



















Preview text:
  
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI   
KHOA  CHÍNH TRỊ  - QPAN  –   GDTC  *****                         
TÀI LIỆU HỌC TẬP VÀ ÔN TẬP     MÔN   
 PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐẠI CƯƠNG    
( Lưu hành nội bộ )                                       
HÀ NỘI, 2020          Phần 1.  
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT    
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT     
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỂ NHÀ NƯỚC    
1.1.1. Nguồn gốc của Nhà nước  
Vấn đề về nguồn gốc của nhà nước luôn là chủ đề nổi bật trong cuộc đấu tranh tư 
tưởng trên thế giới trong mọi thời đại. Từ thời trung cổ, nhiều nhà tư tưởng đã đưa ra 
những lý giải về nguồn gốc nhà nước và cho đến nay về vấn đề nguồn gốc nhà nước vẫn 
là chủ đề nổi bật trong cuộc đấu tranh tư tưởng trên thế giới. Nhìn nhận một cách khái 
quát chúng ta có thể phân chia những quan điểm, học thuyết về nguồn gốc của nhà nước 
thành hai loại: học thuyết Mác- Lênin về nguồn gốc của nhà nước và học thuyết khác về 
nguồn gốc của nhà nước (còn gọi là các học thuyết phi mácxit). 
* Một số quan điểm phi macxit về nguồn gốc của Nhà nước  
Ngay từ thời cổ, trung đại đã có nhiều nhà tư tưởng từ góc độ tiếp cận khác nhau đưa 
ra những lý giải khác nhau về nguồn gốc của nhà nước. Dưới đây là một số học thuyết cơ 
bản về nguồn gốc của nhà nước 
Theo thuyết thần học: Thuyết này cho rằng Nhà nước là sản phẩm sáng tạo của 
thượng đế và người đứng đầu Nhà nước do thượng đế sai khiến xuống để trị vì thiên hạ. 
Do vậy, nhà nước có một quyền lực hết sức to lớn và mang tính vĩnh cửu. Quyền lực nhà 
nước là quyền lực của thượng đế và sự phục tùng quyền lực đó là cần thiết, tất yếu đối với 
tất cả các thành viên trong xã hội. 
Theo thuyết gia trưởng: Nhà nước là kết quả liên kết của nhiều gia đình, là hình 
thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người, vì vậy, nhà nước có trong mọi xã hội và 
quyền lực nhà nước về bản chất cũng giống quyền lực gia trưởng của người đứng đầu gia 
đình. Nói cách khác, nhà nước được quan niệm như là một gia tộc mở rộng và quyền lực 
nhà nước là quyền lực gia trưởng mở rộng. 
Thuyết khế ước: Nhà nước là sản phẩm của một khế ước (hợp đồng) do con người 
sống trong trạng thái tự nhiên tạo ra. Do đó, khi Nhà nước ra đời trên cơ sở khế ước của 
xã hội thì Nhà nước đó phải phục tùng xã hội, phải phục vụ lợi ích của tất cả các thành 
viên của khế ước, nếu không, các thành viên của khế ước sẽ huỷ bỏ khế ước đó làm cho 
Nhà nước bị tiêu vong và lập ra một khế ước mới. Tiêu biểu cho thuyết này là các nhà tư 
sản như: Jean Bodin (1530-1596); S.L Montesquieu (1689-1775); Denis Diderot (1713- 1784)… 
Thuyết bạo lực: Nhà nước xuất hiện từ các cuộc chiến tranh xâm chiếm đất đai giữa 
các thị tộc, bộ lạc mà bên nào dành chiến thắng có quyền đặt ra một hệ thống cơ quan đặc 
biệt (NN) để nô dịch kẻ bại trận. 
 Thuyết tâm lý: Cho rằng NN xuất hiện do nhu cầu tâm lý của con người luôn muốn 
phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ... 
Nhìn chung, tất cả các quan điểm trên hoặc do nhận thức còn hạn chế nên không 
hiểu, hoặc do bị chi phối bởi lợi ích của giai cấp nên cố tình giải thích sai những nguyên 
nhân đích thực làm phát sinh nhà nước, nhằm che giấu bản chất của sự vận động xã hội 
dẫn đến sản phẩm tất yếu là nhà nước. Đa số họ đều xem xét sự ra đời của nhà nước tách 
rời những điều kiện vật chất của xã hội, tách rời những nguyên nhân kinh tế và chứng 
minh rằng nhà nước là một thiết chế phải có của mọi xã hội, một lực lượng cần thiết cho 
phép mọi người cùng có thể tồn tại được. 
* Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về nguồn gốc của Nhà nước  
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin, Nhà nước là một phạm trù lịch 
sử chứ không phải một hiện tượng vĩnh cửu. Nhà nước có quá trình phát sinh, phát triển 
và tiêu vong. Xã hội loại người đã trải qua thời kì không có nhà nước, chỉ khi xã hội phát 
triển đến một giai đoạn nhất định thì nhà nước mới xuất hiện. Sự ra đời của nhà nước được 
trình bày chủ yếu trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà  nước”. 
- Chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc - bộ lạc  
Chế độ cộng sản nguyên thuỷ là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên của loài người. 
Trong xã hội này không tồn tại giai cấp và chưa có nhà nước, nhưng nguyên nhân làm ra 
đời nhà nước lại phát sinh từ đây. Vì vậy, việc nghiên cứu về xã hội cộng sản nguyên thủy 
sẽ là cơ sở để giải thích nguyên nhân làm phát sinh nhà nước và pháp luật, tạo điều kiện 
để hiểu rõ bản chất của chúng. Để tìm hiểu về xã hội cộng sản nguyên thủy, trước hết cần 
nghiên cứu cơ sở kinh tế của nó, vì cơ sở kinh tế là yếu tố cơ bản quyết định đời sống xã  hội. 
+ Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thuỷ: là chế độ sở hữu chung về tư liệu 
sản xuất và sản phẩm lao động xã hội. Mọi người trong xã hội đều lao động và hưởng thụ 
thành quả lao động như nhau. Đây là thời kỳ mà trình độ của lực lượng sản xuất tháp kém, 
công cụ lao động thô sơ, nhận thức của con người còn hết sức đơn giản, họ chưa nhận 
thức đúng đắn về về thiên nhiên và về bản thân mình, họ luôn luôn trong tình trạng mềm 
yếu, hoảng sợ và bất lực trước những tai họa của thiên nhiên… Trong những điều kiện và 
hoàn cảnh đó, con người không thể sống riêng biệt mà phải dựa vào nhau, cùng chung 
sống, cùng lao động và cùng hưởng thụ. Do vậy, mọi người đều bình đẳng trong lao động 
và hưởng thụ, không ai có tài sản riêng, không có người giàu, kẻ nghèo, không có tình 
trạng người này chiếm đoạt tài sản của người kia. Xã hội chưa phân chia thành giai cấp 
và chưa có đấu tranh giai cấp. 
+ Cơ sở xã hội: Cộng đồng người nguyên thuỷ hoàn toàn tự do, bình đẳng với nhau 
về quyền và nghĩa vụ, không ai có đặc quyền, đặc lợi. Tổ chức xã hội đơn giản, tế bào cơ 
sở của xã hội không phải là gia đình mà là thị tộc, được tổ chức theo huyết thống. Ở giai 
đoạn đầu do những điều kiện về kinh tế, xã hội và hôn nhân, do phụ thuộc nhiều vào địa 
vị chủ đạo của người phụ nữ trong thị tộc, các thị tộc đã được tổ chức theo chế độ mẫu 
hệ. Dần dần sự phát triển của kinh tế xã hội đã tác động làm thay đổi quan hệ trong hôn 
nhân; mặt khác địa vị của người phụ nữ trong thị tộc cũng thay đổi. Người đàn ông giữ 
vai trò chủ đạo trong đời sống thị tộc và chế độ mẫu hệ đã chuyển thành chế độ phụ hệ. 
