Tài liệu luật hành chính | Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Ngày 23/12/2013, đoàn kiểm tra của Thanh tra Sở Văn Hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đã tiến hành kiểm tra cơ sở nhà trọ của bà Nguyễn Thị Tuyết có địa chỉ tại 241 đường Lê Lai, thành phố P, tỉnh G.L. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật hành chính(VNU)
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 46892935 I.
TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN.
Ngày 23/12/2013, đoàn kiểm tra của Thanh tra Sở Văn Hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh G.L đã tiến hành kiểm tra cơ sở nhà trọ của bà Nguyễn Thị Tuyết
có địa chỉ tại 241 đường Lê Lai, thành phố P, tỉnh G.L. Trong quá trình kiểm
tra đã phát hiện được:
- Ông Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành có phát sinh quan
hệnam nữ, khi kiểm tra thì không xuất trình được giấy đăng ký kết hôn.
- Ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy đang ở chung phòng trọ xem TV -
Chủ cơ sở kinh doanh không vào sổ theo dõi đối với bà Nguyễn Thị Lợi.
Ngày 10/3/2014, dựa trên kết quả kiểm tra trên đoàn kiểm tra đã kết luận
tại biên bản vi phạm hành chính về việc chủ cơ sở kinh doanh nhà trọ thiếu
trách nhiệm để xảy ra hành vi vi phạm như trên.
Trên cơ sở Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC, ngày 10/3/2014
Ông Trần Ngọc Minh (Phó Giám đốc kiêm Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh G.L) đã ban hành Quyết định xử lý vi phạm trong lĩnh
vực hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XPHC đối với cơ sở
kinh doanh nhà trọ của bà tại số 241 đường Lê Lai, thành phố P, tỉnh G.L với
mức phạt 15.000.000 đồng với lý do “đã có hành vi vi phạm hành chính: thiếu
tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh
có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm (Áp dụng khoản
1 Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính Phủ)".
Ngày 24/03/2014, bà Tuyết đã làm đơn khiếu nại gửi tới Sở Văn hóa Thể
thao và Du lịch tỉnh G.L về Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/03/2014 của
Chánh thanh tra Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L.
Ngày 24/03/2014, bà Tuyết đã làm đơn khiếu nại gửi tới Sở Văn hóa Thể
thao và Du lịch tỉnh G.L về Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/03/2014 của
Chánh thanh tra Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L.
Ngày 07/04/2014, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ra Công văn số
167/CV-VHTTDL về việc trả lời đơn khiếu nại trong đó nêu rõ Quyết định 23
đã được ban hành đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục luật định và quyết định
giữ nguyên Quyết định số 23/QĐ-XPHC. lOMoAR cPSD| 46892935
Ngày 11/4/2014, bà Nguyễn Thị Tuyết tiếp tục có đơn khiếu nại của gửi
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh G.L, Giám đốc Sở Văn hóa, thể thao và du lịch
tỉnh G.L, Giám đốc công an tỉnh G.L. Ngày 20/4/2014, Thanh tra sở ra Quyết
định số 01/QĐ-TTr về việc giải quyết khiếu nại xử phạt vi phạm hành chính
của bà Tuyết ngày 24/3/2014, theo đó giữ nguyên quyết định số 23/QĐ- XPHC.
Ngày 02/05/2014, bà Tuyết làm đơn khởi kiện Chánh thanh tra Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L về việc ban hành Quyết định xử lý vi phạm
trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XPHC Do
không đồng ý với quyết định xử phạt và việc giải quyết nêu trên. II.
KẾ HOẠCH HỎI CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA.
Tư cách tham gia xét hỏi: Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Tuyết
Mục đích hỏi: Chứng minh Quyết định 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 của
Chánh thanh tra Sở văn hóa, thể thao và du lịch Tỉnh G.L là không đúng pháp
luật và yêu cầu Tòa án hủy bỏ toàn bộ Quyết định 23/QĐ-XPHC. Yêu cầu của khách hàng
Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh GL:
Hủy bỏ Quyết định 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở
văn hóa, thể thao và du lịch Tỉnh G.L
1. Đương sự trong vụ án.
Người khởi kiện:
- Bà Nguyễn Thị Tuyết, là người có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại
trực tiếp bởi quyết định hành chính số 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 của
Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L
- Người được ủy quyền hợp pháp: Ông Mai Anh Tuấn Người bị kiện:
- Ông Trần Ngọc Minh - Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L.
- Người được ủy quyền: Ông Dương Văn Thành - Phó Chánh Thanh tra Sở
Văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L. Người làm chứng:
- Ông: Nguyễn Văn Thường.
- Bà: Nguyễn Thị Lành. - Ông: Phan Văn. lOMoAR cPSD| 46892935 - Bà: Nguyễn Thị Thùy.
