 1946 bao gồm lời nói đầu, 7 chương và 70 điều. Lời nói đầu xác
định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này bảo toàn lãnh thổ, giành độc
lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ.
Hiến pháp năm 1946 bản hiến pháp đầu tiên của nước ta, bản hiến pháp
dân chủ, tiến bộ không kém bất một bản hiến pháp nào trên thế giới. Về kỹ
thuật lập pháp, Hiến pháp năm 1946 là một bản hiến pháp cô đọng, khúc chiết,
mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người.
Ngay sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1946, thực dân Pháp lại
gây ra chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa. Nhân dân ta lại bước vào cuộc
kháng chiến trường kì và gian khổ. Với chiến thắng Điện Biên Phủ Hội nghị
Giơnevơ, miền bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước tạm thời
bị chia cắt hai miền. Vì vậy, trong kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội nước Việt Nam
DCCH khóa I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946.
Ngày 31/12/1959, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi. Hiến
pháp năm 1959 gồm lời nói đầu 112 điều, chia làm 10 chương. bản
hiến pháp được xây dựng theo mô hình hiến pháp XHCN. Nó là bản hiến pháp
XHCN đầu tiên của nước ta.
Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 đã mở ra
một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc ta. Đất nước hoàn toàn độc lập, tự do
điều kiện thuận lợi để thống nhất hai miền, đưa cả nước quá độ lên CNXH. Sau
một thời gian thảo luận, Quốc hội khóa VI tại họp thứ 7 (18/12/1980) đã nhất
trí thông qua Hiến pháp 1980. Hiến pháp năm 1980 bao gồm lời nói đầu, 147
điều chia làm 12 chương.
Ngay trong lời nói đầu của hiến pháp khẳng định truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta, ghi nhận những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân ta đã giành được trong
cuộc Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp cuộc
kháng chiến chống đế quốc xâm lược và lũ tay sai. Xác định những nhiệm
vụ của cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới nêu lên những vấn đề
bản Hiến pháp 1980 đề cập. Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp của thời
quá độ lên CNXH trong phạm vi cả nước. Tuy nhiều nhược điểm nhưng Hiến
pháp năm 1980 là một cái mốc quan trong trong lịch sử lập hiến của nước ta.
Sau một thời gian phát huy hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp năm
1980 tỏ ra không phù hợp. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải một
bản hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của hội, xây dựng
cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã mra thời đổi mớinước
ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những sai lầm của
Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ XHCN, phát huy tư duy độc lập, sáng
tạo của các tầng lớp nhân dân lao động, trên cơ sở đó có những nhận thức đúng
đắn về CNXH vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng
một xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng và văn minh.
Ngày 15 tháng 4 năm 1992 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp. Việc soạn
thảo ban hành Hiến pháp năm 1992 một quá trình thảo luận dân chủ
chắt lọc một cách nghiêm túc những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân
dân về tất cả các vấn đề từ quan điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Đây là bản
hiến pháp của Việt Nam trong quá trình đổi mới, sản phẩm trí tuệ của toàn
dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước.
2. Các nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1992
Hiến pháp năm 1992 văn bản pháp luật hiện hành giá trị pháp cao
nhất thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống. Hiến pháp năm
1992 đã được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam Khoá VIII, khọp
thứ 11, thông qua ngày 15 tháng 4 năm 1992 và đã được sửa đổi bổ sung theo
Nghị quyết của Quốc hội số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001.
Hiến pháp năm 1992 gồm 12 chương, 147 điều.
Từ Chương I đến Chương III quy định: Về chế độ chính trị; chế độ văn hoá,
giáo dục, khoa học, công nghệ;
Chương IV : Bảo vệ Tổ quốc XHCN;
Chương V: Về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân;
Chương VI đến Chương X quy định: Về bộ máy nhà nước;
Chương XI: Quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, thủ đô, ngày quốc khánh
Chương XII: Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
II.1.Chế độ chính trị
Chế độ chính trị tổng thể các quy định về những vấn đề tính chất
nguyên tắc chung làm nền tảng cho các chương sau của Hiến pháp.
Đó là những quy định về:
- Bản chất Nhà nước;
- Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với mọi hoạt động của
Nhà nước và xã hội;
- Những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Về bản chất nhà nước, Hiến pháp 1992 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam nhà nước của nhân dân, do nhân dân, nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đối với Nhà nước hội mang tính
quy luật khách quan. (Điều 4).
Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội Hội đồng
nhân dân (HĐND) các cấp - những quan đại diện cho ý chí nguyện
vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện
của tchức chính trị, các tổ chức chính trị - hội, tổ chức xã hội các
nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo
và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tổ
chức thành viên được xác định là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
2.2. Chế độ kinh tế
Chế độ kinh tế là một hệ thống quan hệ kinh tế được xây dựng trên một cơ
sở vật chất - kỹ thuật nhất định thể hiện tính chất và hình thức sở hữu đối với
tư liệu sản xuất, các nguyên tắc sản xuất, phân phối và tiêu dùng sản phẩm xã
hội và tổ chức nền kinh tế.
- Hiến pháp 1992 ghi nhận sự tồn tại bảo hộ các hình thức sở hữu:
Sởhữu toàn dân (sở hữu nhà nước), sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.
- Trên sở các hình thức sở hữu bản, Nhà nước thực hiện nhất
quánchính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa
dạng.
Các thành phần kinh tế gồm: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng sở vật chất kỹ
thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật giao lưu với thị trường thế
giới. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN. Tổ chức, nhân thuộc các thành phần kinh
tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành nghề pháp luật không cấm;
cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.
2.3 Chính sách văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ.
- Về văn hoá: “Nhà nước hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa phát huy những giá trị văn
hoá các dân tộc Việt Nam, tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân
dân”.
Nhà nước tạo điều kiện để công dân phát triển toàn diện, giáo dục ý thức
công dân, sống làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, giữ gìn thuần phong,
mỹ tục xây dựng gia đình văn hoá, hạnh phúc, tinh thần yêu nước, yêu
chế độ XHCN, tinh thần quốc tế chân chính, hữu nghị hợp tác với các dân
tộc trên thế giới. Văn hoá, văn học, nghệ thuật, thông tin, báo chí, phát thanh,
truyền hình, điện ảnh, xuất bản…được Nhà nước đầu tư phát triển.
- Chính sách giáo dục: Điều 35 Hiến pháp quy định: “Phát triển giáo dục
quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục nhằm
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào
tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân
tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác
thống nhất quản hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình,
nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống
văn bằng; phát triển cân đối hệ thống giáo dục gồm giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học sau đại học. Thực
hiện phổ cập giáo dục trung học sở; phát triển các hình thức trường quốc lập,
dân lập và các hình thức giáo dục khác.
- Chính sách khoa học công nghệ. Hiến pháp 1992 quy định: “Phát
triển khoa học công nghệ quốc sách hàng đầu. Khoa học công nghệ
giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - hội của đất nước.
Nhà nước xây dựng thực hiện chính sách khoa học, công nghệ quốc gia; xây
dựng nền khoa học công nghệ tiên tiến…”(Điều 37). Nhà nước đầu
khuyến khích tài trợ cho khoa học bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, ưu tiên
khoa học, công nghệ mũi nhọn; chăm lo đào tạo và sử dụng hợp lý đội ngũ cán
bộ khoa học, kỹ thuật nhất những người trình độ cao, công nhân lành nghề
nghệ nhân; tạo điều kiện để các nhà khoa học sáng tạo cống hiến; gắn
nghiên cứu khoa học với nhu cầu phát triển kinh tế - hội, kết hợp chặt chẽ
giữa nghiên cứu khoa học, đào tạo với sản xuất, kinh doanh (Điều 38).
