Tài liệu môn Cơ sở văn hóa Việt Nam | Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh

Tài liệu môn Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học tốt, ôn tập hiệu quả, đạt kết quả cao trong các bài thi, bài kiểm tra sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.

Thông tin:
175 trang 3 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tài liệu môn Cơ sở văn hóa Việt Nam | Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh

Tài liệu môn Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học tốt, ôn tập hiệu quả, đạt kết quả cao trong các bài thi, bài kiểm tra sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.

16 8 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD|44862240
CHƯƠNG 1.VĂN HÓA HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
MỤC TIÊU
1.Trình bày và giải thích khái niệm văn hóa, đặc trưng, chức năng của văn hóa
2. Định vị được văn hóa Việt Nam
3. Xác định được chủ nhân, thời gian, không gian văn hóa Việt Nam
4. Phân biệt được các vùng văn hóa đặc trưng về chủ nhân, thời gian, không
gianvăn hóa của từng vùng.
5. Trình bày được về lớp văn hoá bản địa, lớp văn hoá giao lưu với Trung Hoa
lớp văn hoá giao lưu với phương Tây.
NỘI DUNG
1.1.VĂN HÓA VÀ VĂN HÓA HỌC
1.1.1. Định nghĩa văn hóa
“Văn hóa” là một từ Hán – Việt. Trong ngôn ngữ cổ Trung quốc “văn để chỉ
cái vẻ ngoài đẹp đẽ. Chẳng hạn mặt trăng, mặt trời, mây, mưa, sấm chớp văn của
trời. Văn của người là lời nói hay, ý đẹp…Văn của xã hội là phong tục, đạo
là dạy dỗ, sửa đổi (giáo hóa). Như vậy có thể hiểu v
vẻ bên ngoài, không phải tự nhiên màcần có sự sửa sang, thay đổi, dạy dỗ để trở nên
tốt đẹp hơn, hữu ích hơn.
Trong Chu dịch, Quẻ nói: “Quan hồ thiên văn sát thời biến, quan hồ
nhân văn hóa thành thiên hạ”
1
. Có nghĩa là: Quan sát trời đất hiểu được sthay đổi
của thiên nhiên, con người lòng nhân thể được thên hạ. n hóa đây được
dùng với nghĩa đề cao đạo đức, cốt cách con người. Về sau giáo hóa cũng hiểu với
nghĩa dùng văn chương, lễ nhạc để cảm hóa con người.
Phương Tây, văn hóa một từ gốc La tinh: Colere sau trở thành Cultura
amini (sự trồng trọt tinh thần).
Hiện nay, người ta đã thống có khoảng vài trăm định nghĩa về văn hóa với các cách
tiếp cận khác nhau theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng, theo chiều rộng, chiều sâu…
Theo Đào Duy Anh: Văn hóa văn vật giáo hóa , dùng văn tự để giáo hóa
con người
2
.
1 Phan Thị Tố Oanh (Chủ biên), 2019, Giáo trình Kỹ năng giao tiếp ( Tái bản lần 2), NXB Đại học Công nghiệp
TP HCM, trang 228
2 Đào Duy Anh, 1995, Việt Nam Văn hóa sử cương, Nxb Thế giới, trang 536
ăn hóa là từ để chỉ cáiđức…”hóa
lOMoARcPSD|44862240
Năm 2002, UNESCO định nghĩa về văn hóa: Văn hóa nên được đề cập đến
như một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức, xúc cảm của
một hội hay một nhóm người trong hội; chứa đựng ngoài văn học nghệ
thuật là cả cách sống phương thức chung sống, chứa đựng trong hệ thống giá trị
truyền thống và cả đức tin.
Năm 1940, Hồ Chí Minh viết: lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
loài người mới sáng tạo phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn,
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo phát minh đó tức văn
hoá. Văn hóa sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn.
34
Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực
tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên hội”
Tất cả các định nghĩa khác nhau trên đây đều đề cập đến vấn đề chung con
người, đều khẳng định mối liên hệ chặt chẽ giữa văn hóacon người, khẳng định con
người chủ thể sáng tạo ra văn hóa chứ không do lực lượng siêu nhiên nào tạo n.
Bởi vậy, khái niệm văn hóa rất rộng, trong đó những giá trị vật chất tinh thần
được sử dụng làm nền tẳng định hướng cho lối sống, đạo lý, tâm hồnhành động của
mỗin tộc các thành viên để vươn tới cái đúng, cái tốt, cái chân, cái thiện, cái mỹ
trong mối quan hệ giữa người người, giữa người với môi trường tự nhiên hội.
Cấu trúc của hệ thống Văn hóa
Văn hóa chỉ thể thực hiện được các chức năng của khi nó vận hành với tính cách
là một hệ thống. Vì vậy, văn hóa cần được xem xét như là một hệ thống
Văn hóa được chia thành hai thành tố: Văn hóa vât chất và Văn hóa tinh thần.
Cũng có quan điểm chia ba:
Văn hóa vật chất – Văn hóa xã hội – Văn hóa tinh thần.
Văn hóa vật chất – Văn hóa tinh thần – Văn hóa nghệ thuật.
3 Chủ tịch Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 1995.
4 Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2012
.
lOMoARcPSD|44862240
Sinh hoạt kinh tế – sinh hoạt xã hội – sinh hoạt trí thức…
Một số tác giả khác nói đến bốn thành tố như.
- Văn hóa sản xuất, Văn hóa xã hội, Văn hóa tư tưởng, Văn hóa nghệ thuật.
- Hoặc hoạt động sinh tồn, hoạt động xã hội, hoạt động tinh thần, hoạt đông nghệ thuật
Từ cách tiếp cận hệ thống, thể xem văn hóa như một hệ thống gồm 4 thành tố (tiểu
hệ) cơ bản với các vi hệ như sau.
Mỗi nền văn hóa tài sản của một cộng đồng người (chủ thể văn hóa) nhất định.
Trong quá trình tồn tại và phát triển. Chủ thể văn hóa đó đã tích lũy được một kho tàng
kinh nghiệm tri thức phong phú về trụ về con người. Đó 2 vi hệ của tiểu hệ
Văn hóa nhận thức.
Tiểu hệ thứ hai liên quan đến những giá trị nội tại của chủ thể văn hóa: đó Văn hóa
tổ chức cộng đồng. bao gồm hai vi hệ Văn hóa tổ chức đời sống tập thể (ở tầm
như tổ chức nông thôn, quốc gia, đô thị), Văn hóa tổ chức đời sống nhân
(liên quan đến đời sống riêng mỗi người như tín ngưỡng, phong tục, giao tiếp, nghệ
thuật…).
Cộng đồng chủ thể văn hóa tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường môi trường
tự nhiên (thiên nhiên, khí hậu…) môi trường hội (các dân tộc, quốc gia khác).
Cho nên, cấu trúc văn hóa còn chứa hai tiểu hệ liên quan đến thái độ của cộng đồng với
hai loại môi trường đó Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên Văn hóa ứng
xử với mỗi trường xã hội.
Với mỗi loại môi trường, đều có thể có hai cách xử thế phù hợp với hai loại tác động
của chúng (tạo nên hai vi hệ): tận dụng môi trường (tác động tích cực) ứng phó với
môi trường (tác động tiêu cực). Với môi trường tự nhiên, thể tận dụng để ăn uống,
tạo ra các vật dụng hàng ngày…; đồng thời phải ứng phó với thiên tai (trị thủy), với
khoảng cách (giao thông), với khí hậu thời tiết (quần áo, nhà cửa…). Với môi
trường hôi bằng các quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa, mỗi dân tộc đều
gắng tận dụng những thành tựu của các dân tộc lân bang để làm giàu thêm cho nền văn
hóa của mình; đồng thời lại phải lo ứng phó với họ trên các mặt trận quân sự, ngoại
giao…
lOMoARcPSD|44862240
Dưới góc độ đồng đại, hệ thống văn hóa còn thể nhiều cách phân chia khác.
Chẳng hạn, trong quan hệ với cộng đồng, có thể phân biệt văn hóa dân gian văn hóa
chính thống Trong quan hệ với địa bàn trú, thể phân biêt văn hóa biển, văn hóa
đồng bằng và văn hóa núi. Cũng vậy có sự khác biệt giũa văn hóa Việt với văn hóa các
dân tộc ít người. Những cách phân chia này cần được vận dụng kết hợp với cách phân
chia chính.
1.1.2. Các chức năng và đặc trưng của Văn hóa.
1.1.2.1. Văn hóa có tính hệ thống.
Tính hệ thống, thể hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện
thuộc một nền văn hóa. Phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành phát
triển của nó.
Nhờ tính hệ thống văn hóa với cách một thực thể bao trùm mọi hoạt động
của hội, thực hiện được chức năng tổ chức hội. Chính vãn hóa thường xuyên
làm tăng độ ổn định của hội. Cung cấp cho hội mọi phương tiện cần thiết để ứng
phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Nó là nền tảng của xã hội. Có lẽ chính
vậy người Việt Nam ta dùng từ chỉ loại “nền” để xác định khái niệm văn hóa
(nền văn hóa).
1.1.2.2. Văn hóa có tính giá trị.
Các giá trị có thể được định nghĩa là những gì học được, tương đối lâu dài, cảm tính,
sở tri thức luận, thể hiện các quá trình khái niệm hóa về đạo đức, hỗ trợ chúng ta
trong việc đưa ra các đánh giá chuẩn bị cho chúng ta hành động. Nói cách khác, khi
đưa ra các ưu tiên lựa chọn, để thực hiện, hầu hết chúng ta đều dựa vào các giá trị
ta tin tưởng duy trì. Quan niệm cách sử dụng khái niệm này cũng bao gồm
các giá trị nhân của một con người cũng như các giá trị tập thể của một cộng đồng.
Tất cả mọi giá trị đều xứng đáng để con người học tập. Các giá trị không nhất thiết phải
được biết đến một cách ý thức bởi cả nhân, hoặc hội. Không giống như ngữ
pháp ngôn ngữ hàng ngày của chúng ta, các giá trị hiếm được khớp nối công khai, mặc
chúng ta phụ thuộc vào cả hai trong việc lĩnh hội hành động của người khác
trong việc tạo sinh hành động của mỗi chúng ta. Việc tìm kiếm các giá trị của riêng bạn
và các giá trị của người khác chỉ có thể được thực hiện với nỗ lực rất lớn.
lOMoARcPSD|44862240
Các giá trị xác lập một khuynh hướng để hành động. Giá trị ảnh hưởng đến các hành vi
của con người bằng cách chuẩn bị cho con người hành động theo một số cách thức định
hướng đạo đức
nhân bản của xã hội, của con người làm động lực cho sự phát triển xã hội. Thực hiện
nhiệm vụ này Văn hóa có chức năng điều chỉnh xã hội.
1.1.2.3. Văn hóa mang tính nhân sinh.
Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hóa như một hiện tượng hội (do con người
sáng tạo nhân tạo), với các giá trị nhiên (thiên tạo). Văn hóa cái tự nhiên được
biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên thể mang tính vật
chất (như việc luyện quặng, đẽo gỗ…) hoặc tinh thần (như việc đặt ten truyền thuyết
cho các cảnh quan thiên nhiên)
(Như vậy, văn hóa học không đồng nhất với đất nước học. Nhiệm vụ của đất nước học
là giới thiệu thiên nhiên – đất nước -con người. Đôi tượng của nó bao gồm cả các giá trị
tự nhiên. không nhất thiết chỉ bao gồm các giá trị. Về mặt này thì rộng hơn văn
hóa học. Mặt khác, đất nước học chủ yếu quan tâm đến các vấn đế đương đại, về mặt
này thì nó hẹp hơn văn hóa học)
Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con người, nó
thực hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với nhau. Nếu ngôn ngữ là
hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.
1.1.2.4. Văn hóa còn có tính lịch sử.
cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình được tích lũy qua
nhiều thế hệ vớin minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát triển của từng
giai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn hóa tính bề dày một chiều sâu, buộc văn hóa
thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị.
Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thông văn hóa những
giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiêm tập thể) được tích lũy i tạo trong
cộng đồng người qua không gian thời gian. Được đúc kết thành những khuôn mẫu
hội cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp,
luận…
Các giá trị đều tồn tại tương đối lâu dài: Văn hóa là thước đo mức độ
lOMoARcPSD|44862240
Truyền thông văn hóa tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục chức năng quan
trọng thứ của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng
những giá trị đã ổn định (truyền thống). còn bằng cả những giá trị đang hình thành.
Hai loại giá trị này tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó
văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách (trồng người). Từ
chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinhđảm bảo tính kế tục của lịch sử.
Nó là một thứ “gien” xã hội di truyền phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau
1.1.3. Phân biệt: Văn hóa, Văn minh, Văn hiến, Văn vật.( tuần 2)
Điểm chung: Đều để chỉ cái vẻ ngoài đẹp đẽ trong nghĩa của từ “Văn” Điểm riêng:
Văn hiến, Văn vật được hiểu theo nghĩa truyền thống văn hóa của một dân tộc, một
cộng đồng chủ yếu xuất hiện phương Đông nông nghiệp. Văn hiến chủ yếu nói đến
giá trị tinh thần (Văn chương, học thuật, nghi lễ ). Văn vật chủ yếu nói đến giá trị vật
chất (Di tích, công trinh, kiến trúc, hiện vật).
Khái niệm Văn minh mang nét nghĩa chủ yếu chỉ trình độ phát triển, n nữa trình độ
phát triển này trước hết có liên quan đến giá trị vật chất. Nói đến cuộc sống văn minh là
nói tới sự hợp lý, sự sắp đặt cuộc sống sao cho tiện lợi, nói tới các tiện nghi vật chất.
Văn minh liên quan chủ yếu tới kỹ thuật làm chủ tự nhiên, những phát minh kỹ thuật
s nguồn gốc phát sinh của các nền văn minh khác nhau trong lịch sử phát triển
nhân loại: nền văn minh nông nghiệp, nền văn minh công nghiệp …Như vậy nói đên
Văn minh nói đến trình độ phát triển không ngừng, trình độ sau thay thế trình độ
trước trong cả tự nhiên và xã hội.
Văn hóa khái niệm để chỉ những gì gắn với đời sống tinh thần của một cộng đồng
tương đối ổn định, có gốc rễ sâu xa trong lịch sử. Tức là cáingười ta vẫn gọi là bản
sắc dân tộc. Do sự khác nhau đó cộng đồng khác nhau tuy cùng trình độ văn
minh nhưng có những nền văn hóa khác nhau. Tương tự, mỗi cộng đồng tuy có trải qua
trình độ văn minh khác nhau nhưng giữ được truyền thống văn hóa mang bản sắc riêng.
1.1.4. “Văn hóa học” và “Bộ môn cơ sở văn hóa”
Theo TS Trần Ngọc Thêm
5
- Văn hóa học (culturology) là khoa học nghiên cứu về văn hóa.
5 Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2012
lOMoARcPSD|44862240
- Bộ môn sở văn hóa môn học trình y những đặc trưng bản cùng các
quy luật hình thành và phát triển của một nền văn hóa cụ thể.
1.1.5. Cấu trúc của hệ thống Văn hóa
Văn hóa chỉ thể thực hiện được các chức năng của khi nó vận hành với tính cách
một hệ thống. vậy, văn hóa cần được xem xét như một hệ thống Văn hóa được
chia thành hai thành tố: Văn hóa vât chất và Văn hóa tinh thần.
Cũng có quan điểm chia ba:
Văn hóa vật chất – Văn hóa xã hội – Văn hóa tinh thần.
Văn hóa vật chất – Văn hóa tinh thần – Văn hóa nghệ thuật.
Sinh hoạt kinh tế – sinh hoạt xã hội – sinh hoạt trí thức…
Một số tác giả khác nói đến bốn thành tố như.
- Văn hóa sản xuất, Văn hóa xã hội, Văn hóa tư tưởng, Văn hóa nghệ thuật.
- Hoặc hoạt động sinh tồn, hoạt động xã hội, hoạt động tinh thần, hoạt đông nghệ thuật
Từ cách tiếp cận hệ thống, thể xem văn hóa như một hệ thống gồm 4 thành tố (tiểu
hệ) cơ bản với các vi hệ như sau.
Mỗi nền văn hóa tài sản của một cộng đồng người (chủ thể văn hóa) nhất định.
Trong quá trình tồn tại và phát triển. Chủ thể văn hóa đó đã tích lũy được một kho tàng
kinh nghiệm tri thức phong phú về trụ về con người. Đó 2 vi hệ của tiểu hệ
Văn hóa nhận thức.
Tiểu hệ thứ hai liên quan đến những giá trị nội tại của chủ thể văn hóa: đó Văn hóa
tổ chức cộng đồng. bao gồm hai vi hệ Văn hóa tổ chức đời sống tập thể (ở tầm
như tổ chức nông thôn, quốc gia, đô thị), Văn hóa tổ chức đời sống nhân
(liên quan đến đời sống riêng mỗi người như tín ngưỡng, phong tục, giao tiếp, nghệ
thuật…).
Cộng đồng chủ thể văn hóa tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường môi trường
tự nhiên (thiên nhiên, khí hậu…) và môi trường xã hội (các dân tộc, quốc gia khác).
Cho nên, cấu trúc văn hóa còn chứa hai tiểu hệ liên quan đến thái độ của cộng đồng với
hai loại môi trường đó Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên Văn hóa ứng
xử với mỗi trường xã hội.
lOMoARcPSD|44862240
Với mỗi loại môi trường, đều có thể có hai cách xử thế phù hợp với hai loại tác động
của chúng (tạo nên hai vi hệ): tận dụng môi trường (tác động tích cực) ứng phó với
môi trường (tác động tiêu cực). Với môi trường tự nhiên, thể tận dụng để ăn uống,
tạo ra các vật dụng hàng ngày…; đồng thời phải ứng phó với thiên tai (trị thủy), với
khoảng cách (giao thông), với khí hậu thời tiết (quần áo, nhà cửa…). Với môi
trường hôi bằng các quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa, mỗi dân tộc đều
gắng tận dụng những thành tựu của các dân tộc lân bang để làm giàu thêm cho nền văn
hóa của mình; đồng thời lại phải lo ứng phó với họ trên các mặt trận quân sự, ngoại
giao…
Dưới góc độ đồng đại, hệ thống văn hóa còn thể nhiều cách phân chia khác.
Chẳng hạn, trong quan hệ với cộng đồng, có thể phân biệt văn hóa dân gian văn hóa
chính thống Trong quan hệ với địa bàn trú, thể phân biêt văn hóa biển, văn hóa
đồng bằng và văn hóa núi. Cũng vậy có sự khác biệt giũa văn hóa Việt với văn hóa các
dân tộc ít người. Những cách phân chia này cần được vận dụng kết hợp với cách phân
chia chính.
1.2. ĐỊNH VỊ VĂN HÓA VIỆT NAM
1.2.1. Hai loại hình văn hóa.
Dựa theo địa bàn cư trú, môi trường sống, dựa theo đặc điểm sinh hoạt, theo nếp sống,
thói quen…Người ta chia thành hai loại hình văn hóa
- VH gốc nông nghiệp (phương Đông)
- VH gốc du mục (Phương Tây)
Phương Tây khu vực tây bắc bao gồm toàn bộ châu Âu đến dãy UranPhương Đông
gồm Châu Á và Châu Phi.
Nếu trừ ra một vùng đệm như một dải đường chéo chạy dài giữa từ tây nam lên
đông bắc thì phương Đông điển hình sẽ khu vực đông nam còn lại. Hai vùng này
sự khác biệt rệt về mọi mặt: Ngôn ngữ phương Tây biến hình thì các ngôn ngữ
phương Đông chủ yếu đơn lập. Người phương Tây coi trọng nhân còn người
phương Đông coi trọng cộng đồng. Người phương Tây chìa tay ra bắt lúc gặp nhau thì
người phương Đông khoanh tay cúi đầu. Môi trường sống của dân phương Đông
xứ nóng sinh ra mưa nhiều ( ẩm) tạo nên các con sông lớn với những vùng đồng bằng
lOMoARcPSD|44862240
trú phú còn phương Tây xứ lạnh với khí hậu khô, không thích hợp cho thực vật sinh
trưởng, chăng chỉ những vùng đồng cỏ mênh mông. Hai loại địa hình này khiến
cho dân hai khu vức phải sinh sống bằng hai nghề khác nhau:trồng trọt chăn
nuôi. Nghề chăn nuôi phương Tây phổ biến đến mức trong Kinh Thánh từ cừu được
nhắc tới 5.000 lần, tín đồ được gọi là con chiên, Chúa là người chăn chiên. Lịch sử cho
biết người phương Tây xưa chủ yếu nuôi bò, cừu, dê, ăn thịt uống sữa bò, áo quần
dệt bằng lông cừu hoặc làm bằng da thú vật. Như vậy, mặc sau này các dân tộc
phương Tây di chuyển sang thương nghiệp, rồi phát triển công nghiệp đô thị, nhưng
cái gốc du mục đã để lại dấu ấn quan trọng trong đời sống văn hóa của họ.
1.2.2. Những đặc trưng chủ yểu của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp.
Việt Nam do ở góc tận cùng phía Đông - Nam nên thuộc loại văn hóa gốc nông
nghiệp điển hình
- Dân nông nghiệp ý thức tôn trọng ươc vọng sống hòa hợp với thiên nhiên.
Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên, nghề trồng trọt buộc ngươi dân phải sống
định để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kêt trái thu hoạch. Do sống phụ thuộc nhiều
vào thiên nhiên cộng với việc yếu về thế giớI quan khoa học nên người Việt Nam mở
miệng là nói “lạy trời”, “nhờ trời”, “ơn trời”…
Về mặt nhận thức, hình thành lối tư duy tổng hợp. Tổng hợp kéo theo biện chứng.
nghề nông, nhât nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào tất cả
mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời trong đất, trông mây; Trông mưa, trông gió,
trông ngày, trông đêm). Cái người nông nghiệp quan tâm không phải các yếu tố
riêng rẽ, những mối quan hệ qua lại giữa chúng. Tổng hợp bao quát được mọi
yếu tố, còn biện chứng chú trọng đến các mối quan hệ giữa chúng. Người Việt tích
lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan hệ này. Đặc biệt
trong sản xuất nông nghiệp kinh nghiệm sống: Trăng quầng trời hạn, trăng tán trời
mưa; Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng bay vừa thì râm; Bao giờ đom
đóm bay ra, hoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừng; Khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen ….
