







Preview text:
    lOMoAR cPSD| 45988283 
Hệ thống QLĐĐ và BĐS ở các nước phát triển (Pháp, Đức , Hà Lan, Thuỵ 
Điển, Úc …) có lịch sử hình thành và phát triển trên 100 năm, tích luỹ được 
nhiều kinh nghiệm và thu được nhiều thành quả; hệ thống QLĐĐ và BĐS ở các 
nước phát triển và đang phát triển trong khu vực (Đài Loan, Thái Lan, 
Malaysia) được hình thành trong khoảng 40-50 năm theo kinh nghiệm của các 
nước phát triển; hệ thống QLĐĐ và BĐS các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ 
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường (Trung Quốc và 
các nước Đông Âu) đã và đang đổi mới trong khoản 20 năm trở lại đây. Hệ 
thống QLĐĐ và BĐS hiện tại của các nước có những đặc điểm chung: (a) Trực 
thuộc Bộ quản lý đa ngành về tài nguyên, môi trường, quy hoạch, phát triển hạ 
tầng (Thuỵ Điển, Hà Lan, Úc, Malaysia, Trung Quốc); (b) Tổ chức hoạt động 
chuyên môn theo ngành dọc từ trung ương đến địa phương; (c) Cơ cấu Hệ thống 
gồm các thành phần chính: chính sách, pháp luật, quy hoạch sử dụng đất , đo 
đạc bản đồ địa chính, đăng ký đất đai và bất động sản, định giá, hệ thống thông 
tin; (d) Hiện đại hoá hệ thống QLĐĐ và BĐS trên cơ sở ứng dụng khoa học, 
công nghệ hiện đại: công nghệ GPS, viền thám, hàng không trong việc đo đạc 
lập bản đồ, công nghệ thông tin trong việc xây dựng hệ thống thông tin địa lý 
(GIS), thông tin đất đai (LIS) phục vụ cho công tác quy hoạch, đăng ký, định  giá.   
- Kinh nghiệm của Thuỵ Điển 
Theo Bộ luật Đất đai năm 2000 của Thuỵ Điển, với mục đích khuyến khích và 
kiểm soát việc sử dụng đất hiệu quả bền vững lâu dài, cũng như quản lý và cung 
cấp đầy đủ thông tin đất đai cho mục đích quy hoạch, bảo vệ quyền sở hữu đất 
đai, hỗ trợ hệ thống thuế, kiểm soát môi trường và phát triển kinh tế, một hệ 
thống đăng ký đất đai với lịch sử lâu đời đã được thiết lập ở Thụy Điển. Một 
văn bản luật mới cũng được ban hành là Luật Đăng ký BĐS (Real Property 
Register Act) nhằm mục đích bảo vệ và ngăn chặn sự xâm phạm những dữ liệu 
nhân thân cá nhân liên quan đến BĐS/đất đai đã được đăng ký. Luật Đăng ký 
BĐS quy định rõ những thông tin đất đai được đăng ký có thể được tìm và tham 
khảo trực tiếp nhưng không thể thay đổi nội dung đã đăng ký, cũng như những 
thông tin nào không thể cung cấp hoặc cung cấp hạn chế theo yêu cầu (như việc 
thế chấp đất đai/BĐS, tình trạng hôn nhân của người sở hữu/sử dụng đất v.v…). 