2.4. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Việt Nam, “Các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá
hội được tôn trọng, thhiện các quyền công dân được quy định trong
Hiến pháp và luật” (Điều 50).
Nguyên tắc bản khi xác định quyền nghĩa vụ của công dân : “Mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật”, nh đẳng về hưởng quyền thực
hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội, quyền và nghĩa vụ ca công dân
không tách rời nhau.
- Các quyền về chính trị:
Công dân quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận
các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước,
biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý.
Công dân đủ 18 tuổi trở lên đều quyền bầu cử 21 tuổi trở lên đều
quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND theo quy định của pháp luật không phân
biệt dân tộc, nam nữ, thành phần hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá,
nghề nghiệp, thời hạn cư trú.
- Các quyền về kinh tế, văn hoá, xã hội.
Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật, có quyền
thành lập doanh nghiệp, quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp
hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
Mọi công dân đều quyền lao động, quyền được học tập, quyền được
nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ
thuật…quyền được bảo vệ sức khoẻ, quyền bình đẳng nam nữ, quyền được n
nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu ng nghiệp, hôn nhân, gia đình… -
Các quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân.
Công dân quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội,
biểu tình theo quy định của pháp luật, tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, chổ ở, được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự nhân phẩm, quyền mật thư tín…quyền tự do đi lại
trú.
- Các nghĩa v của công dân
Công dân nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phải trung thành với Tổ quốc;
nghĩa vụ thiêng liêng quyền cao quý bảo vệ Tổ quốc, phải làm nghĩa
vụ quân sự tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân; nghĩa vụ tôn trọng
bảo vệ tài sản của Nhà nước lợi ích công cộng; nghĩa vụ tuân theo Hiến
pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, gi

Preview text:

CHƯƠNG 1 CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
I. Đại cương về Nhà nước
1. Nguồn gốc và bản chất Nhà nước
1.1. Tổ chức xã hội và quyền lực trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ
Từ thời kỳ cổ đại và trung đại đã có nhiều tư tưởng tiếp cận và đưa ra những
lý giải khác nhau về nguồn gốc nhà nước. Các nhà tư tưởng theo thuyết thần
học cho rằng: Thượng đế là người sắp đặt trật tự xã hội, nhà nước là do thượng
đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung. Do vậy nhà nước là lực lượng siêu nhân,
quyền lực nhà nước là vĩnh cửu và sự phục tùng quyền lực là cần thiết và tất
yếu. Trong khi đó, những nhà tư tưởng theo thuyết gia trưởng lại cho rằng nhà
nước là kết quả phát triển của gia đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người.
Đến khoảng thế kỷ 16 đến 18 đã xuất hiện hàng loạt quan niệm mới về
nguồn gốc nhà nước. Nhằm chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của Nhà nước
phong kiến, đòi hỏi sự bình đẳng cho giai cấp tư sản trong việc tham gia nắm
giữ quyền lực nhà nước, đa số các học giả tư sản đều tán thành quan điểm cho
rằng sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của một khế ước (hợp đồng) được ký
kết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Vì
vậy, Nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên trong xã hội và mỗi thành
viên đều có quyền yêu cầu nhà nước phục vụ họ, bảo vệ lợi ích của họ.
Vì thế, thuyết khế ước xã hội đã có vai trò quan trọng là tiền đề cho thuyết
dân chủ cách mạng và cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản để lật đổ ách thống trị phong kiến.
Tuy nhiên học thuyết này giải thích nguồn gốc nhà nước trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy tâm, coi nhà nước lập ra do ý muốn, nguyện vọng
chủ quan của các bên tham gia khế ước, không giải thích được cội nguồn vật
chất và bản chất giai cấp của nhà nước.
Một số học thuyết khác tuy mức độ phổ biến có hạn chế hơn so với thuyết
khế ước xã hội, nhưng đã xuất hiện và nhiều tập đoàn thống trị đã sử dụng làm
cơ sở lý luận để giải thích nguồn gốc và bản chất của nhà nước như: Thuyết bạo
lực cho rằng, nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của thị tộc
này đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng “nghĩ ra” một hệ thống
cơ quan đặc biệt (nhà nước) để nô dịch kẻ chiến bại.
Các học giả của thuyết tâm lý lại cho rằng, nhà nước xuất hiện do nhu cầu
tâm lý của con người nguyên thuỷ luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo
sĩ…Vì vậy, nhà nước là tổ chức của những siêu nhân có sứ mạng lãnh đạo xã
hội. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, những học thuyết và quan điểm trên
chưa giải thích được đúng nguồn gốc của nhà nước.
Với quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Chủ nghĩa MácLênin
đã chứng minh một cách khoa học rằng, nhà nước không phải là những hiện
tượng xã hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người
đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Chúng luôn vận động, phát triển và
sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa.
Chế độ cộng sản nguyên thuỷ là hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên trong
lịch sử nhân loại. Đó là một xã hội không có giai cấp, chưa có nhà nước và pháp
luật. Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thuỷ là chế độ sở hữu chung về
tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất thấp kém, công cụ lao động thô sơ, con người chưa có nhận thức đúng đắn
về thiên nhiên và về bản thân mình, họ luôn bất lực trước những tai họa của
thiên nhiên, năng suất lao động thấp.
Trong điều kiện đó, con người không thể sống riêng biệt mà phải dựa vào
nhau, cùng chung sống, cùng lao động và hưởng thụ những thành quả lao động
chung. Mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, không ai có tài
sản riêng, không có người giàu, kẻ nghèo, không có tình trạng người này chiếm
đoạt tài sản của người kia. Lúc này xã hội chưa phân thành giai cấp và không có đấu tranh giai cấp.
Do những điều kiện kinh tế đó đã quyết định đời sống xã hội của chế độ
cộng sản nguyên thủy. Tế bào cơ sở của xã hội không phải gia đình mà là thị
tộc. Sự xuất hiện của tổ chức thị tộc đã đặt nền móng cho việc hình thành hình
thái kinh tế - xã hội đầu tiên trong lịch sử - hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản
nguyên thuỷ.
Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thuỷ tạo ra hình thức tổ
chức xã hội là thị tộc (tổ chức cơ cấu đầu tiên của loài người). Thị tộc là một tổ
chức lao động, sản xuất, một bộ máy kinh tế xã hội. Sự phát triển của xã hội
cộng với các yếu tố tác động khác đòi hỏi thị tộc phải mở rộng quan hệ với các
thị tộc khác, dẫn đến sự xuất hiện các bào tộc và bộ lạc bao gồm nhiều bào tộc hợp thành.
Để tổ chức và quản lý thị tộc, xã hội đã hình thành hình thức Hội đồng thị
tộc bao gồm tất cả những người lớn tuổi trong thị tộc với quyền hạn rất lớn. Tổ
chức quản lý bào tộc là hội đồng bào tộc bao gồm các tù trưởng, thủ lĩnh quân
sự của các thị tộc. Hội đồng bộ lạc là hình thức tổ chức quản lý của bộ lạc với
nguyên tắc tổ chức quyền lực của thị tộc nhưng có sự tập trung cao hơn.
