Tài liệu - Luật hình sự | Trường đại học Luật, đại học Huế

Tài liệu - Luật hình sự | Trường đại học Luật, đại học Huế được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Việc không áp dụng hình phạt tử hình không có nghĩa bỏ qua tội ác của những người phạm tội và coi
nhẹ nỗi đau của người bị hại và gia đình họ, mà có thể áp dụng hình phạt khác như tù chung thân.
Đối lập với quan điểm không ủng hộ hình phạt tử hình, thì tư tưởng ủng hộ hình phạt tử hình lập
luận rằng: Hình phạt tử hình là biện pháp có hiệu quả răn đe đặc biệt, không thể thay thế trong việc
ngăn ngừa tội phạm đặc biệt nghiêm trọng như giết người, khủng bố, ma túy… Giết một người để
răn đe nhiều người. Tử hình một người phạm tội giết người hoặc gây ra những tội ác nghiêm trọng
khác là phù hợp với công lý, đền bù thích đáng nhất cho sự mất mát, khổ đau của những nạn nhân và
gia đình họ. Nếu việc áp dụng hình phạt tử hình bị coi là làm tổn hại phẩm giá, phi nhân đạo đối với
người người phạm tội thì việc không áp dụng hình phạt tử hình cũng có thể coi làm tổn hại phẩm giá
của người bị hại và phi nhân đạo đối với toàn xã hội. Hình phạt tử hình mang lại cho tất cả chúng ta,
đặc biết với nạn nhân của tội phạm sự yên bình và không còn bị tội phạm tái xâm phạm. Chúng ta
phải đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân của người phạm tội. Pháp luật quốc tế cũng
không cấm hình phạt tử hình, mà chỉ khuyến khích các nước nên giảm và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử
hình. Việc áp dụng hình phạt tử hình cần nên duy trì, mọi người đều được pháp luật bảo vệ và đều
bình đẳng trước pháp luật, những sai sót trong tố tụng thường không có và nếu có thì cũng rất nhỏ,
không thể viện dẫn nguy cơ oan sai để xóa bỏ hình phạt tử hình. Việc áp dụng hình phạt tử hình là
một biện pháp phòng chống tội phạm hữu hiệu. Như vậy trên những lập luận khác nhau đã tạo hai
luồng quan điểm khác nhau liên quan việc có hay không duy trì hình phạt tử hình.
Theo chúng tôi, thì việc tiếp tục duy trì hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự Việt Nam phải trên cơ
sở hai yêu cầu đó là phải tương thích với chuẩn mực quốc tế, thứ hai là phải phù hợp với hoàn cảnh
cụ thể của Việt Nam và đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, đấu chống tội phạm tại Việt Nam, trong đó yêu
cầu thứ hai là quan trọng hàng đầu, điều này lý giải tại sao có quốc gia sau khi xóa bỏ hình phạt từ
hình trong một thời gian phải khôi phục lại hình phạt này do tình hình tội phạm gia tăng đột biến.
Thực tế cho thấy nước ta đang phát triển nến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những
thành tựu đáng k mà đất nước ta đạt được kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới là điều không thể
phủ nhận. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh những yếu tố tiêu cực, tác động
đến mọi mặt của xã hội, trong đó có tội phạm. Đặc biệt thời gian gần đây các tội phạm về an ninh
quốc gia vẫn diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch chưa từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng
nước ta; các tội phạm về ma túy, tội phạm tình dục, các tội phạm tham nhũng, các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe đang có chiều hướng gia tăng cả về quy mô và tính chất, các băng, nhóm tội phạm
có tổ chức, hoạt động liên tỉnh, xuyên quốc gia, gây ra nhiều tội phạm đặc biệt nghiêm trọng gây ảnh
hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế - xã hội. Đơn cử như vụ án ma túy, vận chuyển trái phép chất
ma túy từ Lào về Việt Nam đưa sang Trung Quốc tiêu thụ, xảy ra vào ngày 4/7/2012 tại Sơn La được
cho là lớn nhất từ trước đến nay. Trong vụ án này, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy của Bộ
Công an đã thu giữ 89 bánh hêrôin và 33.800 viên ma túy tổng hợp, 1 kg ma túy tổng hợp dạng tinh
thể. Đối với những vụ án này để phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm có hiệu quả thì không thể
không duy trì hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt.