2. Đối tượng khởi kiện.
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao,
du lịch và quảng cáo số 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L. 3. Kế hoạch hỏi:
3.1 Hỏi người khởi kiện:
- Bà Tuyết cho biết ngày 23 tháng 12 năm 2013, nhà trọ Hoàng Lan do bà làm
chủ đã có nhưng người thuê phòng trọ nào?
- Khi khách tới thuê trọ thì bà có làm các thủ tục cho thuê trọ như thế nào?
- Đoàn kiểm tra đã kiểm tra thông qua các thủ tục như thế nào?
- Ông Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành khi thuê trọ, bà có hỏi rõ
về giấy tờ cá nhân và phổ biến các quy định khi thuê phòng trọ không?
- Ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy khi thuê trọ, bà có hỏi rõ về giấy tờ cá
nhân và phổ biến các quy định khi thuê phòng trọ không?
- Khi xảy ra sự việc kiểm tra thì có những ai ở đó? Họ đã chứng kiện vụ việc
trong khoảng thời gian nào?
- Sau khi kiểm tra, đoàn kiểm tra đã lập biên bản, bà có biết rõ các thông tin trong biên bản không?
- Cùng với sự chứng kiến của những người có mặt ở đó, sau khi lập biên bản
thì những ai đã ký vào biên bản?
- Bà nhận được Quyết định 23 vào thời gian nào? Có biên bản bàn giao quyết
định không? So với thông tin biên bản tại ngày kiểm tra có khác những thông tin nào không?
3.2. Hỏi người bị kiện:
- Ông Thành cho biết khi đến kiểm tra cở sở nhà trọ Hoàng Lan,đoàn kiểm tra
gồm những ai và việc kiểm tra dựa trên cơ sở nào?
- Ngày 23 tháng 12 năm 2013 Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch G.L
đã lập biên bản số 11/BB-VPHC đối với nhà trọ Hoàng Lan, vậy nhà trọ Hoàng
Lan đã có hành vi vi phạm gì?
- Khi lập biên bản, đã có những ai chứng kiến? Cùng với sự chứng kiến của
người có mặt ở đó, đã có những ai ký vào biên bản?
- Ông Thành cho biết căn cứ vào cơ sở pháp lý nào để Thanh tra Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch G.L ban hành Quyết định xử phạt hành chính số 23/QĐXP
ngày 10 tháng 03 năm 2014(Quyết định 23) đối với bà Nguyễn Thị Tuyết? lOMoAR cPSD| 46892935
- Ngoài Biên bản vi phạm được lập ngày 23/12/2013 thì còn biên bản nào khác
ghi nhận hành vi vi phạm của nhà trọ Hoàng Lan Không?
- Quyết định xử phạt có phải là không ghi ngày ban hành không? Sau đó cơ
quan đã sửa bằng văn bản gì để quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23
có ngày ban hành và ngày có hiệu lực?
- Lý do vì sao đến ngày 10/3/2014 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch G.L mới ra
quyết định xử phạt? Theo quy định tại Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính
thì thời hạn ra Quyết định xử phạt là không quá 60, kể từ ngày lập biên bản.
Thực tế từ ngày lập biên bản cho đến ngày ra Quyết định 23 là 77 ngày. Vậy
việc ban hành này có đúng quy định của pháp luật không?
- Từ thời điểm lập biên bản cho đến ngày ra Quyết định có bao nhiêu công văn gia hạn?
- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chánh thanh tra sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch G.L là trong lĩnh vực gì? Căn cứ để ra quyết định xử phát của cơ quan là gì?
3.3 Hỏi người làm chứng:
- Ông Thường và bà Lành cho biết môi quan hệ giữa ông và bà là gì? Khi tới
thuê phòng tại nhà trọ Hoàng Lan, ông bà đã làm những thủ tục gì?
- Đối với việc có đoàn kiểm tra tới, họ đã kiểm tra phòng của 2 ông bà như thế
nào? Đoàn đã hỏi ông bà những vấn đề gì?
- Sau khi đoàn kiểm tra lập biên bản thì có ông bà có chứng kiến và ký vào biên bản hay không?
- Ông Văn và bà Thúy cho biết môi quan hệ giữa ông và bà là gì? Khi tới thuê
phòng tại nhà trọ Hoàng Lan, ông bà đã làm những thủ tục gì?
- Đối với việc có đoàn kiểm tra tới, họ đã kiểm tra phòng của 2 ông bà như thế
nào? Đoàn đã hỏi ông bà những vấn đề gì?
- Sau khi đoàn kiểm tra lập biên bản thì có ông bà có chứng kiến và ký vào biên bản hay không?