Như vậy, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã xuất hiện và tồn tại quyền
lực nhưng đó là quyền lực xã hội xuất phát từ xã hội và phục vụ cho lợi ích của
toàn xã hội. Bởi những người đứng đầu thị tộc, bào tộc, bộ lạc hoàn toàn không
có đặc quyền, đặc lợi nào, mà họ cùng chung sống, cùng lao động và hưởng thụ
như mọi thành viên khác.
1.2. Sự tan rã của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện của nhà nước
Lịch sử đã trải qua 3 lần phân công lao động xã hội lớn (một là, chăn nuôi
tách khỏi trồng trọt; hai là, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp; ba là, buôn
bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện), mỗi lần lại có những bước tiến mới
làm sâu sắc thêm quá trình tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, chế độ tư
hữu xuất hiện đã phân chia xã hội thành kẻ giàu, người nghèo, hình thành hai
giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ. Một xã hội mới với sự phân chia giai cấp và
đấu tranh giai cấp, xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức quyền lực mới đủ sức
để dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp đó. Tổ chức đó là nhà nước
nhà nước đã xuất hiện.
Như vậy, nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, nó là sản phẩm của
một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước“không phải là
một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội”
mà là “một lực lượng nảy sinh
từ xã hội”,
một lực lượng “tựa hồ đứng trên xã hội”, có nhiệm vụ làm dịu bớt
sự xung đột và giữ cho xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”.
1.3. Bản chất nhà nước
Xuất phát từ việc nghiên cứu nguồn gốc của nhà nước, chủ nghĩa Mác –
Lênin đi đến kết luận “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hoà được”.
Nghĩa là, nhà nước chỉ sinh ra và tồn
tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc.
Bản chất đó thể hiện trước hết ở chỗ nhà nước là một bộ máy cưỡng chế đặc
biệt nằm trong tay của giai cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất để thực hiện
sự thống trị giai cấp, thiết lập và duy trì trật tự xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác
đều thể hiện dưới ba loại quyền lực là quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế và
quyền lực tư tưởng. Trong đó, quyền lực kinh tế giữ vai trò quyết định, là cơ sở
để đảm bảo cho sự thống trị giai cấp. Nhưng bản thân quyền lực kinh tế không
thể duy trì được các quan hệ bóc lột. Vì vậy, cần phải có nhà nước, một bộ máy
cưỡng chế đặc biệt để củng cố quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế và để
đàn áp sự phản kháng của các giai cấp bị bóc lột. Nhờ có nhà nước, giai cấp
thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị. Nói cách khác, giai
cấp thống trị đó trở thành chủ thể của quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị “là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai
cấp khác”. Nhà nước là một bộ máy bạo lực do giai cấp thống trị tổ chức ra để
trấn áp các giai cấp đối địch. Do đó, nhà nước chính là một tổ chức đặc biệt của
quyền lực chính trị. Giai cấp thống trị sử dụng nhà nước để tổ chức và thực hiện
quyền lực chính trị của giai cấp mình. Thông qua nhà nước ý chí của giai cấp
thống trị được thể hiện một cách tập trung thống nhất và hợp pháp hóa thành ý
chí nhà nước. Ý chí nhà nước có sức mạnh bắt buộc các giai cấp khác phải tuân
theo một “trật tự” do giai cấp thống trị đặt ra, phải phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị.
Trong các xã hội bóc lột, nền chuyên chính của các giai cấp bóc lột đều có
đặc điểm chung là duy trì sự thống trị về chính trị, kinh tế và tư tưởng của thiểu
số người bóc lột đối với đông đảo nhân dân lao động. Các nhà nước bóc lột đều
có chung bản chất là bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc
lột: Nhà nước chủ nô là công cụ chuyên chính của giai cấp chủ nô, nhà nước
phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp địa chủ phong kiến, nhà nước
tư sản là công cụ chuyên chính của giai cấp tư sản. Khác với điều đó, nhà nước
xã hội chủ nghĩa với bản chất chuyên chính vô sản, là bộ máy để củng cố địa vị
thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chiếm
đa số trong xã hội, để trấn áp những lực lượng thống trị cũ đã bị lật đổ và những
phần tử chống đối cách mạng.
Tuy nhiên để thực hiện sự chuyên chính giai cấp không thể chỉ đơn thuần
dựa vào bạo lực và cưỡng chế mà còn cần đến sự tác động về tư tưởng nữa. Giai
cấp thống trị đã thông qua nhà nước để xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình
thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội, bắt các giai cấp khác phải lệ thuộc
mình về mặt tư tưởng.
Như vậy, nhà nước là một tổ chức đặc biệt để bảo đảm sự thống trị về kinh
tế, để thực hiện quyền lực về chính trị và thực hiện sự tác động về tư tưởng đối
với quần chúng. Ngoài việc thực hiện các chức năng trên, nhà nước còn phải
giải quyết tất cả các vấn đề khác nảy sinh trong xã hội, nghĩa là phải thực hiện
chức năng xã hội. Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó nhà nước còn thể hiện rõ nét tính xã hội. Dù trong xã
hội nào, nhà nước cũng một mặt bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, nhưng
đồng thời cũng phải chú ý đến lợi ích chung của toàn xã hội.
Từ những kết luận trên có thể đi đến định nghĩa sau: Nhà nước là một tổ
chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng
chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội,
thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.

2. Đặc trưng, kiểu và hình thức nhà nước
2.1. Đặc trưng
So với các tổ chức trong xã hội có giai cấp, nhà nước có một số đặc trưng sau đây:
- Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt không còn hoà nhập với
dân cư nữa; chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị về kinh tế và chính
trị. Để thực hiện quyền lực này và để quản lý xã hội, nhà nước có một lớp người
đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý, họ tham gia vào các cơ quan nhà nước
và hình thành nên một bộ máy cưỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp thống
trị, bắt các giai cấp khác phải phục tùng theo ý chí của giai cấp thống trị.
- Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ thành các đơn vị hành chính,
không phụ thuộc vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính…
Việc phân chia này quyết định phạm vi tác động của nhà nước trên quy mô rộng
lớn nhất và dẫn đến việc hình thành các cơ quan trung ương và địa phương của bộ máy nhà nước.
- Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia thể hiện quyền
độc lập tự quyết của nhà nước về những chính sách đối nội và đối ngoại không
phụ thuộc các yếu tố bên ngoài. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính không thể
chia cắt của nhà nước.
- Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với
mọi công dân. Với tư cách là người đại diện chính thức của toàn xã hội, nhà
nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật. Pháp luật do nhà nước
ban hành nên có tính bắt buộc chung, mọi người đều phải tôn trọng pháp luật.
- Nhà nước quy định và thực hiện việc thu các loại thuế. Việc thu thuế
nhằm “nuôi dưỡng” bộ máy nhà nước bao gồm một lớp người đặc biệt, tách ra
khỏi xã hội để thực hiện chức năng quản lý.
Những đặc điểm nói trên nói lên sự khác nhau giữa nhà nước với các tổ
chức chính trị xã hội khác, đồng thời cũng phản ánh vị trí và vai trò của nhà
nước trong xã hội có giai cấp.
2.2. Kiểu nhà nước
Bản chất của nhà nước trong những thời kỳ lịch sử khác nhau là rất khác
nhau. Để phân biệt chúng, khoa học lý luận chung về nhà nước và pháp luật đã
đưa ra khái niệm kiểu nhà nước: Kiểu nhà nước là tổng thể những đặc điểm cơ
bản, đặc thù của nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn
tại và phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.

Trong lịch sử xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế xã hội:
Chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Phù hợp
với bốn hình thái kinh tế xã hội đó đã có bốn kiểu nhà nước:
- Kiểu nhà nước chủ nô.