Về cơ sở pháp lý, theo tôi thì việc duy trì hình phạt tử hình cũng không trái pháp luật quốc tế và
không vi phạm nhân quyền. Quyền được sống là quyền của mọi con người, mang tính phổ biến
không ai có quyền tước đi. Những người ủng hộ quan điểm bỏ hình phạt tử hình dựa vào đó mà cho
rằng hình phạt tử hình đã vi phạm quyền này của con người và dựa vào Tuyên ngôn quốc tế về nhân
quyền, Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966, Nghị định thư không bắt buộc thứ hai
của công ước này về việc xóa bỏ hình phạt tử hình (1989) để thiết lập các tiêu chuẩn quốc tế cho việc
xóa bỏ hình phạt tử hình. Điều 3 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền nêu “Mọi người đều có quyền
sống, tự do và được bảo vệ an toàn”. Ngoài ra Điều 5 quy định: “Không ai có thể phải gánh chịu một
hình phạt tàn khốc hoặc làm giảm phẩm giá của con người”. Theo đó các quốc gia đã xóa bỏ hình
phạt tử hình giải thích rằng việc áp dụng hình phạt tử hình là vi phạm các nội dung nêu trên của
tuyên ngôn, đồng nghĩa với việc vi phạm nhân quyền. Tuy nhiên, thực tế không có một đoạn văn nào
của tuyên ngôn cụ thể hóa việc làm như thế nào là vi phạm nhân quyền. Do đó nếu dựa vào Điều 3
Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, theo các quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình, để khẳng định
rằng việc sử dụng hình phạt tử hình là vi phạm nhân quyền thì thật vô . Bởi vì, nếu tử hình một ai
đó tức là vi phạm nhân quyền thì chúng ta cũng phải xóa bỏ các trại giam, nhà tạm giữ, trại tạm giam
vì khi giam một ai đó cũng vi phạm quyền tự do. Bên cạnh đó dựa theo Điều 5 của Tuyên ngôn quốc
tế về nhân quyền, các quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình cho rằng hình phạt tử hình nên được xóa
bỏ vì đó là một hình phạt tàn khốc nhất, vô nhân đạo, hạ thấp phẩm giá con người. Đây là sự đánh
giá mang tính phiến diện, vì Điều 5 của Tuyên ngôn không có sự giải thích và áp dụng trong những
trường hợp cụ thể nào được coi là vô nhân đạo, hạ thấp phẩm giá con người. Do đó không thể giải
thích là hình phạt tử hình hoàn toàn có nội dung tàn khốc và hạ thấp phẩm giá con người.
Việt Nam là thành viên của công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị từ năm 1966. Tuy
nhiên, theo khoản 2 Điều 6 của công ước quy định: “Ở những quốc gia chưa xóa bỏ hình phạt tử hình
thì chỉ được phép áp dụng đối với những tội nghiêm trọng nhất…”. Điều này cho thấy, công ước thừa
nhận ở những quốc gia khác nhau, tùy theo điều kiện cụ thể của mình có thể duy trì hình phạt tử
hình. Nhưng hình phạt tử hình phải được áp dụng đối với những người phạm tội nghiêm trọng nhất.
Việt Nam đã thực hiện đúng cam kết này. Đối với nghị định thư thứ hai về việc xóa bỏ hình phạt tử
hình, thì cũng chỉ mang tính khuyến nghị mà không có tính bắt buộc cho tất cả các quốc gia trên thế
giới. Như vậy việc tiếp tục duy trì hình phạt tử hình ở Việt Nam hiện nay là cần thiết và không trái
pháp luật quốc tế.