Cơ quan Đo đạc đất đai quốc gia sẽ chịu trách nhiệm ra các quyết định liên quan 
đến việc cung cấp thông tin BĐS, đảm bảo những dữ liệu nhân thân chỉ có thể 
được sử dụng cho những mục đích phù hợp với quy định pháp luật. Để các dữ 
liệu, thông tin đất đai được trao đổi thống nhất giữa các cơ quan địa chính ở 
trung ương và địa phương, Cơ quan Đo đạc đất đai quốc gia đã triển khai xây 
dựng, ứng dụng nhiều kỹ thuật thông tin mới trong hoạt động đăng ký như 
Interface 2000 (quy định về mô hình thông tin, cơ chế truyền tải dữ liệu, những 
quy tắc quản lý và bảo quản dữ liệu), Arc Cadastre (công cụ mới dùng để xử lý 
các loại dữ liệu khác nhau thu được từ việc đo đạc, tính toán; nó tạo ra, sắp xếp, 
duy trì và trình bày dữ liệu dưới dạng kỹ thuật số hoặc hình thức tương tự) v.v...        lOMoAR cPSD| 45988283 
Việc xây dựng và ứng dụng một hệ thống phần mềm dữ liệu như Arc Cadastre 
trong hoạt động thông tin địa chính tuy tốn rất nhiều chi phí nhưng nó có thể 
được sử dụng lâu dài và dễ dàng cải tiến, nâng cấp trong quá trình sử dụng, phù 
hợp với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học kỹ thuật. Ngày nay, không chỉ 
Thụy Điển mà còn nhiều cơ quan, tổ chức địa chính tại các nước khác thụ 
hưởng được nhiều lợi ích từ việc sử dụng hệ thống phần mềm này. 
Ngoài ra, tất cả các ranh giới BĐS cũng như những yếu tố cảnh quan quan trọng 
ở Thụy Điển sẽ được kỹ thuật số hóa và đưa vào hệ thống cơ sở dữ liệu. Điều 
này tạo ra nhiều khả năng thuận lợi cho việc sản xuất bản đồ đã được vi tính hóa 
với những nội dung và tỷ lệ đa dạng theo nhu cầu của người sử dụng. 
- Kinh nghiệm của Nhật Bản 
Tại Nhật Bản, việc xây dựng, số hóa tại hệ thống đăng ký BĐS được thực hiện 
từ năm 1988 đến năm 2008, với kết quả đã đưa được 270 triệu thông tin về BĐS 
vào hệ thống. Năm 2000, người đăng ký BĐS có thể thực hiện đăng ký bất kỳ ở 
văn phòng đăng ký nào trong hệ thống mà không bắt buộc đến đơn vị hành 
chính nơi có BĐS để thực hiện quyền của mình. Trong cùng năm này người dân 
cũng có thể xem được thông tin đăng ký qua mạng Internet. Theo Luật Đăng ký 
BĐS (Luật số 123 năm 2004), hệ thống đăng ký BĐS được tập trung quản lý tại 
trung ương. Trong hệ thống có 50 chi nhánh và 420 văn phòng đăng ký tại các 
địa phương để quản lý theo khu vực trực thuộc. Nhật Bản có tất cả 06 Trung 
tâm dữ liệu (Data Center), được phân tích, nghiên cứu, xây dựng và thiết lập tại 
6 vùng của nước Nhật. Hệ thống đăng ký BĐS có các chức năng như: Quản lý 
quyền sở hữu và các quyền khác có thể quản lý quyền lợi đối với BĐS về quyền 
sở hữu và cả quyền khác như quyền thế chấp ngoài quyền sở hữu, hiện đang 
quản lý bao gồm cả nội dung các quyền lợi đối với BĐS như quyền thế chấp, 
quyền vay… khi thế chấp đất đai và nhà ở. Quản lý nội dung lưu trữ trước và 
sau biến động cho phép quản lý nội dung lưu trữ sau biến động là thông tin mới 
nhất các thông tin trước khi biến động cũng được lưu trữ lại. 
Chế độ đăng ký BĐS là nền tảng căn bản của xã hội và của sự phát triển kinh tế 
của Nhật Bản, được tận dụng trong các hoạt động kinh tế và quản lý đất đai. Cụ 
thể: (1) Trong giao dịch BĐS: thu thập thông tin, đăng ký bảo tồn quyền sở hữu, 
đăng ký chuyển quyền sở hữu; (2) Tận dụng trong hoạt động tín dụng: thu thập 
thông tin, quyền thế chấp, bảo đảm đăng ký tạm, quyền mua lại; (3) Tận dụng 
trong phát triển: thu thập thông tin, phát triển BĐS...; (4) tận dụng trong điều tra 
đất đai: điều tra địa tịch, hoàn thiện bản đồ địa chính; (5) Tận dụng trong chế độ 
thuế: thu thuế, xử lý nộp chậm, giảm thuế mua nhà trả chậm...; (6) Tận dụng 
trong chính sách nông nghiệp, chính sách sông ngòi; (7) Tận dụng trong thi 
hành án dân sự, thu hồi đất. Bên cạnh đó hệ thống cho phép phát hành giấy 
chứng nhận (GCN) đối với các bất động sản do các văn phòng đăng ký khác 
quản lý. Tự động biên tập và phát hành GCN đối với các các bất động sản do 
các văn phòng đăng ký khác quản lý. Theo đó, người dân có thể đến các văn 
phòng đăng ký gần mình nhất để yêu cầu cấp GCN đối với bất động sản trên 
toàn quốc. Trong trường hợp đang xử lý yêu cầu đăng ký, bất động sản có yêu        lOMoAR cPSD| 45988283 
cầu cấp GCN sẽ bị chặn không cho phát hành GCN dùng để cung cấp. Là chức 
năng cần thiết để cấp GCN dùng để cung cấp với các thông tin mới nhất. Đảm 
bảo nội dung trong GCN cung cấp là thông tin mới nhất bằng việc ngăn chặn 
phát hành GCN cung cấp cho đến khi hoàn thành xử lý yêu cầu đăng ký. 
Nhờ việc công khai rộng rãi Sổ đăng ký, nên ai cũng có thể biết được người 
đứng tên BĐS cụ thể (trong quá khứ cũng như hiện tại), quyền lợi của người 
khác có liên quan đến BĐS đó. Lợi ích đối với Chính phủ là có thể xử lý đồng 
loạt số lượng lớn BĐS - cho phép xử lý đồng loạt với một số lượng lớn BĐS, xử 
lý đồng loạt tiếp nhận, lưu trữ v.v.. trong trường hợp cần lưu trữ đối với số 
lượng lớn bất động sản do sự thay đổi tên xã phường hành chính và điều chỉnh 
lại thửa đất. Trong trường hợp thông tin không chính xác dẫn đến thiệt hại cho 
người sử dụng thông tin từ chế độ đăng ký, Nhật Bản sẽ áp dụng pháp luật về  bồi thường nhà nước. 
2. Một số khuyến nghị nâng cao hiệu quả quản trị đất đai ở Việt Nam 
Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 
2050 đòi hỏi quản trị đất đai phải đáp ứng những yêu cầu về tăng cường quy 
hoạch sử dụng đất phục vụ phát triển đất nước. Hội nhập quốc tế thúc đẩy kinh 
tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ liên quan đến quản trị đất đai hướng tới xây 
dựng Chính phủ điện tử trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực hạ tầng không  gian địa lý. 
Nhu cầu và các quyền phái sinh từ quyền sử dụng đất phụ thuộc vào sự chính 
xác và tính hợp pháp của hồ sơ quyền sử dụng đất và sự đảm bảo sử dụng quyền 
sử dụng đất của các cơ quan chức năng về: thông tin ranh giới đất được cấp 
quyền; các quyền phái sinh liên quan hiện đang bị hạn chế; cơ quan có thẩm 
quyền giải quyết và biện pháp xử lý phù hợp và có tính hiệu quả được áp dụng. 
Sự không chính xác bất kỳ liên quan đến quyền sử dụng đất hay những quyền 
phái sinh khác nhau trong hệ thống quyền tài sản có thể làm suy yếu nghiêm 
trọng anh ninh quyền sở hữu, từ đó làm tăng xung đột và làm suy yếu đầu tư và 
trao đổi. Việc đăng ký đất đai cho người sử dụng đất rất quan trọng nhằm đảm 
bảo việc quyền và lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất, đồng thời, Nhà nước 
thông qua công tác đăng ký để đảm bảo quản lý chặt chẽ nguồn lực đất đai. 
Pháp luật đất đai qua nhiều lần sửa đổi vẫn đặt công tác hoàn thiện thể chế 
chính sách về đăng ký đất đai dlên hàng đầu. Trên cơ sở kinh nghiệm của Thụy 
Điển và Nhật Bản về quản trị đất đai, chúng em đề xuất một số khuyến nghị cho  Việt Nam như sau: 
2.1. Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hệ thống thông tin đất đai 
Ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, Nhà nước đóng vai trò quan 
trọng trong điều tiết trực tiếp một số yếu tố thị trường để khắc phục sự non nớt 
và thiếu hoàn thiện của thị trường nội địa. Một trong những yếu tố cần hoàn 
thành trong việc triển khai hệ thống thông tin đất đai của Việt Nam là hoàn 
thiện hành lang pháp lý cho hệ thống thông tin đất đai bao gồm: Xây dựng, 
chuẩn hoá cơ sở dữ liệu (CSDL) đất đai; Xây dựng và triển khai phần mềm ứng 
dụng cho hệ thống thông tin đất đai; Triển khai Trung tâm dữ liệu, trang thiết bị        lOMoAR cPSD| 45988283 
đường truyền, thiết bị đầu cuối; Đào tạo nhân lực; Vận hành bảo trì. Trong đó, 
việc hoàn thiện pháp luật cần lưu ý hai vấn đề trọng tâm sau: 
Thứ nhất, chấp nhận giấy chứng nhận dùng để cung cấp chứng nhận dòng 
quyền lợi BĐS được cấp bởi Văn phòng đăng ký quản lý thuộc hệ thống đăng 
ký bất động sản toàn quốc thay vì GCN được cấp bởi Uỷ ban nhân dân các cấp. 
Từ đó có thể giảm tải được các thủ tục (i) Cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận, 
GCN quyền sở hữu nhà ở, GCN quyền sở hữu công trình xây dựng do cơ quan 
tài nguyên và môi trường thực hiện (Điều 105), (ii) Đính chính, thu hồi GCN đã 
cấp. Bên cạnh đó, việc này còn giúp minh bạch thông tin cho người dân khi 
muốn kiểm tra tính hợp pháp của quyền sử dụng BĐS nhằm thực hiện các giao  dịch liên quan 
Thứ hai, cần hoàn thiện hệ thống quản lý đất đai dựa trên những nền tảng cơ 
bản áp dụng công nghệ trong quy trình xử lý. Hệ thống bao gồm các tính năng, 
giải pháp đảm bảo an toàn, an ninh phục vụ việc kết nối liên thông và chia sẻ dữ 
liệu đất đai do trung ương, địa phương quản lý với CSDL đất đai quốc gia cung 
cấp thông tin cho Trung tâm Thông tin điều hành của Chính phủ, Thủ tướng 
Chính phủ, Cổng Dịch vụ công quốc gia phục vụ công tác chỉ đạo điều hành và 
cung cấp dịch vụ công trực tuyến; kết nối chia sẻ, sử dụng chung cho các bộ, 
ngành, địa phương giúp cung cấp dịch vụ công thuận tiện cho người dân và 
doanh nghiệp, phát triển Chính quyền điện tử, chuyển đổi số tiến tới Chính phủ  số. 
2.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin đất đai phục vụ hữu hiệu cho 
việc xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số 
Hệ thống thông tin đất đai sẽ được tích hợp với dữ liệu nhiều ngành khác, 
hướng đến hệ thống dữ liệu đa mục tiêu nhằm phục vụ việc hình thành Chính 
phủ điện tử. Giải pháp triển khai hệ thống thông tin đất đai trong bối cảnh Cách 
mạng công nghiệp lần thứ 4 và những hiệu quả kinh tế của việc vận hành hệ 
thống này bao gồm: (i) Có một giải pháp tổng thể về cập nhật, tra cứu sử dụng 
dữ liệu với các mức độ khác nhau: từng máy đơn lẻ cho đến mạng internet; (ii) 
Có khả năng quản lý dữ liệu rất lớn, nhiều dạng dữ liệu trong một cơ sở dữ liệu 
thống nhất; (iii) Là công nghệ tiên tiến, tuân theo các tiêu chuẩn công nghiệp, 
đang sử dụng rộng rãi trên thế giới và phù hợp với nước ta, đặc biệt trong công 
tác quản lý đất đai; (iv) Có cơ chế bảo mật và an toàn dữ liệu; (v) Có tính mở, 
dễ dàng cho người sử dụng phát triển thêm các ứng dụng có tính đặc thù; (vi) 
Cung cấp các giải pháp chạy trên các môi trường làm việc khác nhau: trên máy 
đơn lẻ (cấp xã, huyện), trên hệ thống đa người sử dụng ở mạng cục bộ (cấp tỉnh, 
huyện) và trên mạng diện rộng Internet/Intranet (cấp quốc gia, tỉnh); (vii) Có 
giải pháp tốt cho xây dựng các phần mềm ứng dụng trên nền công nghệ gốc. 