- Kiểu nhà nước phong kiến.
- Kiểu nhà nước tư sản.
- Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản mặc dù mỗi kiểu có những
đặc điểm riêng nhưng chúng đều là những kiểu nhà nước bóc lột được xây dựng
trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Các nhà nước đó đều là công
cụ để bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, duy trì sự thống trị của giai cấp
bóc lột đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới có bản chất khác với các
kiểu nhà nước bóc lột khác. Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa là thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng một kiểu nhà nước mới tiến bộ hơn là
một quy luật tất yếu. Cách mạng là con đường dẫn đến sự thay thế đó. Một kiểu
nhà nước mới xuất hiện trong quá trình cách mạng khi giai cấp cầm quyền cũ
bị lật đổ và giai cấp thống trị mới giành được chính quyền. Các cuộc cách mạng
khác nhau diễn ra trong lịch sử đều tuân theo quy luật đó: Nhà nước phong kiến
thay thế nhà nước chủ nô, nhà nước tư sản thay thế nhà nước phong kiến, nhà
nước xã hội chủ nghĩa thay thế nhà nước tư sản.
Nhà nước XHCN là một kiểu nhà nước tiến bộ nhất nhưng cũng là kiểu
nhà nước cuối cùng trong lịch sử. Sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình,
nhà nước XHCN sẽ tiêu vong và sau đó sẽ không còn một kiểu nhà nước nào khác nữa.
2.3. Hình thức nhà nước.
Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền lực nhà nước và những phương
pháp để thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước là một khái niệm
chung được hình thành từ ba yếu tố cụ thể: Hình thức chính thể, hình thức cấu
trúc nhà nước và chế độ chính trị.
- Hình thức chính thể: Là cách tổ chức và trình tự để lập ra các cơ quan tối
cao của nhà nước và xác lập những mối quan hệ cơ bản của các cơ quan đó.
Hình thức chính thể có hai dạng cơ bản là chính thể quân chủchính thể cộng hoà.
+ Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước
tập trung toàn bộ (hay một phần) trong tay người đứng đầu nhà nước theo
nguyên tắc thừa kế, truyền ngôi. Vua, Hoàng đế là nguyên thủ quốc gia của các
nhà nước theo chính thể này.
Chính thể quân chủ được chia thành chính thể quân chủ tuyệt đối và chính
thể quân chủ hạn chế. Quân chủ tuyệt đối là hình thức chính thể quân chủ, trong
đó nguyên thủ quốc gia (Vua, Hoàng đế) có quyền lực vô hạn.
Trong chính thể quân chủ hạn chế thì quyền lực tối cao của nhà nước được
trao một phần cho người đứng đầu nhà nước, còn một phần được trao cho một
cơ quan khác (như Nghị viện trong nhà nước tư sản hay Hội nghị đại diện đẳng
cấp trong nhà nước phong kiến). Chính thể quân chủ hạn chế trong các nhà nước
tư sản gọi là quân chủ lập hiến (quân chủ đại nghị). Trong các nhà nước tư sản
theo chính thể quân chủ đại nghị, quyền lực của nguyên thủ quốc gia (Vua,
Hoàng đế) bị hạn chế rất nhiều. Nguyên thủ quốc gia chỉ mang tính chất tượng
trưng, đại diện cho truyền thống, sự thống nhất của quốc gia, không có nhiều
quyền hành. Chính thể quân chủ lập hiến theo mô hình đại nghị đang tồn tại ở
các nước như Nhật Bản, Thụy Điển, Vương quốc Anh…
+ Chính thể cộng hoà là hình thức chính thể, trong đó quyền lực tối cao
của nhà nước thuộc về một cơ quan được bầu ra trong một thời gian nhất định.
Chính thể cộng hoà có hai hình thức chính là cộng hoà quý tộccộng hoà dân chủ.
Cộng hòa quý tộc là hình thức chính thể, trong đó cơ quan đại diện là do
giới quý tộc bầu ra. Chính thể này tồn tại ở kiểu nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến.
Cộng hoà dân chủ là hình thức chính thể, trong đó người đại diện là do
nhân dân bầu ra. Chính thể này tồn tại ở tất cả bốn kiểu nhà nước đã có trong
lịch sử. Tuy nhiên, tính chất và mức độ dân chủ là khác nhau. Chính thể cộng
hoà dân chủ là hình thức tổ chức chính quyền nhà nước phổ biến nhất hiện nay
ở các nhà nước tư sản. Chính thể cộng hòa tư sản có hai biến dạng: Cộng hoà
đại nghị và Cộng hoà tổng thống
Trong chính thể cộng hoà đại nghị, thì nghị viện là trung tâm. Vai trò thực
thi quyền lực của Nghị viện trong nhà nước là rất lớn. Nguyên thủ quốc gia
(Tổng thống) do nghị viện bầu ra, chịu trách nhiệm trước nghị viện. Chính phủ
do các đảng chính trị chiếm đa số ghế trong nghị viện thành lập và chịu trách
nhiệm trước nghị viện, nghị viện có thể bỏ phiếu không tín nhiệm Chính phủ.
Do đó, nghị viện có khả năng thực tế kiểm tra các hoạt động của Chính phủ còn
Thủ tướng hầu như không trực tiếp tham gia giải quyết các công việc của đất
nước. Hiện nay những nước có chính thể cộng hoà đại nghị như:
CHLB Đức, CH Áo, CH Italia…
Trong chính thể Cộng hoà tổng thống, nguyên thủ quốc gia (Tổng thống)
có vị trí rất quan trọng. Tổng thống do nhân dân bầu ra. Tổng thống vừa là
nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu Chính phủ. Chính phủ không phải
do nghị viện thành lập. Các thành viên của Chính phủ do Tổng thống bổ nhiệm,
chịu trách nhiệm trước Tổng thống. Tổng thống và các Bộ trưởng có toàn quyền
trong lĩnh vực hành pháp, Nghị viện có quyền lập pháp; Nghị viện không có
quyền lật đổ chính phủ. Tổng thống không có quyền giải tán nghị viện. Các
nước tổ chức theo chính thể cộng hoà tổng thống như: Hợp chủng quốc Hoa
Kỳ, Các nước Mỹ La Tinh…
Ngoài chính thể cộng hoà đại nghị và cộng hoà Tổng thống, hiện nay còn
tồn tại một hình thức cộng hoà “lưỡng tính”, nó vừa mang tính chất cộng hoà
đại nghị vừa mang tính chất cộng hoà tổng thống.
Cộng hoà “lưỡng tính” có những đặc điểm sau: 
Nghị viện do nhân dân bầu ra; 
Tổng thống do nhân bân bầu ra có quyền hạn rất lớn kể cả
quyềngiải tán nghị viện, quyền thành lập chính phủ, giải quyết công việc quốc gia.
Tổng thống là trung tâm của bộ máy quyền lực; 
Chính phủ có Thủ tướng đứng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực
tiếpcủa Tổng thống, chịu trách nhiệm trước nghị viện và tổng thống. Điển hình
cho chính thể này là CH Pháp và một số nước Châu Âu.
Chính thể cộng hòa cũng tồn tại ở các nước XHCN với những tên gọi khác
nhau (Việt Nam, Trung Quốc…)
- Hình thức cấu trúc nhà nước
Đây là sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và xác
lập những mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước, giữa trung ương với địa phương.
Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là hình thức nhà nước đơn nhất
và hình thức nhà nước liên bang.