Về mặt lý luận, theo chúng tôi thì hình phạt tử hình không trái với nguyên tắc nhân đạo. Hình phạt tử
hình là nghiêm khắc nhất, tước đi quyền sống của người phạm tội. Đây là hình phạt chỉ có tác dụng
trừng trị mà không có ý nghĩa cải tạo, giáo dục người phạm tội. Cũng vì thế các quan điểm chống lại
hình phạt tử hình thường chỉ trích rằng nó vô nhân đạo đối với người phạm tội. Chúng ta cần phải
hiểu rằng tính nhân đạo của pháp luật biểu hiện ở sự dung hòa lợi ích của xã hội và lợi ích của người
phạm tội. Việc đề cao lợi ích của người phạm tội mà quên đi lợi ích của toàn xã hội không thể xem là
thỏa mãn nguyên tắc nhân đạo của pháp luật. Một người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây thiệt
hại đặc biệt cho xã hội và còn tiếp tục đe dọa đến sự an toàn của xã hội thì việc nhân đạo đối với họ
chính là vô nhân đạo đối với toàn thể cộng đồng xã hội. Đứng ở góc độ xã hội, cần phải có một hình
phạt nghiêm khắc hơn đó là hình phạt tử hình để đảm bảo mục đích phòng ngừa của hình phạt. Như
vậy, hình phạt tử hình đã thể hiện tính nhân đạo một cách tương đối thông qua khía cạnh xã hội là
loại bỏ mối đe dọa nguy hiểm cho xã hội, răn đe và giáo dục người khác không phạm tội hay từ bỏ ý
định phạm tội. Ngoài ra hình phạt tử hình góp phần nâng cáo phẩm giá con người, đảm bảo chất
lượng cuộc sống và đảm bảo an toàn xã hội. Nâng cao phẩm giá của con người cũng chính là lý do
được quan điểm chống lại hình phạt tử hình viện dẫn cho việc xóa bỏ hình phạt này. Quan điểm này
cho rằng việc áp dụng hình phạt tử hình là sự không tôn trọng phẩm giá con người khi đã tước đi
quyền sống của một con người, là một hình phạt mang tính chất nhục hình. Chúng ta phải xác định
rằng bảo vệ phẩm giá của con người ở đây là của người bị hại và của cả cộng đồng, tội phạm đang
diễn ra hết sức phức nghiêm trọng, nhất là đối với tội phạm về tham nhũng, ma túy, hiếp dâm, giết
người, cướp tài sản. Trong những vụ phạm tội này, người phạm tội đã gây thiệt hại hàng nghìn tỉ
đồng cho Nhà nước từ các vụ tham nhũng, nhiều gia đình tan nát vì vướng phải ma túy, nhiều trẻ em
bị khủng hoảng suốt đời vì bị hiếp dâm... Trong trường hợp đó, vai trò của pháp luật là bảo vệ và
nâng cao phẩm giá của người bị hại và của cả cộng đồng chứ không phải giữ gìn và nâng cao phẩm
giá của người phạm tội và hình phạt tử hình sẽ làm tốt được điều này. Mặt khác trong điều kiện xã
hội Việt Nam hiện nay, khi mà tội phạm còn tồn tại và tỏ ra đặc biệt nguy hiểm, đe dọa đến cuộc
sống yên bình của bất kỳ thành viên nào trong xã hội thì hình phạt tử hình tồn tại là rất hiệu quả.