Đảm bảo người sử dụng có khả năng xây dựng các ứng dụng trên nền công 
nghệ gốc, phù hợp với quy trình quản lý đất đai ở tỉnh. 
2.3. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống dữ liệu quản lý đất đai nhằm phát huy 
vai trò của thị trường bất động sản trong nền kinh tế        lOMoAR cPSD| 45988283 
Có thể thấy tầm quan trọng của việc phát huy vai trò của thị trường BĐS trong 
nền kinh tế Việt Nam. Một trong số các nhóm giải pháp cần thực hiện là hoàn 
thiện hệ thống quản trị đất đai theo hướng: (i) Khai thác và chia sẻ thông tin dữ 
liệu quản lý đất một cách thống nhất để xử lý, phân tích và thông tin kịp thời, 
phục vụ công tác quản lý đất đai, hướng đến thành lập dữ liệu về quy hoạch, kế 
hoạch sử dụng đất, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. (ii) Cơ sở về dữ liệu: 
Từng bước hoàn thiện CSDL đất đai của tỉnh, góp phần hoàn thiện CSDL quốc 
gia đã, đang được xây dựng và hình thành theo mô hình trung ương (tập trung), 
địa phương (phân tán) để quản lý thống nhất nội dung CSDL quản lý đất đai. 
Hiện nay, Việt Nam đã hoàn thành thử nghiệm kết nối với CSDL đất đai do 
Trung ương quản lý và một số tỉnh/thành phố: Quảng Ninh, Thái Nguyên, Đà 
Nẵng, Quảng Nam, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Tây Ninh. Các nội 
dung dữ liệu đã kết nối, chia sẻ như: Dữ liệu hiện trạng sử dụng đất của quốc 
gia và 7 vùng kinh tế; Dữ liệu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia và 7 
vùng kinh tế; Dữ liệu khung giá đất, bảng giá đất các tỉnh; Dữ liệu điều tra cơ 
bản về đất đai của quốc gia và 7 vùng kinh tế; Dữ liệu về 12 trường thông tin cơ 
bản của thửa đất; Bản đồ quy hoạch - kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh đối với  thành phố Hồ Chí Minh. 
Phương pháp ứng dụng công nghệ LIS (Land Information System – Hệ thống 
thông tin đất đai) và GIS (Geographical Information System – Hệ thống thông 
tin địa lý). Công nghệ GIS sử dụng để lưu trữ và quản lý các thông tin không 
gian (địa lý) như bản đồ, ảnh máy bay. Hệ thống thông tin đất đai LIS là một 
giải pháp kỹ thuật nhằm hiện đại hóa quản lý đất đai theo xu hướng tin học hóa.   
Tài liệu tham khảo: http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?  tintucid=211025        lOMoAR cPSD| 45988283  Tóm tắt 
1. Mô hình quản lý đất đai ở một số nước trên thế giới  - Thuỵ Điển 
Luật Đăng ký BĐS quy định rõ những thông tin đất đai được đăng ký có 
thể được tìm và tham khảo trực tiếp nhưng không thể thay đổi nội dung đã đăng 
ký, cũng như những thông tin nào không thể cung cấp hoặc cung cấp hạn chế 
theo yêu cầu (như việc thế chấp đất đai/BĐS, tình trạng hôn nhân của người sở 
hữu/sử dụng đất v.v…). 
