Tài liệu ôn tập luật hành chính | Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Phương pháp điều chỉnh đặc trưng của Luật Hành chính là phương pháp mệnh lệnh quyền lực - phục tùng, trong một số trường hợp có thể sử dụng phương pháp thỏa thuận hành chính. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật hành chính(VNU)
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 46842444 CÂU HỎI ÔN TẬP
MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM
I – CÂU HỎI LÝ THUYẾT
1. Khái niệm luật hành chính Việt Nam?
Luật Hành chính Việt Nam là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính chất chấp hành
phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính và điều hành
nhà nước; trong hoạt động hành chính nội bộ mang tính chất phục vụ cho các cơ quan nhà nước khác
; trong hoạt động của các cơ quan nhà nước khác hoặc các tổ chức xã hội khi
được nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động đó . Phương pháp điều chỉnh đặc trưng của
Luật Hành chính là phương pháp mệnh lệnh quyền lực - phục tùng, trong một số trường hợp có
thể sử dụng phương pháp thỏa thuận hành chính.
2. Hãy chứng minh: Luật Hành chính là một ngành luật về hành chính
nhànước (quản lý hành chính nhà nước).
Thuật ngữ hành chính “”
, được hiểu dưới hai góc độ: thứ nhất, là một loại hoạt động –
hoạt động quản lý; thứ hai, là thiết chế - một tổ chức có quyền lực hành chính, thực hiện quản
lý, hay thực hiện các hoạt động hành chính.
Thuật ngữ “hành chính nhà nước” cũng được sử dụng với hai nghĩa khác nhau: thứ nhất:
“là hoạt động thực thi quyền hành pháp bằng hoạt động hành chính nhà nước”1. Thứ hai “là
một thiết chế được tạo thành bởi một hệ thống pháp nhân công quyền (hệ thống tổ chức bộ máy
hành chính nhà nước và các cộng đồng hành chính-lãnh thổ) có thẩm quyền tổ chức và điều
hành các quá trình xã hội...”2;
=> Như vậy, hành chính: là một phạm trù gắn liền với quyền hành pháp, là một công cụ của
quyền hành pháp3. Việc “thực thi quyền hành pháp bằng hoạt động hành chính nhà nước” cũng
chính là quản lý nhà nước do bộ máy hành chính nhà nước thực hiện.
1 Tài liệu đã dẫn, tr.7.
2 Đinh Văn Mậu và Phạm Hồng Thái (1996). Nhập môn hành chính nhà nước, Nxb. Thành phố HCM,tr 21.
3 Nguyễn Hữu Khiển (1999) Tìm hiểu về hành chính nhà nước, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,tr.36. lOMoAR cPSD| 46842444
Với những nội dung, ý nghĩa như trên nên khi “Luật Hành chính” được hiểu với nghĩa là
một ngành luật, thì đó là ngành luật về hoạt động hành chính nhà nước, hay còn gọi là ngành
luật về quản lý hành chính nhà nước, hoặc ngành luật để thực thi quyền lực hành pháp.
3. Phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính được thể hiện trong quan hệ
pháp luật hành chính như thế nào.
Phương pháp điều chỉnh của Luật Hành chính là những biện pháp, cách thức, phương thức
mà ngành Luật Hành chính sử dụng để tác động đến ý chí, và thông qua ý chí đến hành vi của các
bên tham gia các quan hệ xã hội do ngành luật này điều chỉnh.
a) Phương pháp quyền uy - phục tùng
- Do đặc thù của quyền lực hành chính, quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động
hành chính nhà nước mang tính chất chấp hành và điều hành, do đó phương pháp
đặc trưng điều chỉnh của Luật Hành chính là phương pháp mang tính mệnh lệnh:
quyền lực - phục tùng.
- VD: Công dân được quyền xin cấp đất xây dựng nhà ở. Tuy nhiên, việc xem xét
và quyết định có cấp hay không là quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước
và khi quyết định đã ban hành, công dân phải chấp hành quyết định (tất nhiên,
pháp luật cũng đồng thời cho phép người dân được thực hiện quyền khiếu nại, tố
cáo đối với quyết định hành chính).
b) Phương pháp thỏa thuận
- Bên cạnh phương pháp mang tính mệnh lệnh: quyền lực - phục tùng là chủ
yếu, Luật Hành chính, trong một số trường hợp, còn sử dụng phương pháp thỏa thuận
để điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động hành chính nhà nước. Trong
quan hệ này tồn tại sự bình đẳng về ý chí của các bên tham gia quan hệ.
- Ví dụ: Các cơ quan có thẩm quyền ban hành nghị quyết, hay (các Bộ trưởng) thông
tư liên tịch; Nhà nước giao kết hợp đồng với doanh nghiệp để xây dựng… 4.
Tại sao Luật hành chính sử dụng phương pháp điều chỉnh đặc trưng là
quyền uy - phục tùng?
Do đặc thù của quyền lực hành chính, quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động
hành chính nhà nước mang tính chất chấp hành và điều hành, Bản chất của hành
chính là sự quản lý, mà muốn quản lý xã hội, quản lý nhà nước thì phải có quyền lực
– áp đặt ý chí lên chủ thể khác, buộc họ phục tùng theo ý chí của mình (tức là điều hành và chấp hành). lOMoAR cPSD| 46842444
do đó phương pháp đặc trưng điều chỉnh của Luật Hành chính là phương pháp mang tính
mệnh lệnh: quyền lực - phục tùng. 5.
Tương quan giữa luật hành chính với các nghành luật khác trong hệ thống
pháp luật Việt Nam.
a) Luật Hành chính và Luật hiến pháp
- Quan hệ giữa Luật Hành chính và luật hiến pháp được khái quát như sau: Luật Hành
chính cụ thể hóa, chi tiết hóa và bổ sung các quy định của Hiến pháp và nói chung
của luật hiến pháp, đặt ra cơ chế bảo đảm thực hiện chúng.
