-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Tài liệu ôn tập môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh
Tài liệu ôn tập môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Kinh tế chính trị Mác - Lênin (HVCB) 3 tài liệu
Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh 34 tài liệu
Tài liệu ôn tập môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh
Tài liệu ôn tập môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị Mác - Lênin (HVCB) 3 tài liệu
Trường: Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh 34 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
1
MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Câu 1. Liên hệ thực tiễn về sức lao động và thị trường sức lao động ở Việt Nam? Trả lời:
Trong công thức chung của tư bản đã xuất hiện mâu thuẫn mà để giải quyết
mâu thuẫn đó, cần tìm ra một loại hàng hóa đặc biệt, hàng hóa đó chính là hàng
hóa sức lao động. Theo C.Mác, hàng hóa sức lao động chỉ hình thành sau khi chủ
nghĩa tư bản tiến hành cuộc cách mạng về công nghệ sản xuất, nhằm xây dựng
một nền sản xuất đại công nghiệp. Ngày nay, Việt Nam đang phát triển theo con
đường XHCN, sức lao động và thị trường sức lao động cũng có những bước phát
triển ngày càng đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, hội nhập.
I. Lí luận của Các Mác về hàng hóa sức lao động và thị trường sức lao động 1. Sức lao động
1.1. Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa
Theo C.Mác: “Sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân
thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà
con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”.
Trong bất kì xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản để sản xuất.
Nhưng không phải trong bất kì điều kiện nào, sức lao động cũng trở thành hàng hóa.
Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có đủ các điều kiện sau:
-Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ sức lao động
của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa.
-Thứ hai, người lao động không còn có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình
thực hiện lao động và cũng không có của cải gì khác, để tồn tại thì buộc phải bán
sức lao động của mình để sống.
1.2. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Cũng giống như các hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc
tính, đó là: giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị của hàng hoá sức lao động được tính bằng thời gian lao động xã hội
cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động.
Giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ nó bao
hàm cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng
nước, từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được, vào điều kiện lịch
sử hình thành giai cấp công nhân và cả điều kiện địa lí, khí hậu.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng là công dụng của hàng hóa
đó nhằm thỏa mãn nhu cầu của người mua. 2
Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn
giá trị của bản thân nó; phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng
dư. Đó chính là đặc điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt là khi sử dụng
nó chẳng những không mất đi mà còn tạo ra được một lượng giá trị mới lớn hơn giá
trị của bản thân nó (phần lớn hơn gọi là giá trị thặng dư). Đặc điểm này chính là
chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản.
Hàng hoá sức lao động là điều kiện chuyển hoá tiền thành tư bản. Tuy nhiên
nó không phải là cái quyết định để có hay không có bóc lột, việc quyết định còn ở
chỗ giá trị thặng dư được phân phối như thế nào.
2. Thị trường sức lao động 2.1. Khái niệm
Thị trường lao động (hoặc thị trường sức lao động) là nơi thực hiện các quan
hệ xã hội giữa người bán sức lao động (người lao động làm thuê) và người mua sức
lao động (người sử dụng sức lao động), thông qua các hình thức thoả thuận về giá
cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện làm việc khác, trên cơ sở một hợp đồng
lao động bằng văn bản, bằng miệng, hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thoả thuận khác.
Thị trường “sức lao động” là nơi thể hiện quan hệ xã hội giữa người lao động
làm thuê và người thuê mướn lao động thông qua sự điều chỉnh giá cả tiền công.
Sức lao động trong điều kiện kinh tế thị trường là hàng hóa. Chính bản thân sức
lao động được mua và bán trên thị trường lao động. Nhưng bản chất của thị trường
lao động không được tổng hợp đến việc bán và mua sức lao động. Thị trường lao
động - đó là biểu hiện KT - XH phức tạp. Tại đó hàng ngày có tới hàng chục ngàn
người lao động và thuê lao động (hoặc đại diện của họ) gặp nhau và tác động ảnh
hưởng lẫn nhau. Những quyết định của họ phụ thuộc không chỉ vào các yếu tố khách
quan, mà còn rất nhiều yếu tố chủ quan.