Nhà nước đơn nhất là nhà nước có chủ quyền chung, có hệ thống cơ quan
quyền lực và quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương và có các đơn
vị hành chính bao gồm tỉnh (thành phố), huyện (quận), xã (phường). Ví dụ: Việt
Nam, Lào, Pháp, Ba Lan …là những nước đơn nhất.
Nhà nước liên bang là nhà nước có từ hai hay nhiều nước thành viên hợp
lại. Nhà nước liên bang có hai hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý; một hệ
thống chung cho toàn liên bang và một hệ thống trong mỗi nước thành viên; có
chủ quyền quốc gia chung của nhà nước liên bang và đồng thời mỗi nước thành
viên cũng có chủ quyền riêng. Ví dụ: Mỹ, Đức, Ấn Độ, Malaixia… là các nước liên bang.
- Chế độ chính trị
Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp, thủ đoạn mà các cơ quan
nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước
Trong lịch sử, từ khi nhà nước xuất hiện cho đến nay, các giai cấp thống trị
đã sử dụng nhiều phương pháp và thủ đoạn để thực hiện quyền lực nhà nước.
Những phương pháp và thủ đoạn đó trước hết xuất phát từ bản chất của nhà
nước đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố của mỗi giai đoạn trong mỗi nước
cụ thể. Vì vậy, có rất nhiều phương pháp và thủ đoạn khác nhau nhưng tựu
chung chúng được phân thành hai loại chính là: Phương pháp dân chủ
phương pháp phản dân chủ.
Những phương pháp dân chủ cũng có nhiều loại, thể hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau như những phương pháp dân chủ thực sự và dân chủ giả hiệu,
dân chủ rộng rãi và dân chủ hạn chế, dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp…Chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa được đặc trưng bằng việc sử dụng các hình thức
dân chủ thực sự, rộng rãi với chế độ dân chủ tư sản đặc trưng bằng các phương
pháp dân chủ hạn chế và hình thức.
Các phương pháp phản dân chủ thể hiện tính chất độc tài cũng có nhiều
loại, đáng chú ý nhất là khi những phương pháp này khi phát triển đến mức độ
cao trở thành những phương pháp tàn bạo, quân phiệt và phát xít.
Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước luôn có liên quan mật
thiết với chế độ chính trị. Ba yếu tố này có tác động qua lại lẫn nhau tạo thành
khái niệm hình thức nhà nước, phản ánh bản chất và nội dung của nhà nước.
3. Chức năng của nhà nước, bộ máy nhà nước.
3.1. Chức năng
Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà
nước nhằm để thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. Chức năng của
nhà nước được xác định xuất phát từ bản chất của nhà nước, do cơ sở kinh tế
và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định. Ví dụ, các nhà nước bóc lột được xây
dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và bóc lột nhân dân lao
động cho nên chúng có những chức năng cơ bản như bảo vệ chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất, đàn áp sự phản kháng và phong trào cách mạng của nhân dân
lao động, tiến hành chiến tranh xâm lược, nô dịch các dân tộc khác…Nhà nước
xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, là công cụ
để bảo vệ lợi ích của đông đảo quần chúng lao động, vì vậy chức năng của nhà
nước xã hội chủ nghĩa khác với chức năng của nhà nước bóc lột cả về nội dung
và phương pháp tổ chức thực hiện
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước, các chức năng được chia
thành chức năng đối nội và đối ngoại.
- Chức năng đối nội: Là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong
nội bộ đất nước. Ví dụ: Đảm bảo trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống
đối chế độ, bảo vệ chế độ kinh tế…
- Chức năng đối ngoại: Thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với
các nhà nước và dân tộc khác. Ví dụ: Phòng thủ đất nước, chống sự xâm lược
từ bên ngoài, thiết lập các mối quan hệ bang giao với các quốc gia khác…
Để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều hình
thức và phương pháp hoạt động khác nhau, trong đó có 3 hình thức hoạt động chính là:  Xây dựng pháp luật
 Tổ chức và thực hiện pháp luật  Bảo vệ pháp luật
Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng nên chức năng của các nhà nước thuộc
mỗi kiểu nhà nước cũng khác nhau và việc tổ chức bộ máy để thực hiện các
chức năng đó cũng có những đặc điểm riêng.
3.2. Bộ máy của nhà nước
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan từ Trung ương đến địa phương,
bao gồm nhiều loại cơ quan như cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp…
Toàn bộ hoạt động của bộ máy nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước,
phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị.
Bộ máy nhà nước bao gồm nhiều cơ quan, mỗi cơ quan có những chức
năng, nhiệm vụ riêng phù hợp với phạm vi quyền hạn được giao. Mỗi kiểu nhà
nước có bản chất riêng nên chức năng của các nhà nước thuộc mỗi kiểu nhà
nước cũng khác nhau và việc tổ chức bộ máy để thực hiện các chức năng đó
cũng có những đặc điểm riêng.
II. Đại cương về pháp luật
1. Nguồn gốc, khái niệm và bản chất, đặc điểm pháp luật
1.1. Nguồn gốc pháp luật.
Những nguyên nhân làm phát sinh nhà nước cũng là những nguyên nhân
dẫn đến sự ra đời của pháp luật. Khi chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội đã phân
chia thành giai cấp thì những xung đột về lợi ích giai cấp diễn ra gay gắt và
cuộc đấu tranh giai cấp là không thể điều hoà được, thì cần thiết phải có một
quy phạm mới để thiết lập cho xã hội một “trật tự”, một loại quy phạm thể hiện
ý chí của giai cấp thống trị, đó là quy phạm pháp luật.
Lúc đầu, các quy tắc xử sự của pháp luật chủ yếu được hình thành bằng
việc nhà nước thừa nhận các phong tục tập quán đã có sẵn trong xã hội phù hợp
với lợi ích của giai cấp thống trị. Sau này, pháp luật được nhà nước trực tiếp đặt
ra và ban hành để toàn xã hội thực hiện.
Vì vậy, pháp luật là hệ thống các quy phạm do nhà nước ban hành, thể hiện
ý chí của giai cấp thống trị. Pháp luật ra đời cùng với nhà nước, pháp luật là
công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị và bảo vệ lợi
ích của giai cấp thống trị. Nhà nước ban hành ra pháp luật và đảm bảo cho pháp
luật được thực hiện. Cả hai hiện tượng đều là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp.
1.2. Khái niệm và bản chất pháp luật. 1.2.1. Khái niệm
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm

thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều
chỉnh các quan hệ xã hội.

1.2.2. Bản chất
Học thuyết Mác-Lênin chỉ rõ, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại và phát triển
trong xã hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của nó,
không có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật không mang tính giai cấp.
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện trước hết ở chỗ, pháp luật phản ánh ý
chí nhà nước của giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai
cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một
cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hoá thành ý chí nhà nước, ý chí đó được
cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành. Nhà nước ban hành và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện. Vì vậy,
pháp luật là những quy tắc xử sự chung có tính bắt buộc đối với mọi người.
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội. Do đó, pháp luật là nhân tố điều chỉnh về mặt giai
cấp các quan hệ xã hội nhằm hướng các quan hệ xã hội pháp triển theo một
“trật tự” phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa vị của
giai cấp thống trị. Vì vậy, pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị
giai cấp. Bất kỳ kiểu pháp luật nào cũng mang bản chất giai cấp.