- Ví dụ: Điều 30 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: mọi người có quyền khiếu nại,
tổ cáo với cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái
pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và các nghị định,
thông tư, thậm chí quyết định của UBND cụ thể hóa, chi tiết hóa, bổ sung và đặt ra cơ
chế pháp lý bảo đảm, bảo vệ các quyền này – đó là quy định của Luật Hành chính.
b) Luật Hành chính và luật hình sự
- Luật hình sự quy định hành vi nào là tội phạm, hình phạt đối với tội phạm, điều kiện áp
dụng các hình phạt. Còn Luật Hành chính quy định nhiều quy tắc có tính bắt buộc chung
(quy tắc giao thông, vệ sinh, phòng chữa cháy, lưu thông hàng hóa, văn hóa phẩm...)
mà nếu vi phạm các quy tắc ấy, trong một số trường hợp, có thể bị xử lý hình sự theo
quy định của luật hình sự (do tái phạm, vi phạm nhiều lần, hoặc vi phạm đã gây hay
có thể gây hậu quả nghiêm trọng). -
Quy phạm Luật Hành chính quy định hành vi nào là vi
phạm hành chính, nhưng nhiều hành vi trong số đó rất khó
phân biệt với tội phạm. Vì vậy, muốn xác định những hành vi đó là tội phạm hay vi
phạm hành chính thì cần phân tích đồng thời các quy phạm tương ứng của cả hai ngành
luật. Có những hành vi vi phạm pháp luật đã bị xử lý hành chính sẽ là cơ sở để xử lý
hình sự đối với người tái phạm.
c) Luật Hành chính và luật đất đai
Luật Hành chính quy định bộ máy quản lý nhà nước về đất đai; là phương tiện bảo vệ
quan hệ luật đất đai khi bị xâm phạm, quy định mục đích sử dụng đất đai, giữ gìn độ phì
nhiêu đối với đất trồng trọt, thu hồi đất, xử phạt hành chính người sử dụng vi phạm quy
định của luật đất đai.
d) Luật Hành chính và luật dân sự lOMoAR cPSD| 46842444
- Luật Hành chính cũng có quan hệ rất chặt chẽ với luật dân sự, thể hiện ở chỗ các quy
phạm thủ tục Luật Hành chính trong nhiều trường hợp là phương tiện để đưa quy phạm
luật dân sự vào đời sống xã hội, hay bảo vệ quan hệ pháp luật dân sự khi bị xâm phạm.
- Ví dụ: việc bồi thường trong hoạt động hành chính được xây dựng, thực hiện trên trên cơ
sở các nguyên tắc, quy định của luật dân sự, nhưng thủ tục bồi thường do pháp luật về
thủ tục hành chính quy định v.v.
e) Luật Hành chính và luật lao động
Luật Hành chính quan hệ chặt chẽ với luật lao động. Nhiều quy phạm của hai ngành
luật này đan xen vào nhau trong điều chỉnh cùng một số vấn đề. Quan hệ này thể hiện
trong những trường hợp sau đây:
(1) Thẩm quyền của các cơ quan trực tiếp quản lý lao động và bảo đảm xã hội như
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các sở lao động - thương binh và xã hội, do Luật Hành chính quy định.
Đa phần các chính sách về lao động – tiền lương được quyết định bởi cơ quan
(2) hành chính, làm cơ sở cho các quan hệ lao động.
Ví dụ, Chính phủ quy định mức lương tối thiểu trong các doanh nghiệp làm cơ
sở cho việc ký kết hợp đồng lao động giữa giới chủ với công nhân.
(3) Nhiều khi quan hệ pháp luật hành chính là phương tiện thực hiện quan hệ pháp luật lao động.
(4) Luật Hành chính và luật lao động cùng điều chỉnh hoạt động công vụ, chế độ
công chức, viên chức nhà nước.
Ví dụ, cán bộ, công chức làm việc tại các cơ quan, tổ chức có những quyền và
nghĩa vụ như những người lao động khác do luật lao động quy định, nhưng do đặc
thù lao động của công chức, viên chức, do đó Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên
chức cũng quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của công chức, viên chức
trong thực thi công vụ, thực hiện nhiệm vụ.
6. Mối quan hệ giữa luật hành chính với Luật hiến pháp; Luật hình sự; Luật
đất đai; Luật Lao động.
7. Hệ thống ngành Luật hành chính Việt Nam.
2.2.1. Phần chung và phần riêng
Phần chung là tổng hợp những quy phạm liên quan đến tất cả các ngành và lĩnh vực hoạt
động hành chính, bao gồm các chế định: lOMoAR cPSD| 46842444
Vd: Các nguyên tắc của hoạt động hành chính; Địa vị pháp lý của các cơ quan hành chính; Chế
độ công vụ, công chức; Địa vị pháp lý của các khách thể của quản lý như doanh nghiệp, đơn vị sự
nghiệp; Địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội và cơ quan xã hội; Địa vị pháp lý của công dân, người
nước ngoài; Các biện pháp thuyết phục và cưỡng chế trong hoạt động hành chính; Các phương thức
kiểm soát đối với hành chính nhà nước.
Phần riêng bao gồm những quy phạm chỉ điều chỉnh những ngành và lĩnh vực hoạt động hành
chính nhất định hoặc những vấn đề cụ thể trong một ngành hoặc lĩnh vực nào đó, bao gồm các chế
định về: Hoạt động quản lý các lĩnh vực liên ngành như kế hoạch hóa, giá cả, tài chính, tín dụng,
thống kê, v.v..; Hoạt động quản lý các ngành trong lĩnh vực kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp,
thương mại, giao thông vận tải...), văn hóa - xã hội (văn hóa, thể thao, giáo dục, y tế, lao động và
bảo đảm xã hội...) và hành chính - chính trị (ngoại giao, quốc phòng, nội vụ, tư pháp...).
2.2.3. Các chế định
Chế định pháp luật hành chính là các nhóm quy phạm điều chỉnh những quan hệ pháp luật hành
chính cùng loại; ví dụ: chế định cơ quan hành chính; chế định về công vụ, công chức chế định cưỡng
chế hành chính; chế định về thanh tra - kiểm tra...
2.2.4. Quy phạm vật chất và quy phạm thủ tục
Quy phạm Luật Hành chính còn được phân thành hai nhóm là các quy phạm vật chất và quy phạm thủ tục.
Quy phạm vật chất (còn gọi là quy phạm nội dung), nội dung của quy phạm vật chất trả lời
cho câu hỏi được “ làm gì? ”. Ví dụ cơ quan hành chính nhà nước có nhiệm vụ, quyền hạn.
Quy phạm thủ tục (còn gọi là quy phạm hình thức) trả lời cho câu hỏi “ làm như thế nào?”.
Ví dụ: thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
Quy phạm thủ tục hành chính được ban hành để thực hiện quy phạm vật chất của ngành Luật
Hành chính, ngoài ra còn quy định trình tự thực hiện các quy phạm vật chất của nhiều ngành luật
khác như luật lao động, tài chính, đất đai, rừng, tài nguyên - khoáng sản, hàng hải, môi trường...