- Bà Lợi cho biết khi tới thuê phòng trọ bà đã làm những thủ tục như thế nào,
đoàn kiểm tra đã hỏi những vấn đề gì với bà?
- Sau khi đoàn kiểm tra lập biên bản thì có bà có chứng kiến và ký vào biên bản hay không?
III. LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN lOMoAR cPSD| 46892935
Kính thưa Hội đồng xét xử và vị đại diện Viện Kiểm sát!
Thưa các Luật sư đồng nghiệp.
Tôi là Nguyễn Anh T– Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư X, Đoàn Luật sư TP.
Hồ Chí Minh, tham gia phiên tòa ngày hôm nay với vai trò là người bảo vệ quyền
lợi hợp pháp cho khách hàng của tôi là bà Nguyễn Thị Tuyết là người khởi kiện trong
vụ án hành chính khiếu kiện Quyết định số 23/QĐ-XPHC ngày 10/03/2014 về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo của
Chánh thanh tra Sở Văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L được Tòa án nhân dân tỉnh
G.L đưa ra xét xử ngày hôm nay.
Qua việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét các tài liệu có liên quan, theo dõi phần
trình bày của các đương sự, ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm
nay, tôi xin trình bày quan điểm của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bà Nguyễn Thị Tuyết, chứng minh Quyết định số 23/QĐ-QĐXP ngày 10/03/2014
của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L là không đúng quy
định pháp luật bởi các lẽ sau:
Thứ nhất, Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC được thanh tra sở
văn hóa thể thao và du lịch lập ngày ngày 23/12/2013 là căn cứ để ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP ban hành ngày 10/03/2014 là biên bản lập
không đúng quy định của pháp luật về căn cứ áp dụng
Ngày 23/12/2013, đoàn kiểm tra của Thanh tra Sở Văn hóa, thể thao và du
lịch tỉnh G.L tiến hành kiểm tra hộ kinh doanh của bà Tuyết. Như vậy thời điểm xảy
ra hành vi vi phạm là ngày 23/12/2013. Vào thời điểm đó, Nghị định số
167/2013/NĐ-CP chưa có hiệu lực. Theo khoản 1 Điều 72 Nghị định số
167/2013/NĐ-CP thì “Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 28/12/2013”
tức là sau 05 ngày kể tử ngày tiến hành lập biên bản.
Theo Điều 73 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định: “1. Đối với hành vi vi
phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn
xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình xảy ra trước ngày
Nghị định này có hiệu lực mà sau đó mới bị phát hiện hoặc đang xem xét, giải quyết,
thì áp dụng các quy định có lợi cho cá nhân, tổ chức vi phạm…”. Do vậy, căn cứ
đưa ra Quyết định số 23/QĐ-QĐXP là không đúng quy định pháp luật.
Thứ hai, Quyết định số 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra sở Văn
hóa thể thao và du lịch Trần Ngọc Minh được ban hành là không đúng thẩm quyền. lOMoAR cPSD| 46892935
Điều 69 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định Thanh tra sở văn hóa
thể thao và du lịch được lập biên bản vi phạm trong phạm vi mục 4, chương II của Nghị định cụ
thể như sau: “Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội có thẩm quyền xử phạt theo quy
định của Luật xử lý vi phạm hành chính đối với những hành vi quy định tại Mục 2 Chương II;
Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch có thẩm quyền xử phạt theo quy định của Luật xử lý vi
phạm hành chính đối với những hành vi quy định tại Mục 4 Chương II; các lực lượng Thanh tra
chuyên ngành, Quản lý thị trường có thẩm quyền xử phạt theo quy định của Luật xử lý vi phạm
hành chính đối với các hành vi quy định tại Điều 20 Nghị định này theo chức năng, nhiệm vụ
trong phạm vi, lĩnh vực mình quản lý”.
Quyết định số 23/QĐ-XP do Chánh thanh tra sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh G.L
ban hành ngày 10/03/2014 quyết định xử phạt đối với bà Nguyễn Thị Tuyết đã nêu rõ bà Tuyết
đã vi phạm khoản 1 điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ban hành ngày 12/11/2013. Do vậy
thẩm quyền xử lý phạm hành chính trong trường hợp này thuộc thẩm quyền của thanh tra Lao
động – Thương binh và xã hội tỉnh G.L.
Cụ thể hơn, theo quy định tại Nghị định số 71/2009/NĐ-CP 28/08/2009 về tổ chức và
hoạt động của thanh tra văn hóa, thể thao và du lịch và Thông tư liên tịch số
43/2008/TTLTBVHTTDL-BNVngày 6/6/2008 thì Thanh tra Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch
hoàn toàn không có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, liên quan đến những hành vi này (không
có văn bản ủy quyền cho ông Chánh thanh tra trong việc ra quyết định).