Những yếu tố cơ bản của thị trường lao động là: cầu sức lao động; cung sức
lao động; giá cả của sức lao động (tiền lương); cạnh tranh trên thị trường lao động;
cơ sở hạ tầng của thị trường lao động.
Thị trường lao động bao gồm những chủ thể sau: những người thuê lao động
(người mua) và đại diện của họ; những người làm thuê (người bán) và đại diện của
họ; nhà nước và các đại diện của mình; các tổ chức môi giới trung gian.
2.2. Những đặc trưng hoạt động của thị trường lao động
Hoạt động của thị trường lao động có nhiều đặc biệt, gắn với tính chất và
những đặc thù của quá trình tái sản xuất sức lao động, đó là:
- Không tách rời quyền sở hữu hàng hóa - sức lao động khỏi sở hữu chủ;
- Có trách nhiệm phối hợp hành động tương đối dài với nhau giữa người bán
và người mua nếu so sánh với thị trường hàng hóa, lương thực và thực phẩm;
- Tồn tại số lớn cấu trúc thể chế loại đặc biệt (hệ thống pháp luật phân nhánh,
những chương trình KT-XH, dịch vụ việc làm các tổ chức công đoàn, liên hiệp hội 3
các nhà doanh nghiệp...) sinh ra đặc thù quan hệ giữa các chủ thể của thị trường lao động;
- Chất lượng lao động ở từng người lao động có khác nhau theo giới tính,
tuổi, thể lực, trí tuệ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác, động lực làm việc …;
- Nhiều điểm độc đáo trong trao đổi sức lao động so với trao đổi hàng hóa vật chất;
- Đối với người lao động, vấn đề quan trọng không chỉ là tiền công và tiền
lương, mà còn là nội dung và điều kiện lao động, bảo đảm duy trì chỗ làm việc,
tương lai công việc và triển vọng thăng tiến trong nghề nghiệp, bầu không khí làm
việc trong tập thể và quan hệ giữa người lao động với người thuê lao động.
II. Liên hệ thực tiễn về hàng hóa sức lao động và thị trường sức lao động
ở Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng thị trường lao động nước ta
Hiện nay nước ta đang trong thời kì đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, vì vậy,
lao động nước ta mang những sắc thái, đặc thù gắn chặt với trình độ phát triển của
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Việc phát triển thị trường lao động nước ta
trong thời gian qua đã thu được những thành quả nhất định, làm cơ sở cho việc
hoàn thiện quan hệ lao động, phát triển KT - XH.
Nền kinh tế thị trường vận động và phát triển gắn liền với quá trình CNH -
HĐH đất nước, vì vậy, vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động vào thị trường lao
động nước ta chính là giải quyết vấn đề nguồn lao động chất lượng cao trong thời kì mới.
Mặt khác, theo xu thế hội nhập quốc tế phát triển nề kinh tế tri thức, đòi hỏi
người lao động phải biết nắm bắt, xử lí nhanh nhạy, tức là, cần nâng cao giá trị sử
dụng của hàng hóa sức lao động.
Tuy nhiên, thực tiễn quá trình nhận thức và vận dụng lí luận về hàng hóa
sức lao động của C.Mác tại Việt Nam vẫn còn những giới hạn nhất định, chưa
đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cụ thể là:
Về giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động còn thấp hạn chế phần nào sự
cạnh tranh của nước ta trên thị trường thế giới, giá trị hàng hóa sức lao động còn
bất cập, chưa bao quát hết những yếu tố đáp ứng yêu cầu tái sản xuất mở rộng sức
lao động cho một bộ phận lớn những người làm công ăn lương, hệ thống thông tin
lao động việc làm chưa được quản lí chặt chẽ, hệ thống GD & ĐT chưa đủ khả
năng cung ứng nguồn lao động chất lượng cao cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Theo quan điểm của C.Mác cần phải chăm lo cho công nhân và người thân của
họ, về việc này thì nước ta cũng đã làm được: đời sống công nhân ngày càng được
nâng lên, nhất là về đời sống tinh thần công nhân được Công Đoàn tổ chức các hoạt
động giao lưu văn nghệ, trao đổi kinh nghiệm lao động, khuyến khích, khen thưởng 4
các công nhân có thành tích tốt trong lao động, có nhiều sáng kiến trong việc sản xuất…
Đời sống của người thân công nhân cũng được chú trọng hơn. Trong các khu
công nghiệp, đã xây dựng các trường học cho con em các công nhân như các
trường mầm non, nhà giữ trẻ, khu vui chơi dành cho thiếu nhi … Đời sống của
công nhân và người thân của họ được đáp ứng đầy đủ hơn về các dịch vụ khác.
