ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI KHOA CHÍNH TRỊ -
QPAN - GDTC *****
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐẠI CƯƠNG
Câu hỏi tiểu luận
: “
trình bày nội dung quyền con người, quyền lợi và nghĩa
vụ cơ bản của công dân theo quy định của Hiến pháp 2013? Những vấn đề lý
luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay?
Sinh viên thực hiện: Lê Đình Tuấn
Mã sinh viên: 71DCTT22171
Lớp: 71DCTT21
Khóa: 71
Giảng viên hướng dẫn: Trần Văn Bình
HÀ NỘI – 2021
MỤC LỤC
ĐỀ MỤC Trang
Chương 1 : Phần mở đầu................................................................ 2
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích khi phân tích đề tài
3. Đối tượng trong việc phân tích đề tài
4. Phạm vi phân tích đề tài
5. Phương pháp phân tích và nghiên cứu đề tài
Chương 2 : Phần nội dung
1. Khái quát về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
1.1 : Khái niệm về hiến pháp............................................................................ 3
1.2: Nội dung.................................................................................................... 3
1.3: Quyền nghĩa vụ của công dân............................................................... 4
1.4 Đối chiếu với bản Hiến pháp 1992 chúng ta thấy rõ................................. 6
2. Những vấn đề luận thực tiễn hiện nay..................................................... 10
Chương 3 : Phần kết luận
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chương 1: Phần mở đầu
Đất nước Việt Nam chúng ta trải qua mấy nghìn năm lịch sử, người dân Việt Nam
lao động cần cù chịu khó, hi sinh thân mình để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, tinh
thần đoàn kết , kiên cường và bất khuất của người dân Việt Nam đã xây dựng nên
một nền văn hiến Việt Nam lâu đời. Đất nước chúng ta đã đổi mới và qua các lần
ban hành luật hiến pháp, bộ máy nhà nước ngày càng hoàn thiện và pháp triển
hơn để phù hợp hơn với việc quản lí xã hội. Công cuộc xây dựng hệ thống cơ
quan hành chính mới không làm suy giảm quyền lực và nhiệm vụ của nhà nước,
ngược lại các hệ thống cơ quan quản lý được đề cao, tăng cường giám sát đối với
từng bộ phận, hiểu được đường lối chỉ đạo hợp lý ca nhà nước. Vậy thì, quyền
của công dân là gì? Và công dân có nghĩa vụ như thế nào đối với nhà Nước
XHCN Việt Nam .
Là một công dân, nhằm mục đích nâng cao sự hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của
công dân nên em quyết định chọn đề tài : “trình bày nội dung quyền con người,
quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo quy định của Hiến pháp
2013? Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay?”
2
Chương 2 : Phần nội dung
1.1. Khái niệm về luật hiến pháp
Luật hiến pháp là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật, bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ
hội liên quan đến tổ chức quyền lực nhà nước như: Chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, chính sách văn hóa hội, quyền và nghĩa vụ bản của công dân, các nguyên
tắc, tổ chức và hoạt động ca các cơ quan bộ máy nhà nước.
1.2 Nội dung Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của ng dân :
Quyền nghĩa vụ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp trong
các đạo luật cơ bản của nhà nước.
Tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân tạo nên quy chế pháp của công dân. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải
thấy rằng, trong việc hình thành quy chế pháp của công dân, những quyền
nghĩa vụ bản của công dân được quy định trong hiến pháp đóng vai trò quan
trọng nhất.
Đặc điểm quyền và nghĩa vụ của công dân:
Quyền bản của công dân thường xuất phát từ các quyền tự nhiên thiêng
liêng bất khả xâm phạm của con người như quyền sống, quyền bình đẳng, quyền
tự do mưu cầu hạnh phúc các quyền được hầu hết các quốc gia trên thế
giới thừa nhận.
Nghĩa vụ bản của công dân các nghĩa vụ tối thiểu công dân phải
thực hiện đối với Nhà nước và là tiền đề đảm bảo cho các quyền cơ bản của công
dân được thực hiện.
Quyền nghĩa vụ bản của công dân được ghi nhận trong hiến pháp
cơ sở chủ yếu để xác định địa vị pháp lý của công dân. Các quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân là cơ sở đầu tiên cho mọi quyền và nghĩa vụ khác của công dân
được các nghành luật trong hệ thống pháp luật nước ta ghi nhận.
Các quyền nghĩa vụ bản của công dân nguồn gốc phát sinh các
quyền và nghĩa vụ khác của công dân. Cơ sở phát sinh duy nhất của của các quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân là quyền công dân nghĩa là người có quốc tịch
Việt Nam, còn sở phát sinh các quyền và nghĩa vụ khác của công dân là các
quan hệ pháp luật, là các sự kiện pháp lý...
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là những quyền và nghĩa vụ cơ bản
vì:
+ xác định mối quan hệ cơ bản nhất giữa nhà nước và công dân + Nó được quy
định trong đạo luật cơ bản nhất
3
+ Nó là cơ sở phát sinh các quyền và nghĩa vụ cơ bản khác của công dân.
1.3 Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được chi thành ba nhóm chính
Nhóm thức nhất : Các quyền về chính trị : Quyền bầu cử, quyền ứng cử vào các
quan quyền lực nhà nước ( Điều 27 HP 2013), Công dân đủ 18 tuổi trở lên quyền
biểu quyết khi nhà Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân ( Điều 29 Hiến pháp 2013).
Các quyền kinh tế, văn hóa hội : Quyền tự do kinh doanh, quyền lao
động, công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền được lựa chọn nghề
nghiệp, quyền đượ kết hôn...( các điều 33, 34, 35, 36 Hiến pháp 2013 ).
Các quyền tự do dân chủ tự do nhân : Quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, quyền khiếu nại, t cáo, quyền được bảo
hộ về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm ( Điều 24, 25 HP 2013)
Các nghĩa vụ cơ bản của công dân : Bảo vệ tổ quốc, tôn trọng hiến pháp và
pháp luật, đóng thuế, lao động và học tập ( Điều 39, 44, 45, 47 HP 2013 ).
Quyền con người, Quyền nghĩa vụ bản của công dân gồm 36 điều, tĐiều
41 đến Điều 49. Trong 11 chương của Hiến pháp 2013, đây chương số điều
quy định nhiều nhất ( 36/120 điều ), nhiều đổi mới nhất cả về nội dung quy định,
cả về cách thức thực hiện.