Thứ ba, quyết định số 23/QĐ-VPHC vi phạm thời hạn ra quyết định.
Theo quy định tại Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính thì thời hạn ra quyết định xử
phạt vi hạn hành chính trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp, thuộc
một trong số các trường hợp được pháp luật quy định thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là
60 ngày. Ngày lập biên bản vi phạm hành chính trong vụ việc này là ngày 23/12/2013. Áp dụng
theo quy định pháp luật trong trường hợp hành vi thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì
thời hạn tối đa để ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là ngày 23/02/2014. Thực tế, quyết
định số 23/QĐ-VPHC được ban hành ngày 10/03/2014, quá thời hạn quy định là 17 ngày. Do
vậy, quyết định xử phạt vi phạm hành chính này đã vi phạm về thời hạn ra quyết định xử phạt.
Thứ tư, về nội dung quyết định xử phạt không có căn cứ thực tế.
Quyết định nêu rõ bà Nguyễn Thị Tuyết: “đã có hành vi vi phạm hành chính
thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh lOMoAR cPSD| 46892935
có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm”. Khoản 1, Khoản 2
Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003 định nghĩa: “Bán dâm là hành
vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán
dâm để được giao cấu”.
Tại bản tường trình ngày 23/12/2013 của ông Nguyễn Văn Thường khẳng
định ông với bà Lành là vợ chồng. Cùng ngày, ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị
Thùy khai tại bản tường trình: “cả hai là đôi nam nữ yêu nhau, đã có đám hỏi nhưng
do ông ngoại mất nên chưa tổ chức đám cưới”, tại thời điểm lập Biên bản thì ông
Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy đang nằm xem ti vi.
Trong 02 bản tường trình của ông Nguyễn Văn Thường ngày 23/12/2013 có
chữ ký của ông Thường và bà Lành và bản tường trình cùng ngày của ông Phan Văn
và bà Nguyễn Thị Thùy đã trình bày lại sự việc, mối quan hệ giữa ông Thường và
bà Lanh, ông Văn và bà Thùy đều là tự nguyện, không vì lợi ích vật chất khác
Vì vậy, việc ban hành quyết định xử phạt là không có cơ sở, Đoàn kiểm tra đã
không làm rõ việc: có hoạt động mại dâm trong cơ sở Hoàng Lan của bà Tuyết hay
không mà chỉ dựa vào ý chí chủ quan của Đoàn thanh tra là không khách quan, thiếu cơ sở.
Thứ năm, Điều 2 của Quyết định 23/QĐ-XPHC không ghi ngày giao và tại
phần đính chính của Công văn số 02/2014/CV-TTr ngày 18/3/2014 của thanh tra sở
gửi bà Nguyễn Thị Tuyết và kho bạc nhà nước tỉnh về việc đính chính lại Quyết định
số 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 có ghi “bà Nguyễn Thị Tuyết phải nghiêm chỉnh
chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày được giao quyết
định xử phạt là ngày 17/3/3014.” Thực tế, ngày 17/3/2014, bà Tuyết nhận được quyết
định không ghi ngày giao. Và tới ngày 31/3/2014, thanh tra Sở mới gửi quyết định
xử phạt đã đính chính (thể hiện trong công văn 167 gửi tòa).
Bên cạnh đó, việc căn cứ ban hành quyết định số 23/QĐ-XPHC của Chánh
thanh tra sở Văn hóa thể thao và du lịch có ghi rõ: “Căn cứ biên bản vi phạm hành
chính do Thanh tra sở văn hóa thể thao và du lịch lập hồi 21h ngày 21/12/2013 tại
số 241 đường Lê Lai, thành phố P, tỉnh G.L” nhưng Biên bản vi phạm hành chính
lại được lập ngày 23/12/2013 vậy thì biên bản vi phạm hành chính lập ngày
21/12/2013 là không đúng. Biên bản vi phạm hành chính ngày 21/12/2013 đã không
có sự có mặt người vi phạm dẫn tới không đảm bảo về tính xác thực của nội dung biên bản. lOMoAR cPSD| 46892935
Từ những lập luận trên, có thể khẳng định Quyết định số 23/QĐ-XPHC ngày
10/03/2014 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du
lịch và quảng cáo của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L là
hoàn toàn trái với quy định pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xem xét, cân nhắc tuyên hủy toàn bộ quyết định số 23/QĐ-
XP ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở văn hóa, thể thao và du lịch Tỉnh G.L vì
đã vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật.
Trân trọng cảm ơn Hội đồng xét xử và các quý vị đã chú ý lắng nghe!