Chúng ta hãy hình dung đối với một người phạm tội đặc biệt nguy hiểm nhưng không bị áp dụng
hình phạt tử hình. Ở trong trại giam, người này có thể đe dọa về tính mạng cho những phạm nhân
khác. Đó là chưa kể người này thoát khỏi sự kiểm soát của trại giam, cả cộng đồng đặt trong một tình
trạng cực kỳ nguy hiểm. Kể cả khi người phạm tội chấp hành xong hình phạt (tù chung thân mà được
giảm án), và một ngày họ sẽ được trở về. Khi đó những người từng làm chứng chống lại họ, những
đối thủ của họ, thậm chí cả những người đã từng xét xử họ… sẽ không có được cuộc sống yên ổn vì
lo âu, sợ hãi, sợ một ngày nào đó bị trả thù. Do đó, hình phạt tử hình được xem là điều kiện tốt để
mang lại một cuộc sống có chất lượng và an ninh cho toàn xã hội. Kinh nghiệm một số quốc gia trên
thế giới cho thấy, khi các điều kiện chưa cho phép thì không nên nghĩ đến việc xóa bỏ hình phạt tử
hình. Bởi vì, sau khi xoá bỏ hình phạt tử hình, họ phải khôi phục lại hình phạt tử hình nhằm trấn áp,
răn đe tội phạm vốn chưa được kiểm soát nay có điều kiện phát triển bởi không còn sợ nguy cơ bị xử
phạt tử hình. Ngoài ra hình phạt tử hình đảm bảo mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm của hệ
thống hình phạt. Hiện nay quan điểm bỏ hình phạt tử hình cho rng việc duy trì hình phạt tử hình
không có tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm mà thậm chí còn làm tăng tội phạm. Chúng ta đều
biết, tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm của hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng
phụ thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia như: Kinh tế, văn hóa, trình độ dân trí, ý thức pháp luật
của người dân…Ở những quốc gia cho rằng hình phạt tử hình không làm giảm tội phạm đa số các
quốc gia có nền kinh tế phát triển, trình độ dân trí cao, ý thức pháp luật cao. Trước khi xóa bỏ hình
phạt tử hình trong luật, đã có một thời gian dài họ không hề áp dụng hình phạt tử hình trên thực tế.
Do đó, việc họ còn duy trì hay xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật đã không còn ý nghĩa đến sự tăng
hay giảm tội phạm. Trong khi ở Việt Nam, nền kinh tế vẫn còn đang phát triển, trình độ văn hóa chưa
cao, ý thức pháp luật vẫn còn rất kém. Việc chạy theo xu thế của nước các nước phát triển để xóa bỏ
hình phạt tử hình là chưa thể làm ngay được. Dựa trên số liệu thống kê về tình hình tội phạm qua các
năm để kết luận rằng dù có duy trì hình phạt tử hình thì tội phạm vẫn tăng và do đó hình phạt tử
hình là không cần thiết là sai. Chúng ta phải đặt câu hỏi rằng, trong khi luật còn duy trì hình phạt tử
hình mà tội phạm vẫn càng tăng như thế, nếu hình phạt tử hình được xóa bỏ thì tội phạm sẽ tăng
như thế nào? Phải thừa nhận rằng, hiện nay ở nước ta, nhiều người phạm tội vẫn có biểu hiện hết
sức nghiêm trọng, ngoan cố, bất chấp tất cả hậu quả, dù đó là cái chết. Đối với những người đó, nếu
không loại khỏi xã hội thì khả năng nguy hiểm là rấtcao. Như thế mục đích phòng ngừa của hình phạt
sẽ không đạt được. Người phạm tội dù tàn ác, ngoan cố đến đâu vẫn còn có lý trí để suy nghĩ và cân
nhắc trước khi phạm tội về những vấn đề khi phạm tội mình được gì, cái giá phải trả cho việc phạm
tội, khả năng thành công trong việc thực hiện tội phạm, khả năng trốn tránh pháp luật... Nếu cái giá
phải trả càng thấp so với việc phạm tội đạt được thì khả năng thực hiện ý định phạm tội càng cao.
Nhiều người phạm tội thổ lộ do nghĩ đến việc bị tử hình nên hành vi phạm tội được dừng lại và
không tiếp diễn nghiêm trọng hơn.