8. Vai trò của luật hành chính Việt Nam đối với hành chính nhà nước.
i) Điều chỉnh hoạt động hành chính nhà nước - điều chỉnh một tổng thể quan hệ xã
hội rộng rãi phát sinh, phát triển trong tổ chức, thực hiện quản lý nhà nước đối với mọi
lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân: kinh tế, hành chính - chính trị và văn hóa - xã hội,
an ninh quốc phòng; ii) thể hiện qua vai trò của quy phạm thủ tục hành chính: đa phần
các quy phạm pháp luật chỉ có thể đi vào cuộc sống khi được thực hiện theo thủ tục do
quy phạm thủ tục hành chính quy định. lOMoAR cPSD| 46842444
9. Nguồn của Luật hành chính Việt Nam là gì? Các loại nguồn của luật
hànhchính Việt Nam; Đặc điểm của nguồn Luật hành chính Việt Nam.
Nguồn của Luật hành chính Việt Nam là: những hình thức chứa các quy phạm Luật
Hành chính, bao gồm: (i) các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL là nguồn cơ bản của Luật
Hành chính); và (ii) án lệ hành chính.
Các loại nguồn: Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Chính quyền địa
phương (phần về Ủy ban nhân dân); Luật Cán bộ, công chức; Các Luật về quản lý nhà nước đối với
ngành, lĩnh vực; Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Thanh tra; Các
nghị định của Chính phủ về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, quyết định của Ủy ban nhân dân v.v. Đặc điểm: - Đa dạng.
- Có văn bản quy phạm pháp luật là nguồn của Luật Hành chính do một cơ quan
nhà nước có thẩm quyền độc lập ban hành.
- Có văn bản quy phạm pháp luật là nguồn của Luật Hành chính do các cơ quan nhà
nước hoặc 1 bên là cơ quan nhà nước phối hợp với tổ chức chính trị – xã hội ban
hành (như Thông tư liên bộ hoặc Thông tư liên tịch). 10.
Mọi Nghị định do Chính phủ ban hành có phải đều là nguồn của Luật Hành chính?
Không phải vì chỉ những văn bản nào chứa đựng quy phạm pháp luật hành chính
mới là nguồn của Luật Hành chính.
- Nghị định là một loại văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, chủ yếu được
Chính phủ sử dụng với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan
chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
- Với tư cách là văn bản quy phạm pháp luật, Nghị định của Chính phủ quy định dùng để:
+ quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước
+ Quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện chính sách kinh tế, xã hội, quốc
phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân lộc, tôn giáo, văn hoá, giáo
dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, lOMoAR cPSD| 46842444
công chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền
quản lí, điều hành của Chính phủ;
+ quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ thành lập;
+ quy định những vấn đề hết sức cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng
thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế,
quản lý xã hội (việc ban hành nghị định trong trường hợp này phải được sự đồng
ý của ủy ban Thường vụ Quốc hội).
- Tất cả các nghị định của Chính phủ ban hành với tư cách là văn bàn quy phạm
pháp luật hành chính nêu trên (cộng đầu dòng cuối cùng) đều là nguồn của luật
hành chính vì nó chứa đựng trong nội dung các quy phạm pháp luật hành chính.
- VD: Nghị định của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực thuế. 11.
Khái niệm, nội dung và đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính. - Khái niệm:
Quy phạm Luật Hành chính là một loại quy phạm pháp luật, là quy tắc hành vi do nhà
nước ban hành, hay thừa nhận nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động
hành chính nhà nước. - Nội dung:
Cũng như mọi quy phạm pháp luật khác, quy phạm Luật Hành chính có nội dung quy
định về: (i) quyền và nghĩa vụ của các chủ thể Luật Hành chính;
(ii) trách nhiệm của các chủ thể Luật Hành chính khi không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng các quyền và nghĩa vụ của mình . ội dung N
chủ yếu của quy phạm Luật Hành chính nằm trong phần quy định.
Chủ thể Luật Hành chính là cơ quan, tổ chức, cá nhân có những quyền, nghĩa vụ do Luật
hành chính quy định, không một chủ thể nào chỉ có quyền mà không có nghĩa vụ.
Trách nhiệm là một yếu tố không thể thiếu của nội dung quy phạm Luật Hành chính.
Trách nhiệm của các chủ thể phải được quy định tương ứng với các quyền và nghĩa vụ của chúng,
quyền và nghĩa vụ càng nhiều thì trách nhiệm càng cao. - Đặc điểm:
Quy phạm Luật Hành chính cũng như mọi loại quy phạm pháp luật khác có (1)
tính bắt buộc chung, lOMoAR cPSD| 46842444
hiệu lực của chúng không chấm dứt khi đã được áp dụng. (2)
áp dụng nhiều lần (3)
Ngoài ra quy phạm Luật Hành chính có những đặc điểm đặc thù riêng bắt nguồn từ bản chất
của hoạt động hành chính nhà nước, bao gồm:
1. Là quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hành chính.
2. Đa phần quy phạm Luật Hành chính có tính mệnh lệnh.
Tuy vậy, tính mệnh lệnh của các quy phạm Luật Hành chính cũng khác nhau theo mức
độ từ cao xuống thấp khác nhau, có:
i)phải Quy phạm bắt buộc trực tiếp
hành động, hoặc cấm hành động theo một cách thức nhất định
trong một điều kiện nhất định (nộp thuế; không
đi vào đường một chiều);
(ii) Quy phạm cho phép: muốn thực hiện một hoạt động, hành vi nhất định phải xin phép
cơ quan có thẩm quyền (xuất cảnh ra nước ngoài phải xin phép, xây dựng nhà ở phải xin phép);
(iii) Quy phạm lựa chọn: được lựa chọn một trong những phương án hành vi nhất định do
quy phạm đã quy định trước (ví dụ: có thể thi viết hoặc thi vấn đáp);
(iv) Quy phạm trao quyền: trao khả năng hành động theo xét đoán của mình, tức là thực
hiện hoặc không thực hiện các hành động do quy phạm đó xác định. Loại quy định này phổ biến
trong các quy định về thẩm quyền của các cơ quan hành chính hoặc trong trường hợp sử dụng các
quyền chủ thể (ví dụ, công dân có thể sử dụng hoặc không sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, quyền khiếu nại, tố cáo ... mà không phải chịu một loại trách nhiệm pháp lý nào);
(v) Quy phạm khuyến khích: Đặt ra các biện pháp khuyến khích như khen thưởng, đòn
bẩy khuyến khích các chủ thể hăng hái thực hiện nhiệm vụ mà cơ quan hành chính mong muốn.