Việc làm này giúp cho công nhân có thể yên tâm làm việc, cống hiến hết mình cho công việc.
Trong thị trường lao động, lực lượng lao động dồi dào, dân số năm 2020 ước
tính khoảng 97,34 triệu người, trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đạt
50,5 triệu người, đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN về tỷ lệ lực lượng lao động.
Nhà nước ta cũng nhận thức rõ tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực,
trình độ cho người công nhân. Ngày càng có nhiều trường đào tạo nghề được thành
lập nhằn phục vụ cho việc học nghề của nhân dân và nâng cao tay nghề của công
nhân. Các nhà máy, xí nghiệp cũng tạo điều kiện cho công nhân nâng cao trình độ
của mình như cử một số công nhân đi học tiếp thu khoa học kĩ thuật tiên tiến, tổ
chức các lớp tập huấn cho công nhân, nhằm nâng cao tay nghề từ đó tăng năng suất lao động.
Tuy nhiên, thị trường sức lao động nước ta vẫn còn nhiều điểm hạn chế. Lực
lượng công nhân Việt Nam dù là dồi dào nhưng tay nghề chưa cao lao động chủ
yếu bằng cơ bắp, ít lao động trí óc. Mặc dù các trung tâm, các trường đào tạo nghề
được thành lập nhiều nhưng có một số cơ sở vẫn hoạt động không có hiệu quả
công nhân học xong không thể làm việc có hiệu quả, hơn nữa chi phí học tập còn
cao nên không phải ai cũng có điều kiện để có thể theo học được. Công nhân và
gia đình họ cũng còn gặp khó khăn trong việc thỏa mãn các nhu cầu cá nhân chính
đáng của mình như khó tiếp cận với các dịch vụ, việc đăng kí học cho con cái.
Ở Việt Nam cung về sức lao động đang vượt quá cầu và sẽ còn tiếp tục vượt
trong tương lai, điều đó tạo ra một áp lực rất lớn về việc làm cho dân cư. Hàng
năm cung sức lao động tăng từ 3,2% đến 3,5%, như vậy mỗi năm chúng ta sẽ có
thêm khoảng 1,3 đến 1,5 triệu người đến độ tuổi lao động. Đây là những bất cập
ngày càng lớn giữa quy mô chung và cấu trúc “cung-cầu” sức lao động trên thị trường lao động.
Năng suất lao động của Việt Nam tính đến năm 2019 đứng thứ 7 ASEAN,
sau Singapre; Malyasia; Thái Lan; Indonesia; Philippines và Brunei.
Tỷ lệ lao động 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo đang làm việc trong nền kinh tế
tăng dần qua các năm nhưng đến năm 2019 chỉ đạt 22,8%. Đây chính là rào cản
lớn cho việc cải thiện năng suất lao động.
Bên cạnh đó, mức tiền công, tiền lương người công nhân được trả chưa phù
hợp với mức lao động của họ. Ngoài ra, lao động nước ta tập trung chủ yếu chủ
yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, tác phong công nghiệp thấp.
2. Nguyên nhân của những hạn chế 5
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do nền kinh tế nước ta còn lạc hậu nên
công nhân cũng hạn chế về tay nghề, có xuất thân từ nông dân nên tính kỉ luật chưa
cao, manh mún, nhỏ lẻ. Các cơ sở đào tạo nghề hoạt động chưa có hiệu quả và chi
phí học nghề còn cao. Chưa vận dụng được các phương tiện thông tin đại chúng để
giới thiệu việc làm, trở thành trung gian giữa người sử dụng lao động và người lao
động, là nơi phản ánh những hạn chế và ưu điểm của thị trường hàng hóa sức lao động.