Trên cơ sở phân tích như trên thì việc tiếp tục duy trì hình phạt tử hình ở Việt Nam là cần thiết khách
quan và không trái với chuẩn mực quốc tế.
| 1/3

Preview text:

Việc không áp dụng hình phạt tử hình không có nghĩa bỏ qua tội ác của những người phạm tội và coi
nhẹ nỗi đau của người bị hại và gia đình họ, mà có thể áp dụng hình phạt khác như tù chung thân.
Đối lập với quan điểm không ủng hộ hình phạt tử hình, thì tư tưởng ủng hộ hình phạt tử hình lập
luận rằng: Hình phạt tử hình là biện pháp có hiệu quả răn đe đặc biệt, không thể thay thế trong việc
ngăn ngừa tội phạm đặc biệt nghiêm trọng như giết người, khủng bố, ma túy… Giết một người để
răn đe nhiều người. Tử hình một người phạm tội giết người hoặc gây ra những tội ác nghiêm trọng
khác là phù hợp với công lý, đền bù thích đáng nhất cho sự mất mát, khổ đau của những nạn nhân và
gia đình họ. Nếu việc áp dụng hình phạt tử hình bị coi là làm tổn hại phẩm giá, phi nhân đạo đối với
người người phạm tội thì việc không áp dụng hình phạt tử hình cũng có thể coi làm tổn hại phẩm giá
của người bị hại và phi nhân đạo đối với toàn xã hội. Hình phạt tử hình mang lại cho tất cả chúng ta,
đặc biết với nạn nhân của tội phạm sự yên bình và không còn bị tội phạm tái xâm phạm. Chúng ta
phải đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân của người phạm tội. Pháp luật quốc tế cũng
không cấm hình phạt tử hình, mà chỉ khuyến khích các nước nên giảm và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử
hình. Việc áp dụng hình phạt tử hình cần nên duy trì, mọi người đều được pháp luật bảo vệ và đều
bình đẳng trước pháp luật, những sai sót trong tố tụng thường không có và nếu có thì cũng rất nhỏ,
không thể viện dẫn nguy cơ oan sai để xóa bỏ hình phạt tử hình. Việc áp dụng hình phạt tử hình là
một biện pháp phòng chống tội phạm hữu hiệu. Như vậy trên những lập luận khác nhau đã tạo hai
luồng quan điểm khác nhau liên quan việc có hay không duy trì hình phạt tử hình.
Theo chúng tôi, thì việc tiếp tục duy trì hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự Việt Nam phải trên cơ
sở hai yêu cầu đó là phải tương thích với chuẩn mực quốc tế, thứ hai là phải phù hợp với hoàn cảnh
cụ thể của Việt Nam và đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, đấu chống tội phạm tại Việt Nam, trong đó yêu
cầu thứ hai là quan trọng hàng đầu, điều này lý giải tại sao có quốc gia sau khi xóa bỏ hình phạt từ
hình trong một thời gian phải khôi phục lại hình phạt này do tình hình tội phạm gia tăng đột biến.
Thực tế cho thấy nước ta đang phát triển nến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những
thành tựu đáng kể mà đất nước ta đạt được kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới là điều không thể
phủ nhận. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh những yếu tố tiêu cực, tác động
đến mọi mặt của xã hội, trong đó có tội phạm. Đặc biệt thời gian gần đây các tội phạm về an ninh
quốc gia vẫn diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch chưa từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng
nước ta; các tội phạm về ma túy, tội phạm tình dục, các tội phạm tham nhũng, các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe đang có chiều hướng gia tăng cả về quy mô và tính chất, các băng, nhóm tội phạm
có tổ chức, hoạt động liên tỉnh, xuyên quốc gia, gây ra nhiều tội phạm đặc biệt nghiêm trọng gây ảnh
hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế - xã hội. Đơn cử như vụ án ma túy, vận chuyển trái phép chất
ma túy từ Lào về Việt Nam đưa sang Trung Quốc tiêu thụ, xảy ra vào ngày 4/7/2012 tại Sơn La được
cho là lớn nhất từ trước đến nay. Trong vụ án này, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy của Bộ
Công an đã thu giữ 89 bánh hêrôin và 33.800 viên ma túy tổng hợp, 1 kg ma túy tổng hợp dạng tinh
thể. Đối với những vụ án này để phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm có hiệu quả thì không thể
không duy trì hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt.