Để các dữ liệu, thông tin đất đai được trao đổi thống nhất giữa các cơ quan 
địa chính ở trung ương và địa phương, Cơ quan Đo đạc đất đai quốc gia đã triển 
khai xây dựng, ứng dụng nhiều kỹ thuật thông tin mới trong hoạt động đăng ký 
như Interface 2000 (quy định về mô hình thông tin, cơ chế truyền tải dữ liệu, 
những quy tắc quản lý và bảo quản dữ liệu), Arc Cadastre (công cụ mới dùng để 
xử lý các loại dữ liệu khác nhau thu được từ việc đo đạc, tính toán; nó tạo ra, 
sắp xếp, duy trì và trình bày dữ liệu dưới dạng kỹ thuật số hoặc hình thức tương  tự) v.v... 
Ngoài ra, tất cả các ranh giới BĐS cũng như những yếu tố cảnh quan quan 
trọng ở Thụy Điển sẽ được kỹ thuật số hóa và đưa vào hệ thống cơ sở dữ liệu. 
Điều này tạo ra nhiều khả năng thuận lợi cho việc sản xuất bản đồ đã được vi 
tính hóa với những nội dung và tỷ lệ đa dạng theo nhu cầu của người sử dụng. 
- Kinh nghiệm của Nhật Bản 
Tại Nhật Bản, việc xây dựng, số hóa tại hệ thống đăng ký BĐS được thực 
hiện từ năm 1988 đến năm 2008, với kết quả đã đưa được 270 triệu thông tin về 
BĐS vào hệ thống. Năm 2000, người đăng ký BĐS có thể thực hiện đăng ký bất 
kỳ ở văn phòng đăng ký nào trong hệ thống mà không bắt buộc đến đơn vị hành 
chính nơi có BĐS để thực hiện quyền của mình. Trong cùng năm này người dân 
cũng có thể xem được thông tin đăng ký qua mạng Internet. 
Theo Luật Đăng ký BĐS (Luật số 123 năm 2004), hệ thống đăng ký BĐS 
được tập trung quản lý tại trung ương. Nhật Bản có tất cả 06 Trung tâm dữ liệu 
(Data Center), được phân tích, nghiên cứu, xây dựng và thiết lập tại 6 vùng của 
nước Nhật. Hệ thống đăng ký BĐS có các chức năng như: Quản lý quyền sở 
hữu và các quyền khác có thể quản lý quyền lợi đối với BĐS về quyền sở hữu 
và cả quyền khác như quyền thế chấp ngoài quyền sở hữu, hiện đang quản lý 
bao gồm cả nội dung các quyền lợi đối với BĐS như quyền thế chấp, quyền 
vay… khi thế chấp đất đai và nhà ở. 
Chế độ đăng ký BĐS là nền tảng căn bản của xã hội và của sự phát triển 
kinh tế của Nhật Bản, được tận dụng trong các hoạt động kinh tế và quản lý đất 
đai. Bên cạnh đó hệ thống cho phép phát hành giấy chứng nhận (GCN) đối với 
các bất động sản do các văn phòng đăng ký khác quản lý. Tự động biên tập và 
phát hành GCN đối với các các bất động sản do các văn phòng đăng ký khác 
quản lý. Theo đó, người dân có thể đến các văn phòng đăng ký gần mình nhất 
để yêu cầu cấp GCN đối với bất động sản trên toàn quốc.        lOMoAR cPSD| 45988283 
Nhờ việc công khai rộng rãi Sổ đăng ký, nên ai cũng có thể biết được 
người đứng tên BĐS cụ thể (trong quá khứ cũng như hiện tại), quyền lợi của 
người khác có liên quan đến BĐS đó. Lợi ích đối với Chính phủ là có thể xử lý 
đồng loạt số lượng lớn BĐS - cho phép xử lý đồng loạt với một số lượng lớn 
BĐS, xử lý đồng loạt tiếp nhận, lưu trữ v.v.. trong trường hợp cần lưu trữ đối 
với số lượng lớn bất động sản do sự thay đổi tên xã phường hành chính và điều  chỉnh lại thửa đất. 
2. Một số khuyến nghị nâng cao hiệu quả quản trị đất đai ở Việt Nam 
2.1. Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hệ thống thông tin đất đai 
Ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, Nhà nước đóng vai trò quan 
trọng trong điều tiết trực tiếp một số yếu tố thị trường để khắc phục sự non nớt 
và thiếu hoàn thiện của thị trường nội địa. Một trong những yếu tố cần hoàn 
thành trong việc triển khai hệ thống thông tin đất đai của Việt Nam là hoàn 
thiện hành lang pháp lý cho hệ thống thông tin đất đai. Trong đó, việc hoàn 
thiện pháp luật cần lưu ý hai vấn đề trọng tâm sau: 
Thứ nhất, chấp nhận giấy chứng nhận dùng để cung cấp chứng nhận dòng 
quyền lợi BĐS được cấp bởi Văn phòng đăng ký quản lý thuộc hệ thống đăng 
ký bất động sản toàn quốc thay vì GCN được cấp bởi Uỷ ban nhân dân các cấp. 
Thứ hai, cần hoàn thiện hệ thống quản lý đất đai dựa trên những nền tảng cơ 
bản áp dụng công nghệ trong quy trình xử lý. 
2.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin đất đai phục vụ hữu hiệu cho 
việc xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số 
Giải pháp triển khai hệ thống thông tin đất đai trong bối cảnh Cách mạng công 
nghiệp lần thứ 4 và những hiệu quả kinh tế của việc vận hành hệ thống này bao  gồm: 
(i) Có một giải pháp tổng thể về cập nhật, tra cứu sử dụng dữ liệu với các mức 
độ khác nhau: từng máy đơn lẻ cho đến mạng internet; 
(ii) Có khả năng quản lý dữ liệu rất lớn, nhiều dạng dữ liệu trong một cơ sở dữ  liệu thống nhất; 
(iii) Là công nghệ tiên tiến, tuân theo các tiêu chuẩn công nghiệp, đang sử dụng 
rộng rãi trên thế giới và phù hợp với nước ta, đặc biệt trong công tác quản lý đất  đai; 
(iv) Có cơ chế bảo mật và an toàn dữ liệu; 
(v) Có tính mở, dễ dàng cho người sử dụng phát triển thêm các ứng dụng có  tính đặc thù; 
(vi) Cung cấp các giải pháp chạy trên các môi trường làm việc khác nhau: trên 
máy đơn lẻ (cấp xã, huyện), trên hệ thống đa người sử dụng ở mạng cục bộ (cấp 
tỉnh, huyện) và trên mạng diện rộng Internet/Intranet (cấp quốc gia, tỉnh); 
(vii) Có giải pháp tốt cho xây dựng các phần mềm ứng dụng trên nền công nghệ 
gốc. Đảm bảo người sử dụng có khả năng xây dựng các ứng dụng trên nền công 
nghệ gốc, phù hợp với quy trình quản lý đất đai ở tỉnh. 
2.3. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống dữ liệu quản lý đất đai nhằm phát huy 
vai trò của thị trường bất động sản trong nền kinh tế        lOMoAR cPSD| 45988283 
Có thể thấy tầm quan trọng của việc phát huy vai trò của thị trường BĐS trong 
nền kinh tế Việt Nam. Một trong số các nhóm giải pháp cần thực hiện là hoàn 
thiện hệ thống quản trị đất đai theo hướng: (i) Khai thác và chia sẻ thông tin dữ 
liệu quản lý đất một cách thống nhất để xử lý, phân tích và thông tin kịp thời, 
phục vụ công tác quản lý đất đai, hướng đến thành lập dữ liệu về quy hoạch, kế 
hoạch sử dụng đất, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. (ii) Cơ sở về dữ liệu: 
Từng bước hoàn thiện CSDL đất đai của tỉnh, góp phần hoàn thiện CSDL quốc 
gia đã, đang được xây dựng và hình thành theo mô hình trung ương (tập trung), 
địa phương (phân tán) để quản lý thống nhất nội dung CSDL quản lý đất đai. 
Phương pháp ứng dụng công nghệ LIS (Land Information System – Hệ thống 
thông tin đất đai) và GIS (Geographical Information System – Hệ thống thông 
tin địa lý). Công nghệ GIS sử dụng để lưu trữ và quản lý các thông tin không 
gian (địa lý) như bản đồ, ảnh máy bay. Hệ thống thông tin đất đai LIS là một 
giải pháp kỹ thuật nhằm hiện đại hóa quản lý đất đai theo xu hướng tin học hóa.