Những quy định của nhà nước về thi trường lao động vẫn còn những hạn chế
nhất định. Việc chi trả tiền lương còn thiếu sự công bằng, bình đẳng giữa các công
nhân. Nhiều cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp chưa đủ điều kiện để xây dựng các
khu vui chơi, giải trí cho công nhân và người thân của họ do thiếu vốn đầu tư. 3. Giải pháp
Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định phương hướng: Cải cách
chính sách tiền lương theo hướng tiệm cận với giá cả sức lao động trên thị trường,
tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng năng suất lao động, bảo đảm
nguyên tắc phân phối theo lao động, tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả
làm việc ... Phát triển thị trường lao động, hướng đến việc làm bền vững. Xác lập
các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động phù hợp với sự phát triển của thị
trường, xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ. Đổi mới chính
sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng tăng cường đào tạo và đào tạo lại cho người
lao động để tham gia hiệu quả vào thị trường lao động…”
Và để khắc phục tình trạng trên và đưa thị trường lao động Việt Nam phát
triển ổn định thì cần phải thực hiện một số biện pháp, đó là :
Vận dụng lí luận hàng hóa sức lao động phù hợp với quá trình hội nhập và xu
hướng phát triển của nền kinh tế tri thức và việc vận dụng đó phải gắn liền với việc
hình thành đội ngũ lao động có trình độ cơ cấu hợp lí, đáp ứng nhu cầu của sự
nghiệp CNH - HĐH đất nước. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao về mọi trình độ tay
nghề về mọi mặt cho người lao động, tạo cho họ tính tự giác, sáng tạo trong lao
động với nhiều hình thức khác nhau.
Giáo dục cho mọi người thái độ yêu quý, tự giác, kỉ luật lao động, loại bỏ
thói lười biếng ỷ lại và khuyến khích mọi người chủ động tìm tòi việc làm cho
mình. Cần chú trọng đến công tác chăm lo các nhu cầu về vật chất và tinh thần cho
người lao động, chú trọng đến chính sách tiền lương và các hoạt động của các tổ
chức đoàn thể. Thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao động bằng việc phát triển hệ
thống thông tin, giới thiệu việc làm, tăng cường, củng cố nâng cao quản lí nhà
nước trong hoạt động xuất khẩu lao động. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và bộ
máy quản lí có hiệu quả hơn, thay đổi cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế, cụ
thể, giảm tỉ trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Từ phân tích trên, cho thấy, nước ta đang trong giai đoạn cơ cấu dân số
“vàng”, lao động dồi dào, thị trường sức lao động cũng đang có những bước phát
triển. Nhưng bên cạnh đó, thị trường sức lao động nước ta cũng đang gặp phải
những bất cập. Với nguồn lực lao động trẻ và dồi dào như hiện nay thì sự vận 6
dụng lý luận về hàng hóa sức lao động của Các Mác vào việc phát triển thị
trường hàng hóa sức lao động là một việc làm hết sức cần thiết. Vì lý luận của
Các Mác là cơ sở, tiền đề, là định hướng cho sự phát triển thị trường hàng hóa
sức lao động một cách ổn định, bền vững. Muốn vận dụng được lý luận đó thì
không những phải nắm vững lý luận đó mà còn phải nhận thức một cách đúng
đắn, không hiểu sai lệch vấn đề. Có như thế thì thị trường sức lao động Việt Nam
mới có thể phát triển mạnh, nhanh và bền vững được.
Câu 2. Vận dụng Học thuyết giá trị thặng dư vào quá trình xây dựng
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam? Trả lời:
Học thuyết giá trị thặng dư là “hòn đá tảng” trong toàn bộ lý luận kinh tế của
Các Mác. Tại Việt Nam, việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng dư là cần thiết vì
hiện nay nước ta đang quá độ tiến lên CNXH, đang trong quá trình đẩy mạnh CNH
- HĐH, xu thế giao lưu, hội nhập quốc tế ngày được mở rộng trên mọi lĩnh vực nên
cần phải xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, tiên tiến của nền đại công
nghiệp trong điều kiện nền tảng kinh tế của nước ta còn thấp kém và có điểm xuất
phát thấp. Bên cạnh đó, chúng ta cũng đang thực hiện cơ chế thị trường, mở cửa
nền kinh tế, xây dựng KTTT định hướng XHCN; và xuất phát từ đó, cơ chế kinh tế
mới sẽ đồng thời dẫn tới hàng loạt những sự thay đổi về chế độ sở hữu, các thành
phần kinh tế, chế độ phân phối ... Điều này cho phép quy luật giá trị thặng dư hoạt
động và phát huy những đặc điểm của nó cả ưu điểm và những khuyết tật. Đồng
thời, việc tìm hiểu sâu sắc chuyên đề sẽ giúp tìm ra biện pháp sử dụng hợp lý Học
thuyết quy luật giá trị thặng dư để làm đòn bẩy kích thích nền kinh tế mà không bị
chệch hướng chính trị.