Về cơ sở pháp lý, theo tôi thì việc duy trì hình phạt tử hình cũng không trái pháp luật quốc tế và
không vi phạm nhân quyền. Quyền được sống là quyền của mọi con người, mang tính phổ biến
không ai có quyền tước đi. Những người ủng hộ quan điểm bỏ hình phạt tử hình dựa vào đó mà cho
rằng hình phạt tử hình đã vi phạm quyền này của con người và dựa vào Tuyên ngôn quốc tế về nhân
quyền, Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966, Nghị định thư không bắt buộc thứ hai
của công ước này về việc xóa bỏ hình phạt tử hình (1989) để thiết lập các tiêu chuẩn quốc tế cho việc
xóa bỏ hình phạt tử hình. Điều 3 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền nêu “Mọi người đều có quyền
sống, tự do và được bảo vệ an toàn”. Ngoài ra Điều 5 quy định: “Không ai có thể phải gánh chịu một
hình phạt tàn khốc hoặc làm giảm phẩm giá của con người”. Theo đó các quốc gia đã xóa bỏ hình
phạt tử hình giải thích rằng việc áp dụng hình phạt tử hình là vi phạm các nội dung nêu trên của
tuyên ngôn, đồng nghĩa với việc vi phạm nhân quyền. Tuy nhiên, thực tế không có một đoạn văn nào
của tuyên ngôn cụ thể hóa việc làm như thế nào là vi phạm nhân quyền. Do đó nếu dựa vào Điều 3
Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, theo các quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình, để khẳng định
rằng việc sử dụng hình phạt tử hình là vi phạm nhân quyền thì thật vô lý. Bởi vì, nếu tử hình một ai
đó tức là vi phạm nhân quyền thì chúng ta cũng phải xóa bỏ các trại giam, nhà tạm giữ, trại tạm giam
vì khi giam một ai đó cũng vi phạm quyền tự do. Bên cạnh đó dựa theo Điều 5 của Tuyên ngôn quốc
tế về nhân quyền, các quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình cho rằng hình phạt tử hình nên được xóa
bỏ vì đó là một hình phạt tàn khốc nhất, vô nhân đạo, hạ thấp phẩm giá con người. Đây là sự đánh
giá mang tính phiến diện, vì Điều 5 của Tuyên ngôn không có sự giải thích và áp dụng trong những
trường hợp cụ thể nào được coi là vô nhân đạo, hạ thấp phẩm giá con người. Do đó không thể giải
thích là hình phạt tử hình hoàn toàn có nội dung tàn khốc và hạ thấp phẩm giá con người.
Việt Nam là thành viên của công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị từ năm 1966. Tuy
nhiên, theo khoản 2 Điều 6 của công ước quy định: “Ở những quốc gia chưa xóa bỏ hình phạt tử hình
thì chỉ được phép áp dụng đối với những tội nghiêm trọng nhất…”. Điều này cho thấy, công ước thừa
nhận ở những quốc gia khác nhau, tùy theo điều kiện cụ thể của mình có thể duy trì hình phạt tử
hình. Nhưng hình phạt tử hình phải được áp dụng đối với những người phạm tội nghiêm trọng nhất.
Việt Nam đã thực hiện đúng cam kết này. Đối với nghị định thư thứ hai về việc xóa bỏ hình phạt tử
hình, thì cũng chỉ mang tính khuyến nghị mà không có tính bắt buộc cho tất cả các quốc gia trên thế
giới. Như vậy việc tiếp tục duy trì hình phạt tử hình ở Việt Nam hiện nay là cần thiết và không trái pháp luật quốc tế.
Về mặt lý luận, theo chúng tôi thì hình phạt tử hình không trái với nguyên tắc nhân đạo. Hình phạt tử
hình là nghiêm khắc nhất, tước đi quyền sống của người phạm tội. Đây là hình phạt chỉ có tác dụng
trừng trị mà không có ý nghĩa cải tạo, giáo dục người phạm tội. Cũng vì thế các quan điểm chống lại
hình phạt tử hình thường chỉ trích rằng nó vô nhân đạo đối với người phạm tội. Chúng ta cần phải
hiểu rằng tính nhân đạo của pháp luật biểu hiện ở sự dung hòa lợi ích của xã hội và lợi ích của người
phạm tội. Việc đề cao lợi ích của người phạm tội mà quên đi lợi ích của toàn xã hội không thể xem là
thỏa mãn nguyên tắc nhân đạo của pháp luật. Một người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây thiệt
hại đặc biệt cho xã hội và còn tiếp tục đe dọa đến sự an toàn của xã hội thì việc nhân đạo đối với họ
chính là vô nhân đạo đối với toàn thể cộng đồng xã hội. Đứng ở góc độ xã hội, cần phải có một hình
phạt nghiêm khắc hơn đó là hình phạt tử hình để đảm bảo mục đích phòng ngừa của hình phạt. Như
vậy, hình phạt tử hình đã thể hiện tính nhân đạo một cách tương đối thông qua khía cạnh xã hội là
loại bỏ mối đe dọa nguy hiểm cho xã hội, răn đe và giáo dục người khác không phạm tội hay từ bỏ ý
định phạm tội. Ngoài ra hình phạt tử hình góp phần nâng cáo phẩm giá con người, đảm bảo chất
lượng cuộc sống và đảm bảo an toàn xã hội. Nâng cao phẩm giá của con người cũng chính là lý do
được quan điểm chống lại hình phạt tử hình viện dẫn cho việc xóa bỏ hình phạt này. Quan điểm này
cho rằng việc áp dụng hình phạt tử hình là sự không tôn trọng phẩm giá con người khi đã tước đi
quyền sống của một con người, là một hình phạt mang tính chất nhục hình. Chúng ta phải xác định
rằng bảo vệ phẩm giá của con người ở đây là của người bị hại và của cả cộng đồng, tội phạm đang
diễn ra hết sức phức nghiêm trọng, nhất là đối với tội phạm về tham nhũng, ma túy, hiếp dâm, giết
người, cướp tài sản. Trong những vụ phạm tội này, người phạm tội đã gây thiệt hại hàng nghìn tỉ
đồng cho Nhà nước từ các vụ tham nhũng, nhiều gia đình tan nát vì vướng phải ma túy, nhiều trẻ em
bị khủng hoảng suốt đời vì bị hiếp dâm... Trong trường hợp đó, vai trò của pháp luật là bảo vệ và
nâng cao phẩm giá của người bị hại và của cả cộng đồng chứ không phải giữ gìn và nâng cao phẩm
giá của người phạm tội và hình phạt tử hình sẽ làm tốt được điều này. Mặt khác trong điều kiện xã
hội Việt Nam hiện nay, khi mà tội phạm còn tồn tại và tỏ ra đặc biệt nguy hiểm, đe dọa đến cuộc
sống yên bình của bất kỳ thành viên nào trong xã hội thì hình phạt tử hình tồn tại là rất hiệu quả.
Chúng ta hãy hình dung đối với một người phạm tội đặc biệt nguy hiểm nhưng không bị áp dụng
hình phạt tử hình. Ở trong trại giam, người này có thể đe dọa về tính mạng cho những phạm nhân
khác. Đó là chưa kể người này thoát khỏi sự kiểm soát của trại giam, cả cộng đồng đặt trong một tình
trạng cực kỳ nguy hiểm. Kể cả khi người phạm tội chấp hành xong hình phạt (tù chung thân mà được
giảm án), và một ngày họ sẽ được trở về. Khi đó những người từng làm chứng chống lại họ, những
đối thủ của họ, thậm chí cả những người đã từng xét xử họ… sẽ không có được cuộc sống yên ổn vì
lo âu, sợ hãi, sợ một ngày nào đó bị trả thù. Do đó, hình phạt tử hình được xem là điều kiện tốt để
mang lại một cuộc sống có chất lượng và an ninh cho toàn xã hội. Kinh nghiệm một số quốc gia trên
thế giới cho thấy, khi các điều kiện chưa cho phép thì không nên nghĩ đến việc xóa bỏ hình phạt tử
hình. Bởi vì, sau khi xoá bỏ hình phạt tử hình, họ phải khôi phục lại hình phạt tử hình nhằm trấn áp,
răn đe tội phạm vốn chưa được kiểm soát nay có điều kiện phát triển bởi không còn sợ nguy cơ bị xử
phạt tử hình. Ngoài ra hình phạt tử hình đảm bảo mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm của hệ
thống hình phạt. Hiện nay quan điểm bỏ hình phạt tử hình cho rằng việc duy trì hình phạt tử hình
không có tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm mà thậm chí còn làm tăng tội phạm. Chúng ta đều
biết, tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm của hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng
phụ thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia như: Kinh tế, văn hóa, trình độ dân trí, ý thức pháp luật
của người dân…Ở những quốc gia cho rằng hình phạt tử hình không làm giảm tội phạm đa số các
quốc gia có nền kinh tế phát triển, trình độ dân trí cao, ý thức pháp luật cao. Trước khi xóa bỏ hình
phạt tử hình trong luật, đã có một thời gian dài họ không hề áp dụng hình phạt tử hình trên thực tế.
Do đó, việc họ còn duy trì hay xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật đã không còn ý nghĩa đến sự tăng
hay giảm tội phạm. Trong khi ở Việt Nam, nền kinh tế vẫn còn đang phát triển, trình độ văn hóa chưa
cao, ý thức pháp luật vẫn còn rất kém. Việc chạy theo xu thế của nước các nước phát triển để xóa bỏ
hình phạt tử hình là chưa thể làm ngay được. Dựa trên số liệu thống kê về tình hình tội phạm qua các
năm để kết luận rằng dù có duy trì hình phạt tử hình thì tội phạm vẫn tăng và do đó hình phạt tử
hình là không cần thiết là sai. Chúng ta phải đặt câu hỏi rằng, trong khi luật còn duy trì hình phạt tử
hình mà tội phạm vẫn càng tăng như thế, nếu hình phạt tử hình được xóa bỏ thì tội phạm sẽ tăng
như thế nào? Phải thừa nhận rằng, hiện nay ở nước ta, nhiều người phạm tội vẫn có biểu hiện hết
sức nghiêm trọng, ngoan cố, bất chấp tất cả hậu quả, dù đó là cái chết. Đối với những người đó, nếu
không loại khỏi xã hội thì khả năng nguy hiểm là rấtcao. Như thế mục đích phòng ngừa của hình phạt
sẽ không đạt được. Người phạm tội dù tàn ác, ngoan cố đến đâu vẫn còn có lý trí để suy nghĩ và cân
nhắc trước khi phạm tội về những vấn đề khi phạm tội mình được gì, cái giá phải trả cho việc phạm
tội, khả năng thành công trong việc thực hiện tội phạm, khả năng trốn tránh pháp luật... Nếu cái giá
phải trả càng thấp so với việc phạm tội đạt được thì khả năng thực hiện ý định phạm tội càng cao.
Nhiều người phạm tội thổ lộ do nghĩ đến việc bị tử hình nên hành vi phạm tội được dừng lại và
không tiếp diễn nghiêm trọng hơn.
Trên cơ sở phân tích như trên thì việc tiếp tục duy trì hình phạt tử hình ở Việt Nam là cần thiết khách
quan và không trái với chuẩn mực quốc tế.