Thị tộc là tổ chức tế bào cơ sở của xã hội cộng sản nguyên thủy, là một cộng đồng 
xã hội độc lập. Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc. Quyết định của 
hội đồng thị tộc là bắt buộc đối với mọi người nhưng cùng với sự phát triển của xã hội, 
do nhiều yếu tố khác nhau tác động, trong đó có sự tác động của chế độ ngoại tộc hôn, 
các thị tộc đã mở rộng quan hệ với nhau, dẫn đến sự xuất hiện của các bào tộc và bộ lạc. 
Bào tộc là một liên minh bao gồm nhiều thị tộc hợp lại. Tổ chức quyền lực của bào 
tộc đã thể hiện sự tập trung quyền lực cao hơn. Hội đồng bào tộc chỉ bao gồm các tù 
trưởng, thủ lĩnh quân sự của các thị tộc. Mặc dù phần lớn các công việc quan trọng trong 
bào tộc vẫn do hội nghị tất cả các thành viên của bào tộc quyết định, nhưng trong nhiều 
trường hợp chỉ do hội đồng bào tộc quyết định. 
Bộ lạc bao gồm nhiều bào tộc. Tổ chức quyền lực trong bộ lạc thể hiện mức độ tập 
trung quyền lực cao hơn bào tộc. Tuy nhiên ở đây, quyền lực vẫn mang tính xã hội, chưa  mang tính giai cấp. 
Tóm lại: Chế độ Cộng sản nguyên thủy là chế độ trong đó đã có quyền lực nhà nước, 
nhưng đó là thứ quyền lực xã hội được tổ chức và thực hiện dựa trên cơ sở của những 
nguyên tắc dân chủ thực sự, quyền lực xuất phát từ xã hội và phục vụ cho lợi ích của cộng 
đồng. Các quan hệ xã hội duy trì được là do sức mạnh của phong tục tập quán, nhờ có sự 
kính trọng đối với các bô lão. 
- Sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện nhà nước  
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phân công lao động theo hướng chuyên 
môn hoá làm cho năng suất lao động tăng nhanh kéo theo trình độ sản xuất phát triển; đời 
sống vật chất và tinh thần của xã hội dần dần tạo ra những tiền đề cho sự tan rã của chế 
độ cộng sản nguyên thủy. 
Giai cuối của thời kì cộng sản nguyên thủy, đã có 3 lần phân công lao động xã hội, 
tạo ra những tiền đề mới dẫn đến sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy: 
- Lần thứ nhất: Nghề chăn nuôi phát triển mạnh mẽ và tách ra khỏi trồng trọt 
Trong lao động và cùng với lao động cong người được phát triển, hoạt động của con 
người ngày càng phong phú, chủ động và tự giác hơn. Việc con người thuần dưỡng được 
động vật đã trở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của xã hội loài người. Chính đàn 
gia súc được thuần dưỡng đã trở thành nguồn tích luỹ tài sản quan trọng, là mầm mống 
sinh ra chế độ tư hữu. Nghề chăn nuôi phát triển rất mạnh làm xuất hiện ngày càng nhiều 
những gia đình chuyên làm nghề chăn nuôi và dần dần chăn nuôi đã trở thành một ngành 
kinh tế độc lập tách ra khỏi ngành trồng trọt. 
Lần phân công lao động này đã tạo ra những biến đổi sâu sắc trong xã hội. Bên cạnh 
ngành chăn nuôi phát triển mạnh mẽ, ngành trồng trọt cũng có những bước phát triển mới, 
năng suất lao động tăng nhanh, sản phẩm trong xã hội làm ra ngày càng nhiều. Do đó, đã 
xuất hiện những sản phẩm lao động dư thừa. Sự phát triển mạnh mẽ của nghề chăn nuôi 
và trồng trọt đã đặt ra nhu cầu về sức lao động. Vì thế những tù binh bị bắt trong chiến 
tranh không bị giết như trước kia mà được giữ lại làm nô lệ để phục vụ cho nhu cầu chăn 
nuôi và trồng trọt. Đó cũng chính là mầm mống của chế độ chiếm hữu nô lệ sau này. 
Như vậy, sau lần phân công lao động này, chế độ tư hữu đã xuất hiện, xã hội đã phân 
chia thành người giàu, người nghèo. Chế độ tư hữu xuất hiện đã làm thay đổi chế độ hôn 
 nhân, chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã thay thế cho chế độ quần hôn. Đồng thời với 
sự thay đổi đó, người chồng chở thành người chủ gia đình và có quyền quyết định, “gia 
đình cá thể đã trở thành một lực lượng và đang đe dọa thị tộc”1 
- Lần thứ hai: Thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp 
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của chăn nuôi và trồng trọt thì thủ công nghiệp cũng 
phát triển. Việc con người tìm ra kim loại, đặc biệt là sắt đã tạo ra khả năng có thể trồng 
trọt trên những diện tích rộng lớn hơn, có thể khai hoang cả những miền rừng rú. Sắt mang 
lại cho người thợ thủ công nghiệp những công cụ lao động có giá trị. Nghề dệt, nghề chế 
tạo đồ kim loại và những nghề thủ công khác ngày càng được chuyên môn hoá đã làm cho 
sản phẩm làm ra ngày càng nhiều loại và hoàn hảo hơn. Bên cạnh đó, ngoài ngũ cốc, các 
loại đỗ và hoa quả, nông nghiệp còn cung cấp cả dầu thực vật và rượu vang… Một hoạt 
động nhiều mặt như thế tất yếu sẽ dẫn đến sự phân công lao động xã hội. 
- Lần thứ ba: Buôn bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện 
Nền sản xuất đã tách ra thành các ngành sản xuất riêng, làm xuất hiện nhu cầu trao 
đổi và sản xuất hàng hoá ra đời. Nền sản xuất hàng hoá xuất hiện thì đồng thời thương 
nghiệp cũng phát triển dẫn đến lần phân công lao động xã hội tiếp theo. Đây là lần phân 
công lao động giữ vai trò rất quan trọng và có một ý nghĩa quyết định. Sự phân công lần 
này nảy sinh ra một giai cấp không còn tham gia vào sản xuất nữa, mà chỉ làm công việc 
trao đổi sản phẩm, đó là giai cấp thương nhân. Nếu hai lần phân công lao động xã hội 
trước, những nguyên nhân của sự hình thành giai cấp đều chỉ gắn liền với sản xuất mà 
thôi, thì ở lần phân công lao động xã hội thứ ba này, “lần đầu tiên xuất hiện một giai cấp 
tuy không tham gia sản xuất một tý nào, nhưng lại chiếm toàn bộ quyền lãnh đạo sản xuất 
và bắt những người sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế…và bóc lột cả hai”, “một 
giai cấp mà lịch sử loài người trước đó chưa hề biết đến”. 
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự xuất hiện những yếu tố mới làm 
đảo lộn đời sống của thị tộc. Tổ chức thị tộc không còn phù hợp với các yếu tố mới xuất 
hiện đó. Mặt khác, với sự phát triển của các ngành kinh tế, sản phẩm làm ra ngày càng 
nhiều, đã phát sinh khả năng chiếm đoạt những xản phẩm dư thừa làm của riêng làm xuất 
hiện chế độ tư hữu. Những người có tư liệu sản xuất trở thành giai cấp thống trị, những 
người có ít hoặc không có tư liệu sản xuất trở thành giai cấp bị trị. Mâu thuẫn về lợi ích 
giữa hai giai cấp này ngày càng quyết liệt, khi đó tổ chức thị tộc không thể điều hoà được, 
giải quyết mâu thuẫn đó. Lúc này, cần có một tổ chức khác đại diện cho giai cấp nắm ưu 
thế về kinh tế và chính trị nhằm dập tắt sự xung đột. 
Tóm lại, Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ Cộng sản nguyên thủy. 
Nhà nước chỉ xuất hiện khi có sự phân chia xã hội thành giai cấp và mâu thuẫn giữa các 
giai cấp phát triển đến khi cần phải có một tổ chức mới ra đời điều hòa được mâu thuẫn 
đó. Nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, nó là sản phẩm của xã hội đã phát triển 
đến một giai đoạn nhất định. 
Nhà nước “không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội” mà là “một 
lực lượng nảy sinh từ xã hội”, một lực lượng “tựa hồ như đứng trên xã hội”, có nhiệm vụ 
làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”(1)   
1 C. Mác và Ph.Ănghen, toàn tập. NXB Chính trị quốc gia, HN, 1995,tr.21-24. 
1.1.2. Bản chất và đặc trưng của Nhà nước  
1.1.2.1. Bản chất của Nhà nước  
Bản chất của nhà nước được thể hiện ở hai thuộc tính: tính giai cấp và tính xã hội.  Tính giai cấp:  
 Ngay từ khi ra đời, nhà nước đã thể hiện là công cụ bảo vệ quyền lợi chủ yếu của 
giai cấp thống trị xã hội. 
Ví dụ: Pháp luật chủ nô công khai quyền lực vô hạn của chủ nô, tình trạng vô quyền 
của nô lệ. Pháp luật phong kiến công khai quy định đặc quyền, đặc lợi của địa chủ phong 
kiến, cũng như quy định các chế tài hà khắc dã man đề đàn áp nhân dân lao động. Trong 
pháp luật tư sản, bản chất giai cấp được thể hiện một cách thận trọng và tinh vi dưới nhiều 
hình thức như quy định về mặt pháp lý của những quyền tự do, dân chủ… nhưng thực 
chất pháp luật tư sản luôn thể hiện ý chí của giai cấp tư sản và mục đích trước hết nhằm 
phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản. 
Tính giai cấp thể hiện: 
+ Nhà nước đó do giai cấp nào tổ chức thành; 
+ Quyền lực Nhà nước nằm trong tay giai cấp cầm quyền; 
+ Nhà nước bảo vệ lợi ích cho giai cấp năm quyền là chủ yếu. 
Tính giai cấp của nhà nước quy định nội dung hoạt động của nhà nước. Tuy là đại 
biểu chính thức cho toàn xã hội, song nhà nước trước hết phục vụ bảo vệ quyền lợi cho  giai cấp thống trị.  Tính xã hội:  
+ Bên cạnh việc bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, nhà nước còn phải quan tâm 
bảo đảm, bảo vệ, giải quyết các lợi ích cho các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội 
và các vấn đề chung cho xã hội.   
(1) Mác- Ănghen, tuyển tập, tập 6, Nxb Sự thật, H.1984, tr. 260 
+ Nhà nước thực hiện những công việc chung nhằm duy trì và phát triển xã hội. 
Khi nhận thức về bản chất của nhà nước ta thấy, bản chất giai cấp và bản chất xã hội 
luôn gắn liền với nhau. Có thể tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử khác nhau mà có những 
sự thay thế nhất định nhưng không có nghĩa là sự triệt tiêu của nhân tố này hay nhân tố  khác. 
1.1.2.2. Đặc trưng của Nhà nước  
Với tư cách là một thiết chế quyền lực của giai cấp thống trị đối với xã hội, nhà nước 
có vị trí đặc biệt và có những cách thức đặc biệt để thực hiện quyền lực nhà nước của 
mình. Điều này thể hiện cụ thể qua các đặc trưng sau của nhà nước: 
(1) Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt 
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy đã từng tồn tại quyền lực nhưng đó là thứ quyền 
lực xã hội, không tách rời khỏi đời sống xã hội và được duy trì trên cơ sở tuân thủ tự giác 
của các thành viên trong xã hội. Còn quyền lực mà nhà nước xác lập là quyền lực công, 
nó không thuộc về mọi thành viên trong xã hội mà chỉ thuộc về giai cấp thống trị trong xã 
hội và nhằm để phục vụ cho giai cấp đó trong quý trình quản lý xã hội. Để thực hiện quyền 
lực này và để quản lý xã hội, nhà nước có một lớp người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ 
quản lý; họ tham gia vào các cơ quan nhà nước và hình thành nên một bộ máy cưỡng chế 
để duy trì địa vị của giai cấp thống trị, bắt các giai cấp khác phải phục tùng theo ý chí của  giai cấp thống trị. 
(2) Nhà nước có lãnh thổ và quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh  thổ 
Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ để quản lý mà không phân chia theo huyết 
thống, tôn giáo, giới tính…. Chính sự phân chia này đã tạo ra các đơn vị hành chính lãnh 
thổ với những cơ quan quản lý nhất định (tỉnh, huyện, xã của Việt Nam; bang, xã của các  nhà nước liên bang…). 
(3) Nhà nước có chủ quyền quốc gia  
Chủ quyền quốc gia thể hiện ở quyền quyết định của nhà nước về các vấn đề đối nội, 
đối ngoại và không phụ thuộc vào các quốc gia khác. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính 
gắn liền với nhà nước. Dấu hiệu chủ quyền quốc gia thể hiện thông qua những mối ràng 
buộc về các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các công dân với nhà nước cũng như giữa 
nhà nước với các nhà nước khác trên nguyên tắc độc lập, bình đẳng. 
(4) Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và bảo đảm 
pháp luật được thực hiện  
Để quản lý xã hội nhà nước có quyền ban hành ra một loại quy tắc đặc biệt gọi là 
pháp luật để thông qua đó ghi nhận các yêu cầu, mệnh lệnh của nhà nước đối với từng 
lĩnh vực hoạt động nhất định cũng như đảm bảo cho các quy tắc đó được tôn trọng và 
nghiêm chỉnh thi hành theo ý chí của giai cấp thống trị. 
(5) Nhà nước có quyền định ra và thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc.  
Để duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước với số lượng không nhỏ những người 
không tham gia trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất mà chỉ chuyên môn làm nhiệm vụ 
quản lý và đồng thời để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các công việc 
chung của nhà nước thì nhà nước đã đề ra và thu các loại thuế bắt buộc các đối tượng nhất 
định trong xã hội phải cung cấp nguồn tài chính cho nhà nước. Thuế là khoản thu quan 
trọng của nhà nước và chỉ thuộc về sự quy định của nhà nước, đồng thời nó cũng thể hiện 
mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước và các tổ chức, cá nhân công dân. 
Những đặc điểm trên đây nói lên sự khác nhau giữa nhà nước với các tổ chức chính 
trị xã hội khác, đồng thời cũng phản ánh vị trí và vai trò của nhà nước trong xã hội có giai  cấp. 
Từ những nghiên cứu trên đây, dưới góc độ pháp lý, ta có thể đưa ra khái niệm chung 
nhất về nhà nước: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy 
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy 
trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.  
1.1.3. Chức năng của Nhà nước  
Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước, thể 
hiện bản chất giai cấp, ý nghĩa xã hội, mục đích và nhiệm vụ của nhà nước.  
Chức năng của nhà nước xuất phát từ bản chất của nhà nước, do cơ sở kinh tế và cơ 
cấu giai cấp xã hội quyết định. Chức năng của nhà nước bao gồm hai phương diện: Chức 
năng đối nội và chức năng đối ngoại. 
+ Chức năng đối nội là những hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất nước. 
Chức năng này bao gồm các vấn đề như tổ chức và quản lý kinh tế; giữ vững an ninh 
chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp sự phản kháng của giai cấp bóc lột đã bị lật đổ và 
âm mưu phản cách mạng khác; chức năng tổ chức và quản lý văn hoá, giáo dục và các  vấn đề xã hội khác. 
+ Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong mối quan hệ với các nhà 
nước và các dân tộc khác. Chức năng này được thể hiện qua việc bảo vệ nhà nước và mở 
rộng quan hệ hợp tác với các nước khác. 
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xác 
định và thực hiện các chức năng đối ngoại luôn phải xuất phát từ tình hình thực hiện các 
chức năng đối nội. Đồng thời, kết quả của việc thực hiện các chức năng đối ngoại sẽ tác 
động mạnh mẽ tới việc tiến hành các chức năng đối nội. 
1.2. NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM  
1.2.1. Bản chất và đặc trưng cơ bản của Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam * 
Bản chất của Nhà nước ta  
Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì 
nhân dân, là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp tri 
thức xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả các chính 
sách, pháp luật của nhà nước đều được xây dựng và thực hiện xuất phát từ lợi ích của con 
người, cho con người và vì con người. 
Bản chất của nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam thể hiện ở tính giai cấp công nhân 
và tính xã hội sâu sắc của nhà nước. 
+ Tính giai cấp công nhân thể hiện ở chỗ nhà nước do giai cấp công nhân thiết lập, 
lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của giai cấp công nhân Việt Nam, thể hiện ý chí 
của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. 
+ Tính xã hội được thể hiện ở các chính sách, hoạt động quản lý kinh tế, văn hoá, 
giáo dục, khoa học, giải quyết những vấn đề về chính sách xã hội nhằm không ngừng nâng 
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. 
* Đặc trưng của Nhà nước ta  
- 1. Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước dân chủ thực sự và rộng rãi.  
Mặc dù nước ta bước vào xây dựng CNXH từ điểm xuất phát thấp, đến nay vẫn là 
một nước đang phát triển, nhưng một chế độ dân chủ XHCN đã được thiết lập và đang  từng bước hoàn thiện. 
Với quan điểm phát triển, Điều 3 Hiến pháp 1992 đã chỉ rõ: Nhà nước bảo đảm và 
không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động 
xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện 
công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát 
triển toàn diện. Quan điểm đó là kết quả của một quá trình tìm tòi, kiểm nghiệm và sáng 
tạo được rút ra để định hướng cho sự phát triển của toàn bộ hệ thống chính trị nước ta nói 
chung và nhà nước ta nói riêng. 
Bản chất dân chủ của nhà nước ta được thể hiện một cách toàn diện, trên các lĩnh 
vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và xã hội. 
- 2 Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.  
Đây là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết các dân tộc anh em cùng sinh sống 
trên đất nước Việt Nam. Tính dân tộc của nhà nước Việt Nam là vấn đề có tính lịch sử, 
truyền thống lâu dài, chính là nguồn gốc sức mạnh của nhà nước. Ngày nay, đặc tính dân 
tộc ấy lại được tăng cường và nâng cao nhờ khả năng kết hợp thống nhất giữa tính giai 
cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và tính thời đại. Điều 5 Hiến pháp có ghi nhận: Nhà nước 
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh 
sống trên đất nước Việt Nam.  
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, 
nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.  
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy 
những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.  
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống 
vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.  
-3 Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thể hiện tính xã hội rộng rãi.  
Với mục tiêu xây dựng một xã hội văn minh, nhân đạo, bảo đảm công bằng xã hội, 
Nhà nước Việt Nam đã quan tâm một cách đặc biệt và toàn diện tới việc giải quyết các 
vấn đề của toàn xã hội như: Xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, đầu tư cho việc 
phòng chống thiên tai, giải quyết các vấn đề bức xúc như chăm sóc sức khỏe nhân dân, 
giải quyết việc làm, an sinh xã hội... 
Nhà nước không chỉ đặt ra cơ sở pháp lý mà còn thực hiện việc đầu tư thỏa đáng cho 
việc giải quyết các vấn đề xã hội. Đồng thời coi việc giải quyết các vấn đề này là nhiệm 
vụ của mọi cấp, mọi ngành và của Nhà nước nói chung. 
-4 Nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị.  
Bản chất nhà nước ta không chỉ được phản ánh trong các chính sách, đường lối đối 
nội, mà còn thể hiện trong chính sách đối ngoại. Chính sách và hoạt động đối ngoại của 
nhà nước ta thể hiện khát vọng hòa bình của nhân dân ta, thể hiện mong muốn hợp tác 
trên tinh thần hòa bình, hữu nghị và cùng có lợi với tất cả các quốc gia. Phương châm Việt 
Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới thể hiện một đường lối ngoại giao 
mở cửa của nhà nước ta (Điều 14 Hiến pháp). 
1.2.2. Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam  
Bộ máy Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các cơ quan nhà 
nước từ trung ương đến địa phương được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc 
chung, thống nhất nhằm thực hiện những nhiệm vụ chiến lược và chức năng của Nhà nước 
nhằm thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.  
Bộ máy nhà nước được hợp thành từ nhiều cơ quan và tổ chức nhà nước từ trung 
ương xuống địa phương, có cơ cấu tổ chức phức tạp, phong phú và đa dạng. Mỗi cơ quan, 
tổ chức có vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ riêng, nhưng chúng hợp thành một thể 
thống nhất, tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung, cùng thực hiện các chức 
năng chung và nhằm đạt được những mục tiêu thống nhất đặt ra trước nhà nước. 
Bộ máy nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam được tổ chức thành bốn phân hệ các 
cơ quan Nhà nước và một chức danh nguyên thủ quốc gia: 
- Phân hệ các cơ quan quyền lực nhà nước (còn gọi là hệ thống các cơ quan đại diện), 
gồm Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Các cơ quan quyền lực nhà nước do nhân dân 
trực tiếp bầu ra, nhân danh nhân dân để thể hiện và thực thi một cách thống nhất quyền 
lực, phải chịu trách nhiệm và phải báo cáo trước nhân dân về mọi hoạt động của mình. 
Với tính chất và chức năng như vậy, các cơ quan quyền lực có vị trí rất quan trọng, chúng 
hợp thành hệ thống “xương sống” của bộ máy nhà nước. 
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước 
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhiệm vụ và quyền hạn của 
Quốc hội được quy định tập trung tại Điều 84 Hiến pháp 1992, có thể chia thành 3 nhóm  sau: 
+ Quyền lập hiến và lập pháp (ban hành, sửa đổi, hủy bỏ, bãi bỏ, bổ sung Hiến pháp  và luật); 
+ Quyền quyết định các công việc quan trọng nhất của đất nước. VD. bầu, miễn 
nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng chính 
phủ…, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội… 
+ Quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. 
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, 
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách 
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên. (Điều 119 Hiến pháp  1992). 
- Phân hệ cơ quan hành chính Nhà nước: đứng đầu là Chính phủ, các cơ quan hành 
chính Nhà nước khác ở trung ương, các cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương: 
UBND các cấp, các cơ quan quản lí ngành, chuyên môn (sở, phòng, ban...). 
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, 
xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy 
Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và 
pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ 
quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. 
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ 
ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. (Điều 109 Hiến pháp 1992) 
Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân 
dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, 
luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân 
dân (Điều 123 Hiến pháp 1992). 
- Phân hệ cơ quan xét xử gồm Toà án nhân dân, Toà án quân sự, Toà án khác được 
thành lập theo luật định. Trong tình hình đặc biệt Quốc hội có thể thành lập toà án đặc 
biệt. Các tào án được lập ra để nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực 
hiện chức năng xét xử (chỉ có toà án mới có chức năng này). 
Toà án nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức 
năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ 
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ 
tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân (Điều 126 Hiến pháp 1992). 
- Phân hệ các cơ quan kiểm sát: gồm VKSND và VKSQS các cấp. Hệ thống Viện 
kiểm sát ở nước ta được tổ chức thống nhất theo ngành dọc và thực hiện chế độ thủ trưởng. 
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. 
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao lãnh đạo thống nhất toàn bộ hệ thống viện 
kiểm sát, có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với tất cả các thành viên của các 
Viện kiểm sát cấp dưới. 
Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi 
chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội 
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo 
vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân (Điều 126 Hiến pháp  1992). 
+ Chủ tịch nước: là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước trong các lĩnh 
vực đối nội, đối ngoại, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ tịch 
nước được bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, có nhiệm kì 5 năm, được trao nhiều 
quyền hạn rộng lớn trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, là người giữ 
chức vụ Chủ tịch hội đồng quốc phòng và an ninh. Chủ tịch nước không phải là một cơ 
quan thuộc hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước hoặc cơ quan quản lý nhà nước... 
Chủ tịch nước xét trên nhiều phương diện là cơ quan có vị trí đặc biệt và giữ vai trò 
quan trọng trong việc bảo đảm sự phối hợp thống nhất giữa các bộ phận của bộ máy nhà 
nước xã hội chủ nghĩa. 
Để bộ máy nhà nước có hiệu lực và hiệu quả trong việc quản lý xã hội thì vấn đề 
quan trọng hàng đầu là phải bảo đảm cho nó có được một cơ cấu tổ chức hợp lý, một cơ 
chế hoạt động đồng bộ và đội ngũ cán bộ có đủ năng lực thực hiện những nhiệm vụ được 
giao. Tất cả những điều đó chỉ có thể đạt được khi xác định đúng những nguyên tắc cơ 
bản làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. 
* Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa là 
những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, khách quan và khoa học, phù 
hợp với bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, tạo thành cơ sở cho tổ chức và hoạt 
động của các cơ quan nhà nước và toàn thể bộ máy nhà nước.  
 Ở nước ta những nguyên tắc cơ bản đó bao gồm: nguyên tắc đảm bảo quyền lực 
nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; nguyên tắc đảm bảo sự lãnh 
đạo của Đảng đối với nhà nước; nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc pháp chế xã hội 
chủ nghĩa và nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc. 
- Nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ  máy nhà nước.  
Đây là nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. 
Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của nhà nước ta: quyền lực nhà nước thuộc về nhân 
dân. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở ba phương diện: 
+ Đảm bảo cho nhân dân tham gia đông đảo và tích cực vào việc tổ chức lập ra bộ 
máy nhà nước. Khi đó nhân dân sẽ thể hiện được ý chí của mình, phát huy quyền làm chủ 
bầu ra các cơ quan đại diện của mình và thông qua hệ thống cơ quan đại diện để lập ra các  cơ quan khác. 
+ Phải bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc quản lý các công việc nhà 
nước và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước. 
+ Phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động 
của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác được trao 
quyền hạn nhất định để quản lý một số công việc của nhà nước. 
- Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước (Điều 4  Hiến pháp).  
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thể hiện ở các mặt chủ yếu là: Đảng vạch ra 
đường lối chính trị, những chủ trương và phương hướng lớn, quyết định những vấn đề 
quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước, đồng thời chỉ đạo quá trình xây dựng pháp luật ; 
thường xuyên theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan nhà nước hoạt động 
đúng đường lối của Đảng và đào tạo cán bộ tăng cường cho bộ máy nhà nước. 
- Nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 6 Hiến pháp)  
Đây là nguyên tắc thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa sự chỉ đạo tập trung thống nhất 
của các cơ quan nhà nước ở trung ương và các cơ quan nhà nước cấp trên với việc mở 
rộng dân chủ, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan nhà nước ở địa phương 
và các cơ quan nhà nước cấp dưới. 
- Nguyên tắc pháp chế XHCN (Điều 12 Hiến pháp)  
Nguyên tắc này đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước phải 
được tiến hành theo đúng trình độ pháp luật trên cơ sở của pháp luật; mọi cán bộ và nhân 
viên nhà nước đều phải nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng pháp luật khi thực thi quyền 
hạn và nhiệm vụ của mình. 
1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT  
1.3.1. Nguồn gốc của pháp luật  
* Pháp luật xuất hiện như một tất yếu khách quan  
Trong chế độ cộng sản nguyên thủy, khi giai cấp chưa được hình thành, mâu thuẫn 
giai cấp chưa xuất hiện thì xã hội đó chưa có pháp luật. Các tập quán xuất hiện một cách 
tự phát, lúc đầu chỉ là những quy ước về cách thức xử sự giữa các thành viên trong thị tộc 
nảy sinh trong cuộc sống lao động tập thể và mối giao tiếp hàng ngày. Những quy ước 
này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và trở thành thói quen, thành quy tắc xử 
sự chung mang tính chất đạo đức và xã hội. Như vậy, trong xã hội lúc này, xã hội tồn tại 
được là do sự tự giác tuân theo các phong tục tập quán của các thành viên hay sự kính 
trọng và uy tín của các bô lão đối với các thành viên trong xã hội. 
Vào giai đoạn cuối của xã hội nguyên thuỷ, do sự phát triển của LLSX dẫn đến 3 lần 
phân công lao động chính, chế độ tư hữu hình thành và xuất hiện giai cấp trong xã hội. 
Các tập quán, quy tắc xã hội nguyên thuỷ vẫn tồn tại song rất nhiều đã trở nên bất lực, 
không có khả năng điều chỉnh các QHXH. Trong tình hình đó, xuất hiện nhu cầu bức xúc 
là phải hình thành một hệ thống các quy tắc xử sự mới thể hiện được ý chí và bảo vệ được 
lợi ích của giai cấp thống trị. Khi đó, pháp luật ra đời. * Các phương thức hình thành pháp  luật trong lịch sử  
Mỗi dân tộc ở các khu vực địa lí khác nhau thì sẽ có những đặc điểm khác nhau trong 
sự hình thành pháp luật. Tuy nhiên, sự hình thành pháp luật ở các khu vực khác nhau cũng 
có đặc điểm chung mang tính quy luật. Về cơ bản, pháp luật hình thành qua những phương 
thức sau: tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. 
Tập quán pháp: Là hình thức nhà nước thừa nhận một số tập quán đã lưu truyền 
trong xã hội, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, nâng chúng thành những quy tắc 
xử sự chung được nhà nước đảm bảo thực hiện. Đây là hình thức pháp luật xuất hiện sớm 
nhất và được sử dụng nhiều trong các nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến. Trong 
nhà nước tư sản hình thức này vẫn được sử dụng nhiều, nhất là ở các nhà nước có chế độ  quân chủ. 
Các hình thức thừa nhận tập quán pháp: tuyên bố thừa nhận một tập quán nhất định; 
thừa nhận dưới dạng những nguyên tắc chung; thừa nhận bằng cách im lặng để tập quán 
điều chỉnh các QHXH nhất định. 
Tiền lệ pháp: Là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của các cơ quan hành 
chính hoặc xét xử giải quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng đối với các vụ việc tương 
tự nảy sinh về sau. Hình thức này được sử dụng nhiều trong các nhà nước chủ nô, được 
sử dụng rộng rãi trong các nhà nước phong kiến và hiện nay vẫn chiếm vị trí quan trọng 
trong pháp luật tư sản, nhất là ở Anh, Mỹ. 
Tiền lệ pháp hình thành không phải do hoạt động của cơ quan lập pháp mà xuất 
hiện từ hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp. Vì vậy, hình thức này dễ tạo ra sự 
tùy tiện, không phù hợp với nguyên tắc pháp chế đòi hỏi phải tôn trọng nguyên tắc tối cao 
của luật và phải phân định rõ chức năng, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà 
nước trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật. 
Văn bản quy phạm pháp luật: Đây là hình thức pháp luật tiến bộ nhất. Văn bản quy 
phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, 
thủ tục luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện 
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. 
1.3.2. Bản chất và đặc trưng của pháp luật  
1.3.2.1. Bản chất của pháp luật  
Bản chất của pháp luật thể hiện trước hết ở tính giai cấp của nó. Tính giai cấp của 
pháp luật được thể hiện ở chỗ: 
- Pháp luật phản án ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, mà nội dung ý chí đó 
được quy định bởi điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị. Ý chí đó được cụ 
thể hoá trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. 
- Mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội: trong xã hội có giai cấp, sự điều chỉnh của 
pháp luật trước hết nhằm mục đích điều chỉnh môi quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp 
khác trong xã hội. Mặt khác nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một mục tiêu 
nhất định, theo một trật tự xã hội phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo về và củng 
cố địa vị của giai cấp thống trị. 
Pháp luật là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp nhưng bên cạnh đó pháp luật còn 
mang tính xã hội. Bởi vì pháp luật chính là bản thân của đời sống xã hội được nâng lên 
thành luật. Pháp luật xuất hiện từ nhu cầu của xã hội, từ những đòi hỏi tất yếu của xã hội, 
sau khi ra đời, pháp luật lại quay lại phục vụ xã hội. Pháp luật là công cụ để tổ chức giao 
lưu mối quan hệ giữa con người với con người. Mặt khác, với tính chất là những quy tắc 
xử sự trong xã hội, pháp luật và thực trạng của hệ thống pháp luật còn là kết quả của quá 
trình “chọn lọc tự nhiên” là biểu hiện của nền văn hoá và văn minh của nhân loại. 
1.3.2.2. Đặc trưng của pháp luật Pháp 
luật có các đặc trưng sau :  
+ Tính quy phạm phổ biến (bắt buộc chung) 
Đây là đặc trưng vốn có của pháp luật. Bởi pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự 
chung, là khuôn mẫu hành vi cho các chủ thể trong xã hội. Thông qua khuôn mẫu hành 
vi đó, các chủ thể trong xã hội sẽ đo được hành vi của mình, biết được mình có thể làm 
gì, không được làm gì, phải làm như thế nào, qua đó pháp luật ràng buộc mọi người vào 
những khuôn khổ nhất định. 
Pháp luật được ban hành ra không phải cho một chủ thể xác định mà là cho mọi chủ 
thể không xác định trong xã hội. Bất cứ chủ thể nào khi gặp những hoàn cảnh, tình huống 
mà pháp luật dự liệu trước thì đều phải tuân theo các quy tắc xử sự mà pháp luật đã dự 
liệu và quy định cho ho. 
+ Tính xác định chặt chẽ về hình thức  
Tính xác định về hình thức là sự thể hiện nội dung pháp luật dưới những hình thức 
nhất định. Nội dung của nó được xác định rõ ràng, chặt chẽ ho nhà nước quy định. Nội 
dung của pháp luật phải được quy định rõ ràng, sáng sủa, chặt chẽ, khái quát trong các 
khoản của điều luật, trong các điều luật, trong một văn bản pháp luật và toàn bộ hệ thống  pháp luật nói chung. 
Nếu các quy phạm pháp luật quy định không đủ, không rõ, không chính xác sẽ tạo 
ra những kẽ hở cho sự chuyên quyền, lạm dụng, những hành vi vi phạm pháp luật như: 
tham ô, lãng phí, phá hoại tài sản,... vi phạm nghiêm trọng pháp chế. 
+ Tính được đảm bảo thực hiện bởi Nhà nước  
Tính được đảm bảo bằng nhà nước của pháp luật thể hiện ở hai khía cạnh cơ bản. 
Trước hết nhà nước đảm bảo cho các quy phạm pháp luật tính quyền lực bắt buộc đối với 
mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội. Điều này có nghĩa là khi pháp luật đã được nhà nước 
ban hành thì tất cả mọi thành viên trong xã hội đều có nghĩa vụ thực hiện pháp luật nghiêm 
chỉnh và triệt để không phân biệt giữa người này với người khác. Chính điểm đó mà pháp 
luật mới trở thành quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung. 
Mặt khác, tùy theo đặc điểm, tính chất của các quan hệ xã hội và tùy mức độ tác 
động khác nhau như biện pháp tư tưởng, khuyến khích, thuyết phục và cao nhất là biện 
pháp cưỡng chế để đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm 
Tóm lại, Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành thể hiện 
ý chí của giai cấp thống trị, có tính bắt buộc chung và được nhà nước đảm bảo thực 
hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.    
1.3.3. Vai trò của pháp luật  
Với những bản chất, đặc điểm đặc thù của mình, pháp luật có nhiều vai trò trong đời 
sống nhà nước, đời sống xã hội, trong đó có các vai trò cơ bản như: 
- Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố, tăng cường quyền lực nhà nước.  
Pháp luật do nhà nước ban hành, nhưng pháp luật không chỉ là kết quả của tư duy 
chủ quan một cách đơn thuần, mà nó còn xuất phát từ những nhu cầu khách quan của xã 
hội. Pháp luật chỉ có thể đi vào cuộc sống nếu như nó phù hợp với trình độ phát triển kinh  tế xã hội. 
Pháp luật cần có quyền lực nhà nước bảo đảm mới có thể phát huy tác dụng trong 
thực tế đời sống. Vì vậy nói pháp luật đứng trên nhà nước là không thực tiễn. 
Bộ máy nhà nước là một thiết chế phức tạp bao gồm nhiều bộ phận. Để bộ máy đó 
hoạt động có hiệu quả thì đòi hỏi phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền và trách 
nhiệm của mỗi loại cơ quan. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi dựa trên cơ sở vững 
chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật. 
- Pháp luật là công cụ, phương tiện để nhà nước quản lí kinh tế, xã hội.  
Để quản lý toàn xã hội, nhà nước dùng nhiều phương tiện, nhiều biện pháp, nhưng 
pháp luật là phương tiện quan trọng nhất. Với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật 
có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách nhanh nhất, 
đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô rộng lớn nhất. Cũng nhờ có pháp luật, nhà nước 
có cơ sở để phát huy quyền lực của mình và kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của các tổ 
chức, các cơ quan, các nhân viên nhà nước và mọi công dân. 
- Pháp luật góp phần tạo dựng các mối quan hệ mới.  
Trên cơ sở xác định được thực trạng của xã hội với những tình huống cụ thể, điển 
hình, tồn tại và tái diễn thường xuyên ở thời điểm cụ thể trong xã hội. Nhà nước đề ra 
pháp luật để điều chỉnh kịp thời và phù hợp các quan hệ xã hội đó. 
Dựa trên cơ sở của những kết quả và dự báo khoa học, người ta có thể dự kiến được 
những thay đổi có thể diễn ra với những tình huống cụ thể, điển hình cần có sự điều chỉnh 
bằng pháp luật. Từ đó pháp luật được đặt ra để định hướng trước, xác lập những quy định 
và có thể thiết kế những mô hình tổ chức quy định chức năng nhiệm vụ và tổ chức thử  nghiệm ... 
- Pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ 
bang giao giữa các quốc gia.  
Sự ổn định của mỗi quốc gia là điều kiện quan trọng để tạo ra niềm tin, là cơ sở để 
mở rộng các mối bang giao với các nước khác. Trong thời đại ngày nay, phạm vi của các 
mối quan hệ bang giao giữa các nước ngày càng lớn và nội dung tính chất của các quan 
hệ đó ngày càng đa diện. Cơ sở của việc thiết lập, củng cố các mối quan hệ bang giao đó 
là pháp luật (pháp luật quốc tế và pháp luật nội quốc). 
Xuất phát từ nhu cầu đó, hệ thống pháp luật của mỗi nước cũng có bước phát triển 
mới: bên cạnh những văn bản pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên 
quan đến các chủ thể pháp luật trong nước còn cần có đầy đủ các văn bản pháp luật quy 
định và điều chỉnh các quan hệ có liên quan đến các chủ thể là người, tổ chức nước ngoài 
có quan hệ hợp tác với các chủ thể trong nước, ví dụ: luật đầu tư, luật về khoa học và công  nghệ... 
Cũng cần nhấn mạnh rằng, muốn có môi trường xã hội ổn định để mở mang các mối 
bang giao và hợp tác thì không thể chỉ chú ý tới một mảng của hệ thống pháp luật của một 
quốc gia, mà phải chú ý tới sự đồng bộ của cả hệ thống pháp luật của quốc gia đó. Bởi vì, 
hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là một chỉnh thể, mỗi bộ phận trong hệ thống pháp 
luật đó không thể tồn tại và phát triển biệt lập, cục bộ được mà luôn có quan hệ và tác 
động qua lại với các bộ phận khác. 
1.3.4 Chức năng của PL:  
Chức năng của pháp luật là những phương diện, mặt hoạt động chủ yếu của pháp 
luật thể hiện bản chất giai cấp và ý nghĩa xã hội của pháp luật. 
Pháp luật có các chức năng sau: Thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi của các chủ thể 
nắm quyền lực nhà nước, quy định chức năng quyền hạn của các cơ quan nhà nước, các 
thiết chế chính trị - xã hội, quyền và nghĩa vụ của công dân và con người, điều chỉnh các 
quan hệ trong xã hội nhằm thiết lập và duy trì một trật tự xã hội nhất định, giáo dục các 
công dân và cá nhân trong xã hội. 
Pháp luật gồm có 3 chức năng cơ bản đó là: chức năng điều chỉnh, chức năng 
bảo vệ và chức năng giáo dục, cụ thể: 
– Chức năng điều chỉnh của pháp luật 
Chức năng điều chỉnh của pháp luật thể hiện vai trò và giá trị xã hội của pháp luật. 
Pháp luật được đặt ra nhằm hướng tới sự điều chỉnh các quan hệ xã hội, thiết lập “trật tự” 
đối với các quan hệ xã hội, tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển theo chiều 
hướng nhất định phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, phù hợp với quy luật vận động 
khách quan của các quan hệ xã hội. 
– Chức năng bảo vệ của pháp luật 
Pháp luật là công cụ bảo vệ các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Khi có các hành 
vi vi phạm pháp luật xảy ra, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh 
thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy 
định trong bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật đối với các chủ thể có hành vi vi 
phạm pháp luật. Chẳng hạn như hành vi xâm phạm tính mạng sức khoẻ con người bị xử 
lý theo Luật hình sự, hành vi gây thiệt hại tài sản buộc phải bồi thường theo Luật dân sự. 
– Chức năng giáo dục của pháp luật 
Chức năng giáo dục của pháp luật được thực hiện thông qua sự tác động của pháp 
luật vào ý thức của con người, làm cho con người xử sự phù hợp với cách xử sự được quy 
định trong các quy phạm pháp luật. Việc giáo dục có thể được thực hiện thông qua tuyên 
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể thông qua việc xử lý những cá 
nhân, tổ chức vi phạm (phạt những hành vi vi phạm giao thông, xét xử những người phạm  tội hình sự…)./.   
 Chương 2. QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ QUAN HỆ PHÁP LUẬT    
Hiện tại, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (được quy định trong Luật ban 
hành văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 ngày 22/06/2015) Hệ thống 
văn bản pháp luật của Việt Nam bao gồm:  • 
Hiến pháp – Do Quốc hội ban hành, là văn bản pháp luật cao nhất.  • 
Luật hoặc Bộ luật – Do Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước ký quyết định ban 
hành. Có thể kể một số Bộ luật như: Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố 
tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật lao động, Bộ luật hàng hải  • 
Nghị_quyết_của_Quốc_hội  • 
Văn bản dưới luật gồm o Ủy ban thường vụ Quốc hội: Pháp lệnh, Nghị quyết o 
 Chủ tịch nước: Lệnh, Quyết định o 
Chính phủ: Nghị định. o Thủ tướng 
Chính phủ: Quyết định o Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Nghị  quyết o 
Chánh án Toà án nhân dân tối cao: Thông tư. o Viện trưởng Viện 
kiểm sát nhân dân tối cao: Thông tư. o Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang  bộ: Thông tư o 
Tổng Kiểm toán Nhà nước: Quyết định 
o Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với 
cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. 
o Thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện 
kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với 
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; 
giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.  • 
Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân. Bao  gồm:[2] o 
Hội đồng nhân dân: Nghị quyết. o Ủy ban nhân dân: Quyết định.    
2.1. QUY PHẠM PHÁP LUẬT  
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm của quy phạm pháp luật   * Khái niệm  
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận có tính bắt 
buộc chung, thể hiện ý chí nhà nước, được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh 
các quan hệ xã hội.  
Các quy phạm pháp luật có thể là quy tắc xử sự của công dân, của những người có 
chức vụ, quyền hạn, là những quy định về cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà 
nước, là những quy định về địa vị pháp lý của các đoàn thể, tổ chức quần chúng và các 
chủ thể pháp luật khác. 
Ví dụ :  “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước 
ngoài và từ nước ngoài về nước”. (Điều 23, HP 2013) 
* Đặc điểm của Quy phạm pháp luật   - 
Thể hiện ý chí của nhà nước. Quy phạm pháp luật thể hiện ý chí của 
lực lượng cầm quyền trong xã hội. Về nội dung, mỗi quy phạm pháp luật thường 
thể hiện sự cho phép hoặc bắt buộc đối với hành vi của các cá nhân, tổ chức 
trong xã hội. Nói cách khác, quy phạm pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ 
pháp lý của các cá nhân và tổ chức khi tham gia quan hệ xã hội được nó điều  chỉnh.  - 
Tính phổ biến (bắt buộc chung). Quy phạm pháp luật là quy tắc xử 
sự có tính bắt buộc đối với mọi cá nhân, tổ chức ở vào điều kiện, hoàn cảnh đã 
được dự kiến trước. Quy phạm pháp luật có thể được áp dụng nhiều lần trong 
cuộc sống cho đến khi bị thay đổi hoặc hủy bỏ.  - 
Chặt chẽ về hình thức. Các quy phạm pháp luật được ban hành bởi 
các chủ hể có thẩm quyền nhất định và theo những trình tự, thủ tục nhất định.  - 
Việc thực hiện các quy phạm pháp luật được nhà nước đảm bảo 
thực hiện. Quy phạm pháp luật do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm bảo 
thực hiện. Các quy phạm pháp luật được ghi nhận dưới hình thức chủ yếu là 
văn bản quy phạm pháp luật, theo thể thức, trình tự mà pháp luật cho phép. 
Đồng thời nhà nước cũng thiết lập một hệ thống cơ quan nhà nước có thẩm 
quyền đảm bảo cho các quy phạm pháp luật được thực hiện thống nhất, nghiêm  chỉnh. 
Những đặc điểm trên sẽ giúp chúng ta phân biệt được giữa quy phạm pháp luật với 
các quy phạm xã hội khác như quy phạm đạo đức, quy phạm tôn giáo, nội quy, quy chế 
của cơ quan, xí nghiệp… 
2.1.2. Cơ cấu của quy phạm pháp luật  
* Giả định  
Giả định là bộ phận của quy phạm quy định địa điểm, thời gian, chủ thể, hoàn cảnh 
và tình huống mà khi xảy ra trong thực tế cuộc sống thì cần phải thực hiện quy phạm pháp 
luật tương ứng, nghĩa là xác định môi trường, phạm vi tác động của quy phạm ph áp luật. 
Giả định nêu lên trong trường hợp nào thì các chủ thể của quan hệ được điều chỉnh 
sẽ xuất hiện những quyền và nghĩa vụ pháp lí do quy phạm pháp luật đó quy định. 
Ví dụ 1: “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ 
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng.” 
(Điều 46 Hiến pháp 2013)  
Ví dụ 2: “Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính 
mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh 
cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm” (Điều 102  Bộ luật hình sự 2015). 
Nhìn chung, giả định là bộ phận không thể thiếu được trong quy phạm pháp luật. Bởi 
vì, nếu thiếu giả định, chúng ta không thể biết được ai, tổ chức nào và khi nào phải xử sự 
theo yêu cầu của quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế, giả định được biểu hiện 
dưới nhiều cách thức khác nhau.  * Quy định  
Quy định là bộ phận nêu lên quy tắc xử sự mà mọi chủ thể phải tuân theo khi gặp 
hoàn cảnh đã nêu trong phần giả định của quy phạm pháp luật đó. 
Quy định là phần trung tâm của quy phạm pháp luật, bởi chính đây là bản thân quy 
tắc hành vi thể hiện ý chí, mệnh lệnh của nhà nước mà các chủ thể phải thực hiện khi gặp 
những tình huống mà nhà làm luật đã dự liệu ở phần giả định. Bộ phận quy định nêu lên 
quyền và nghĩa vụ của chủ thể của quan hệ xã hội được điều chỉnh. 
Phân loại bộ phận quy định của quy phạm pháp luật có thể phân thành: các 
Quy định cấm, bắt buộc và Quy định tuỳ nghi.  
- Quy định cấm, bắt buộc của quy phạm pháp luật là loại quy định nêu ra cách xử sự 
dứt khoát buộc các chủ thể phải tuân theo mà không có sự lựa chọn khác. 
Ví dụ: “Cấm gửi trong thư, bưu phẩm, bưu kiện: ấn phẩm, vật phẩm, hàng hoá cấm 
lưu thông, cấm nhập khẩu, xuất khẩu ấn phẩm, vật phẩm, hàng hoá nước nhập cấm nhập 
khẩu…” (Điều 18 Pháp lệnh Bưu chính viễn thông). 
- Quy định tuỳ nghi: Là loại quy định không nêu ra một cách xử sự dứt khoát cụ thể 
mà nêu lên hai hay nhiều cách xử sự để cho các chủ thể có liên quan được quyền lựa chọn  cách xử sự phù hợp. 
Ví dụ: “Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết 
hôn là cơ quan đăng kí kết hôn” (Điều 12 Luật Hôn nhân gia đình 2000). * Chế tài  
Chế tài là bộ phận quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp cưỡng chế áp dụng 
đối với chủ thể có hành vi vi phạm các yêu cầu của bộ phận quy định của quy phạm pháp 
luật. Chế tài là bộ phận nêu lên những hậu quả pháp lí bất lợi đối với chủ thể vi phạm  pháp luật. 
Ví dụ: Khoản 2 Điều 120 Luật xây dựng quy định: “Công trình xây dựng sai quy 
hoạch, công trình xây dựng không có giấy phép hoặc sai với giấy phép xây dựng được 
cấp…thì phải bị dỡ bỏ toàn bộ hoặc phần vi phạm theo quy định”. 
Phân loại chế tài: Có thể phân chế tài thành: Chế tài hình phạt; Chế tài khôi phục 
và Chế tài phủ nhận pháp luật.   
+ Chế tài hình phạt: là sự phản ứng gay gắt nhất của nhà nước đối với hành vi vi 
phạm pháp luật như chế tài hình sự, chế tài hành chính… 
+ Chế tài khôi phục pháp luật. Ví dụ: Biện pháp bắt buộc tháo dỡ công trình xây 
dựng trái phép; trả lại tài sản đã chiếm giữ trái phép… 
+ Chế tài phủ nhận pháp luật. Ví dụ: Sự không thừa nhận quan hệ hôn nhân thực tế 
nếu không đăng kí kết hôn theo đúng quy định của pháp luật. 
2.1.3. Phân loại quy phạm pháp luật  
Quy phạm pháp luật có thể được phân loại theo một số tiêu chí sau: 
* Căn cứ vào nội dung của quy phạm pháp luật, có các loại quy phạm pháp luật sau: 
- Quy phạm pháp luật định nghĩa: là quy phạm pháp luật có nội dung giải thích, xác 
định một số vấn đề nào đó, hoặc nêu một khái niệm pháp lý nhất định. 
- Quy phạm pháp luật nguyên tắc: là quy phạm pháp luật xác định những nguyên 
tắc cơ bản làm cơ sở cho việc quy định cách xử sự của các cá nhân, tổ chức. 
- Quy phạm pháp luật điều chỉnh: là quy phạm pháp luật có nội dung trực tiếp điều 
chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội nhất định. 
* Căn cứ vào tính mệnh lệnh trong quy phạm pháp luật, có các loại quy phạm pháp  luật sau: 
- Quy phạm pháp luật bắt buộc: là loại quy phạm xác định rõ ràng cách xử sự của 
các cá nhân, tổ chức: buộc phải làm gì? Không được được làm gì?