I. Học thuyết giá trị thặng dư của Các Mác
1. Bản chất giá trị thặng dư
1.1. Bản chất của giá trị thặng dư
Trong nền sản xuất hàng hóa dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giá trị
sử dụng không phải là mục đích. Giá trị sử dụng được sản xuất chỉ vì nó là vật mang giá trị trao đổi.
Nhà tư bản muốn sản xuất ra một giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi nghĩa
là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hoá có giá trị lớn
hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà tư bản đó bỏ ra để
mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Mục đích của sản xuất TBCN không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn
nữa là giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất ra giá trị thặng dư, trước hết, nhà tư bản
phải sản xuất ra giá trị sử dụng nào đó, vì giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao
đổi và giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất TBCN là sự thống nhất giữa các quá trình sản xuất
ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
Theo Các Mác “với tư cách là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động 7
và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng
hoá; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm
tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất TBCN, là hình thái
TBCN của nền sản xuất hàng hoá”.
Quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hóa sức lao động và tư liệu sản xuất tạo
ra giá trị thặng dư có 2 đặc điểm:
Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống
như những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho hiệu quả nhất.
Hai là, Tư liệu sản xuất thuộc về nhà tư bản nên sản phẩm làm ra thuộc
sở hữu của nhà tư bản, do nhà tư bản phân phối.
1.2. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư bao gồm 3 giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị
sản xuất; giai đoạn tiến hành sản xuất; giai đoạn thu về giá trị thặng dư. Các Mác
đã lấy ví dụ về việc sản xuất sợi của nước Anh làm đối tượng nghiên cứu quá trình
sản xuất giá trị thặng dư.
Qua nghiên cứu, đã rút ra một số nhận xét và kết luận về bản chất giá trị thặng dư:
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận thấy
mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển hoá
tiền thành tư bản diễn ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời không diễn ra
trong lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng
hoá đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hoá
đó trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất giá trị thặng dư cho
nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới biến thành tư bản.
Hai là, giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị hàng
hóa sức lao động do người công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
Ba là, Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động
làm thuê. Ký hiệu giá trị thặng dư là m.
Bốn là, ngày lao động của người công nhân trong xí nghiệp tư bản được chia
thành hai phần: một phần gọi là thời gian lao động cần thiết; phần thời gian còn lại
là thời gian lao động thặng dư, trong thời gian lao động thặng dư người công nhân
tạo một lượng giá trị lớn hơn giá trị sức lao động hay tiền lương nhà tư bản đã trả
cho mình, đó là giá trị thặng dư và bộ phận này thuộc về nhà tư bản.
Năm là, giá trị của hàng hóa gồm hai phần giá trị tư liệu sản xuất và giá trị lao
động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình lao động gọi là giá mới lớn hơn
giá trị của bản thân nó. Đây chính là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn công thức chung của CNTB.
Từ đó Các Mác đã khái niệm về giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngoài giá trị sức lao động do công
nhân làm thuê sáng tạo ra và bị tư bản chiếm đoạt.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị vượt khỏi
điểm mà ở đó sức lao động của người công nhân đã tạo ra một lượng giá trị mới 8
ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả họ.
Thực chất của sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá trị vượt khỏi giới hạn tại
điểm đó là sức lao động được trả ngang giá.
Để sản xuất giá trị thặng dư thì nhà tư bản phải ứng tư bản ra để mua tư liệu
sản xuất và sức lao động, nghĩa là chuyển hóa tư bản tiền tệ thành hai hình thái
khác nhau của tư bản sản xuất:
Tư bản bất biến, là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất, giá
trị của nó không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất.
Tư bản khả biến, là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã có sự biến
đổi về lượng trong quá trình sản xuất.