Pháp luật chủ nô công khai quy định quyền lực vô hạn của chủ nô, tình
trạng vô quyền của nô lệ. Pháp luật phong kiến công khai quy định đặc quyền,
đặc lợi của địa chủ phong kiến, quy định các chế tài hà khắc dã man để đàn áp
nhân dân lao động. Pháp luật tư sản thể hiện bản chất giai cấp một cách tinh vi
như quy định về mặt pháp lý những quyền tự do, dân chủ… nhưng thực chất
pháp luật tư sản luôn thể hiện ý chí của giai cấp tư sản và mục đích trước hết
nhằm phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản.
Pháp luật XHCN thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, là công cụ để xây dựng xã hội mới, mọi người đều được sống tự do, bình
đẳng, công bằng xã hội được bảo đảm.
Bên cạnh tính giai cấp pháp luật còn mang tính xã hội. Nghĩa là ở mức độ
nhiều hay ít pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội.
Như vậy, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp vừa thể hiện
tính xã hội. Hai thuộc tính này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Do đó, không
có pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp; ngược lại không có pháp luật
chỉ thể hiện tính xã hôi
1.2.3. Đặc điểm pháp luật
Nhìn một cách tổng quát, pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau:
- Tính quyền lực (tính nhà nước, tính cưỡng chế): Pháp luật do nhà nước
ban hành và bảo đảm thực hiện. Nói một cách khác, pháp luật được hình thành
và phát triển bằng con đường nhà nước chứ không thể bằng bất kỳ con đường
nào khác. Với tư cách của mình, nhà nước là một tổ chức hợp pháp, công khai
và có quyền lực bao trùm toàn xã hội.
Vì vậy, khi pháp luật được nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, nó sẽ
có sức mạnh của quyền lực nhà nước và có tác động đến tất cả mọi người.
- Tính quy phạm: Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự, đó là những khuôn
mẫu được xác định cụ thể, không trìu tượng, chung chung. Điều này nói lên
giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để mọi người có thể xử sự một cách
tự do trong khuôn khổ pháp luật. Vượt quá giới hạn đó là trái pháp luật, những
giới hạn đó được xác định như cho phép, cấm đoán, bắt buộc…Vì vậy, nếu
không có quy phạm pháp luật được đặt ra thì cũng không thể quy kết một hành
vi nào là vi phạm, là trái pháp luật. “mọi người được làm tất cả mọi việc trừ
những điều mà pháp luật nghiêm cấm”, “mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật”
được hình thành là dựa trên cơ sở của đặc trưng về tính quy phạm của pháp luật.
- Tính ý chí: Pháp luật bao giờ cũng là hiện tượng ý chí, không phải là kết
quả của sự tự phát hay cảm tính. Về bản chất, ý chí của pháp luật là ý chí của
giai cấp thống trị, giai cấp cầm quyền. Ý chí đó thể hiện rõ ở mục đích xây dựng
pháp luật, nội dung pháp luật khi áp dụng vào đời sống xã hội.
- Tính xã hội: Bên cạnh tính ý chí thì tính xã hội vẫn là một đặc trưng cơ
bản của pháp luật. Bởi vì trong thực tế, bên cạnh các quy tắc xử sự bị chi phối
bởi lợi ích của giai cấp thống trị còn có các quy tắc xử sự khác xuất phát từ nhu
cầu chung của đời sống xã hội. Những quy tắc đó điều chỉnh các hành vi, cách
xử sự mang tính phổ biến phù hợp với lợi ích của đa số trong cộng đồng phản
ánh các nhu cầu, quy luật tồn tại khách quan của xã hội mà bất kỳ xã hội nào cũng phải tuân theo.
Những đặc trưng cơ bản trên của pháp luật càng cho thấy bản chất và sự
khác biệt giữa pháp luật với các hiện tượng khác. Bốn đặc trưng cơ bản đó đều
có ý nghĩa quan trọng và có quan hệ với nhau, không thể chú trọng điểm này mà coi nhẹ điểm kia.
2. Mối quan hệ giữa pháp luật với các hiện tượng xã hội.
Để giải thích rõ bản chất của pháp luật cần thiết phải phân tích các mối
quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo đức và nhà nước.
- Quan hệ pháp luật – kinh tế: Pháp luật có tính độc lập tương đối. Một
mặt, pháp luật phụ thuộc vào kinh tế; mặt khác, pháp luật có sự tác động trở lại
một cách mạnh mẽ đối với kinh tế. Sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế thể
hiện ở chỗ nội dung của pháp luật là do các quan hệ kinh tế - xã hội quyết định,
kinh tế là cơ sở của pháp luật. Sự thay đổi chế độ kinh tế - xã hội sẽ dẫn đến sự
thay đổi của pháp luật. Pháp luật luôn phản ánh trình độ phát triển của chế độ
kinh tế, nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó.
Mặt khác, pháp luật có sự tác động trở lại đối với sự phát triển của kinh tế.
Sự tác động đó có thể là tích cực cũng có thể là tiêu cực. Sẽ là tiến bộ khi pháp
luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội, phản
ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế. Sẽ là tiêu cực khi pháp luật thể hiện ý
chí của giai cấp thống trị đã lỗi thời, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của kinh tế - xã hội.
- Quan hệ pháp luật – chính trị: Pháp luật là một trong những hình thức
biểu hiện cụ thể của chính trị. Đường lối, chính sách của giai cấp thống trị luôn
giữ vai trò chủ đạo đối với pháp luật. Mặt khác, chính trị còn là sự thể hiện mối
quan hệ giữa các giai cấp và các lực lượng khác nhau trong xã hội trên tất cả
các lĩnh vực. Vì vậy, pháp luật không chỉ phản ánh các chính sách kinh tế mà
còn thể hiện các quan hệ giai cấp, phản ánh đối sánh giai cấp và mức độ của
cuộc đấu tranh giai cấp.
- Quan hệ pháp luật – đạo đức: Pháp luật chịu sự tác động của đạo đức và
các quy phạm xã hội khác nhưng pháp luật có sự tác động mạnh mẽ tới các hiện
tượng đó và thậm chí trong một chừng mực nhất định, nó còn có khả năng cải
tạo các quy phạm đạo đức và các quy phạm xã hội khác.
- Quan hệ pháp luật – nhà nước: Nhà nước và pháp luật luôn có mối quan
hệ khăng khít, không thể tách rời nhau. Cả nhà nước và pháp luật đều có chung
nguồn gốc, cùng phát sinh và phát triển. Nhà nước là một tổ chức đặc biêt của
quyền lực chính trị, nhưng quyền lực đó chỉ có thể được triển khai và phát huy
có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật. Do vậy, nhà nước không thể tồn tại và phát
huy quyền lực nếu thiếu pháp luật và ngược lại pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại
và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà nước.
Vì vậy, không thể nói pháp luật đứng trên nhà nước hay nhà nước đứng
trên pháp luật. Đồng thời, khi xem xét các vấn đề nhà nước và pháp luật phải
đặt chúng trong mối quan hệ qua lại với nhau.
3. Kiểu và hình thức pháp luật.
3.1. Các kiểu pháp luật
Kiểu pháp luật là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù của
pháp luật, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại và phát triển của
pháp luật trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Đặc điểm của mỗi hình thái kinh tế - xã hội trong xã hội có giai cấp sẽ
quyết định những dấu hiệu cơ bản của pháp luật. Phù hợp với điều đó, trong
lịch sử đã tồn tại bốn kiểu pháp luật:  Kiểu pháp luật chủ nô;
 Kiểu pháp luật phong kiến;
 Kiểu pháp luật tư sản;  Kiểu pháp luật XHCN;
Ba kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến và tư sản là những kiểu pháp luật bóc
lột được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Chúng có
đặc điểm chung là thể hiện ý chí của giai cấp bóc lột trong xã hội, củng cố và
bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, bảo đảm về mặt pháp lý sự áp bức bóc
lột của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động, duy trì tình trạng bất bình đẳng trong xã hội.