Trước hết, khác với tất cả các bản Hiến pháp trước đây, lần đầu tiên Hiếp
pháp năm 2013 xác định quy định ngay tại Điều 3 về Nhà nước trách
nhiệm công nhận, tôn trọng, bảo vệ đảm bảo quyền con người, quyền công
dân”. Vì vậy, khi quy định quyền con người quyền công dân, hầu hết các điều của
Hiến pháp năm 2013 quy định trực tiếp mọi người quyền...” , công dân
quyền đkhẳng định đây những quyền đương nhiên của con người, của
công dân được Hiến pháp ghi nhận Nhà nước trách nhiệm tôn trọng, đảm
bảo và bảo vệ các quyền này, chứ không phải Nhà nước “ ban phát”, “ ban ơn” các
quyền này chi con người, cho công dân. Quyền con người, quyền công dân ch
thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cng
đồng” ( khoản 2 Điều 14 ).
Đây chính nguyên tắc hiến định rất quan trọng về quyền con người, quyền
công dân và theo nguyên tắc nà, từ nay không chủ thể nào, kể cả các cơ quan nhà
nước được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền con người, quyền công dân đã được
quy định trong Hiến pháp. Cũng từ nguyên tắc này, các quy định liên quan đến các
quyền bất khả xâm phạm của con người, người dân ( nquyền được sống, quyền
không bị tra tấn, quyền bình đẳng trước pháp luật...) các quy định hiệu lực
trực tiếp, chỉ thể các quyền này được viện dẫn các quy định của Hiến pháp để bảo
vệ các quyền của mình khi bị xâm phạm. Các quyền, tự do bản khác của con
người, của
công dân và quyền được bảo vệ về mặt tư pháp cần phải được cụ thể hóa những
phải 4
bằng luật do Quốc hội, quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân
dân ban hành, chứ không phải quy định chung “ theo quy định pháp luật” như rất
nhiều điều của Hiến pháp năm 1992 quy định...
Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 quy định quyền nào quyền con người,
quyền nào là quyền công dân và quy định chương này theo thứ tự: đầu tiên các
nguyên tắc hiến định về quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân,
tiếp đến quyền dân sự, chính trị rồi đến các quyền kinh tế, văn hóa, hội
cuối cùng kà các nghĩa vụ của cá nhân, của công dân. Hầu hết các điều của chương
này quy định trong Hiến pháp năm 2013 thay quy định công dân” như Hiến
pháp năm 1992 đã quy định mọi người” , không ai”. Điều này ý nghĩa rất
quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới về nhận thức lý luận và giá trị thực tiễn
khi không đồng nhất với quyền con người và quyền công dân.
Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 quy định một số quyền của con người, quyền
nghĩa vụ mới của công dân như: Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất,
giao nộp cho nhà nước kahcs” ( Điều 17) , “ Mọi người có quyền sống. Tính mạng
con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” ( Điều
19), “ Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào
đời sống căn goám sử dụng các sở văn hóa” ( Điều 41) , Công dân quyền
xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”
( Điều 42), mọi người quyền được sống trong môi trường lành mạnh
nghĩa vụ bảo vệ môi trường” ( Điều 43)... Điều này thể hiện bước tiến tring việc
mở rộng phát triển các quyền, phản ánh kết quả của quá trình đổi mới hơn1/4
thế kỷ ở Việt Nam. Nội dung của các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân được quy định trong các điều khác của Hiến pháp năm 2013 phù hợp
với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam thành viên, nhất
quyền con người về chính trị, dân sự và Công ước quyền con người về kinh tế, văn
hóa và xã hội năm 1966 ca Liên hợp quốc. Đây ng chính là sự khẳng định cam
kết mang đến tính hiến định của Nhà nước trước Nhân dân trước cộng đồng
quốc tế về ytacsh nhiệm tôn trọng, đảm bảo, bảo vệ và thúc đầy quyền con người,
quyền công dân ở Việt Nam”.
Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục sử dụng khái niệm quyền con ngườivới
nội dung chính trị - pháp lý rộng hơn để phản ánh giá trị của cá nhân con người.
Nhìn góc độ về khái niệm, quyền con ngườikhông loại trừ không
thay thế được khái niệm quyền công dân”. Hiến pháp năm 2013 đặc biệt quan tâm
đặt vị tcủa chương Quyền con người quyền nghĩa vụ bản của công
dânChương II. thể nói đây cũng chính skế thừa vị trícủa Hiến pháp
năm 1946. Tuy nhiên, do nhiệm vụ chính trị của các thời kỳ khác nhau nên
điều khác biệt,
5
nếu như Hiến pháp năm 1946 đặt nghĩa vụ của công dân lên trước thì Hiến pháp
năm 2013 lại đặt quyền của công dân lên trước. Một mặt điều này cho thấy quan
điểm tôn trọng quyền con người, quyền công dân, một mặt cho thấy quyền nghĩa
vụ trong tất cả các thời kỳ mối quan hệ mật thiết với nhau, sự kế thừa và
phát triển của Hiến pháp sau so với Hiến pháp trước.
Hiến pháp năm 2013 đã chuyển chương quyền con người và quyền và nghĩa
vụ bản của công dân từ vị tríChương V (Hiến pháp năm 1992) lên vị trí
Chương II (Hiến pháp năm 2014), tăng hai điều, từ ba mươi điều (từ Điều 49
đến Điều 82 – Hiến pháp năm 1992) lên ba mươi sáu điều (từ Điều 14 đến điều 49
Hiến pháp năm 2013), tăng mười tám điều so với Hiến pháp năm 1946, tăng
mười lăm điều so với Hiến pháp năm 1959 và tăng bảy điều so với Hiến pháp năm
1980. Trong đó, có năm điều mới (là những điều: Điều 19, Điều 34, Điều 41, Điều
42, Điều 43), sửa đổi, bsung 28 điều (là những điều: từ Điều 14 đến Điều 18,
Điều 20 đến Điều 33, Điều 35 đến Điều 40, Điều 45, Điều 47, Điều 48), giữ nguyên
ba điều (là những điều: Điều 44, Điều 46, Điều 49)
1.4 Bản đối chiếu Hiến Pháp năm 2013 so với Hiến pháp 1992
Thứ nhất, về tên Chương, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, “quyền con người”
đã trở thành tên gọi của Chương, thay vì chỉ gọi là “quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân” như Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đó. Sự bổ sung
cụm từ “quyền con người” là điểm nhấn quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong bối
cảnh xây dựng, phát triển đất nước và hi nhập quốc tế. Đây không chỉ đơn thuần
là sự bổ sung một cụm từ mang tính chất kỹ thuật lập hiến, mà còn phản ánh tư
duy phát triển, phù hợp với xu hướng của dân tộc, thời đại và nhân loại. Cùng đó,
cũng xóa bỏ ranh giới còn chưa rõ ràng giữa khái niệm về quyền con người và
quyền công dân (quyền con người là quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng có quyền đó;
quyền công dân là quyền của những người có quốc tịch Việt Nam), ghi nhận việc
mở rộng các chủ thể của quyền, khẳng định chủ thể rộng nhất của quyền con
người là mọi cá nhân, mọi người đều được hưởng. Việc thay đổi tên Chương từ
“Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành “Quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân” trong Hiến pháp năm 2013 còn thể hiện sự nỗ lực
và cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện các Công ước
quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Thứ hai, Chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân được đưa lên và đặt trang trọng tại Chương II, ngay sau Chương I quy
định về chế độ chính trị. Đây cũng không chỉ đơn thuần là sự thay đổi số hc về
vị trí các chương mang tính chất kỹ thuật lập hiến, mà còn thể hiện sự thay đổi về
nhận thức lý luận, tư duy lập hiến, là sự khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đề cao nguyên tắc Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân,
chủ quyền tối cao thuộc về Nhân dân, đồng thời cũng phản ánh thực tiễn đổi mới
toàn diện, hội nhập sâu rộng, tiến bộ và phát triển của đất nước ta, thể hiện nhất
quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo
đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Tham
khảo Hiến pháp ca nhiều nước trên thế giới cho thấy, Chương quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đều được đặt ở vị trí trang trọng nhất -
Chương I hoặc Chương II của các bản Hiến pháp.
Thứ ba, với quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản 1
Điều 14), Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức
lý luận và tư duy lập hiến trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân
so với Hiến pháp năm 1992 (chỉ ghi nhận quyền con người về chính trị, dân sự và
kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện ở các quyền công dân). Điểm nhấn của nội
dung này là việc bổ sung nguyên tắc “Quyền con người, quyền công dân chỉ có
thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng” (khoản 2 Điều 14). Đây chính là điều kiện để bảo đảm tính hiện thực
của quyền con người, quyền công dân, bảo đảm sự cân bằng, minh bạch và lành
mạnh giữa các lợi ích trong mối quan hệ giữa Nhà nước với con người, công dân,
cá nhân và phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là
thành viên; hạn chế tối đa bất cứ sự lạm dụng hay tùy tiện nào tước đi hay hạn
chế các quyền và tự do vốn của mọi người bởi các cơ quan Nhà nước
Thứ tư, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các nguyên tắc
về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo hướng: quyền
công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng
quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà
nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được
xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác;
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không ai bị phân biệt đối xử trong đời
sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội (Điều 15 và Điều 16). Nguyên tắc
hiến định này vừa khẳng định sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền và nghĩa vụ, vừa
đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện quyền của người này không thể là sự chối
bỏ, phủ nhận hay xâm phạm đến quyền ca người khác; nói khác đi, việc tôn
trọng các quyền tự do của mỗi người phải đặt trong mối quan hệ với việc tôn
trọng quyền và tự do của người khác.
Thứ năm, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung 05
quyền hoàn toàn mới và sửa đổi, bổ sung trên 30 quyền còn lại.
- Về các quyền hoàn toàn mới, với 05 điều cụ thể: Điều 19 (quyền sống),
Điều 40 (quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật
và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó), Điều 41 (quyền hưởng thụ và tiếp cận
các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa),
Điều 42 (quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn
ngôn ngữ giao tiếp), Điều 43 (quyền được sống trong môi trường trong lành và
có nghĩa vụ bảo vệ môi trường), Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định sự phát triển
mạnh mẽ trong chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Các quyền này đều nằm trong hai nhóm quyền cơ bản được ghi nhận trong
các Công ước quc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Các quyền
này vô cùng thiết yếu đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi người với tư cách là
thành viên của cộng đồng nhân loại và với tư cách là cá nhân. Trong 05 quyền
mới được hiến định lần này, có thể nói việc hiến định quyền sống được coi là
bước tiến rõ rệt đối với những cam kết của Việt Nam trong việc tôn trọng và bảo
vệ quyền sống của tất cả mọi người, trong đó có cả các nhóm người dễ bị tổn
thương như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật… Bên cạnh quyền sống, con người
còn cần đến nhu cầu và điều kiện để phát triển. Quyền được phát triển gắn liền
với việc tiếp cận, nghiên cứu, thụ hưởng các giá trị vật chất, tinh thần và những
thành quả của khoa học - công nghệ, văn hc, nghệ thuật, các giá trị văn hóa.
Chính vì thế, việc hiến định các quyền về nghiên cứu khoa học - công nghệ, sáng
tạo văn học, nghệ thuật, về văn hóa là hết sức cần thiết, giúp ích cho việc nâng
cao chất lượng cuộc sống và mục tiêu hướng tới của quá trình phát triển của mọi
người. Thực tiễn gần 30 năm đổi mới và hi nhập quốc tế của nước ta cho thấy,
tình trạng suy thoái và ô nhiễm môi trường đã và đang là nguyên nhân trực tiếp
đe dọa đến sự sống, sức khỏe, sự phát triển của mọi người. Vì vậy, quyền sống
quyền phát triển của mọi người không thể tách rời với quyền về môi trường. Điều
43 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền được sống trong môi
trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Quyền về i trường là
một loại quyền mới trong hệ thống các quyền con người, trong khi nhiều quốc gia
trên thế giới chưa hiến định quyền này thì quy định ca Hiến pháp năm 2013 về
quyền môi trường lại càng có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện sự tiến bộ, phát triển rõ rệt
của Việt Nam trên trường quốc tế. Ở một quốc gia đa dân tộc nViệt Nam,
quyền xác định dân tộc ca mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ
giao tiếp của công dân là nhu cầu và là yếu tố bảo đảm bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc. Xác định rõ vấn đề này, Điều
42 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền xác định dân tộc của
mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”.
- Về các quyền được sửa đổi, bổ sung. Cùng với việc hiến định các quyền
mới, Hiếnpháp năm 2013 còn sửa đổi, bổ sung hơn 30 điều cụ thể trong Chương
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những sửa đổi, bổ
sung này là một bước tiến mới trong việc hiến định các quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân; là sự phản ánh thành tựu của gần 30 năm đổi
mới và hội nhập quốc tế của đất nước, thể hiện trách nhiệm ngày càng cao của
Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân với những thiết chế, cơ chế hiệu lực, hiệu quả, trong đó đáng
chú ý là cơ chế thực hiện quyền dân ch trực tiếp như quyền hiến mô, bộ phận cơ
thể người và hiến xác (Điều 20), quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư,
bí mật cá nhân và bí mật gia đình; quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình (Điều
21), quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22), quyền tiếp cận thông tin (Điều 25),
quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34), quyền kết hôn, ly hôn (Điều 36)
v.v… Khẳng định thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm là một quyền bất khả
xâm phạm của mọi người, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định mọi
người không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất cứ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (khoản 1
Điều 20). Quy định này thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc
bảo đảm cho mi người được hưởng quyền bất khả xâm phạm về thân thể, đồng
thời cũng thể hiện cam kết trong việc thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về
chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc
hạ nhục con người mà Quốc hội khóa XIII đã phê chuẩn tại kỳ họp thứ 8.
- Về các nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ bản, Hiến pháp năm 2013 giữ
nguyên như quy định của Hiến pháp năm 1992, như công dân có nghĩa vụ trung
thành với Tổ quốc (Điều 44); công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham
gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân (Điều 45); công dân có nghĩa vụ tuân theo
Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
và chấp hành những quy tắc sinh hoạt cộng đồng (Điều 46). Riêng nghĩa vụ nộp
thuế đã sửa đổi về chủ thể, thay cụm từ “công dân” bằng cụm từ “mọi người” cho
phù hợp (mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định chứ không chỉ có công
dân Việt Nam như quy định tại Điều 80 của Hiến pháp năm 1992). Bên cạnh đó,
tại Chương II của Hiến pháp năm 2013 cũng còn một số điều quy định quyền gắn
với nghĩa vụ cơ bản của công dân, như quyền được bảo vệ, chămc sức khe,
bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và nghĩa vụ thực hiện các quy định
về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh (Điều 38), quyền và nghĩa vụ học tập của
công dân (Điều 39); quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc (Điều 45) v.v…
Thứ sáu, Hiến pháp năm 2013 đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò, trách nhiệm của
Nhà nước trong việc tôn trng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền con
người, quyền công dân, nhất là các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội, như: “Nhà
nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” (khoản 2 Điều 24),
“Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát
huy vai trò của mình trong xã hội” (khoản 2 Điều 26), “Nhà nước tạo điều kiện
để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong
việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân (khoản 2 Điều 28); “Nhà
nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em”
(khoản 2 Điều 36); “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục”, “Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học
tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống
dân tộc, ý thức công dân…”, “Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội
tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” (Điều 37) v.v… Cùng với việc nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm ca Nhà
nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền con
người, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung các thiết chế độc lập nhằm tăng cường cơ
chế thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, như hiến
định Hội đồng Bầu cử quốc gia (Điều 117) và bổ sung quy định “Cơ chế bảo vệ
Hiến pháp do luật định” (đoạn 2, khoản 2 Điều 119)
2. Những vấn đề lý luận thực tiễn ngày nay
Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên
cứu luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn
hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa hội thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa hội;
từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục
tiêu cuối cùng của chủ nghĩa hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn
mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ
yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thi kquá độ, không thừa nhận sự tồn
tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản;
đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...
Cho đến nay, mặc vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu,
nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: hội xã hội chủ nghĩa
nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng một hội dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao,
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản
lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ công
bằng hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng an ninh quốc gia, trật tự an toàn
hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa,
hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển, chủ động tích cực hội nhập quốc tế;
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch,
10
vững mạnh toàn diện.Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được
rằng, quá độ lên chủ nghĩa hội là một sự nghiệp lâu dài, cùng khó khăn
phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa hội tmột nước nông nghiệp lạc hậu,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục
năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách
phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen
nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũcái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư
tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ hội chủ
nghĩa, chkhông phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh nhân loại
đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa
những thành tựu này phải chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển. việc
thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rệt, hết sức sâu sắc
tích cực Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường;
nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã
hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm;
đối ngoại hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế lực của quốc gia
được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) đã nhận định, sự
nghiệp đổi mới đã giành được "những thành tựu to lớn ý nghĩa lịch sử". Trên
thực tế, xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay đang các
điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đó là một trong những
lý do giải thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
lãnh đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng tích cực phấn đấu
thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế
còn giải quyết được các vấn đề hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ
nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được
của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt
đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể
hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mới đây, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa lại khẳng định nhấn mạnh: "Qua
35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, luận về đường lối đổi mới, về
chủ nghĩa xã hội con đường đi lên chủ nghĩa hội nước ta ngày càng được
hoàn thiện từng bước được hiện thực hoá. Chúng ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm
trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói
11
rằng: Đất nước ta chưa bao giờ được đồ, tiềm lực, vị thế uy tín quốc tế
như ngày nay. Những thành tựu đó sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, kết quả
của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa
hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt
Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng,
luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới" (Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Nội, 2021,
trang 25 - 26).
Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọngn chất lượng và tăng tính bền vững với
các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết thể chế
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn
nhân lực, trước hết nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng
đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội XIII, tập 2, trang 337 -
338). Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng
cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời
sống văn hóa cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức hc tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn
và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt
hơn nữa các nguyên tắc tchức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ
máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo
một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một
sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, kkhăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục,
hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương,
đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai
trò sáng tạo, sủng hộ tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng
hộ nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng thấy đường lối đó đáp
ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân cội nguồn sâu xa
của thắng lợi, của phát triển.
Mặt khác, Đảng lãnh đạo cầm quyền, trong khi xác định phương hướng
chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và
dân tộc mình, còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế
giới thời đại. Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi
quốc gia
12
- dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới thời
đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế trên sở tôn
trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
điều hết sức quan trọng phải luôn luôn kiên định vững vàng trên
nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học cách
mạng của giai cấp công nhân quần chúng lao động. Tính khoa học cách mạng
triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí Minh những giá trị bền
vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn
tiếp tục phát triển và sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực
tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cáchchọn lọc
trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa
học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp
thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào cứng, trì trệ, lạc
hậu so với cuộc sống.
Chương 3 : Phần kết luận
Bản thân là một công dân Việt Nam, chính bản thân cũng hiểu rõ và được tiếp thu
một nền tinh hoa văn hóa của xã hội dân chủ, công bằng dân chủ, là công dân Việt
Nam hoàn toàn thể đặt niềm tin vào luật pháp của Nhà nước, các quyền công
dân được đảm bảo khiến cho bản thân yên tâm hơn. Quyền con người được tôn
trọng, bảo vthực thi được ghi lại nội dung qua các bản Hiến pháp Việt Nam
qua các thời kì đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và nhân dân Việt Nam qua các
thời kì, từ đó chúng ta thấy rằng quan điểm của Đảng Nhà nước quan tâm
tiếp thu, thừa kế rõ quan điểm, giá trị tiến bộ của truyền thống dân tộc của thế giới.
công dân Việt Nam chúng ta hoàn toàn tin tin vào luật pháp của Nhà nước
thực hiện đúng nghĩa vụ của một công dân Việt Nam, tiếp nối tinh thần yêu nước,
phát triển đất nước Chủ nghĩa dân giàu nước mạnh, người dân ấm no hạnh phúc.
vậy, bản thân mỗi sinh viên nghĩa vụ học tập thật tốt, tiếp thu những kiến
thức về pháp luật Việt Nam cũng như Quyền con người để có thể hiểu rõ, tiếp thu
thêm kiến thức về luật pháp của Việt Nam.
14
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình pháp luật đại cương
2. http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208141
3. https://namdinh.gov.vn/portal/Pages/2021-6-25/Mot-so-van-de-ly-luan-vathuc-
tien-ve-chu-nghia-xal70cdp.aspx
4. http://bocongan.gov.vn/vanban/Pages/van-ban-moi.aspx?ItemID=212

Preview text:

ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC ***** TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐẠI CƯƠNG
Câu hỏi tiểu luận : “ trình bày nội dung quyền con người, quyền lợi và nghĩa
vụ cơ bản của công dân theo quy định của Hiến pháp 2013? Những vấn đề lý
luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay?
Sinh viên thực hiện: Lê Đình Tuấn
Mã sinh viên: 71DCTT22171 Lớp: 71DCTT21 Khóa: 71
Giảng viên hướng dẫn: Trần Văn Bình HÀ NỘI – 2021 MỤC LỤC ĐỀ MỤC Trang
Chương 1 : Phần mở đầu................................................................ 2
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích khi phân tích đề tài
3. Đối tượng trong việc phân tích đề tài
4. Phạm vi phân tích đề tài
5. Phương pháp phân tích và nghiên cứu đề tài
Chương 2 : Phần nội dung
1. Khái quát về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
1.1 : Khái niệm về hiến pháp............................................................................ 3
1.2: Nội dung.................................................................................................... 3
1.3: Quyền và nghĩa vụ của công dân............................................................... 4
1.4 Đối chiếu với bản Hiến pháp 1992 chúng ta thấy rõ................................. 6
2. Những vấn đề lý luận và thực tiễn hiện nay..................................................... 10
Chương 3 : Phần kết luận TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chương 1: Phần mở đầu
Đất nước Việt Nam chúng ta trải qua mấy nghìn năm lịch sử, người dân Việt Nam
lao động cần cù chịu khó, hi sinh thân mình để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, tinh
thần đoàn kết , kiên cường và bất khuất của người dân Việt Nam đã xây dựng nên
một nền văn hiến Việt Nam lâu đời. Đất nước chúng ta đã đổi mới và qua các lần
ban hành luật hiến pháp, bộ máy nhà nước ngày càng hoàn thiện và pháp triển
hơn để phù hợp hơn với việc quản lí xã hội. Công cuộc xây dựng hệ thống cơ
quan hành chính mới không làm suy giảm quyền lực và nhiệm vụ của nhà nước,
ngược lại các hệ thống cơ quan quản lý được đề cao, tăng cường giám sát đối với
từng bộ phận, hiểu được đường lối chỉ đạo hợp lý của nhà nước. Vậy thì, quyền
của công dân là gì? Và công dân có nghĩa vụ như thế nào đối với nhà Nước XHCN Việt Nam .
Là một công dân, nhằm mục đích nâng cao sự hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của
công dân nên em quyết định chọn đề tài : “trình bày nội dung quyền con người,
quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo quy định của Hiến pháp
2013? Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay?”
2
Chương 2 : Phần nội dung
1.1. Khái niệm về luật hiến pháp
Luật hiến pháp là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật, bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã
hội liên quan đến tổ chức quyền lực nhà nước như: Chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, chính sách văn hóa – xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, các nguyên
tắc, tổ chức và hoạt động của các cơ quan bộ máy nhà nước.
1.2 Nội dung Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân :
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp và trong
các đạo luật cơ bản của nhà nước.
Tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân tạo nên quy chế pháp lý của công dân. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải
thấy rằng, trong việc hình thành quy chế pháp lý của công dân, những quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong hiến pháp đóng vai trò quan trọng nhất.
Đặc điểm quyền và nghĩa vụ của công dân: •
Quyền cơ bản của công dân thường xuất phát từ các quyền tự nhiên thiêng
liêng và bất khả xâm phạm của con người như quyền sống, quyền bình đẳng, quyền
tự do và mưu cầu hạnh phúc và là các quyền được hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận. •
Nghĩa vụ cơ bản của công dân là các nghĩa vụ tối thiểu mà công dân phải
thực hiện đối với Nhà nước và là tiền đề đảm bảo cho các quyền cơ bản của công dân được thực hiện. •
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được ghi nhận trong hiến pháp là
cơ sở chủ yếu để xác định địa vị pháp lý của công dân. Các quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân là cơ sở đầu tiên cho mọi quyền và nghĩa vụ khác của công dân
được các nghành luật trong hệ thống pháp luật nước ta ghi nhận. •
Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là nguồn gốc phát sinh các
quyền và nghĩa vụ khác của công dân. Cơ sở phát sinh duy nhất của của các quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân là quyền công dân – nghĩa là người có quốc tịch
Việt Nam, còn cơ sở phát sinh các quyền và nghĩa vụ khác của công dân là các
quan hệ pháp luật, là các sự kiện pháp lý... •
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là những quyền và nghĩa vụ cơ bản vì:
+ Nó xác định mối quan hệ cơ bản nhất giữa nhà nước và công dân + Nó được quy
định trong đạo luật cơ bản nhất 3
+ Nó là cơ sở phát sinh các quyền và nghĩa vụ cơ bản khác của công dân.
1.3 Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được chi thành ba nhóm chính
Nhóm thức nhất : Các quyền về chính trị : Quyền bầu cử, quyền ứng cử vào các cơ
quan quyền lực nhà nước ( Điều 27 HP 2013), Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền
biểu quyết khi nhà Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân ( Điều 29 Hiến pháp 2013). •
Các quyền kinh tế, văn hóa – xã hội : Quyền tự do kinh doanh, quyền lao
động, công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền được lựa chọn nghề
nghiệp, quyền đượ kết hôn...( các điều 33, 34, 35, 36 Hiến pháp 2013 ). •
Các quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân : Quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, quyền khiếu nại, tố cáo, quyền được bảo
hộ về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm ( Điều 24, 25 HP 2013) •
Các nghĩa vụ cơ bản của công dân : Bảo vệ tổ quốc, tôn trọng hiến pháp và
pháp luật, đóng thuế, lao động và học tập ( Điều 39, 44, 45, 47 HP 2013 ).
Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân gồm 36 điều, từ Điều
41 đến Điều 49. Trong 11 chương của Hiến pháp 2013, đây là chương có số điều
quy định nhiều nhất ( 36/120 điều ), có nhiều đổi mới nhất cả về nội dung quy định,
cả về cách thức thực hiện.
Trước hết, khác với tất cả các bản Hiến pháp trước đây, lần đầu tiên Hiếp
pháp năm 2013 xác định rõ và quy định ngay tại Điều 3 về Nhà nước có trách
nhiệm “ công nhận, tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo quyền con người, quyền công
dân”. Vì vậy, khi quy định quyền con người quyền công dân, hầu hết các điều của
Hiến pháp năm 2013 quy định trực tiếp “ mọi người có quyền...” , “ công dân có
quyền ” để khẳng định rõ đây là những quyền đương nhiên của con người, của
công dân được Hiến pháp ghi nhận và Nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, đảm
bảo và bảo vệ các quyền này, chứ không phải Nhà nước “ ban phát”, “ ban ơn” các
quyền này chi con người, cho công dân. “ Quyền con người, quyền công dân chỉ
có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng
đồng” ( khoản 2 Điều 14 ).
Đây chính là nguyên tắc hiến định rất quan trọng về quyền con người, quyền
công dân và theo nguyên tắc nà, từ nay không chủ thể nào, kể cả các cơ quan nhà
nước được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền con người, quyền công dân đã được
quy định trong Hiến pháp. Cũng từ nguyên tắc này, các quy định liên quan đến các
quyền bất khả xâm phạm của con người, người dân ( như quyền được sống, quyền
không bị tra tấn, quyền bình đẳng trước pháp luật...) là các quy định có hiệu lực
trực tiếp, chỉ thể các quyền này được viện dẫn các quy định của Hiến pháp để bảo
vệ các quyền của mình khi bị xâm phạm. Các quyền, tự do cơ bản khác của con người, của
công dân và quyền được bảo vệ về mặt tư pháp cần phải được cụ thể hóa những phải 4
bằng luật do Quốc hội, cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân
dân ban hành, chứ không phải quy định chung “ theo quy định pháp luật” như rất
nhiều điều của Hiến pháp năm 1992 quy định...
Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ quyền nào là quyền con người,
quyền nào là quyền công dân và quy định chương này theo thứ tự: đầu tiên là các
nguyên tắc hiến định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
tiếp đến là quyền dân sự, chính trị rồi đến các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội và
cuối cùng kà các nghĩa vụ của cá nhân, của công dân. Hầu hết các điều của chương
này quy định trong Hiến pháp năm 2013 thay vì quy định “ công dân” như Hiến
pháp năm 1992 đã quy định “ mọi người” , “ không ai”. Điều này có ý nghĩa rất
quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới về nhận thức lý luận và giá trị thực tiễn
khi không đồng nhất với quyền con người và quyền công dân.
Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 quy định một số quyền của con người, quyền
và nghĩa vụ mới của công dân như: “ Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất,
giao nộp cho nhà nước kahcs” ( Điều 17) , “ Mọi người có quyền sống. Tính mạng
con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” ( Điều
19), “ Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào
đời sống căn goám sử dụng các cơ sở văn hóa” ( Điều 41) , “ Công dân có quyền
xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”
( Điều 42), mọi người có quyền được sống trong môi trường lành mạnh và có
nghĩa vụ bảo vệ môi trường” ( Điều 43)... Điều này thể hiện bước tiến tring việc
mở rộng và phát triển các quyền, phản ánh kết quả của quá trình đổi mới hơn1/4
thế kỷ ở Việt Nam. Nội dung của các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân được quy định trong các điều khác của Hiến pháp năm 2013 phù hợp
với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, nhất là
quyền con người về chính trị, dân sự và Công ước quyền con người về kinh tế, văn
hóa và xã hội năm 1966 của Liên hợp quốc. Đây cũng chính là sự khẳng định cam
kết mang đến tính hiến định của Nhà nước trước Nhân dân và trước cộng đồng
quốc tế về ytacsh nhiệm tôn trọng, đảm bảo, bảo vệ và thúc đầy quyền con người,
quyền công dân ở Việt Nam”.
Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục sử dụng khái niệm “quyền con người” với
nội dung chính trị - pháp lý rộng hơn để phản ánh giá trị của cá nhân con người.
Nhìn ở góc độ về khái niệm, “quyền con người” không loại trừ và không
thay thế được khái niệm “quyền công dân”. Hiến pháp năm 2013 đặc biệt quan tâm
đặt vị trí của chương “Quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân
” Chương II. Có thể nói đây cũng chính là sự kế thừa “vị trí” của Hiến pháp
năm 1946. Tuy nhiên, do nhiệm vụ chính trị của các thời kỳ là khác nhau nên có điều khác biệt, 5
nếu như Hiến pháp năm 1946 đặt nghĩa vụ của công dân lên trước thì Hiến pháp
năm 2013 lại đặt quyền của công dân lên trước. Một mặt điều này cho thấy quan
điểm tôn trọng quyền con người, quyền công dân, một mặt cho thấy quyền và nghĩa
vụ trong tất cả các thời kỳ là có mối quan hệ mật thiết với nhau, có sự kế thừa và
phát triển của Hiến pháp sau so với Hiến pháp trước.
Hiến pháp năm 2013 đã chuyển chương quyền con người và quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân từ “vị trí” Chương V (Hiến pháp năm 1992) lên “vị trí
Chương II (Hiến pháp năm 2014), tăng hai điều, từ ba mươi tư điều (từ Điều 49
đến Điều 82 – Hiến pháp năm 1992) lên ba mươi sáu điều (từ Điều 14 đến điều 49
– Hiến pháp năm 2013), tăng mười tám điều so với Hiến pháp năm 1946, tăng
mười lăm điều so với Hiến pháp năm 1959 và tăng bảy điều so với Hiến pháp năm
1980. Trong đó, có năm điều mới (là những điều: Điều 19, Điều 34, Điều 41, Điều
42, Điều 43), sửa đổi, bổ sung 28 điều (là những điều: từ Điều 14 đến Điều 18,
Điều 20 đến Điều 33, Điều 35 đến Điều 40, Điều 45, Điều 47, Điều 48), giữ nguyên
ba điều (là những điều: Điều 44, Điều 46, Điều 49)
1.4 Bản đối chiếu Hiến Pháp năm 2013 so với Hiến pháp 1992
Thứ nhất, về tên Chương, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, “quyền con người”
đã trở thành tên gọi của Chương, thay vì chỉ gọi là “quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân” như Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đó. Sự bổ sung
cụm từ “quyền con người” là điểm nhấn quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong bối
cảnh xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Đây không chỉ đơn thuần
là sự bổ sung một cụm từ mang tính chất kỹ thuật lập hiến, mà còn phản ánh tư
duy phát triển, phù hợp với xu hướng của dân tộc, thời đại và nhân loại. Cùng đó,
cũng xóa bỏ ranh giới còn chưa rõ ràng giữa khái niệm về quyền con người và
quyền công dân (quyền con người là quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng có quyền đó;
quyền công dân là quyền của những người có quốc tịch Việt Nam), ghi nhận việc
mở rộng các chủ thể của quyền, khẳng định chủ thể rộng nhất của quyền con
người là mọi cá nhân, mọi người đều được hưởng. Việc thay đổi tên Chương từ
“Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành “Quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân” trong Hiến pháp năm 2013 còn thể hiện sự nỗ lực
và cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện các Công ước
quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Thứ hai, Chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân được đưa lên và đặt trang trọng tại Chương II, ngay sau Chương I quy
định về chế độ chính trị. Đây cũng không chỉ đơn thuần là sự thay đổi số học về
vị trí các chương mang tính chất kỹ thuật lập hiến, mà còn thể hiện sự thay đổi về
nhận thức lý luận, tư duy lập hiến, là sự khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đề cao nguyên tắc Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân,
chủ quyền tối cao thuộc về Nhân dân, đồng thời cũng phản ánh thực tiễn đổi mới
toàn diện, hội nhập sâu rộng, tiến bộ và phát triển của đất nước ta, thể hiện nhất
quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo
đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Tham
khảo Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới cho thấy, Chương quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đều được đặt ở vị trí trang trọng nhất -
Chương I hoặc Chương II của các bản Hiến pháp.
Thứ ba, với quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản 1
Điều 14), Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức
lý luận và tư duy lập hiến trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân
so với Hiến pháp năm 1992 (chỉ ghi nhận quyền con người về chính trị, dân sự và
kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện ở các quyền công dân). Điểm nhấn của nội
dung này là việc bổ sung nguyên tắc “Quyền con người, quyền công dân chỉ có
thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng” (khoản 2 Điều 14). Đây chính là điều kiện để bảo đảm tính hiện thực
của quyền con người, quyền công dân, bảo đảm sự cân bằng, minh bạch và lành
mạnh giữa các lợi ích trong mối quan hệ giữa Nhà nước với con người, công dân,
cá nhân và phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là
thành viên; hạn chế tối đa bất cứ sự lạm dụng hay tùy tiện nào tước đi hay hạn
chế các quyền và tự do vốn có của mọi người bởi các cơ quan Nhà nước
Thứ tư, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các nguyên tắc
về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo hướng: quyền
công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng
quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà
nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được
xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác;
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không ai bị phân biệt đối xử trong đời
sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội (Điều 15 và Điều 16). Nguyên tắc
hiến định này vừa khẳng định sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền và nghĩa vụ, vừa
đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện quyền của người này không thể là sự chối
bỏ, phủ nhận hay xâm phạm đến quyền của người khác; nói khác đi, việc tôn
trọng các quyền tự do của mỗi người phải đặt trong mối quan hệ với việc tôn
trọng quyền và tự do của người khác.
Thứ năm, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung 05
quyền hoàn toàn mới và sửa đổi, bổ sung trên 30 quyền còn lại. -
Về các quyền hoàn toàn mới, với 05 điều cụ thể: Điều 19 (quyền sống),
Điều 40 (quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật
và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó), Điều 41 (quyền hưởng thụ và tiếp cận
các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa),
Điều 42 (quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn
ngôn ngữ giao tiếp), Điều 43 (quyền được sống trong môi trường trong lành và
có nghĩa vụ bảo vệ môi trường), Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định sự phát triển
mạnh mẽ trong chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Các quyền này đều nằm trong hai nhóm quyền cơ bản được ghi nhận trong
các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Các quyền
này vô cùng thiết yếu đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi người với tư cách là
thành viên của cộng đồng nhân loại và với tư cách là cá nhân. Trong 05 quyền
mới được hiến định lần này, có thể nói việc hiến định quyền sống được coi là
bước tiến rõ rệt đối với những cam kết của Việt Nam trong việc tôn trọng và bảo
vệ quyền sống của tất cả mọi người, trong đó có cả các nhóm người dễ bị tổn
thương như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật… Bên cạnh quyền sống, con người
còn cần đến nhu cầu và điều kiện để phát triển. Quyền được phát triển gắn liền
với việc tiếp cận, nghiên cứu, thụ hưởng các giá trị vật chất, tinh thần và những
thành quả của khoa học - công nghệ, văn học, nghệ thuật, các giá trị văn hóa.
Chính vì thế, việc hiến định các quyền về nghiên cứu khoa học - công nghệ, sáng
tạo văn học, nghệ thuật, về văn hóa là hết sức cần thiết, giúp ích cho việc nâng
cao chất lượng cuộc sống và mục tiêu hướng tới của quá trình phát triển của mọi
người. Thực tiễn gần 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta cho thấy,
tình trạng suy thoái và ô nhiễm môi trường đã và đang là nguyên nhân trực tiếp
đe dọa đến sự sống, sức khỏe, sự phát triển của mọi người. Vì vậy, quyền sống và
quyền phát triển của mọi người không thể tách rời với quyền về môi trường. Điều
43 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền được sống trong môi
trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Quyền về môi trường là
một loại quyền mới trong hệ thống các quyền con người, trong khi nhiều quốc gia
trên thế giới chưa hiến định quyền này thì quy định của Hiến pháp năm 2013 về
quyền môi trường lại càng có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện sự tiến bộ, phát triển rõ rệt
của Việt Nam trên trường quốc tế. Ở một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam,
quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ
giao tiếp của công dân là nhu cầu và là yếu tố bảo đảm bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc. Xác định rõ vấn đề này, Điều
42 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền xác định dân tộc của
mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”. -
Về các quyền được sửa đổi, bổ sung. Cùng với việc hiến định các quyền
mới, Hiếnpháp năm 2013 còn sửa đổi, bổ sung hơn 30 điều cụ thể trong Chương
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những sửa đổi, bổ
sung này là một bước tiến mới trong việc hiến định các quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân; là sự phản ánh thành tựu của gần 30 năm đổi
mới và hội nhập quốc tế của đất nước, thể hiện trách nhiệm ngày càng cao của
Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân với những thiết chế, cơ chế hiệu lực, hiệu quả, trong đó đáng
chú ý là cơ chế thực hiện quyền dân chủ trực tiếp như quyền hiến mô, bộ phận cơ
thể người và hiến xác (Điều 20), quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư,
bí mật cá nhân và bí mật gia đình; quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình (Điều
21), quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22), quyền tiếp cận thông tin (Điều 25),
quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34), quyền kết hôn, ly hôn (Điều 36)
v.v… Khẳng định thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm là một quyền bất khả
xâm phạm của mọi người, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định mọi
người không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất cứ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (khoản 1
Điều 20). Quy định này thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc
bảo đảm cho mọi người được hưởng quyền bất khả xâm phạm về thân thể, đồng
thời cũng thể hiện cam kết trong việc thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về
chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc
hạ nhục con người mà Quốc hội khóa XIII đã phê chuẩn tại kỳ họp thứ 8. -
Về các nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ bản, Hiến pháp năm 2013 giữ
nguyên như quy định của Hiến pháp năm 1992, như công dân có nghĩa vụ trung
thành với Tổ quốc (Điều 44); công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham
gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân (Điều 45); công dân có nghĩa vụ tuân theo
Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
và chấp hành những quy tắc sinh hoạt cộng đồng (Điều 46). Riêng nghĩa vụ nộp
thuế đã sửa đổi về chủ thể, thay cụm từ “công dân” bằng cụm từ “mọi người” cho
phù hợp (mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định chứ không chỉ có công
dân Việt Nam như quy định tại Điều 80 của Hiến pháp năm 1992). Bên cạnh đó,
tại Chương II của Hiến pháp năm 2013 cũng còn một số điều quy định quyền gắn
với nghĩa vụ cơ bản của công dân, như quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe,
bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và nghĩa vụ thực hiện các quy định
về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh (Điều 38), quyền và nghĩa vụ học tập của
công dân (Điều 39); quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc (Điều 45) v.v…
Thứ sáu, Hiến pháp năm 2013 đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò, trách nhiệm của
Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền con
người, quyền công dân, nhất là các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội, như: “Nhà
nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” (khoản 2 Điều 24),
“Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát
huy vai trò của mình trong xã hội” (khoản 2 Điều 26), “Nhà nước tạo điều kiện
để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong
việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân (khoản 2 Điều 28); “Nhà
nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em”
(khoản 2 Điều 36); “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục”, “Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học
tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống
dân tộc, ý thức công dân…”, “Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội
tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” (Điều 37) v.v… Cùng với việc nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của Nhà
nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền con
người, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung các thiết chế độc lập nhằm tăng cường cơ
chế thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, như hiến
định Hội đồng Bầu cử quốc gia (Điều 117) và bổ sung quy định “Cơ chế bảo vệ
Hiến pháp do luật định” (đoạn 2, khoản 2 Điều 119)
2. Những vấn đề lý luận thực tiễn ngày nay
Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên
cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn
hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội;
từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục
tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn
mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ
yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn
tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản;
đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...
Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu,
nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao,
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản
lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa,
hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, 10
vững mạnh toàn diện.Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được
rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và
phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục
năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách
phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen
nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư
tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ
nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại
đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa
những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển. việc
thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc
và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường;
nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã
hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm;
đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia
được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) đã nhận định, sự
nghiệp đổi mới đã giành được "những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử". Trên
thực tế, xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay đang có các
điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đó là một trong những
lý do giải thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu
thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà
còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ
nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được
của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt
đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể
hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mới đây, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: "Qua
35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được
hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Chúng ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm
trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói 11
rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế
như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả
của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt
Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng,
lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới" (Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 25 - 26).
Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với
các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn
nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng
đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội XIII, tập 2, trang 337 -
338). Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng
cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời
sống văn hóa cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn
và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt
hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ
máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo
một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một
sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục,
hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương,
đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai
trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng
hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp
ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa
của thắng lợi, của phát triển.
Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng
chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và
dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế
giới và thời đại. Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia 12
- dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời
đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn
trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên
nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách
mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng
triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền
vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn
tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực
tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc
trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa
học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp
thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.
Chương 3 : Phần kết luận
Bản thân là một công dân Việt Nam, chính bản thân cũng hiểu rõ và được tiếp thu
một nền tinh hoa văn hóa của xã hội dân chủ, công bằng dân chủ, là công dân Việt
Nam hoàn toàn có thể đặt niềm tin vào luật pháp của Nhà nước, các quyền công
dân được đảm bảo khiến cho bản thân yên tâm hơn. Quyền con người được tôn
trọng, bảo vệ và thực thi được ghi lại nội dung qua các bản Hiến pháp Việt Nam
qua các thời kì đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và nhân dân Việt Nam qua các
thời kì, từ đó chúng ta thấy rằng quan điểm của Đảng và Nhà nước quan tâm và
tiếp thu, thừa kế rõ quan điểm, giá trị tiến bộ của truyền thống dân tộc của thế giới.
Là công dân Việt Nam chúng ta hoàn toàn tin tin vào luật pháp của Nhà nước và
thực hiện đúng nghĩa vụ của một công dân Việt Nam, tiếp nối tinh thần yêu nước,
phát triển đất nước Chủ nghĩa dân giàu nước mạnh, người dân ấm no hạnh phúc.
Vì vậy, bản thân mỗi sinh viên có nghĩa vụ học tập thật tốt, tiếp thu những kiến
thức về pháp luật Việt Nam cũng như Quyền con người để có thể hiểu rõ, tiếp thu
thêm kiến thức về luật pháp của Việt Nam. 14
Tài liệu tham khảo 1.
Giáo trình pháp luật đại cương 2.
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208141 3.
https://namdinh.gov.vn/portal/Pages/2021-6-25/Mot-so-van-de-ly-luan-vathuc-
tien-ve-chu-nghia-xal70cdp.aspx 4.
http://bocongan.gov.vn/vanban/Pages/van-ban-moi.aspx?ItemID=212