Quá trình tạo ra giá trị thặng dư luôn có sự kết hợp của cả hai hình thái trên.
Trong đó tư bản khả biến dùng để mua sức lao động có vai trò trực tiếp sáng tạo ra
giá trị thặng dư. Còn tư bản bất biến đóng vai trò gián tiếp, nó chỉ là điều kiện vật
chất cần thiết cho quá trình sản xuất, tự bản thân nó không tạo ra giá trị thặng dư.
1.3. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và ý nghĩa của nó
- Theo Chủ nghĩa Mác, có 2 phương pháp:
+ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối;
+ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
- Ý nghĩa của hai phương pháp:
Trong quá trình phát triển của CNTB, sản xuất ra giá trị thặng dư được tiến
hành bằng nhiều phương pháp thích ứng với từng giai đoạn và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, năng suất lao động, tương quan giữa các giai cấp, trong đó “sự
sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối tạo thành cái cơ sở chung của chế độ TBCN và
là điểm xuất phát của sự sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối”.
Giá trị thặng dư nhiều - lợi nhuận lớn, lại kích thích lòng thèm khát của các
nhà tư bản làm sao thu được nhiều hơn nữa. Bản thân các nhà tư bản khác cũng
đua tranh áp dụng máy móc để thu được nhiều giá trị thặng dư; lúc này việc sử
dụng máy móc trở thành phổ biến trong các công xưởng và nền sản xuất TBCN.
Với đại công nghiệp cơ khí, hệ thống máy móc đã “khuyếch đại” năng lực của con
người lên gấp bội, tạo nên bước phát triển nhảy vọt về năng suất lao động xã hội;
làm cho việc sản xuất giá trị thặng dư tương đối trở thành phương pháp chủ yếu.
Bằng những thành tựu cách mạng khoa học-kỹ thuật-công nghệ hiện đại nắm
giữ, CNTB đã thực hiện sự bóc lột hiệu quả ở cả hai phương pháp, nhưng chủ yếu là
bóc lột giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch. Trong điều kiện cách
mạng KH - CN hiện đại, các nước tư bản phát triển, nhất là các công ty độc quyền
xuyên quốc gia và đa quốc gia, có ưu thế trong việc áp dụng thành tựu mới nhất của
cách mạng khoa học vào sản xuất, kinh doanh, do đó các nước tư bản phát triển có
nhiều khả năng sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch. Đây là nguồn lợi to lớn và khá
ổn định của lợi nhuận siêu ngạch khổng lồ mà các nước tư bản phát triển và công ty
độc quyền thu được trong quan hệ kinh tế với các nước kém phát triển.
Nghiên cứu 2 phương pháp, nếu gạt bỏ mục đích và tính chất của CNTB thì
vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất là phương pháp sản 9
xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư tuyệt đối trong các doanh
nghiệp sẽ kích thích sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật -
công nghệ mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất; đồng thời, gợi
mở cách thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2. Quy luật giá trị thặng dư
2.1. Quy luật giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB
Việc nghiên cứu đầy đủ bản chất của giá trị thặng dư đã chỉ rõ đây là quy luật
kinh tế tuyệt đối của CNTB vì nó phản ánh bản chất bóc lột của phương thức sản
xuất TBCN, nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống các quy luật kinh tế hoạt động
trong nền sản xuất TBCN. Các quy luật khác như quy luật cung cầu, giá trị, cạnh
tranh ... đều xoay quanh quy luật trung tâm là quy luật giá trị thặng dư. Nó là cơ sở
tồn tại, phát triển và diệt vong của CNTB.
Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản là mục đích và động cơ
hoạt động của từng nhà tư bản và toàn xã hội tư bản.
Theo Các Mác “Sản xuất giá trị thặng dư hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối
của phương thức sản xuất này”.
Nội dung của quy luật này là sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho tư
bản. Vì mục đích trực tiếp của sản xuất TBCN không phải là sản xuất giá trị sử dụng
mà là giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Các Mác đã nhận xét “Mục đích của sản
xuất TBCN là làm giầu, là nhân giá trị lên, làm tăng giá trị, do đó bảo tồn giá trị
trước kia và tạo ra giá trị thặng dư”. Như vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa cho
tư bản bằng tăng số lượng lao động làm thuê và tăng mức bóc lột là nội dung của quy
luật kinh tế cơ bản của TBCN. Quy luật giá trị thặng dư ảnh hưởng quyết định tới
mọi mặt của xã hội tư bản: sự phát sinh, phát triển của CNTB và sự thay thế nó bằng
xã hội khác cao hơn là quy luật vận động của phương thức sản xuất TBCN.