Khác với các kiểu pháp luật trên, pháp luật XHCN được xây dựng trên cơ
sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thể hiện ý chí của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội. Pháp luật XHCN
thủ tiêu mọi hình thức áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội bình đẳng, tự do.
Sự thay thế kiểu pháp luật này bằng một kiểu pháp luật khác tiến bộ hơn là
một quy luật tất yếu. Sự thay thế các kiểu pháp luật gắn liền với sự thay thế của
các hình thái kinh tế xã hội tương ứng. Cách mạng là con đường dẫn đến sự
thay thế đó. Và kết quả là: Pháp luật phong kiến thay thế pháp luật chủ nô; pháp
luật tư sản thay thế pháp luật phong kiến; pháp luật XHCN thay thế pháp luật
tư sản. Trong tương lai Pháp luật XHCN sẽ tiêu vong và không còn kiểu pháp luật nào thay thế nữa.
3.2. Hình thức pháp luật
Hình thức pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý
chí của giai cấp mình lên thành pháp luật.
Trong lịch sử đã có 3 hình thức pháp luật là: Tập quán pháp; tiền lệ pháp và văn bản pháp luật.
3.2.1. Tập quán pháp
Là hình thức nhà nước thừa nhận một số tập quán đã lưu truyền trong xã
hội, phù hợp lợi ích của giai cấp thống trị, nâng chúng thành những quy tắc xử
sự chung được nhà nước bảo đảm thực hiện. Đây là hình thức pháp luật xuất
hiện sớm nhất và được sử dụng nhiều trong các nhà nước chủ nô và phong kiến.
Trong nhà nước tư sản, hình thức này vẫn được sử dụng nhiều, nhất là ở các
nhà nước có chế độ quân chủ.
Các nhà nước XHCN trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH vẫn còn thừa nhận
một số tập quán tiến bộ như truyền thống đạo đức dân tộc…tuy nhiên ở mức độ
hạn chế. Bởi vì tập quán hình thành một cách tự phát, ít biến đổi và có tính cục
bộ, không phù hợp với bản chất của pháp luật XHCN.
3.2.2. Tiền lệ pháp
Là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan hành chính
hoặc xét xử giải quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng đối với các vụ việc
tương tự. Hình thức này được sử dụng trong các nhà nước phong kiến và hiện
nay vẫn chiếm vị trí quan trọng trong pháp luật tư sản, nhất là ở Anh, Mỹ.
Tiền lệ pháp hình thành không phải do hoạt động của cơ quan lập pháp mà
xuất hiện từ hoạt động của các cơ quan hành pháp và tư pháp. Vì vậy, hình thức
này dễ tạo ra sự tùy tiện, không phù hợp với các nguyên tắc pháp chế đòi hỏi
phải tôn trọng nguyên tắc tối cao của luật và việc phân định rõ chức năng, quyền
hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật.
3.2.3. Văn bản quy phạm pháp luật
Là hình thức pháp luật tiến bộ nhất. Văn bản quy phạm pháp luật là văn
bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong đó quy định những quy
tắc xử sự chung được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội. Có nhiều loại
văn bản văn bản pháp luật. Ở mỗi nước, trong những điều kiện cụ thể có những
quy định riêng về tên gọi và hiệu lực pháp lý của các loại văn bản pháp luật.
Nhưng nhìn chung, các văn pháp luật đều được ban hành theo một trình tự, thủ
tục nhất định và chứa đựng những quy định cụ thể.
Trong pháp luật chủ nô và phong kiến, các văn bản pháp luật còn chưa
hoàn chỉnh và kỹ thuật xây dựng chưa cao. Nhiều đạo luật chỉ là sự ghi chép lại
một cách có hệ thống các án lệ và các tập quán được thừa nhận. Pháp luật tư
sản đã có nhiều hình thức văn bản phong phú và được xây dựng với kỹ thuật cao.
Pháp luật XHCN có hệ thống các văn bản thống nhất được xây dựng theo
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, tôn trọng tính tối cao của hiến pháp và
luật. Hệ thống các văn bản pháp luật XHCN ngày càng được xây dựng hoàn
chỉnh, đồng bộ với kỹ thuật cao phản ánh đúng bản chất của pháp luật XHCN.
Ở nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về nguyên tắc thì nhà nước không
thừa nhận tập quán pháp và tiền lệ pháp mà chỉ có một hình thức duy nhất là
văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong điều kiện mà các văn bản quy
phạm pháp luật còn chưa hoàn thiện, chưa điều chỉnh hết các quan hệ xã hội.
Và đứng trước yêu cầu cấp bách cần phải giải quyết ngay một số vụ việc cần
thiết thì nhà nước sử dụng tiền lệ pháp nhưng với cách làm mới. Chẳng hạn,
tổng kết quá trình giải quyết một số vụ việc cụ thể, điển hình để đề ra đường lối
hướng dẫn giải quyết các vụ việc tương tự trong khi hệ thống pháp luật còn
thiếu. Và khi hệ thống pháp luật được xây dựng đồng bộ, hoàn chỉnh thì hình
thức này sẽ thu hẹp dần và tiến tới không còn tồn tại trong nhà nước ta. CHƯƠNG 2
BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. Giới thiệu về Hiến pháp Việt Nam 1. Lược sử
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
phong kiến với chính thể quân chủ chuyên chế nên không có hiến pháp. Vào
những năm đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng dân chủ tư
sản Pháp năm 1789, ảnh hưởng của cách mạng Trung Hoa năm 1911 và chính
sách duy tân và Minh Trị thiên hoàng đã áp dụng tại Nhật Bản, giới trí thức Việt
Nam đã xuất hiện tư tưởng lập hiến.
Có hai khuynh hướng chính trị chủ yếu trong thời gian này.
- Khuynh hướng thứ 1: Xây dựng nhà nước quân chủ lập hiến trong sự thừa
nhận quyền bảo hộ của chính phủ Pháp.
- Khuynh hướng thứ 2: Chủ trương giành độc lập, tự do cho dân tộc, sau
đó xây dựng hiến pháp của nhà nước độc lập.
Ngay sau khi nước Việt Nam DCCH ra đời, trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ, Hồ Chủ tịch đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ, một trong
những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng hiến pháp. Ngày 9/11/1946 Quốc hội
đã thông qua bản hiến pháp đầu tiên của nước ta.
Hiến pháp 1946 bao gồm lời nói đầu, 7 chương và 70 điều. Lời nói đầu xác
định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc
lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ.
Hiến pháp năm 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của nước ta, là bản hiến pháp
dân chủ, tiến bộ không kém bất kì một bản hiến pháp nào trên thế giới. Về kỹ
thuật lập pháp, Hiến pháp năm 1946 là một bản hiến pháp cô đọng, khúc chiết,
mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người.
Ngay sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1946, thực dân Pháp lại
gây ra chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa. Nhân dân ta lại bước vào cuộc
kháng chiến trường kì và gian khổ. Với chiến thắng Điện Biên Phủ và Hội nghị
Giơnevơ, miền bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước tạm thời
bị chia cắt hai miền. Vì vậy, trong kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội nước Việt Nam
DCCH khóa I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946.
Ngày 31/12/1959, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi. Hiến
pháp năm 1959 gồm có lời nói đầu và 112 điều, chia làm 10 chương. Là bản
hiến pháp được xây dựng theo mô hình hiến pháp XHCN. Nó là bản hiến pháp
XHCN đầu tiên của nước ta.
Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 đã mở ra
một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc ta. Đất nước hoàn toàn độc lập, tự do là
điều kiện thuận lợi để thống nhất hai miền, đưa cả nước quá độ lên CNXH. Sau
một thời gian thảo luận, Quốc hội khóa VI tại kì họp thứ 7 (18/12/1980) đã nhất
trí thông qua Hiến pháp 1980. Hiến pháp năm 1980 bao gồm lời nói đầu, 147
điều chia làm 12 chương.
Ngay trong lời nói đầu của hiến pháp khẳng định truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta, ghi nhận những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân ta đã giành được trong
cuộc Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mĩ xâm lược và bè lũ tay sai. Xác định những nhiệm
vụ của cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới và nêu lên những vấn đề cơ
bản mà Hiến pháp 1980 đề cập. Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp của thời kì
quá độ lên CNXH trong phạm vi cả nước. Tuy có nhiều nhược điểm nhưng Hiến
pháp năm 1980 là một cái mốc quan trong trong lịch sử lập hiến của nước ta.
Sau một thời gian phát huy hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp năm
1980 tỏ ra không phù hợp. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một
bản hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng
cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã mở ra thời kì đổi mới ở nước
ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những sai lầm của
Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ XHCN, phát huy tư duy độc lập, sáng
tạo của các tầng lớp nhân dân lao động, trên cơ sở đó có những nhận thức đúng
đắn về CNXH và vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng
một xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng và văn minh.
Ngày 15 tháng 4 năm 1992 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp. Việc soạn
thảo và ban hành Hiến pháp năm 1992 là một quá trình thảo luận dân chủ và
chắt lọc một cách nghiêm túc những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân
dân về tất cả các vấn đề từ quan điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Đây là bản
hiến pháp của Việt Nam trong quá trình đổi mới, là sản phẩm trí tuệ của toàn
dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước.
2. Các nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1992
Hiến pháp năm 1992 là văn bản pháp luật hiện hành có giá trị pháp lý cao
nhất thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống. Hiến pháp năm
1992 đã được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam Khoá VIII, kỳ họp
thứ 11, thông qua ngày 15 tháng 4 năm 1992 và đã được sửa đổi bổ sung theo
Nghị quyết của Quốc hội số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001.
Hiến pháp năm 1992 gồm 12 chương, 147 điều.
Từ Chương I đến Chương III quy định: Về chế độ chính trị; chế độ văn hoá,
giáo dục, khoa học, công nghệ;
Chương IV : Bảo vệ Tổ quốc XHCN;
Chương V: Về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân;
Chương VI đến Chương X quy định: Về bộ máy nhà nước;
Chương XI: Quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, thủ đô, ngày quốc khánh
Chương XII: Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
II.1.Chế độ chính trị
Chế độ chính trị là tổng thể các quy định về những vấn đề có tính chất
nguyên tắc chung làm nền tảng cho các chương sau của Hiến pháp.
Đó là những quy định về: - Bản chất Nhà nước;
- Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội;
- Những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Về bản chất nhà nước, Hiến pháp 1992 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội mang tính
quy luật khách quan. (Điều 4).
Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng
nhân dân (HĐND) các cấp - là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện
của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá
nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo
và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên được xác định là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
2.2. Chế độ kinh tế
Chế độ kinh tế là một hệ thống quan hệ kinh tế được xây dựng trên một cơ
sở vật chất - kỹ thuật nhất định thể hiện tính chất và hình thức sở hữu đối với
tư liệu sản xuất, các nguyên tắc sản xuất, phân phối và tiêu dùng sản phẩm xã
hội và tổ chức nền kinh tế.
- Hiến pháp 1992 ghi nhận sự tồn tại và bảo hộ các hình thức sở hữu:
Sởhữu toàn dân (sở hữu nhà nước), sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.
- Trên cơ sở các hình thức sở hữu cơ bản, Nhà nước thực hiện nhất
quánchính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng.
Các thành phần kinh tế gồm: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá
thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài
dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế
giới. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN. Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh
tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm;
cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.
2.3 Chính sách văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ.
- Về văn hoá: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa và phát huy những giá trị văn
hoá các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân”.

Nhà nước tạo điều kiện để công dân phát triển toàn diện, giáo dục ý thức
công dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, giữ gìn thuần phong,
mỹ tục xây dựng gia đình có văn hoá, hạnh phúc, có tinh thần yêu nước, yêu
chế độ XHCN, có tinh thần quốc tế chân chính, hữu nghị và hợp tác với các dân
tộc trên thế giới. Văn hoá, văn học, nghệ thuật, thông tin, báo chí, phát thanh,
truyền hình, điện ảnh, xuất bản…được Nhà nước đầu tư phát triển.
- Chính sách giáo dục: Điều 35 Hiến pháp quy định: “Phát triển giáo dục
là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là nhằm
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào
tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân
tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác
và thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình,
nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống
văn bằng; phát triển cân đối hệ thống giáo dục gồm giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học. Thực
hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở; phát triển các hình thức trường quốc lập,
dân lập và các hình thức giáo dục khác.
- Chính sách khoa học và công nghệ. Hiến pháp 1992 quy định: “Phát
triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Khoa học và công nghệ
giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học, công nghệ quốc gia; xây
dựng nền khoa học công nghệ tiên tiến…”
(Điều 37). Nhà nước đầu tư và
khuyến khích tài trợ cho khoa học bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, ưu tiên
khoa học, công nghệ mũi nhọn; chăm lo đào tạo và sử dụng hợp lý đội ngũ cán
bộ khoa học, kỹ thuật nhất là những người có trình độ cao, công nhân lành nghề
và nghệ nhân; tạo điều kiện để các nhà khoa học sáng tạo và cống hiến; gắn
nghiên cứu khoa học với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp chặt chẽ
giữa nghiên cứu khoa học, đào tạo với sản xuất, kinh doanh (Điều 38).
2.4. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Ở Việt Nam, “Các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và
xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong
Hiến pháp và luật”
(Điều 50).
Nguyên tắc cơ bản khi xác định quyền và nghĩa vụ của công dân là: “Mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật”, bình đẳng về hưởng quyền và thực
hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội, quyền và nghĩa vụ của công dân không tách rời nhau.
- Các quyền về chính trị:
Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận
các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước,
biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý.
Công dân đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và 21 tuổi trở lên đều có
quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND theo quy định của pháp luật mà không phân
biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá,
nghề nghiệp, thời hạn cư trú.
- Các quyền về kinh tế, văn hoá, xã hội.
Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật, có quyền
thành lập doanh nghiệp, có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp
hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
Mọi công dân đều có quyền lao động, quyền được học tập, quyền được
nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ
thuật…quyền được bảo vệ sức khoẻ, quyền bình đẳng nam nữ, quyền được nhà
nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, hôn nhân, gia đình… -
Các quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân.

Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội,
biểu tình theo quy định của pháp luật, tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, chổ ở, được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm, quyền bí mật thư tín…quyền tự do đi lại và cư trú.
- Các nghĩa vụ của công dân
Công dân nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phải trung thành với Tổ quốc;
có nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý là bảo vệ Tổ quốc, phải làm nghĩa
vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân; có nghĩa vụ tôn trọng
và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng; có nghĩa vụ tuân theo Hiến
pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, giữ