(vi) Quy phạm khuyến nghị là định ra , các hình thức, biện pháp mang tính hướng dẫn là
quy phạm này hầu như không có tính mệnh lệnh. (cần phải tăng cường sự kiểm tra, thanh tra).
3. Chủ thể ban hành quy phạm Luật Hành chính rất đa dạng, trong đó chủ yếu là các
chính nhà nước (Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp).
4. Quy phạm Luật Hành chính c ó số lượng lớn và tính ổn định không cao.
Các quy phạm Luật Hành chính có số lượng lớn vì hoạt động hành chính là loại hoạt lOMoAR cPSD| 46842444
động rất rộng lớn, đa dạng, bao quát toàn bộ mọi lĩnh vực của đời sống nhà nước và xã hội. Thêm
vào đó, quy phạm Luật Hành chính còn là phương tiện để đưa hầu hết các quy phạm pháp luật của
những ngành luật khác vào đời sống thực tiễn.
Quy phạm Luật Hành chính có tính ổn định không cao vì các quan hệ xã hội là đối tượng
điều chỉnh của Luật Hành chính luôn vận động, biến đổi không ngừng, do đó quy phạm Luật Hành
chính điều chỉnh các quan hệ đó cũng phải thay đổi theo cho phù hợp. 12.
Cơ cấu của quy phạm pháp luật hành chính.
Theo quan niệm phổ biến quy phạm Luật Hành chính, cũng như quy phạm pháp luật nói chung
bao gồm ba bộ phận: giả định, quy định và chế tài. Nhưng có những quy phạm Luật Hành chính
không có phần giả định, đây là đặc điểm riêng.
Giả định là phần của quy phạm nêu rõ những điều kiện của đời sống thực tế (như hoàn
cảnh, tình huống và chủ thể) mà nếu có tồn tại các điều kiện đó thì mới có thể thi hành hoặc áp dụng quy phạm đó.
Tuy vậy,trong các quy phạm định nghĩa, quy phạm nguyên tắc (nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của bộ máy hành chính, nguyên tắc quản lý các lĩnh vực), quy phạm tổ chức và hoạt
động thì giả định thường vắng.
Quy định là phần của quy phạm đặt ra quy tắc hành vi, tức là nội dung quyền và nghĩa vụ,
trình tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ, tức là quy định các chủ thể được, phải làm gì và làm như
thế nào, thể hiện tính mệnh lệnh của quy phạm Luật Hành chính .
Chế tài là phần của quy phạm chỉ rõ các biện pháp tác động của Nhà nước đối với chủ thể
vi phạm phần quy định của quy phạm.
Chế tài của quy phạm Luật Hành chính thường không có mặt bên cạnh phần giả định
hoặc quy định, ngoại trừ một số ít loại văn bản về xử lý vi phạm hành chính. 13.
Phân loại quy phạm pháp luật hành chính.
Theo tính mệnh lệnh, quy phạm luật Hành chính được phân chia thành: (i) quy phạm
cấm, (ii) quy phạm bắt buộc, (iii) quy phạm cho phép, (iv) quy phạm lựa chọn, (v) quy phạm trao
quyền, (vi) quy phạm khuyến khích và (vii) quy phạm khuyến nghị.
, quy Theo giác độ nội dung
phạm Luật Hành chính được phân thành quy phạm vật chất
và quy phạm thủ tục.
Quy phạm vật chất là quy phạm trả lời cho câu hỏi cần phải làm gì, cần tuân thủ quy tắc hành vi nào?
Quy phạm thủ tục trả lời câu hỏi cần phải làm như thế nào, các quy tắc đó phải thực hiện lOMoAR cPSD| 46842444
theo trình tự và cách thức ra sao?
Theo chế định, Luật hành chính gồm các chế định về:
(i) các chủ thể của Luật Hành chính,
(ii) các tổ chức dịch vụ công, đơn vị sự nghiệp công lập và tổ chức cơ sở khác,
(iii) các hình thức và phương pháp hoạt động hành chính,
(iv) các chế định về cơ sở pháp luật của quản lý nhà nước đối với từng ngành, lĩnh
vựccủa nền kinh tế quốc dân.
Ngoài ra, còn nhiều cách phân loại khác nhau, phân loại theo cấp độ hiệu lực pháp lý
(quy phạm luật và quy phạm dưới luật), theo phạm vi hiệu lực; theo cơ quan ban hành v.v 14.
Hiệu lực quy phạm pháp luật hành chính
Quy phạm Luật Hành chính, cũng giống như bất kỳ loại quy phạm pháp luật nào, có hiệu
lực trong giới hạn nhất định về không gian, thời gian và đối tượng thi hành với những đặc thù riêng.
Hiệu lực theo thời gian của quy phạm Luật Hành chính là quy phạm phát sinh hiệu
lực từ thời điểm nào, khi nào, hoặc với điều kiện nào thì chấm dứt hiệu lực.
Về nguyên tắc, quy phạm Luật Hành chính có hiệu lực lâu dài không thời hạn nếu trong
văn bản không xác định thời hạn này, nếu chưa bị đình chỉ, sửa đổi hoặc bãi bỏ, hoặc hết thời hạn có
hiệu lực ghi trong văn bản, hoặc ngưng hiệu lực do phát sinh tình huống do văn bản quy định.
Hiệu lực theo không gian (tức là theo phạm vi lãnh thổ) của quy phạm Luật Hành
chính, về nguyên tắc, phụ thuộc vị trí pháp lý của cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật
trong bộ máy nhà nước.
Có quy phạm có hiệu lực trong toàn quốc (quy phạm do các cơ quan nhà nước trung
ương ban hành), có quy phạm có hiệu lực trong phạm vi từng địa phương (quy phạm do các cơ quan nhà
nước địa phương ban hành),
Quy phạm có hiệu lực trong nội bộ các cơ quan, đơn vị trong cơ quan
Về hiệu lực theo phạm vi đối tượng thi hành của quy phạm Luật Hành chính, có: Quy phạm chung:
có hiệu lực đối với tất cả mọi công dân, cơ quan, tổ chức trên cùng một
lãnh thổ, như các quy tắc bảo đảm an toàn giao thông, bảo vệ môi trường, …;
Quy phạm riêng, hay quy phạm quản lý ngành hoặc lĩnh vực liên ngành, chức năng: lOMoAR cPSD| 46842444
có hiệu lực đối với từng nhóm đối tượng nhất định, như đối với cơ quan nhà nước; đối với cán bộ
công chức, viên chức hay lực lượng công an, v.v.; đối với ngành, lĩnh vực nhất định, ... 15.
Thực hiện quy phạm pháp luật hành chính.
Có thể phân ra hai hình thức thực hiện quy phạm Luật Hành chính: chấp hàn h (bao gồm
tuân thủ, thi hành, sử dụng) và áp dụng.
Chấp hành quy phạm Luật Hành chính là làm theo những điều mà quy phạm Luật Hành
chính quy định. Chấp hành bao gồm ba hình thức cụ thể: tuân thủ; thi hành và sử dụng . Chủ thể
chấp hành quy phạm Luật Hành chính có
thể là cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước.
Áp dụng quy phạm Luật Hành chính là biến những quy phạm Luật Hành chính thành
hành động thực tế của cá nhân, tổ chức - chủ thể Luật Hành chính. Áp dụng quy phạm Luật Hành
chính là cá biệt hóa các quy phạm Luật Hành chính vào trường hợp cụ thể.
Áp dụng quy phạm Luật Hành chính cũng như áp dụng các quy phạm của các ngành luật
khác có các đặc điểm chung là:
(i) mang tính tổ chức - quyền lực nhà nước;
(ii) là hoạt động phải tuân theo thủ tục hành chính được pháp luật quy định chặt chẽ;
(iii) là hoạt động cá biệt - cụ thể;
(iv) là hoạt động mang tính chủ động, sáng tạo.
Ngoài ra, áp dụng quy phạm Luật Hành chính có các đặc điểm riêng sau:
(i) Chủ thể áp dụng quy phạm Luật Hành chính chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước
hoặc cán bộ, công chức được trao quyền.
(ii) Phạm vi áp dụng quy phạm Luật Hành chính chủ yếu là trong hoạt động hành
chính nhà nước, những trường hợp khác chỉ là cá biệt.
(iii) Có tính chủ động, sáng tạo cao.
Đây là đặc điểm đối với áp dụng quy phạm pháp
luật nói chung, nhưng đối với quy phạm Luật Hành chính có ý nghĩa quan trọng, vì hoạt động hành
chính đòi hỏi cao nhất về tính chất này so với các hoạt động khác.
Việc áp dụng quy phạm Luật Hành chính cũng như áp dụng quy phạm pháp luật nói
chung, phải tuân theo những quy tắc sau:
- Văn bản quy phạm pháp được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực; luật
- Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn lOMoAR cPSD| 46842444
bản đó đang có hiệu lực, trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó;
- áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn;
- văn bản do cùng một cơ quan ban hành thì áp dụng văn bản ban hành sau;
- áp dụng văn bản mới không quy định trách nhiệm pháp lý, hoặc quy định trách
nhiệm pháp lýnhẹ hơn đối với hành vi xảy ra, trước ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới;
- áp dụng điều ược quốc tế khi pháp luật trong nước mâu thuẫn với điều ước Quốc
tế màViệt Nam gia nhập, thừa nhận, ký kết, trừ Hiến pháp. 16.
Cho ví dụ chứng minh các đặc trưng của quy phạm pháp luật hành chính.
- Các đặc trưng của QPPL hành chính:
+ Là quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hành chính.
+ Đa phần quy phạm Luật Hành chính có tính mệnh lệnh.
+ Chủ thể ban hành quy phạm Luật Hành chính rất đa dạng, trong đó chủ yếu là các
chính nhà nước (Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp).
+ Quy phạm Luật Hành chính có số lượng lớn và tính ổn định không cao.
- Ví dụ: Nghị định số 144/2021/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy,
chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.
Điều 59. Hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp của họ 1.
Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi buộc
thànhviên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp của họ. 2.
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi đe
dọa bằngbạo lực để buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp của họ. - Phân tích VD:
+ QPPLHC này được ban hành bởi Chính phủ - một trong các chủ thể có thẩm quyền ban hành QPPLHC. lOMoAR cPSD| 46842444
+ QPPLHC này điều chỉnh quan hệ hành chính phát sinh trong lĩnh vực an ninh, trật
tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ;
phòng, chống bạo lực gia đình
+ QPPLHC này có tính mệnh lệnh (chấp hành theo hình thức xử phạt: người có hành
vi bị cấm; điều hành, áp dụng hình thức xử phạt: chủ thể có thẩm quyền).
+ Cụ thể là QPPLHC cấm hành động (cấm buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở
hợp pháp của họ). QPPLHC này quy định về hành vi vi phạm pháp luật hành chính và hình
thức xử phạt đối với hành vi đó.
17. Nêu mối quan hệ giữa quy phạm pháp luật vật chất hành chính và quy phạm
thủ tục hành chính. -
QPVC (nội dung): Quy định những việc cá nhân tổ chức được làm hoặc không
được làm; là cơ sở, tiền đề quy phạm QPTT (quy định nội dung quyền và nghĩa vụ/quy
định về địa vị pháp lí của các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính nhà nước) Ví dụ:
o Chủ tịch UBND cấp xã có quyền xử phạt VPHC.
o Quy định vể thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của chủ tịch uỷ ban
nhân dân các cấp; quy định về nghĩa vụ lao động công ích của công dân… -
QPTT (hình thức): Quy định trình tự, cách thức để thực hiện quy phạm vật chất;
công cụ đưa QPVC vào thực tiễn (quy định những trình tự, thủ tục cần thiết mà các bên
tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước phải tuân theo khi thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình do các quy phạm pháp luật nội dung quy định) Ví dụ:
o Việc xử phạt VPHC của Chủ tịch UBND cấp xã phải tuân theo các cách thức,
trình tự được PL quy định, phải đúng thẩm quyền xử phạt.
o Các thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính… -
Mối quan hệ giữa chúng:
+ QPPL vật chất hành chính và quy phạm thủ tục hành chính đều là quy phạm pháp
luật hành chính nhìn dưới giác độ nội dung thủ tục hành chính.
+ Nếu không có các quy phạm thủ tục (là quy phạm quy định trình tự thực hiện các
quy phạm vật chất) => các quy phạm vật chất sẽ không giá trị, sẽ không thực hiện được vì
không có bảo đảm pháp lý quan trọng nhất cho sự thực hiện chúng. (Luật thủ tục là hình
thức sống của luật vật chất, không có các quy phạm thủ tục quy định trình tự và cách thực
hiện các quy phạm vật chất, thì các quy phạm vật chất sẽ không thể đi vào đời sống, sẽ mất
giá trị, sẽ “chết trong ngăn kéo” vì không được thực hiện.)
+ VD: Tố cáo là một quyền công dân. Luật Tố cáo 2018 quy định về quyền và lOMoAR cPSD| 46842444
nghĩa vụ của người thực hiện quyền tố cáo tại Điều 9.
Để quyền và nghĩa vụ trên được thực hiện (đi vào thực tiễn), Luật Tố cáo
2018 cũng quy định hình thức tố cáo (Điều 22), tiếp nhận tố cáo (điều 23); trình tự, thủ tục
giải quyết tố cáo (điều 28); chủ thể có thẩm quyền giải quyết tố cáo và trách nhiệm chủ thể
đó; nội dung bảo vệ và trình tự, thủ tục bảo vệ người tố cáo…
18. Cho một ví dụ về quy phạm vật chất hành chính, một quy phạm thủ tục
hành chính tương ứng và nêu rõ môí quan hệ giữa chúng. Câu 17.
19. Quy phạm thủ tục hành chính là gì? Cho ví dụ chứng minh vai trò của quy
phạm thủ tục hành chính. -
QPTTHC: là loại quy phạm được ban hành để quy định những trình tự, thủ tục
cần thiết mà các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính nhà nước phải tuân theo khi
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình do các quy phạm pháp luật nội dung quy định. Quy
phạm thủ tục hành chính quy định các nguyên tắc thủ tục, trình tự tiến hành, quyền của các
bên tham gia thủ tục, các quyết định phù hợp với các loại thủ tục… -
Ví dụ chứng minh vai trò: Công dân muốn thực hiện quyền khiếu nại phải thực
hiện việc khiếu nại qua các bước, cách thức theo trình tự nhất định: Khiếu nại lần đầu,
lần hai đến ai, khiếu kiện ở đâu? Hình thức khiếu nại như thế nào? Quyền và nghĩa vụ của
người khiếu nại là gì? Ai có thẩm quyền giải quyết khiếu nại? Trình tự, cách thức giải quyết
khiếu nại lần đầu, lần hai như thế nào…
=> Toàn bộ những quy định về thủ tục khiếu nại là quy phạm thủ tục hành chính,
khiến quyền khiếu nại thực hiện được trong thực tiễn một cách hợp pháp, rõ ràng. 20.
Quan hệ pháp luật hành chính: khái niệm; đặc điểm; phân loại.
Khái niệm: Quan hệ pháp luật hành chính là hình thức pháp lý của quan hệ hành chính
xuất hiện trên cơ sở sự điều chỉnh của quy phạm luật hành chính đối với quan hệ
mang những quyền và nghĩa vụ pháp lý do quy phạm Luật
đó, mà các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính
Hành chính tương ứng đã dự kiến trước.
Quan hệ pháp luật hành chính có đặc điểm chung của quan hệ pháp luật, đó là: (1) mang tính ý chí;
(2) là một loại quan hệ tư tưởng thuộc thượng tầng kiến trúc pháp lý;
(3) là một loại quan hệ xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật;
(4) các bên tham gia quan hệ được giao quyền và phải thực hiện những nghĩa vụ nhất lOMoAR cPSD| 46842444
định tương ứng với các quyền đó;
(5) là loại quan hệ xã hội được bảo đảm thực hiện bằng khả năng áp dụng cưỡng chế nhà nước; (6) có tính cụ thể.
Đặc điểm riêng của quan hệ pháp luật hành chính gồm: 1.
Nội dung quan hệ pháp luật hành chính được quy định bởi đặc thù của quan hệ hành
chính, trong đó chủ yếu là tính bất bình đẳng của quan hệ đó, bởi trên cơ sở của hoạt động hành
chính, quan hệ pháp luật hành chính được phát sinh. 2.
Để quan hệ pháp luật hành chính xuất hiện phải có sự hiện diện của chủ
là cơ quan nhà nước mà trong đó chủ yếu là cơ quan
thể bắt buộc hành chính (hoặc
đại diện của nó), là bên
được giao quyền hạn mang tính pháp lý, hoạt động nhân danh Nhà nước, vì lợi ích của Nhà nước. 3.
Quan hệ pháp luật hành chính có thể xuất hiện theo sáng kiến của bất
kỳ bên nào (cơ quan nhà nước, công dân...) mà không nhất thiết phải được sự đồng ý của
bên kia, trừ những ngoại lệ. 4.
Đa phần các tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính được
giải quyết theo thủ tục hành chính, nhưng có những trường trường hợp được giải quyết bởi tòa án. 5.
Nếu bất kỳ bên nào vi phạm yêu cầu của Luật Hành chính thì phải chịu
trách nhiệm trước Nhà nước, trước cơ quan hoặc người có thẩm quyền đại diện cho Nhà
nước, chứ không phải chịu trách nhiệm trước bên kia như trong quan hệ pháp luật dân sự. Phân loại:
Quan hệ pháp luật hành chính có thể phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau:
Theo tính bất bình đẳng hay bình đẳng, có
quan hệ dọc và quan hệ ngang. Quan hệ dọc
là quan hệ bất bình đẳng, ví dụ, quan hệ cấp trên, cấp dưới; quan hệ ngang là quan hệ bình đẳng
giữa các bên không trong quan hệ, ví dụ quan hệ giữa hai cơ quan cùng cấp cùng ban hành thông tư, nghị quyết liên tịch.
Theo tính chất của nội dung: có các quan hệ pháp luật vật chất hành chính (quan hệ nội
dung) và quan hệ pháp luật thủ tục hành chính (quan hệ hình thức).
quan hệ tích cực và quan hệ thụ động / tiêu cực lOMoAR cPSD| 46842444
Theo mục đích: có các quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ tích cực
của quản lý nhà nước - - quan hệ bảo vệ pháp luật, chống vi phạm trong hoạt động hành chính.
Theo quan hệ với tài sản: có các quan hệ tài sản và quan hệ phi tài sản.
Theo vị trí, vai trò của các chủ thể: có quan hệ giữa các cơ quan nhà nước, và quan hệ có
sự tham gia của công dân và tổ chức xã hội.
Theo phương thức bảo vệ: có các quan hệ được bảo vệ theo thủ tục hành chính và theo
thủ tục tố tụng tư pháp… 21.
Cơ sở phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính.
Quan hệ pháp luật hành chính chỉ phát sinh, thay đổi, chấm dứt khi đồng thời tồn tại cả ba điều kiện sau:
(1) Có quy phạm pháp luật
là điều kiện mang tính cơ sở;
(2) có các chủ thể tương ứng có đủ năng lực hành vi hành chính do quy phạm Luật Hành chính quy định;
(3) có sự kiện pháp lý hành chính (hành vi và sự biến) có vai trò quyết định việc
phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính.
22. Cho ví dụ về một sự kiện pháp lý hành chính. Sự kiện đó làm phát sinh quan
hệ pháp luật hành chính nào? (trong câu 23)
23. Hãy cho một ví dụ cụ thể về một sự kiện pháp lý hành chính và quan hệ
pháp luật hành chính phát sinh tương ứng với sự kiện đó; phân tích các bộ phận cấu
thành của quan hệ pháp luật hành chính đó. -
Sự kiện pháp lý hành chính: là sự kiện, cơ sở thực tế làm phát sinh, chấm dứt
hoặc thay đổi QHPLHC. Sự kiện pháp lý hành chính có thể là hành vi (hành động hoặc
không hành động) và sự biến. -
Ví dụ: Anh A có hành vi vượt đèn đỏ, vi phạm hành chính về giao thông đường
bộ. Cảnh sát giao thông B đã xử phạt hành chính đối với A về hành vi trên. Hành vi này là
một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật hành chính về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ giữa A và B. - Phân tích: + Chủ thể: lOMoAR cPSD| 46842444
• A là công dân VN có năng lực pháp luật hành chính và năng lực hành vi
hành chính (chủ thể tham gia).
• B là chủ thể bắt buộc trong QHPLHC này - chủ thể có thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính về giao thông đường bộ.
+ Khách thể (hành vi, sự biến - SKPL làm phát sinh QHPLHC): hành vi vượt đèn đỏ của A.
+ Nội dung (quyền và nghĩa vụ hành chính của các bên tham gia QHPLHC):
B có quyền ra mệnh lệnh buộc A phải tuân theo (B có thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính đối với A, buộc A phải thực hiện theo quyết định xử phạt đó); có nghĩa
vụ phải xử phạt hành chính đúng pháp luật (đúng số tiền quy định theo thẩm quyền, đúng
hình thức xử phạt đối với hành vi của A được PL quy định…).
A có nghĩa vụ thực hiện theo quyết định XPHC của B; có quyền khiếu nại
đến B/khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án về quyết định xử phạt hành chính của cảnh sát
giao thông B (nếu quyết định xử phạt này trái pháp luật). 24.
Chủ thể của Luật hành chính và chủ thể của quan hệ pháp luật hành
chính là một? Đúng hay sai? Tại sao? SAI. Vì:
Các chủ thể quan hệ pháp luật hành chính là các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính
có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức cụ thể, có năng lực chủ thể pháp luật hành chính, tức là phải có
năng lực pháp luật hành chính và năng lực hành vi hành chính. Trong đó, một bên bắt buộc phải là
cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, mà chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm
quyền trong cơ quan đó, bên khác có thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân khác – chủ thể tham gia.
Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là những cơ quan, tổ chức, cá nhân cụ thể, khác
với chủ thể pháp luật hành chính là những cơ quan, tổ chức, cá nhân bất kỳ có những quyền và nghĩa
vụ do Luật Hành chính quy định.
25. Khái niệm khoa học luật hành chính Việt Nam , đối tượng và phương pháp nghiên cứu. - Khái niệm:
Khoa học Luật Hành chính là một hệ thống thống nhất những học thuyết, luận điểm khoa học,
những khái niệm, phạm trù về ngành Luật Hành chính.
- Đối tượng nghiên cứu: 7 a.
Những vấn đề của lý luận về hành chính nhà nước có liên quan chặt chẽ tới
ngành Luật Hành chính (như nội dung, vị trí của hành chính nhà nước trong cơ chế quản lý xã lOMoAR cPSD| 46842444
hội; quan hệ của quyền hành pháp với quyền lập pháp và tư pháp; cơ cấu, bản chất, chức năng,
phương pháp thực hiện, các nguyên tắc hoạt động hành chính nhà nước v.v.); b.
Hệ thống quy phạm Luật Hành chính: Đặc trưng nội dung, phân loại; vấn đề hoàn
thiện các chế định, hệ thống hóa và pháp điển hóa Luật Hành chính; cơ chế điều chỉnh pháp luật đối
với các quan hệ hành chính, vấn đề hiệu quả của quy phạm Luật Hành chính; c.
Về quan hệ pháp luật hành chính: nội dung pháp lý, cơ cấu, tương quan giữa các yếu tố
nội tại của các quan hệ đó (như bản chất quyền lực của chúng, tính đơn phương, tính trực thuộc,
cũng như “chiều ngang” của quan hệ pháp luật hành chính...), quyền và nghĩa vụ pháp lý của các
chủ thể và cơ chế bảo đảm thực hiện chúng, v.v.. d.
Quy chế pháp lý của các chủ thể Luật Hành chính, cũng chính là các chủ thể và đối
tượng quản lý nhà nước, những bảo đảm pháp lý hành chính của các quyền chủ thể;
đ. Các hình thức và phư
ơng pháp hoạt động hành
chính, như: QĐHC, cưỡng chế hành
chính, thủ tục hành chính, v.v..
e. Các phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong hoạt động hành chính;
g. Các vấn đề mang tính tổ chức - pháp lý của hoạt động hành chính trong các ngành và
lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội và hành chính - chính trị.
- Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nhận thức khoa học cụ thể của khoa học Luật Hành chính là: so sánh pháp
luật, phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học cụ thể (phương pháp xã hội học cụ thể), hệ thống -
chức năng, thống kê, mô hình hóa và thử nghiệm khoa học, v.v.. 26.
Trình bày mối quan hệ giữa Luật Hành chính và khoa học Luật Hành chính.
- Khoa học LHC cải tạo PLHC, đưa ra những quy định mới, là cơ sở xây dựng, ban hành VBQPPLHC.
VD: Qua nghiên cứu, phát hiện điểm tốt và hạn chế trong PLHC để hoàn thiện
PLHC (như thủ tục hành chính cồng kềnh, CQHC địa phương ban hành nhiều
loại giấy phép con không cần thiết gây phiền hà cho người dân làm thủ tục; bộ
máy nhà nước cồng kềnh gây gánh nặng cho việc nuôi dưỡng bộ máy…) lOMoAR cPSD| 46842444
- PLHC hoàn thiện làm cơ sở nghiên cứu khoa học LHC, hình thành nên các quan niệm khoa học. 27.
Khái niệm, bản chất và các đặc trưng của hành chính nhà nước Việt Nam
1.2.1. Khái niệm hành chính nhà nước
Thuật ngữ hành chính, được hiểu dưới hai góc độ: thứ nhất, là một loại hoạt động – hoạt
động quản lý; thứ hai, là thiết chế - một tổ chức có quyền lực hành chính, thực hiện quản lý, hay
thực hiện các hoạt động hành chính.
Thuật ngữ “hành chính nhà nước” cũng được sử dụng với hai nghĩa khác nhau: thứ nhất:
“là hoạt động thực thi quyền hành pháp bằng hoạt động hành chính nhà nước”4. Thứ hai “là
một thiết chế được tạo thành bởi một hệ thống pháp nhân công quyền (hệ thống tổ chức bộ máy
hành chính nhà nước và các cộng đồng hành chính-lãnh thổ) có thẩm quyền tổ chức và điều
hành các quá trình xã hội...”5; Như vậy, hành chính: là một phạm trù gắn liền với quyền hành
pháp, là một công cụ của quyền hành pháp6. Việc “thực thi quyền hành pháp bằng hoạt động
hành chính nhà nước” cũng chính là quản lý nhà nước do bộ máy hành chính nhà nước thực hiện.
Với những nội dung, ý nghĩa như trên nên khi “Luật Hành chính” được hiểu với nghĩa là
một ngành luật, thì đó là ngành luật về hoạt động hành chính nhà nước, hay còn gọi là ngành
luật về quản lý hành chính nhà nước, hoặc ngành luật để thực thi quyền lực hành pháp.
1.2.2. Bản chất của hoạt động hành chính nhà nươc
Bản chất của hoạt động hành chính nhà nước được thể hiện qua hai khía cạnh: chấp hành và điều hành.
Chấp hành là sự thực hiện trên thực tế các luật và các văn bản mang tính chất luật của Nhà
nước (các pháp lệnh và một số nghị quyết của Quốc hội), các văn bản pháp luật của các cơ quan
nhà nước cấp trên nói chung. Nó có tính thụ động, vì đó là chấp hành đúng nội dung và mục đích của văn bản cấp trên.
Điều hành là hoạt động dựa trên cơ sở luật để chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng
quản lý. Đặc trưng của hoạt động điều hành là các cơ quan hành chính (chủ thể quản lý) ra văn
bản dưới luật mang tính chủ đạo, quy phạm hoặc cá biệt,
được bảo đảm thực hiện bằng sự thuyết phục và khả Nó mang tính chủ động, sáng tạo cao,
năng áp dụng cưỡng chế nhà nước.
4 Tài liệu đã dẫn, tr.7.
5 Đinh Văn Mậu và Phạm Hồng Thái (1996). Nhập môn hành chính nhà nước, Nxb. Thành phố HCM,tr 21.
6 Nguyễn Hữu Khiển (1999) Tìm hiểu về hành chính nhà nước, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,tr.36. lOMoAR cPSD| 46842444
vì phải điều hành các lĩnh vực hoạt động quản lý nhà nước vốn phát triển nhanh chóng, thường
xuyên thay đổi theo các điều kiện khách quan, các luật và văn bản pháp luật khác của các cơ
quan nhà nước cấp trên không thể dự liệu được hết.
Hoạt động chấp hành thường đồng thời bao hàm hoạt động điều hành, hay nói cách khác
điều hành là để chấp hành pháp luật tốt hơn. Ví dụ, để chấp hành Luật phòng, chống tham nhũng,
Chính phủ phải tổ chức thành lập Ban Chỉ đạo chống tham nhũng Trung ương, chỉ đạo các bộ
và các địa phương thành lập các ban tương tự và thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức
thực hiện các biện pháp phòng chống tham nhũng trong bộ máy hành chính.
1.2.3. Các đặc điểm của hoạt động hành chính nhà nước : 10 đặc trưng Hành
chính nhà nước là loại hoạt động đặc biệt có những đặc trưng chủ yếu sau đây:
1. Mang tính tổ chức - điều chỉnh tích cực là chủ yếu
Suy từ khái niệm hai chức năng tổ chức và điều chỉnh, thì tổ chức - điều chỉnh tích cực
ngược với khía cạnh bảo vệ pháp luật, ngược với hoạt động tài phán. Tuy vậy, khía cạnh bảo vệ pháp
luật trong hoạt động hành chính nhà nước vẫn rất cần thiết và quan trọng, nhưng chỉ chiếm phần nhỏ.
2. Có tính chủ động, sáng tạo cao
Tính chủ động, sáng tạo thể hiện ở những khía cạnh sau:
Một là, đặc trưng này gắn liền với tính tổ chức - điều chỉnh và xuất phát trực tiếp từ bản
chất của mặt điều hành của hoạt động hành chính. Tính chất này có cơ sở khách quan là chính bản
thân tính chất và sự phức tạp, phong phú, đa dạng của khách thể quản lý, đó là mọi mặt đời sống xã
hội luôn biến động và phát triển, đòi hỏi tác động quản lý phải ứng phó nhanh nhạy, kịp thời, vận
dụng sáng tạo pháp luật, tìm kiếm biện pháp giải quyết mọi tình huống phát sinh một cách có hiệu quả nhất.
Hai là, xây dựng, ban hành văn bản quy phạm hành chính điều chỉnh hoạt động hành chính
(còn gọi là hoạt động lập quy). Trong các văn bản đó có thể chứa những quy phạm tiên phát điều
chỉnh những quan hệ xã hội mới phát sinh, chưa ổn định và chưa được luật và pháp lệnh điều chỉnh
Ba là, tính chủ động, sáng tạo còn được thể hiện ở các hoạt động tổ chức, chỉ đạo cụ thể
đa dạng trên thực tiễn, ở sự áp dụng các hình thức và phương pháp hoạt động phong phú.
3. Tính dưới luật
Tính dưới luật là đặc trưng của hoạt động hành chính và liên quan chặt chẽ với tính chủ
động, sáng tạo. Tính dưới luật thể hiện ở chỗ hoạt động hành chính chính là hoạt động chấp hành
pháp luật và điều hành trên cơ sở luật. Các quyết định được ban hành trong hoạt động hành chính
phải phù hợp với luật và văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, nếu mâu thuẫn với chúng thì
sẽ bị đình chỉ, sửa đổi hoặc bãi bỏ.