Tiểu luận: Văn hóa giao tiếp và nghệ thuật ngôn từ | Cơ sở văn hóa Việt Nam | Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh

Tiểu luận: Văn hóa giao tiếp và nghệ thuật ngôn từ môn Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học tốt, ôn tập hiệu quả, đạt kết quả cao trong các bài thi, bài kiểm tra sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.

Thông tin:
32 trang 3 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tiểu luận: Văn hóa giao tiếp và nghệ thuật ngôn từ | Cơ sở văn hóa Việt Nam | Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh

Tiểu luận: Văn hóa giao tiếp và nghệ thuật ngôn từ môn Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học tốt, ôn tập hiệu quả, đạt kết quả cao trong các bài thi, bài kiểm tra sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.

120 60 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD|44862240
BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA THƯƠNG MẠI DU LỊCH
CHƯƠNG III: VĂN HOÁ GIAO TIẾP VÀ NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ
Môn học: CƠ SỞ VĂN HOÁ VIỆT NAM
GVHD: Nguyễn Thị Sáu
Lớp học phần: DHKT17B
Mã học phần: 420301066501
Tên nhóm: 3
ST HỌ VÀ TÊN MSSV Chữ ký
T
1 Lê Quốc Hùng (Nhóm trưởng) 20020111
2 Lương Bảo Hân 21051801
3 Nguyễn Hoàng Thảo Hiền 21097301
4 Bùi Thị Huế 21087191
5 Phạm Huỳnh Ngọc Giàu 21065461
6 Võ Thanh Hiếu 20094901
7 Nguyễn Trần Trà Giang 19522471
TIỂU LUẬN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
KHOA THƯƠNG MẠI DU LỊCH
GVHD: NGUYỄN THỊ SÁU
BẢNG CHẤM ĐIỂM TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA
lOMoARcPSD|44862240
(ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU)
Học kỳ 2 năm học 2021 - 2022
Tổng điểm (a)
lOMoARcPSD|44862240
BẢNG ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM
GV chấm bài 1 GV chấm bài 2
STT Họ và Tên Xếp
loại
Điểm quy
đổi
(b)
Điểm tổng
kết (a+b)
/1.01 Lê Quốc Hùng
/1.02 Lương Bảo Hân
3 /1.0Nguyễn Hoàng Thảo Hiền
/1.04 Bùi Thị Huế
/1.05 Phạm Huỳnh Ngọc Giàu
/1.06 Võ Thanh Hiếu
/1.07 Nguyễn Trần Trà Giang
lOMoARcPSD|44862240
MỤC LỤC
I. NHỮNG Đ C TRẶ ƯNG TRONG VĂN HÓA GIAO TIẾPẾ C A NGỦ ƯỜ ỆI VI T
NAM.................5
1.1. Khái quát vềề văn hóa giao 'ềếp:.......................................................................................6
1.2. Nh ng đ c tr ng trong văn hóa giao 'ềếp c a ngữặ ư ườ ệi Vi
t................................................6
1.2.1 Thái đ giao 'ềếpộ
.............................................................................................................................7
1.2.2 Quan h giao 'ềếp:ệ ..........................................................................................................................8
1.2.3 Đốếi tượng giao 'ềếp........................................................................................................................9
1.2.4 Ch th giao 'ềếp:ủ ể
.........................................................................................................................10
1.2.5 Cách th c giao 'ềếpứ .......................................................................................................................10
1.2.6 Nghi th c l i nóiứ ờ
...........................................................................................................................11
II. CÁC Đ C TRẶƯNG CƠ Ả Ủ B N C A NGH THU T NGÔN TỆ Ừ Ệ VI T
NAM............................15
2.1 . Khái quát vềề ngh thu t ngốn t :ệ
ừ .....................................................................................15
2.2 . Tính bi u tr ngể ư ................................................................................................................16
2.3 . Giàu chấết bi u c mể ả ..........................................................................................................18
2.4 . Tính đ ng và tnh linh ho tộ ạ ..............................................................................................19
III. T NG KẾẾTỔ .................................................................................................................22
3.1. T ng kềếtổ ........................................................................................................................22
3.2. Ý nghĩa t ng kềếtổ .............................................................................................................23
IV. KẾẾ HO CH THẠ ỰC HI N ĐẾỀ TÀIỆ
...................................................................................24
V. TÀI LI UỆ THAM KH OẢ ................................................................................................27
VI. PH L CỤ Ụ ...................................................................................................................28
I. NHỮNG ĐẶC TRƯNG TRONG VĂN HÓA GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI
VIỆT NAM
I.1. Khái quát về văn hóa giao tiếp:
lOMoARcPSD|44862240
Các khái niệm:
- Văn hóa là toàn bộ quá trình vật chất và tinh thần mà con người tạo ra trong
quá trình lịch sử
- Giao tiếp là quá trình trao đổi và chia sẻ với nhau về thông tin, cảm xúc, tri
giác lẫn nhau, ảnh huuởng tác động qua lại với nhau.
Văn hóa giao tiếp một bộ phận trong tổng thể văn hóa nhằm chỉ quan hệ giao
tiếp văn hóa của mỗi người trong hội, tổ hợp của các thành tố: lời nói, cử chỉ,
hành vi, thái độ, cách ứng xử,..
I.2. Những đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt
Có 6 đặc trưng cơ bản trong văn hóa giao tiếp của người Việt được thể hiện trong 6
khía cạnh của giao tiếp:
- Thái độ giao tiếp: vừa thích giao tiếp vừa rụt rè.
- Quan hệ giao tiếp: lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử.
- Đối tượng giao tiếp: ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá.
- Chủ thể giao tiếp: trọng danh dự
- Cách thức giao tiếp: ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hoà thuận.
- Nghi thức lời nói: hệ thống xưng hô và cách nói lịch sự rất phong phú.
Hệ thống xung hô, thứ nhất, có tính thân mật hoá (trọng tình cảm) cao. Thứ hai, có tính xã
hội hoá, cộng đồng hoá cao. Thứ ba có tính tôn ti kĩ lưỡng. Người Việt xưng hô theo
nguyên tắc xưng khiêm hô tôn. Thậm chí cách nói lịch sự của người việt nam cũng rất
phong phú, không chung chung như của phương Tây, mỗi trường hợp khác nhau lại có
một các xưng hô cho phù hợp. vd: cảm ơn và xin lỗi…
lOMoARcPSD|44862240
1.2.1 Thái độ giao tiếp
Xét về thái độ đối với việc giao tiếp, có thể thấy đặc điểm của người Việt Nam là
vừa thích giao tiếp, lại vừa rất rụt rè.
Người Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc vào nhau và rất coi trọng mối quan hệ
giữa các thành viên trong cộng đồng. Đó là nguyên nhân dẫn đến người Việt trong
giao tiếp, đây cũng được xem là tiêu chuẩn đầu tiên để đánh giá con người. Nhưng khi
đến khu vực ngoài cộng đồng, khi tiếp xúc toàn người lạ, tính ngự trị nổi lên thì người
Việt lại trở nên rụt rè. Hai tính cách trái ngược nhau tồn tại trong một bản chất nhưng
không hề mâu thuẫn nhau, thể hiện tính linh hoạt trong giao tiếp của người Việt.
Người Việt Nam quan tâm đến việc giữ gìn các mối quan hệ với mọi thành viên
trong tập thể, cộng đồng. Nguyên nhân này khiến cho văn hóa giao tiếp của người Việt
Nam rất coi trọng đến việc giao tiếp, và được thể hiện ở 2 điểm chính sau: - Chủ
nhà thích có khách viếng thăm: Việc khách đến nhà thăm là hành động biểu hiện của
tình cảm, tình nghĩa, sự quan tâm giữa các thành viên trong gia đình, của xóm làng,
nhằm giúp thắt chặt thêm mối quan hệ (Thăm viếng không còn là nhu cầu công việc
như ở phương Tây).
- Chủ nhà có tính hiếu khách: “Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi, bởi lẽ đói
năm, không bằng đói bữa”. Khi có khách đến nhà, cho dù là người thân quen hay xa
lạ, thì chủ nhà luôn tiếp đãi khách một bữa thịnh soạn cho dù gia cảnh lúc đó có khó
khăn ,tính hiếu khách càng được thể hiện rõ ràng hơn khi bạn về những vùng nơi
hẻo lánh, hay miền rừng núi xa xôi.
Tuy nhiên trong văn hóa giao tiếp ứng xử, thì người Việt Nam lại có một đặc tính
đó là sự rụt rè. Sự tồn tại của hai tính cách trái ngược này xuất phát từ đặc tính cơ bản
tính cộng động và tính tự trị. Trong một môi trường có tính cộng đồng thì người Việt
lOMoARcPSD|44862240
Nam rất cởi mở, tự tin giao tiếp, nhưng vào môi trường mà tính ngự trị phát huy tác
dụng thì người Việt Nam luôn tỏ ra rụt rè. Có thể nói chúng chính là hai mặt cùng một
bản chất, là biểu hiện cho cách ứng xử linh hoạt của người Việt Nam.
Văn hóa giao tiếp của người Việt Nam luôn lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử.
1.2.2 Quan hệ giao tiếp:
Xét về quan hệ giao tiếp, có thể thấy đặc điểm của người Việt Nam là lấy tình cảm làm
nguyên tắc ứng xử.
Nguồn gốc văn hoá nông nghiệp với đặc điểm trọng tình đã dẫn người việt tói chỗ
lấy tình cảm, lấy sự yêu ghét làm nguyên tắc ứng xử. Trong cuộc sống người việt có lý
tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Khi cần cân nhắc giữa cái cái tình thì tình vẫn
được đặt cao hơn lí.
lOMoARcPSD|44862240
1.2.3 Đối tượng giao tiếp
Xét về đối tượng giao tiếp, có thể thấy đặc điểm của người Việt Nam là ưa tìm hiểu,
quan sát, đánh giá.
Tuổi c, quê quán, trình độ học vấn, địa vị hội, tình trạng gia đình (bố mẹ còn
hay mất, đã vợ/chồng chưa, con chưa, mấy trai mấy gái…) những vấn đề
người Việt Nam thường quan tâm. Thói quen ưa tìm hiểu này khiến cho người nước
ngoài nhận xét người Việt Nam hay mò. Đặc tính này gọi bằng tên đi
nữa – chẳng qua cũng chỉ là một sản phẩm của tính cộng đồng làng xã mà ra.
Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy trách nhiệm phải quan tâm đến
người khác, mà muốn quan tâm thì phải biết rõ hoàn cảnh. Mặt khác, do lối sống trọng
tình cảm, mỗi cặp giao tiếp đều có những cách xưng riêng, nên nếu không đủ
thông tin thì không thể lựa chọn từ xưng cho thích hợp được. Biết tính cách, biết
người để lựa chọn từ xưng cho phù hợp: Chọn mặt gửi vàng; Tùy mặt gửi lời/tùy
người gửi của”. Khi không được lựa chọn thì người Việt Nam dùng chiến lược thích
ứng một cách linh hoạt: “Ở bầu thì tròn, ống thì dài; Đi với bụt mặc áo sa, đi với
ma mặc áo giấy”.
1.2.4 Chủ thể giao tiếp:
Xét về chủ thể giao tiếp, người Việt Nam có đặc điểm là trọng danh dự.
Danh dự được người Việt gắn với năng lực giao tiếp: lời nói ra để lại dấu vết, tạo
thành tiếng tăm, được lưu truyền đến tai nhiều người, tạo nên tai tiếng. Chính quá
coi trọng danh dự người Việt mắc bệnh diện. thôn làng, thói diễn thể hiện
càng rõ ràng, trầm trọng, nhất là tục chia phần (một miếng giữa làng bằng một sàng
bếp).
lOMoARcPSD|44862240
1.2.5 Cách thức giao tiếp
Người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa nhận.
- Tính tế nhị khiến người Việt Nam có thói quen giao tiếp “vòng vo tam quốc“,
không bao giờ mở đầu trực tiếp, đi thẳng vào vấn đề như người phương Tây.
- Truyền thống Việt Nam khi bắt đầu giao tiếp giao tiếp là phải “vấn xá cầu điền “,
hỏi thăm nhà của ruộng vườn. Cùng để đưa đẩy tạo không khí là truyền thống
miếng trầu làm đầu câu chuyện” .
- Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống tư duy trong các mối quan
hệ. Nó tạo nên thói quen đắn đo cân nhắc kĩ càng khi nói năng: “ăn có nhai, nói
có nghĩ “, “ biết thì thưa thì thốt, không biết thì dựa cột mà nghe” ...
Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là
thiếu tính quyết đoán.
Để tránh phải quyết đoán, đồng thời giữ được sự hòa thuận , không làm mất lòng ai.
Tâm lí ưa hòa thuận khiến người Việt Nam luôn chủ trương nhường nhịn: "một sự
nhịn là chín sự lành”, “chồng giận thì vợ bớt lời”,...
lOMoARcPSD|44862240
1.2.6 Nghi thức lời nói
Người Việt có hệ thống nghi thức lời nói rất phong phú.
Trước hết ta tìm hiểu về văn hóa chào hỏi của người Việt Nam:
Nghi thức chào hỏi của người Việt không chỉ thuộc phạm vi văn hoá ngôn ngữ,
còn thuộc phạm trù đạo đức, một cách thể hiện nhân cách của chủ thể chào nhân
cách của đối tượng được chào, cho đó lời chào nghi thức hoặc lời chào không
nghi thức.
Người Việt vốn có truyền thống trọng lễ nghĩa nên từ ngàn xưa, ông cha ta đã
đề cao "Lời chào cao hơn mâm cỗ" và răn dạy con cháu phải "đi thưa về trình". Lời
chào được người Việt đặc biệt coi trọng. Nó mang một giá trị văn hóa tinh thần và dấu
ấn ngôn ngữ dân tộc trong xử thế. Qua lời chào, người nghe có thể rút ra những nhận
xét ban đầu về đối tác: trình độ, tính cách, kinh nghiệm giao tiếp. Nó là cơ sở xuất phát
và có giá trị ảnh hưởng tới chất lượng các cuộc trao đổi tiếp theo. Chào là một nghi
thức bắt buộc phải có trong tất cả những cuộc giao tiếp ngôn ngữ. Chào có thể được
biểu thị bằng ngôn ngữ (lời chào) hoặc bằng hành động như: vẫy tay, giơ tay, bắt tay,
gật đầu, mỉm cười, ôm hôn , ...
lOMoARcPSD|44862240
Chào là dấu hiệu đầu tiên, mở đầu cho một cuộc tiếp xúc trao đổi. Khi nghiên
cứu về lời chào của người Việt, chúng ta thấy có một điểm khác biệt với cách chào của
một số nước khác (như nước Anh chẳng hạn) ở chỗ người Việt khi chào, lời chào
nhiều khi được thể hiện bằng hình thức hỏi: Bác mới sang chơi? Anh vừa đến? Chị đi
chợ à? . Cho nên, người Việt thường dùng từ chào hỏi khi nói về lời chào trong giao
tiếp. Một người không chào khi gặp người khác thì thường bị mắng là "Gặp ai miệng
cứ câm như hến, chẳng chào hỏi gì cả ". Như vậy khái niệm chào và chào hỏi trong
cách hiểu của người Việt về mặt nội dung , tác dụng thì chỉ là một, đây là nghi thức
đầu tiên "mở màn" cho cuộc giao tiếp.
Sự phong phú của hệ thống xưng hô :
Trong khi các ngôn ngữ phương Tây và Trung Hoa chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng
thì tiếng Việt còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng để xưng
lOMoARcPSD|44862240
hô, và những danh từ thân tộc này có xu hướng lấn át các đai từ nhân xưng. Hệ thống
xưng hô này có các đặc điểm:
- Thứ nhất, tính chất thân mậtt hóa (trọng tình cảm), coi mọi người trong cộng
đồng như bà con họ hàng trong một gia đình.
- Thứ hai, có tính chất cộng đồng hóa cao - trong hệ thông này, khôngnhững từ
xưng chung chung phụ thuộc vào tuổic, địa vị hội, thời gian, không
gian gian tiếp cụ thể: VD: chú khi ni, mi khi khác (khi còn nhỏ xưng hô với nhau
cậu-tớ, kết hôn xưng anh-em hoặc vợ-chồng, con đổi thành bố nó-mẹ nó,
cháu rồi gọi nhau ông nó-bà nó). Cùng hai người , nhưng cách xưng khi
đồng thời tổng hợp được hai quan hệ khác nhau chú - con, ông - con, anh - em,
anh - tôi ... Lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên chồng, bằng thứ tự sinh (Cả,
Hai , Ba, Tư ).
- Thứ ba, thể hiện tính tôn ti lưỡng: Người Việt Nam xưng theo nguyên
tắc xưng khiêm tôn (gọi mình thì khiêm nhường, còn gọi đối tượng giao tiếp
thì tôn kính). Cùng một cặp giao tiếp, nhưng khi cả hai đều cùng xưng em
cùng gọi nhau chị. Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng:
xưa kia chỉ gọi đến tên riêng khi chửi nhau; đặt n con cần nhất không được
trùng với tên của những người bề trên trong gia đình. vậy mà người Việt Nam
trước đây tục nhập gia vấn húy (vào nhà ai, hỏi tên chủ nhà để khi nói nếu
động đến từ đó thì phải nói chệch đi).
Nghi thức trong các cách nói lịch sự cũng rất phong phú. Do truyền thống tình cảm
và linh hoạt nên người Việt Nam không có một từ cảm ơn, xin lỗi chung chung cho
mọi trường hợp như phương Tây. Với mỗi trường hợp có thể có một cách cảm ơn, xin
lỗi khác nhau: Con xin chú (cảm ơn khi nhận quà). Chị chu đáo quá (cảm ơn khi được
quan tâm), Bác bày vẽ quả (cảm ơn khi được tiếp đón). Quý hóa quá (cảm ơn khi
khách đến thăm), Anh quá khen (cảm ơn khi được khen), Cậu đã cứu cho tớ một bàn
thua trông thấy, Cháu được như hôm nay là nhờ cô đấy (cảm ơn khi được giúp đỡ) ...
Ngoài ra nghi thức lời nói của người Việt Nam ta còn mang đặc tính hành động.
Ví dụ: Trong phát ngôn "Anh ở lại ăn cơm với chúng em!" Người nghe đều hiểu đây là
một phát ngôn mời mặc dù trong phát ngôn không tồn tại động từ ngữ vi "mời ". Hành
động mời được thể hiện gián tiếp qua toàn bộ câu chữ của phát ngôn. Hay như trong
phát ngôn "Tôi có lỗi với cô!" động từ ngữ vi không hiện diện mà chỉ là động từ chỉ sự
lOMoARcPSD|44862240
tồn tại "có" nhưng người nghe nhận thức được rằng xin lỗi là đích của phát ngôn. Phát
ngôn như một lời thủ nhân, chính sự thủ nhận đó gián tiếp thể hiện hành động xin lỗi
của người nói.
Việc tìm hiểu, học hỏi về nghi thức lời nói hết sức quan trọng vì đây là tiền đề
trong việc giao tiếp, nền móng trong văn hóa ứng xử nhằm giúp mọi người thích
nghi với những tình huống xã hội, giúp việc giao tiếp phù hợp với mọi hoàn cảnh
cộng đồng.
II. CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ VIỆT NAM
2.1. Khái quát về nghệ thuật ngôn từ:
- Ngôn từ là một phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Chúng ta sử
dụng ngôn ngữ cùng với các phương tiện phi ngôn ngữ như ánh mắt, nét mặt, cử
chỉ, điệu bộ trong cuộc sống hàng ngày để truyền đạt thông tin, cảm xúc, để phá
vỡ khoảng yên lặng giữa con người với con người và vạn vật xung quanh. Và là
một sợi dây vô hình có tác dụng kết nối con người, gắn kết các mối quan hệ.
- Nghệ thuật ngôn từ:
+ Văn học là một loại hình nghệ thuật. Nó vẫn thường được gọi là “nghệ thuật
ngôn từ”. Thế tức là nghệ thuật rộng hơn văn học.
+ Chữ “nghệ thuật” gắn với ý niệm về sự khéo léo, tinh tế, có thể sử dụng để chỉ
bất kì một kĩ năng thực tế nào, ví như nghệ thuật ẩm thực.
+ Lời nói hoa mĩ có thể gọi là “nghệ thuật ngôn từ”. Ở đây, chúng ta chỉ bàn về
văn học như một dạng nghệ thuật theo nghĩa hẹp, nghĩa đặc biệt, chỉ một dạng hoạt
động mang tính nghệ thuật.
lOMoARcPSD|44862240
2.2. Tính biểu trưng
- Tính biểu trưng thể hiện ở xu hướng khái quát hóa, ước lệ hóa, công thức hóa
với những cấu trúc cân đối, hài hòa.
+ Xu hướng ước lệ:
Bộc lộ ở chỗ tiếng Việt thích những cách diễn đạt bằng các con số biểu trưng. Khi
người châu Âu dùng từ “tất cả” thì người Việt dùng các từ chỉ số lượng ước lệ ba thu,
nói ba phải, ba mặt một nhời, năm bè bảy mối, tam khoanh tứ đốm, trăm khôn ngàn
khéo, tiền trăm bạc vạn, trăm họ, vạn sự, ngàn thu…
lOMoARcPSD|44862240
Lối tư duy tổng hợp mọi yếu tố, lối sống ổn định có quan hệ tốt với hết thảy mọi người
dẫn đến xu hướng trọng sự cân đối hài hòa trong ngôn từ_ một biểu hiện khác của tính
biểu trưng. Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt.
+ Xu hướng công thức hoá:
Trong ngôn từ, lời nói Việt thì cấu trúc song tiết lại là chủ đạo. Các thành ngữ, tục ngữ
tiếng Việt đều cấu tạo theo cấu trúc có hai vế đối ứng. vd: trèo cao / ngã đau; biết thì
thưa thốt / không biết dựa cột mà nghe….
Tiếng Việt rất phát triển hình thức câu đối là một loại sản phẩm văn chương đặc biệt,
nó vừa công phu tỷ mỷ, lại vừa cô đúc ngắn gọn. Trong mọi dịp, người ta đều làm câu
đối từ việc hiếu cho đến việc hỷ. Câu đối chữ Hán có, chữ Nôm có,vừa Hán vừa Nôm
cũng có. ví dụ: Tết nguyên đán mọi người dùng câu đối để chúc cho nhau: Xuân an
khang thịnh vượng – Niên phúc thọ miên trường.
Văn chương Việt Nam đều là lịch sử của thơ ca.Thống kê trong Từ điển văn học (NXB
KHXH, Hà Nội, 1983-1984) cho thấy trong 95 mục từ tác phẩm văn học Việt thì có 69
tác phẩm thơ và 26 tác phẩm văn xuôi, tức là thơ chiếm 72,6% (trong số 26 mục từ văn
xuôi này có rất nhiều tác phẩm thuộc các thể loại hịch, chèo, tuồng… là những thể loại
mang đậm chất thơ). + Xu hướng khái quát hoá:
Ở Việt Nam, tiếng việt là một ngôn ngữ giàu thanh điệu, tự thân các thanh điệu đã tạo
nên tính nhạc cho câu văn cho nên văn xuôi truyền thống cũng là một thứ văn xuôi thơ.
Ví dụ như Tạp Chí Sông Hương - 245 của Chế Lan Viên.
Thậm chí ngay cả trong việc chửi nhau, người Việt cũng chửi nhau một cách có bài
bản, cân đối, nhịp nhàng, đầy chất thơ chẳng hạn như:
Chỉ vì mất một con gà,
lOMoARcPSD|44862240
Rêu rao bà chửi suốt ba ngày liền.
Chỉ sang tứ phía láng giềng,
Réo từ nội ngoại tổ tiên mười đời
Trong lối chửi của người Việt, cái hấp dẫn người nghe không phải là những lời tục tĩu,
mà là những lời xưng hô không theo lẽ thông thường. Tuy rủa xả như vậy, nhưng đối
phương vẫn không chửi lại hoặc dùng “võ tay chân” với người chửi, bởi vì toàn bộ bài
chửi chỉ là những lời cạnh khóe, bóng gió, chả ai dại gì mà ra mặt. Mặt khác, việc
chửi tuy không nêu đích danh nhưng nhờ một số chi tiết ám chỉ nên ai cũng hiểu người
chửi muốn ám chỉ ai, nhờ vậy mà vẫn đạt được mục đích là làm cho đối phương mất
mặt trước cộng đồng và hả cơn giận trong lòng.
Đây là một “nghệ thuật chửi” độc nhất vô nhị, “Nghệ thuật” này, xưa không ai truyền
cho ai, nhưng những cô con gái Việt, do đã nghe mẹ, nghe hàng xóm láng giềng chửi
nhiều lần nên ngẫu nhiên đã nhập tâm, sau này khi đi lấy chồng, có gia đình riêng, hễ
va chạm với xã hội là cái “nghệ thuật” chửi này lại được dịp phô bày và hoàn thiện.
Việt Nam, văn chương truyền thống là văn chương thơ và thơ truyền thống là thơ có
vần điệu, cấu trúc cân đối, nhịp nhàng.
Đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của phương Tây, thơ tự do và tiểu thuyết mới xuất hiện.
Nhưng ngay trong thể loại tiểu thuyết mới xuất hiện do ảnh hưởng của văn xuôi
phương Tây này cũng vẫn bộc lộ rất đậm nét dấu ấn của truyền thống cân đối nhịp
nhàng, biểu trưng ước lệ. Ví dụ như Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu
Không chỉ tiểu thuyết mà ngay cả văn chính luận Việt Nam cũng có thể mang đầy chất
thơ nhờ sự cấu tạo cân đối nhịp nhàng. Đọc Tuyên ngôn độc lập hay những lời kêu gọi
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoặc những câu sau đây của Người, ta thấy rất rõ chất thơ đó:
“Nếu không có nhân dân thì không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì không ai
dẫn đường”; “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải
hết sức tránh.”
2.3. Giàu chất biểu cảm
- Đây là sản phẩm tất yếu của một nền văn hoá trọng tình.
- Về mặt từ ngữ, chất biểu cảm này thể hiện ở chỗ các từ, bên cạnh yếu tố gốc
mang sắc thái nghĩa trung hòa, thường có rất nhiều biến thể với những sắc thái
nghĩa biểu cảm: Bên cạnh màu xanh trung tính, có đủ thứ xanh rì, xanh rờn, xanh
lOMoARcPSD|44862240
rợn, xanh ngắt, xanh um, xanh lè, xanh lét… Bên cạnh màu đỏ trung tính thì có
đỏ rực, đỏ au, đỏ lòm, đỏ loét, đỏ hoe…
Các từ láy mang sắc thái biểu cảm mạnh cũng rất phổ biến trong tiếng Việt (ở phần lớn
các ngôn ngữ khác, kể cả tiếng Hán, tuy có phương thức láy, nhưng số lượng từ láy thì
hết sức ít ỏi, tới mức không đáng kể): không phải ngẫu nhiên mà trong thơ ca của ta có
thể gặp rất nhiều từ láy. Ở trên vừa nói tiếng Việt thiên về thơ, mà thơ là mang đậm
chất tình cảm rồi, cho nên từ láy với bản chất biểu cảm rất phù hợp với nó.
Chính nhờ sức biểu cảm của các từ láy mà thơ Nguyễn Du đã khắc họa rất đạt một Tú
Bà với hình ảnh Nhác trông nhờn nhợt màu da, Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao… Một Mã
Giám Sinh với hình ảnh Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao, Trước thầy sau tớ lao
xao… Còn ai đã từng đọc thơ Hồ Xuân Hương rồi thì quên làm sao được những hình
ảnh: Cầu trắng phau phau…, Nước trong leo lẻo…, Cỏ gà lún phún…, Cá diếc le te…
- Về mặt ngữ pháp, tiếng Việt sử dụng rất nhiều các hư từ có sắc thái biểu cảm: à,
ư, nhỉ, nhé, chăng, chớ, hả, phỏng, sao, chứ… Cấu trúc “iếc hóa” mang sắc thái
đánh giá (sách siếc, bàn biếc…) cũng góp phần quan trọng trong việc tăng cường
hệ thống các phương tiện biểu cảm cho tiếng Việt.
- Sự phổ biến của thơ hơn văn xuôi đã nói đến ở trên không chỉ là sản phẩm của
tính biểu trưng mà rõ ràng cũng đồng thời là sản phẩm của tính biểu cảm.
Khuynh hướng biểu cảm còn thể hiện ở chỗ trong lịch sử văn chương truyền
thống không có những tác phẩm anh hùng ca ca ngợi chiến tranh; có nói đến
chiến tranh chăng thì chỉ là nói đến nỗi buồn của nó (ví dụ: Chinh phụ ngâm, một
truyện thơ Nôm dài nói về nỗi lòng của người vợ có chồng đi chinh chiến).
lOMoARcPSD|44862240
2.4. Tính động và tính linh hoạt
- Tính động, linh hoạt này trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp. Trong khi ngữ
pháp biến hình của các ngôn ngữ châu Âu là một thứ pháp chặt chẽ tới mức máy
móc thì ngữ pháp tiếng Việt tổ chức chủ yếu theo lối dùng các từ hư để biểu hiện
các ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp, khiến cho người sử dụng được quyền linh hoạt
tối đa.
Ngữ pháp của các ngôn ngữ phương Tây là ngữ pháp hình thức, còn ngữ pháp Việt
Nam là ngữ pháp ngữ nghĩa.
+ Nói bằng một ngôn ngữ châu Âu, ta bắt buộc phải chia động từ theo các thể, các
ngôi…; phải đặt danh từ vào các giống, các số, các cách…; phải đặt tính từ vào những
hình thái phù hợp với danh từ…; tóm lại là phải đáp ứng đầy đủ mọi đòi hỏi tai quái
nhất mà hệ thống ngữ pháp của ngôn ngữ đó yêu cầu (ngay cả khi ý nghĩa ngữ pháp đó
đã được thể hiện năm bảy lần trong câu bằng những hình thái khác rồi cũng vậy). Còn
trong tiếng Việt thì tùy theo ý đồ của người nói mà anh ta có thể diễn đạt, không diễn
đạt hay diễn đạt nhiều lần một ý nghĩa ngữ pháp nào đó. Chẳng hạn, để diễn đạt ý
nghĩa thời tương lai, tiếng Việt có thể có các cách nói: (Ngày mai) tôi đi Hà Nội;
(Ngày mai) tôi sẽ đi Hà Nội, trong khi tiếng Anh chỉ có thể nói: I’ll go to Ha Noi
lOMoARcPSD|44862240
(tomorrow). Tiếng phương Tây gán ghép giống cho cả những danh từ biểu thị các sự
vật không hề có “giống”, còn tiếng Việt thì cho phép diễn đạt cả những khái niệm có
giống dưới dạng không giống chung chung (so sánh: giáo viên, giám đốc với thầy
giáo-cô giáo, nữ giám đốc).
Chính vì linh hoạt như vậy mà tiếng Việt có khả năng diễn đạt khái quát rất cao:
Chẳng hạn, trong khi người Việt có thể nói một câu không thời, không thể, không ngôi
như Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng (tục ngữ), thì người Anh và Pháp bắt buộc phải
nói: Near the ink, you are black; near the light, you will shine; Près de l’encre, on se
tache; près de la lampe, on bénéficie de sa lumière. Khả năng diễn đạt khái quát, mơ hồ
của tiếng Việt chính là điều kiện rất quan trọng cho việc phát triển thơ ca đã nói đến ở
trên.
- Tính động, linh hoạt của ngôn từ Việt Nam còn bộc lộ chỗ trong lời nói, người
Việt rất thích dùng cấu trúc động từ: trong một câu có bao nhiêu hành động thì có bấy
nhiêu động từ. Trong khi đó thì các ngôn ngữ phương Tây xu hướng ngược lại
rất thích dùng danh từ. Trong khi người Việt nói: Cảm ơn anh đã tới chơi; thì người
Anh nói: Thank you for your coming (Cảm ơn về sự đến chơi của anh). + Khuynh
hướng thích dùng danh từ trong các ngôn ngữ châu Âu chính nguyên nhân dẫn đến
sự xuất hiện lan tràn các từ dùng làm công cụ để danh từ hóa như sự, việc, cuộc, cái,
thứ… trong các bài người Việt Nam dịch từ các tiếng phương Tây hiện tượng
dùng thừa danh từ ở những người phương Tây học tiếng Việt (kiểu như: Tôi nhớ ngày
khi tôi đến Việt Nam).
- Tính linh hoạt, năng động cònnguyên nhân khiến cho tiếng Việt ưa dùng cấu
trúc chủ động ít dùng cấu trúc bị động. Người Việt thậm chí dùng cấu trúc chủ
động ngay cả trong câu bị động: Những câu tiếng Anh như Linda was punished by the
teacher; These chairs were made by Jhon dịch thành “Lin-đa bị phạt bởi thầy
giáo”, “Những cái ghế này được làm bởi Giôn” như ta thường gặp rất dở. Người
Việt Nam không bao giờ nói thế, họ nói một cách đơn giản hơn: Lin-đa bị thầy giáo
phạt; Những cái ghế này do Giôn đóng “thầy giáo phạt”, “Giôn đóng” chính
những cấu trúc chủ động. Cấu trúc bị động thích hợp cho việc diễn đạt lối duy
hướng ngoại, khách quan (tách rời khỏi người nói) của người Phương Tây, còn cấu
trúc chủ động thì thích hợp cho việc diễn đạt lối duy hướng nội, chủ quan (gắn
mật thiết với người nói) của văn hóa nông nghiệp phương Đông.
lOMoARcPSD|44862240
Như vậy, có thể nói rằng trong giao tiếp, người Việt Nam có thiên hướng nói đến
những nội dung tĩnh (tâm lý, tình cảm, dẫn đến nghệ thuật thơ ca và phương pháp biểu
trưng) bằng hình thức động (cấu trúc động từ, ngữ pháp ngữ nghĩa linh hoạt). Trong
khi đó người phương Tây nói riêng và truyền thống văn hóa trọng dương nói chung lại
có thiên hướng nói đến những nội dung động (hành động, sự việc, dẫn đến nghệ thuật
văn xuôi và phương pháp tả thực) bằng hình thức tĩnh (cấu trúc danh từ, ngữ pháp hình
thức chặt chẽ).
Ngôn ngữ thực sự là tấm gương phản chiếu văn hóa dân tộc và tác động của
luật âm dương (trong âm có dương, trong dương có âm; âm sinh dương, dương sinh
âm) thật là rộng lớn và sâu xa!
| 1/32