Về mặt tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa sống theo nguyên tắc trọng
tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc sống hòa thuận trên
cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: Bán anh em xa, mua láng giềng gần. Một bồ cái lý không
bằng một tý cái tình. Tình làng nghĩa xóm
lOMoARcPSD|44862240
Trong truyền thống Việt Nam, tinh thần coi trọng ngôi nhà coi trọng cái bếp coi
trọng người phụ nữ hoàn toàn nhất quán nét: Phụ nữ Việt Nam người quản
kinh tế, tài chính trong gia đình người nắm tay hòm chìa khóa. Chính bởi vậy
người Việt Nam coi Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng cồng bà…; còn theo kinh
nghiệm dân gian thì: Ruộng sâu trâu nái, không bằng con gái đầu lòng. Phụ nữ Việt
Nam cũng chính người vai trò quyết định trong việc giáo dục con cái: Phúc đức
tại mẫu, Con dại cái mang. tầm quan trọng của người mẹ cho nên trong tiếng Việt,
từ cái với nghĩa “mẹ” đã mang thêm nghĩa “chính, quan trọng”: sông cái, đường cái,
đũa cái, cột cái, trống cái, ngón tay cái, máy cái…
Không phải ngẫu nhiên vùng nông nghiệp Đông Nam Á này được nhiều học giả
phương Tây gọixứ sở Mẫu hệ” (le Pays du Matriarcat). Cho đến tận bây giờ, các
dân tộc ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Chàm hoặc hoàn toàn không
chịu ảnh hưởng như nhiều dân tộc Tây Nguyên (Êđê, Giarai…), vai trò của người phụ
nữ vẫn rất lớn: phụ nữ chủ động trong hôn nhân, chồng về đằng nhà vợ, con cái đặt
tên theo họ mẹ… Cũng không phải ngẫu nhiên cho đến nay, người Khmer vẫn gọi
người đứng đầu phum, sóc của họ là phum, Mê sóc (mê = mẹ), bất kể đó là đàn ông
hay đàn bà.
tưởng coi thường phụ nữ từ Trung Hoa truyền vào sau này: Nhất nam viết hữu,
thập nữ viết vô; Nam tôn nữ ti; Tam tòng; tứ đức… đến khi ảnh hưởng này trở nên đậm
nét (từ lúc nhà Lê tôn Nho giáo làm quốc giáo).
Lối duy tổng hợp biện chứng: luôn đắn đo cân nhắc của người làm nông nghiệp
cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linh hoạt, luôn biến báo cho thích
hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến triết sống: bầu thì tròn, ống thì dài; Đi
với Bụt mặc áo cà-sa, đi với ma mặc áo giấy
Sống theo tình cảm, con người còn phải biết tôn trọng xử bình đẳng, dân chủ với
nhau. Đó nền dân chủ làng mạc, nó có trước nền quân chủ phong kiến phương Đông
nền dân chủ sản phương Tây. Lối sống trọng tình cách xử dân chủ dẫn đến
tâm coi trọng cộng đồng, tập thể. Người nông nghiệp làm cũng phải tính đến tập
thể, luôn có tập thể đứng sau.
Mặt trái của tính linh hoạt thói tùy tiện biểu hiện tật co giãn giờ giấc (giờ cao su),
sự thiếu tôn trọng pháp luật… Lối sống trọng tình làm cho thói tùy tiện càng trở nên
lOMoARcPSD|44862240
trầm trọng hơn: Một bồ cái không bằng một cái tình dẫn đến tệ “đi cửa sau”
trong giải quyết công việc: Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế Trọng tình linh
hoạt làm cho tính tổ chức của người nông nghiệp kém hơn so với dân các nền văn
hóa gốc du mục.
Bảng mô tả các đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
1.2.3. Chủ thể và thời gian văn hóa Việt nam.
Vị trí của một nền văn hóa trong xã hội phải được xác định bởi một hệ tọa độ ba chiều:
thời gian văn hóa, không gian văn hóa và chủ thể văn hóa.
Thời gian văn hoá được xác định từ lúc một nền văn hóa hình thành đến khi tàn lụi.
Thời điểm khởi đầu của một nền n hóa do thời điểm hình thành dân tộc (chủ thể
văn hóa) quy định.
Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam chủ thể văn hóa, từng khá nhiều giả thuyết khác
nhau. Gần đây, căn cứ vào những kết quả nghiên cứu về sự hình thành phân bố các
lOMoARcPSD|44862240
chủng người trên trái đất, thể nói rằng chủ thể của văn hóa Việt Nam ra đời trong
phạm vi của trung tâm hình thành loài người phía Đông trong khu vực hình thành
của đại chủng phương Nam (Australoid).
Trên nền của những sự kiện trên, quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam thể
được hình dung theo ba giai đoạn:
a) Vào thời đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm về trước). một dòng người thuộc
đạichủng Mongoloid từ phía dãy Himalaya thiên di về hướng đông nam. Tới vùng
Đông Nam Á cổ đại thì dừng lại hợp chủng với dân Melanésien bản địa (thuộc
đại chủng Australoid). Dẫn đến sự hình thành chủng Indonésien (cổ Lai, Đông
Nam Á tiền sử) với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn sóng, tầm vóc thấp… Từ đây lan
tỏa ra, người Indonésien trú trên toàn bộ địa bàn Đông Nam Á cổ đại. Phía bắc tới
sông Dương Tử. Phía tây tới bang Assam của Ấn Độ. Phía đông tới vùng quần đảo
Philippin và phía nam tới các hải đảo Inđônêxia.
b) Từ cuối thời đá mới, đầu thời đại đồ đồng (khoảng 5.000 năm về trước). Tại khu
vựcmà nay nam Trung Hoa bắc Đông Dương. Trên sở s chuyển biến từ loại
hình lndonésien bản địa dưới c động của sự tiếp xúc thường xuyên với chủng
Mongoloid từ phía bắc, đã hình thành một chủng mới chủng Nam-Á. Với chủng
Nam-Á, các nét Mongoloid lại càng nổi trội, do vậy nó được xếp vào ngành Mongoloid
phương Nam. Dần dần, chủng Nam-Á này đã được chia tách thành một loạt dân tộc.
Trong cổ thư Việt Nam Trung Hoa gọi bằng danh từ Bách Việt. Tuy “một trăm”
(bách) chỉ cách nói biểu trưng, nhưng đó thật smột cộng đồng dân hùng hậu,
bao gồm nhiều tộc người Việt như Điền Việt, Dương Việt, Mân Việt, Đông Việt, Nam
Việt, Lạc Việt… sinh sống khắp khu vực phía nam sông Dương Tử cho tới bắc Trung
Bộ ngày nay, họp thành những khối dân lớn (mà ban đầu mỗi khối một tiếng nói
riêng) như MônKhmer, Việt-Mường, Tày-Thái, Mèo-Dao.
c) Quá trình chia tách y tiếp tục diễn tiến, dần dần đã dẫn đến shình thành các
tộcngười cụ thể (cùng với sự chia tách ngôn ngữ trong đó người Việt (Kinh) tộc
người chiếm gần 90% dân số cả nước đã tách ra từ khối Việt-Mường chung vào
khoảng cuối thời Bắc thuộc (thế kỉ VII-VIII).
Trong khi đó, phía Nam, dọc theo dải Trường Sơn, vẫn địa n trú của người
Indonésien. Cuộc sống biệt lập khiến cho khối người này lưu giữ được nhiều hơn
lOMoARcPSD|44862240
những đặc điểm của truyền thống văn hóa cổ gần gũi với dân các hải đảo. Đó tổ
tiên của người Chăm, Giarai, Raglai, Êđê, Chru, Hroi… gọi chung Nam Đảo
(Austronésien).
Như vậy, người Việt cùng tuyệt đại bộ phận các tộc người trong thành phần dân tộc
Việt Nam đều cùng một nguồn gốc chung nhóm loại hình Indonésien, chính điều
đó đã tạo nên tính thống nhất cao một tính thống nhất trong sự đa dạng của con
người và văn hóa Việt Nam, rộng hơn toàn vùng Đông Nam Á. Trong sự đa dạng
chung đó lại luôn tính thống nhất bộ phận: của người Việt Mường, của người
Việt-Mường và các dân tộc cùng gốc Nam-Á- Bách Việt…
Hoàn cảnh địa lí – khí hậu Việt Nam có ba đặc điểm cơ bản ảnh hưởng đến văn hóa.
Thứ nhất: đây xứ nóng, nóng lắm sinh ra mưa nhiều. Việt Nam nơi lượng mưa
trung bình trong năm khoảng trên 2.000 mm.
Thứ hai: đây một vùng sông nước. sông nước đã để lại dấu ấn rất quan trọng trong
tinh thầnn hóa khu vực này. Đây một hằng số địa quan trọng, chính tạo nên
nét độc đáo của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước.
Thứ ba: Nơi đây là giao điểm “ngã tư đường” của các nền văn hóa, văn minh.
1.2.4. Hoàn cảnh địa lý, không gian văn hóa.
Khí hậu Việt nam ba Đặc điểm bản: Nóng ẩm, mưa nhiều dẫn đến đây vùng
sông nước dầy đặc. Sông nước đã để lại nhiều dấu ấn trong văn hóa khu vực này. Đặc
điểm thứ ba, nơi đây giao điểm (ngã đường) của nền văn minh khu vực Đông
Nam Á.
Văn hóa tính lịch sử (yếu tố thời gian), cho nên không gian văn hóa liên quan đến
lãnh thổ nhưng không đồng nhất với không gian lãnh thổ. bao quát tất thảy những
vùng lãnh thổ đó dân tộc đã tồn tại qua các thời đại. Do vậy, không gian văn hóa
bao giờ cũng rộng hơn không gian lãnh thổ. Trong phạm vi hẹp, không gian gốc của
văn hóa Việt Nam nằm trong khu vực cư trú của người Bách Việt. Có thể hình dung
như một hình tam giác với cạnh đáy sông Dương Tử đỉnh vùng bắc Trung bộ
Việt Nam. Đây cái nôi của nghề nông nghiệp lúa nước, của nghệ thuật đúc đồng với
những trống đồng Đông Sơn nổi tiếng. Đây cũng bờ cõi đất nước của họ Hồng Bàng
theo truyền.
lOMoARcPSD|44862240
một phạm vi rộng hơn, không gian văn hóa Việt Nam nằm trong khu vực trú của
người Indonésien lục địa. Có thể hình dung nó như một hình tam giác với cạnh đáy vẫn
là sông Dương Tử ở phía Bắc, còn đỉnh là vùng đồng bằng sông Mê Kông ở phía Nam.
Đây khu vực được tạo nên bởi hai con sông lớn cùng bắt nguồn từ cao nguyên Tây
Tạng: Dương Tử Giang và Mê Kông.
Xét từ trong cội nguồn, không gian văn hoá Việt Nam vốn được định hình trên nền của
không gian văn hoá khu vực Đông Nam Á. thể hình dung không gian n hóa khu
vực Đông Nam Á này như một hình tròn bao quát toàn bộ Đông Nam Á lục địa
Đông Nam Á hải đảo. Từ sau công nguyên, khu vực Đông Nam Á phần thu hẹp lại
do vùng phía Nam sông Dương Tử đã bị chính sách bành trướng đồng hóa của
Trung Hoa dần dần thâu tóm. Tuy vậy, ngày nay, các vùng này cũng hãy còn giữ được
không ít nét trong số hàng loạt những đặc điểm chung của khu vực văn hóa Đông Nam
Á. Đó là: Về phương diện vật chất: làm ruộng cấy lúa, nuôi trâu bò, dùng đồ kim khí
thô sơ, giỏi bơi thuyền. Về phương diện xã hội: địa vị quan trọng của phụ nữ, huyết tộc
mẫu hệ, tổ chức hội theo nhu cầu tưới nước ruộng. Về phương diện tôn giáo: thuyết
vạn vật hữu linh, thờ phụng tổ tiên thờ thần đất, đặt đền thờ những chỗ cao, chôn
người chết trong các chum vại hay các trác thạch. Về phương diện thần thoại: đối lập
vũ trụ luận giữa núibiển. Giữa loài phi cầm với loài thủy tộc, giữa người thượng du
với người hạ bạn. Về phương diện ngôn ngữ: dùng những ngôn ngữ đơn âm với năng
lực dồi dào về phát triển từ… Đây địa bàn trú của người Indonésien cổ đại nói
chung. Chính mối liên hệy đã tạo nên sự thống nhất cao độ của vùng văn hóa Đông
Nam Á trên đã nói. Do vị trí đặc biệt của mình, Việt Nam i hội tụ mức độ
đầy đủ nhất mọi đặc trưng của văn hóa khu vực (Có người nói Việt Nam một Đông
Nam Á thu nhỏ).
1.2.5. Các vùng Văn hóa Việt Nam.
Vùng Văn hóa một vùng địa dân đó những đặc điểm tương đồng
về mặt địa tự nhiên các dân tộc cùng chung sống lâu dài, lâu đời với nhau trong
lịch sử. Do cùng chung vận mệnh lịch sử, các dân tộc này đã diễn ra quá trình giao
lưu, tiếp xúc Văn hóa lâu dài trong lịch sử để dẫn tới hình thành những đặc điểm Văn
hóa riêng của từng vùng để phân biệt Văn hóa vùng này với Văn hóa của vùng khác.
Có nhiều ý kiến về phân biệt các vùng Văn hóa dựa trên các tiêu chí khác nhau.
lOMoARcPSD|44862240
Trong đó, để cái nhìn tổng quát thì cách phân thành sáu vùng của PGS Trần Ngọc
Thêm có thể xem là hợp lí.
6
Vùng văn hóa Tây Bắc: vùng miền núi phía tây của miền bắc Việt Nam, có chung
đường biên giới với Lào và Trung Quốc. Đây là một trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ Việt
Nam, bao gồm các tỉnh: Mường Lay, Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Yên Báí.
đây trên 20 tộc người trú, trong đó, các tộc Thái, Mường thể xem đại
diện. Biểu tượng cho vùng văn hóa này hệ thống mương phai ngăn suối dẫn nước
vào đồng; nghệ thuật trang trí tinh tế trên chiếc khăn piêu Thái, chiếc cạp váy
Mường, bộ trang phục nữ H’mông; âm nhạc với các loại nhạc c bộ hơi (khèn,
sáo…) và những điệu múa xòe…
Tây Bắc cái nôi của các dân tộc thiểu số như Thái, Tày, Mường, Dao, Mông, Lô,
Nhì... Một trong những sắc thái văn hoá dân tộc độc đáo của họ những món ăn
truyền thống nổi tiếng chỉ vùng này. Người dân Tây Bắc thường thưởng thức
những món ăn truyền thống của mình trong không gian và không khí cộng đồng như tại
các lễ hội, tại các chợ và đặc biệt là vào ngày Tết nhân dịp năm mới xuân về.
Phần lớn khẩu vị của người tây bắc thích những đậm đà vậy phần lớn các món
ăn nổi bật của người vùng Tây Bắc đểu mang lại cho người thưởng thức những ấn
tượng rất khó quên.
Bộ trang phục nữ Thái – khăn Piêu Hoa ban Tây Bắc
Vùng văn hóa Việt Bắc
Nói tới Việt Bắc nới tới địa bàn của 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Giang, Tuyên Quang… dân chủ yếu của vùng Việt Bắc người Tày,
người Nùng. Ngoài ra còn một số dân tộc ít người khác như Dao, H’mông, LôLô,
6 Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2012, trang 32
lOMoARcPSD|44862240
Sán chay. Trong diễn trình lịch sử, dân Việt Bắc chủ yếu dân Tày- Nùng
cùng gắn bó số phận với các dân tộc ở vùng xuôi trong thời kỳ đánh giặc cứu nước. Dù
hiện tại 2 dân tộc, nhưng người Tày người Nùng những nét gần gũi tương đối.
Trong quan hệ với văn hoá Hán, người Nùng chịu ảnh hưởng của Hán tộc nhiều hơn
người Tày, người Tày chịu ảnh hưởng văn hoá Việt nhiều hơn. Trang phục người Việt
Bắc tương đối giản dị. Lễ hội lồng tồng (xuống đồng) nổi tiếng.
Hát Then - Người Nùng Lễ hôị lồng tồng người Tày
Vùng văn hóa Bắc Bộ
Vùng đồng bằng Bắc Bộ nơi diễn ra các hoạt động sinh sống sản xuất của người
dân trồng lúa nước, đồng thời cũng là không gian sinh hoạt, gìn giữ và phát huy các giá
trị văn hóa. Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ được hình thành phát triển trong
trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc với nhiều đặc trưng, trong đó nổi bật tính
cộng đồng, tính tự trị, tính dung hợp trong duy. Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc
Bộ vai trò to lớn đối với việc hun đúc nên tâm hồn Việt, các giá trị đạo đức, nhân
văn. Tuy nhiên, văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng những hạn chế, không
phù hợp với yêu cầu của việc xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay.
Địa bàn Vùng Văn hóa Bắc Bộ hình một tam giác bao gồm vùng đồng bằng châu thổ
sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã với cư dân Việt (Kinh) sống quần tụ thành làng
xã.
Hát quan họ Bắc Ninh Cây đa, bến nước, đình làng
lOMoARcPSD|44862240
Vùng văn hóa Trung Bộ nằm trên một dải đất hẹp chạy dài theo ven biển từ Quảng
Bình tới Bình Thuận. Do khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn, con người ở đây đặc biệt
cần cù, hiếu học. Họ thạo nghề đi biển, bữa ăn của con người cũng giàu chất biển; dân
vùng này thích ăn cay (để cho cái lạnh). Trước khi người Việt tới sinh sống, trong
một thời gian dài nơi đây từng địa bàn trú của người Chăm với một nền văn hóa
đặc sắc. Đến nay còn để lại sừng sững những tháp Chăm. Đặc biệt Huế được mệnh
danh mảnh đất thần kinh với cái nghĩa đất Địa linh, nhân kiệt. Di sản văn hóa hệ
thống lăng tẩm nguy nga lộng lẫy. Dòng sông Hương thơ mộng chảy ôm lấy kinh thành
với hai bên bờ là những vườn cây trái trù phú càng làm tăng thêm vẻ diễm lệ cho mảnh
đất vốn mang nhiều huyền tích.
Tháp Chàm – Ninh Thuận Cầu Tràng Tiền Huế
Vùng văn hóa Tây Nguyên nằm trên sườn đông của dải Trường Sơn. Bắt đầu từ vùng
núi Bình-Trị-Thiên với trung tâmbốn tỉnh Gia Lai, Kontum, Đắc Lắc, Lâm Đồng.
lOMoARcPSD|44862240
đây trên 20 tộc người nói các ngôn ngữ Môn-Khmer Nam Đảo trú. Đây
vùngn hóa đặc sắc với những trường ca (Đăm San, Khan của người Êđê DăkLăk,
Hri của người Jrai tỉnh Gia Lai). Những lễ hội đâm trâu, với loại nhạc cụ không thể
thiếu được là những dàn cồng chiêng phát ra những phức hợp âm thanh hung vĩ đặc thù
cho núi rừng Tây Nguyên…
Lễ hội đua voi Lễ hội Cồng chiêng
Vùng văn hóa Nam Bộ
Trong nền văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc, mỗi vùng
miền lại nét văn hóa riêng rất độc đáo, đa dạng phong phú. Nam bộ tuy vùng
đất tổ tiên ta mới khai phá lập nghiệp hơn 300 năm nhưng văn hóa của nông thôn Nam
bộ bắt nguồn từ nền văn hóa chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam hơn 4000 năm
lịch sử.
Nam bộ từ miền đất hoang vu, rừng thẳm, nhiều sông rạch, đầm lầy, muỗi kêu như sáo
thổi, đỉa lội như bánh canh. Trên rừng nhiều thú dữ, rắn độc động vật quý. Dưới
nước tôm cá bạt ngàn còn có cá sấu,mập. Người nông dân Nam bộ lao động cần cù,
dũng cảm. Thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước cải tạo tự nhiên, phòng chống thú dữ trên
rừng, dưới nước để sản xuất bảo vệ sản xuất. Các n Việt, Chăm, Hoa tới khai
phá đã nhanh chóng hòa nhập với thiên nhiên và cuộc sống của cư dân bản địa (Khmer,
Mạ, Xtiêng, Chơro, Mnông). Nhà khuynh hướng trải dài ven kênh, ven lộ; bữa ăn
lOMoARcPSD|44862240
giàu thủy sản; tính cách con người ưa phóng khoáng; tín ngưỡng tôn giáo hết sức
phong phú và đa dạng, sớm tiếp cận và đi đầu trong quá trình giao lưu hội nhập với văn
hóa phương Tây…
Chợ nổi Dừa nươc và cầu khỉ
Văn hóa một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất tinh thần do con người sáng tạo
tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với
môi trường tự nhiên hội. Nền văn hóa Việt Nam đã hình thành không ngừng
phát triển qua hàng ngàn năm, trải qua nhiều biến cố nhưng ấy vẫn luôn được giữ
vững trau dồi bởi năm mươi n tộc anh em với lòng yêu nước tinh thần đoàn
kết nhất trí.
Nếu như sự thống nhất do cùng cội nguồn đã tạo ra bản sắc chung của văn hóa Việt
Nam thì tính đa dạng của các tộc người lại làm nên những đặc trưng bản sắc riêng của
từng vùng văn hóa.
lOMoARcPSD|44862240
1.3. Tiến trình Văn hóa Việt Nam ( tuần thứ 3)
Tiến trình văn hóa Việt Nam có thể chia thành 3 lớp, 6 giai đoạn:
- Văn hóa tiền sử, Văn hóa Văn Lang – Âu Lạc (Lớp Văn hóa bản địa).
- Văn hóa thời chống Bắc thuộc, Văn hóa Đại Việt (Lớp Văn hóa giao lưu với
TrungHoa).
- Văn hóa Đại Nam và Văn hóa hiện đại (Lớp văn hóa giao lưu với Phương Tây).
1.3.1. Lớp văn hóa bản địa.
Giai đoạn bản địa của văn hoá Việt Nam thể tính từ khi con người bắt đầu mặt
trên lãnh thổ Việt Nam cho tới khoảng thế kỉ I TCN. Đây một giai đoạn dài
tính chất quyết định; là giai đoạn hình thành; phát triển và định vị của văn hoá Việt
Nam.
Giai đoạn này có thể được chia làm hai thời kì:
- Thời tiền sử từ buổi đầu đầu đến cuối thời đại đá mới
- Thời sơ sử cách đây khoảng trên dưới 4000 năm – Thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc
1.3.1.1. Văn hóa giai đoạn tiền sử.
| 1/175