Nguyên do là ảnh hưởng hai mặt của quy luật giá trị thặng dư:
Một mặt, quy luật giá trị thặng dư là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy cải
tiến, đổi mới kỹ thuật, công nghệ, phân công lao động, xã hội hóa sản xuất, làm cho
năng suất lao động và lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng, nền sản xuất được xã hội hóa cao.
Mặt khác, giá trị thặng dư chính là nguyên nhân của mâu thuẫn đối kháng
trong xã hội tư bản. Sự tác động của quy luật này làm cho mâu thuẫn cơ bản - mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư
nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Xu hướng lịch sử tất yếu đó của CNTB sẽ bị thay
thế bởi một xã hội văn minh hơn - xã hội XHCN.
Trên bề mặt kinh tế TBCN, quy luật giá trị thặng dư phát huy tác động điều tiết
thông qua các quy chế như:
Điều tiết sản xuất kinh doanh và phân phối trong nền kinh tế TBCN tự do
cạnh tranh thông qua lợi nhuận, lợi nhuận trung bình.
Điều tiết sản xuất kinh doanh và phân phối trong lĩnh vực thương mại của
nền kinh tế TBCN tự do cạnh tranh thông qua lợi nhuận thương nghiệp. 10
Điều tiết sản xuất kinh doanh và phân phối trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng
của nền kinh tế TBCN tự do cạnh tranh thông qua lợi tức, lợi nhuận ngân hàng, lợi tức cổ phần.
Điều tiết sản xuất kinh doanh và phân phối trong lĩnh vực nông nghiệp, bất
động sản của nền kinh tế TBCN tự do cạnh tranh thông qua địa tô TBCN.
2.2. Ý nghĩa thời đại của học thuyết giá trị thặng dư của Các Mác
- Học thuyết giá trị thặng dư là cơ sở khoa học cho việc luận giải tính chất
lịch sử của phương thức sản xuất TBCN
- Học thuyết giá trị thặng dư là cơ sở khoa học vững chắc trong thời đại ngày
nay khi khẳng định nguồn gốc sự giàu có là từ tăng năng suất lao động xã hội
- Học thuyết giá trị thặng dư là cơ sở khoa học cho việc nhận thức và phát triển KTTT hiện đại
II. Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư vào phát triển KT - XH ở Việt Nam
1. Kết quả đạt được
Việt Nam chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Nhưng phải khẳng định rằng, điều đó không có nghĩa là lý luận giá trị thặng dư
không còn giá trị, mà thực tiễn những năm đổi mới của Việt Nam đã cho thấy đó
là sự vận dụng sáng tạo lý luận giá trị thặng dư nói riêng, Chủ nghĩa Mác - Lênin
nói chung vào sự nghiệp phát triển KT - XH ở nước ta.
Nước ta hiện nay đang ở thời kỳ quá độ lên CNXH, nên tất yếu còn tồn tại
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Trong đó, kinh tế nhà
nước và kinh tế tư nhân chịu sự tác động của lý luận Học thuyết giá trị thặng dư
của Các Mác, điều đó được thể hiện:
1.1. Đối với kinh tế nhà nước
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, XII, XIII đều khẳng định: Kinh tế nhà
nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng
và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của Các Mác về nội dung và phương
pháp, có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Tại Việt Nam hiện đang đi theo con đường XHCN, nên phương thức tạo ra giá
trị thặng dư tuyệt đối (tạo ra do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao
động tất yếu trong khi năng suất lao động xã hội, giá trị sức lao động và thời gian lao
động tất yếu không thay đổi) không được sử dụng.
Gạt bỏ đi mục đích và tính chất của tư bản thì có thể áp dụng phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư tương đối (tạo ra do rút ngắn thời gian lao động tất yếu
bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động
thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ) và biến tấu
của nó - giá trị thặng dư siêu ngạch (phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng