Tài liệu tham khảo về kiểm soát quyền lập pháp | Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Chuyên gia cao cấp của Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Văn phòng Quốc hội, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội khóa XI
(2002-2007), GS.TS Trần Ngọc Đường viết: “Nhưng bản thân Quốc hội lại chưa có ai giám sát để bảo đảm cho Quốc hội hoạt động hợp
hiến, làm đúng, làm đủ các quy định của Hiến pháp”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:

Luật Hiến Pháp 70 tài liệu

Thông tin:
19 trang 2 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tài liệu tham khảo về kiểm soát quyền lập pháp | Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Chuyên gia cao cấp của Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Văn phòng Quốc hội, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội khóa XI
(2002-2007), GS.TS Trần Ngọc Đường viết: “Nhưng bản thân Quốc hội lại chưa có ai giám sát để bảo đảm cho Quốc hội hoạt động hợp
hiến, làm đúng, làm đủ các quy định của Hiến pháp”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

64 32 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 46842444
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
Cơ chế kiểm soát quyền lập pháp ở nước ta hiện nay:
Thực trạng và giải pháp hoàn thiện trong giai đoạn
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
Văn Cảm
1,*
, Dương Bá Thành
2*
1
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
2
Viện Chính trị học thuộc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
Nhận ngày 30 tháng 3 năm 2009
Tóm tắt. Trong giai đoạn xây dựng một Nhà nước pháp quyền (NNPQ) đích thực của dân, do dân
dân Việt Nam hiện nay, việc làm sáng tỏ về mặt luận thực trạng của chế kiểm soát
quyền lực (KSQL) lập pháp ở nước ta, đồng thời đưa ra giải pháp để hoàn thiện ché này với mô
hình luận (MHLL) của các kiến giải lập pháp (KGLP) cụ thsẽ ý nghĩa hội-pháp và ý
nghĩa khoa họcthực tiễn rất quan trọng. Tuy nhiên, cho đến nay trong khoa học pháp (KHPL) Việt
Nam vẫn chưa nghiên cứu chuyên khảo nào đcập riêng về chủ đề này. Điều đó không chcho
phép khẳng định tính cấp bách của vấn đề nghiên cứu mà còm là lý do luận chứng cho chủ đề được
đề cập trong bài báo khoa học này của chúng tôi.
1. Thực trạng của chế kiểm soát
quyền lực lập pháp ở nước ta hiện nay
*
1.1. Những ý kiến của giới luật gia về thực trạng
của cơ chế KSQL lập pháp ở nước ta hiện nay
Hầu như đã được giới KHPL Việt Nam đương
đại đưa ra tính chất phê phán hết sức thẳng
thắn, trung thực với tinh thần xây dựng, yêu
quý Tổ quốc nhân dân mình mà có lẽ khi đọc
thấy những ý kiến duới đây của họ, tbất kỳ nhà
luật học nào còn lương tâm-biết nhân dân
mong muốn cho thắng lợi cuối cùng của sự
nghiệp xây dựng một NNPQ đích thực trên Tổ
quốc Việt Nam đều không thể không đau lòng và
buộc phải suy ngẫm để cùng nhau tìm ra giải pháp
khắc phục sao cho bảo đảm đúng tinh
______
* ĐT: 84-4-
37547512.
E-mail: tskhlecam@yahoo.com
thần chỉ đạo của Đại hội X của Đảng về sự cần
thiết cấp bách phải xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến
pháp là: Xây dựng, hoàn thiện chế kiểm tra,
giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động
quyết định của quan công quyền”, Xây
dựng chế phán quyết về những vi phạm Hiến
pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư
pháp
[1]. Chẳng hạn, những ý kiến đó là:
1.1.1. Nhà khoa học-luật gia hàng đầu của
nước ta, nguyên Viện trưởng Viện Nhà nước &
pháp luật thuộc Viện KHXH Việt Nam suốt hai
thập kỷ (1988-2008), nguyên Phó Chủ tịch
thường trực kiêm Tổng thư ký Hội Luật gia Việt
Nam khóa X (2004-2009), Chủ tịch Hội đồng
Khoa học & Đào tạo của Khoa Luật trực thuộc
ĐHQGHN, GS.TSKH Đào T Úc khẳng định là
“chúng ta cũng chưa một cơ chế nào để giám
sát chính hoạt động của Quốc hội giám sát
201
lOMoARcPSD| 46842444
202 L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
tính hợp hiến của các đạo luật, nghị quyết do
Quốc hội ban hành. Nhiều thiết chế quan trọng
trong việc giám sát bảo vệ Hiến như thẩm
quyền hủy bỏ, đình chỉ văn bản trái Hiến pháp
trong thực tiễn hầu như không được áp dụng,
nhất trong hoạt động của các quan cao cấp
của Nhà nước”
[2];
1.1.2. Chuyên gia cao cấp của Viện Nghiên
cứu lập pháp thuộc Văn phòng Quốc hội, nguyên
Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội khóa XI
(2002-2007), GS.TS Trần Ngọc Đường viết:
“Nhưng bản thân Quốc hội lại chưa ai giám
sát để bảo đảm cho Quốc hội hoạt động hợp hiến,
làm đúng, làm đủ các quy định của Hiến pháp
[3];
1.1.3. Một trong vài nhà khoa học Luật Hiến
pháp hàng đầu của Viêt Nam, Trưởng Bộ môn
Luật Hiến pháp-Luật Hành chính của Khoa Luật
trực thuộc ĐHQGHN, GS.TS Nguyễn Đăng
Dung khi phê phán tính thiếu khách quan của cái
gọi quyền giám sát tối cao chế tự
mình kiểm tra mìnhviết: “Quốc hội quyền
giám sát tối cao nghĩa không một quan
nào có thể đứng trên Quốc hội để tài phán về tính
hợp hiến trong hành vi của Quốc hội mà Quốc hội
tự mình kiểm tra tính hợp hiến trong hành vi của
mình” cho rằng: đó “xuất phát từ khiếm
khuyết trong cơ chế tổ chức và phân công quyền
lực nhà nước nước ta, từ sự yếu kém của chế
bảo hiến hiện có” [4];
1.1.4. Nhà khoa học Luật Hiến pháp tên
tuổi của Viêt Nam, Trưởng Ban dân chủ & pháp
luật của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
PGS.TS Bùi Xuân Đức khi chỉ ra thực trạng
KSQL lập pháp hiện nay việc giám sát bản
thân Quóc hội còn bị bỏ ngỏđã đề nghị: 1) “toàn
bộ hoạt động của Quốc hội, mà trước hết là hoạt
động lập pháp - ttrước đến nay tuy nguy
vi hiến rất cao - nhưng chưa được xếp vào đối
tượng giám sát của cơ quan nào mà đang để cho
Quốc hội tự giám sát - cũng phải là đối tượng của
giám sát”; 2) “một điều rất hiển nhiên đã đến
lúc phải xem xet lại vi trí tính chất quan quyền
lực cao nhất của Quốc hội quyền giám sát tối
cao của Quốc hội” “Chừng nào chúng ta vẫn
còn cho Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất, thực hiện tất cả các quyền lập hiến, lập
pháp, hành pháp, tư pháp, giám sát và quyền nào
cũng là cao nhất hay tối cao thì chưa thể nói tới
giám sát Hiến pháp đúng nghĩa”
[5];
1.1.5. Một trong vài nhà khoa học Luật Hiến
pháp hàng đầu của Việt Nam, Chủ nhiệm Khoa
Nhà nước-hành chính của Trường Đại học Luật
Hà Nội (Bộ Tư pháp), PGS.TS Thái Vĩnh Thắng
chỉ ra phân tích cụ thể một loạt các khiếm
khuyết Việt Nam hiện nay như: 1) Thủ tục hoạt
động của Quốc hội không phù hợp vớiHiến
pháp”; 2) Thẩm quyền thực tế của Quốc hội
chưa phù hợp với Hiến pháp”; 3) Một số quy
định của Hiến pháp chưa được thực thi trên thực
tế”; 4) Một số quy định của Hiến pháp chưa
ràng nhưng không được giải thích”; 5) Một số
quyền hiến định của công dân không điều kiện
đảm bảo thực hiện
[6];
1.1.6. Nhà luận lớn về nhà nước pháp
luật, nguyên Viện trưởng Viện khoa học tổ chức
thuộc Ban Tổ chức TW Đảng, PGS.TS Minh
Thông cho rằng: hoạt động lập pháp (tức hoạt
động ban hành c đao luật của Quốc hội) lại
không đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội
dường như nằm ngoài sự giám sát từ phương
diện nhà nước [7]; ngoài ra, cũng còn rất
nhiều các nhận xét của các nhà khoa học-luật gia
khẵc nữa, v.v...
1.2. Nhận xét chung về thực trạng của chế
KSQL lập pháp ở Việt Nam
Nguyên nhân bản và sâu xa nhất gây nên
thực trạng này nằm đâu (?). Đó đó chính do
trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật hiện hành
của Việt Nam vẫn còn những “lỗ hỗng” rất lớn
trong chế KSQL lập pháp bằng chính hệ thống
(bộ máy) quyền lực, thực chất cho đến nay
vẫn chưa hề một điều khoản nào quy định ai
là chủ thể nhà nước có thẩm quyền giám sát tính
hợp hiến của các văn bản pháp luật (VBPL) do
lOMoARcPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 203
Quốc hội ban hành (đúng như PGS.TS Minh
Thông đã chỉ ra trên đây cho tất cả cãc nhà luật
học, Tổ quốc nhân dân ta được biết). Tại sao
lại thể một thực trạng như vậy lại tồn tại
suốt được hàng chục năm qua (?). Thiết tưởng,
đây chính điều tất cả những nhà luật học
Việt Nam chân chính đều phải trách nhiệm
cùng nhau suy ngẫm và tìm cho được câu trả lời.
Thật vậy, từ những ý kiến nêu trên của các nhà
khoa học-luật gia hàng đầu tên tuổi trong
đất nước, nghiên cứu các quy phạm hiến định
liên quan đến quyền lập pháp (QLP) trong tất cả
bốn Hiến pháp đã được ban hành từ trước đến
nay, cũng như Luật Về hoạt động giám sát của
Quốc hộinăm 2003, đồng thời trên sở phân
tích thực tiễn hoạt động của 12 khóa Quốc hội
nước ta trong 65 năm qua (kể từ Quốc hội khóa I
được nhân dân bầu ra sau thắng lợi của cuộc Cách
mạng tháng 8/1945 với sự ra đời của của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), cho phép đưa
ra nhận xét chung về thực trạng KSQL lập pháp
ở Việt Nam hiện nay trên ba (03) bình diện sau:
1.2.1. Về mặt lập pháp, trong hệ thống các
VBPL đã đang hiện hành ở Việt Nam từ sau
Cách mạng tháng 8/1945 đến nay (kể cả bốn bản
Hiến pháp 1946, 1959,
1980 và 1992 với cãch là các đạo luật cơ
bản của nhà nước hiệu lực pháp cao
nhất) vẫn chưa bất kỳ một quy phạm pháp
luật (QPPL) nào được ghi nhận với cách là
căn cứ pháp lý cho cơ chế KSQL lập pháp bằng
quyền lực công nước ta; mặt khác, theo Hiến
pháp năm 1992 hiện hành thì Quốc hội thực
hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước(khoản 4 Điều 83).
đây chính nghịch hiển nhiên nhất, một
khi Quốc hội đã tự cho mình tối cao(cao
nhất) rồi, tQuốc hội ban hành đạo một
luật nào đó vi phạm Hiến pháp (mặc cho đạo
luật đó xâm phạm đến các quyền tự do
hiến định của công dân với tư cách là những giá
trị cao quý nhất được thừa nhận chung trong
NNPQ đích thực đi chăng nữa), thì cũng không
được bất kỳ cơ quan nào trong bộ máy quyền
lực nhà nước ta có quyền phán xét sự vi hiến đó.
1.2.2. Về mặt thực tiễn, do quy phạm hiến
định nêu trên nên thực chất trong hoạt động
của tất cả bộ máy quyền lực nhà nuớc (nói
chung) của nhánh QLP (nói riêng) Việt
Nam từ trước đến nay vẫn chưa bao giờ tồn tại
chế KSQL lập pháp bằng quyền lực công -
khi QLP phải bị kiểm tra bởi một quan
chuyên trách thuộc nhánh quyền lực khác nào
đó trong chính nội bộ của hệ thống quyền lực
nhà nước căn cứ vào quy định tại khoản 4
Điều 83 Hiến pháp năm 1992 đã nêu trên đây
các quy định của Luật Về hoạt động giám sát
của Quốc hộithì quan lập pháp thuộc nhánh
QLP Việt Nam bên cạnh việc giám sát hoạt
động của hai nhánh quyền lực nhà nước kia
(quyền hành pháp-QHPquyền tư pháp-QTP)
cũng đồng thời tự mình thực hiện việc giám sát
luôn cả hoạt động của chính bản thân mình tức
là vô hình chung tạo nên một cơ chế lạ kỳ và vô
cùng bất cập không hề hoạt động KSQL lập
pháp nước ta trong chính hệ nội bộ của hệ
thống quyền lực nhà nước. Thực trạng đau lòng
này chính là câu trả lời xác đáng mà PGS.TS
Minh Thông đã thẳng thắn đặt vấn đề như sau
khi liệt các đối tượng chịu sự giám sát tối cao
của Quốc hội (Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ
tịch nước, Thủ tướng, Chính phủ, TANDTC
VKSNDTC): “Vậy, ai sẽ giám sát hoạt động lập
pháp của Quốc hội ? Câu hỏi này đã được đặt ra
hiện còn đang bỏ ngõ trong thực tiễn pháp
nước ta
và cuối cùng, PGS.TS Lê Minh Thông
đưa ra kết luận (đồng thời là sự trả lời hoàn toàn
khách quan căn cứ, bảo đảm sức thuyết
phục rất khoa học (mà lẽ cũng chính là
nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam)
là: “Dù thế nào đi chăng nữa, thì sự phân công
phối hợp giữa các quan lập pháp, hành pháp
pháp cần kèm theo chế giám sát lẫn
nhan để đạt được mục tiêu của quá trình thực
hiện quyền lực trong một nhà nước thực sự của
dân, do dân, vì dân
[8].
lOMoARcPSD| 46842444
204 L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
1.2.3. Và cuối cùng, về mặt lý luận, dưới góc
độ KHPL (bao gồm cả lý luận về NNPQ) một khi
đã không có cơ chế KSQL nhà nước (nói chung)
chế KSQL lập pháp (nói riêng), nghĩa
khi QLP không được kiểm soát bởi quan
chuyên trách thuộc nhánh quyền lực khác tự mình
kiểm soát hoạt động của chính bản thân mình, thì
ràng hoàn toàn không phù hợp với những
đòi hỏi (yêu cầu) của một NNPQ đích thực
quan điểm được thừa nhận chung của nền văn
minh nhân loại cũng là của tất cả các luật gia
tiến bộ trên thế giới - NNPQ phải là nhà nước mà
trong đó quyền lực và chính trị phải bị kiểm soát
bởi pháp luật (đúng cách diễn đạt của nhà triết
học Đức nổi tiếng I.Kant); bỏi lẽ, trong NNPQ
không thể tình trạng một quan quyền lực
nhà nuớc nào đó “vừa đá bóng-vừa thổi còi”
một khi đã NNPQ đích thực (chứ không phải
“NNPQ” được tuyên ngôn trên giấy của các
chính trị gia cầm quyền)) thì điều kiện đầu tiên
và tiên quyết không thể có bất kỳ một cơ quan-
tổ chức-nhóm người hoặc nhân người chức
vụ nào thể đứng trên-đứng ngoài pháp luật
hay được phép tự cho mình “quyền lực cao
nhất”, “quyền giám sát tối cao” hoặc tự quy định
cho mình bất kỳ thẩm quyền nào.
2. Giải pháp hoàn thiện chế kiểm soát
quyền lực lập pháp trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện
nay
2.1. Đặt vấn đề
Từ việc phân tích một số vấn đề luận
bản về cơ chế KSQL nhà nước (nói chung), cũng
như khái niệm-chức năng vai trò của chế
kiểm soát QLP trong NNPQ được đcập trong
bài viết mới đây của chúng tôi (Xem cụ thể hơn
về bài này trong Tạp chí “Nghiên cứu lập pháp”,
số 1-tháng 1/2010, tr.8-14 31), đồng thời trên
sở phân tích thực trạng KSQL lập pháp bằng
bộ máy công quyền Việt Nam hiện nay trong
bài viết này cho thấy: việc nghiên cứu để hoàn
thiện cơ chế KSQL lập pháp nước ta có ý nghĩa
lập pháp-thực tiễn và lý luận rất quan trọng như
sau:
2.1.1. Về mặt lập
pháp, cho đến hôm nay mặc
đã hơn 20 năm rôi qua (kể từ khi
công cuộc đổi mới trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống hội Việt
Nam do Đảng ta khởi xướng tại
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IV (tháng 12/1986), nhưng rất
đáng tiếc là trong hệ thống pháp
luật hiện hành của đất nước vẫn
chưa bất kỳ một VBPL nào
chính thức ghi nhận vmặt pháp
chế kiểm soát QLP bằng bộ
máy công quyền thực tế Hiến
pháp Việt Nam năm 1992 hiện
hành của nước ta cũng chỉ mới
đề cập đến chế kiểm soát
QHP QTP bằng QLP (như
khoản 4 Điều 83 đã phân tích
trên đây), đồng thời trao cho
nhánh QLP (Quốc hội) thẩm
quyền Thực hiện quyền giám
sát tối cao việc tuân theo Hiến
pháp...” (khoản 2 Điều 84) + cho
Ủy ban Thường vụ Quốc hội
thẩm quyền Giải thích Hiến
pháp Giám sát việc thi
hành Hiến phápcủa (các khoản
3, 5 Điều 91) và, lại vừa trao cho
nhánh QHP (Chính phủ) nhiệm
vụ bảo đảm việc tôn trọng
chấp hành Hiến pháp của
Chính phủ (đoạn 2 Điều 100);
2.1.2. Về mặt thực
tiễn, trong khi đó việc thành lập
chế KSQL nhà nước bằng
chế bảo vệ Hiến pháp không chỉ
đã được chính thức đề cập trong
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị BCH
TW Đảng và sau đó, Đại hội đại
lOMoARcPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 205
biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng (năm 2006) còn chỉ sự
cần thiết phải xây dựng hoàn
thiện chế KSQL để giám sát,
kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp
trong các hoạt động quyết
định của các quan công
quyền, ng như xây dựng
chế phán quyết về những vi
phạm Hiến pháp trong các hoạt
động lập pháp, hành pháptư
pháp. Như vậy, không còn nghi
ngơ nữa-rõ ràng hiện nay t
thực tiễn hoạt động của bộ máy
quyền lực nhà nước ở Việt Nam,
Đảng và Nhà nước ta đã tự nhận
thấy rằng: nguyện vọng tha thiết
của nhân dân ta đang đòi hỏi cấp
bách phải hoàn thiện chế
KSQL nhà nước (nói chung) mà
trong đó bao gồm cả KSQL lập
pháp (nói riêng) để bảo vệ Hiến
pháp bằng chế phán quyết
về những vi phạm Hiến pháp để
sao cho đạo luật cơ bản của Nhà
nước được bảo vệ một cách hữu
hiệu nhằm loại trừ 1) tình trạng
ban hành c VBPL vi hiến, 2)
những hành vi được thực hiện
trên sở các văn bản đó, 3)
cũng như sự xâm phạm thô bạo
các quyền tdo hiến định của
con người của công dân từ
phía quyền lực nhà nước, để góp
phần xây dựng thành công
NNPQ triển khai thắng lợi
công cuộc CCTP ở nước ta.
2.1.3. cuối cùng,
về mặt luận, mặc việc hoàn
thiện chế KSQL nhà nước
(nói chung) kiểm soát QLP
(nói riêng) ývai trò quan
trọng như vậy, cho đến nay
trong chuyên ngành khoa học về
chính trị học luật học của Việt
Nam mặc đã một số
nghiên cứu vvấn đề này, nhưng
ràng đến nay vẫn vắng
bóng các nghiên cứu chuyên
khảo đề cập riêng đến việc phân
tích một cách hệ thống
toàn diện chế KSQL nhà
nước (nói chung) QLP (nói
riêng) bằng “phán quyết” (tức là
bằng sự kiểm tra của Tòa án) về
những vi phạm Hiến pháp của tất
cả các quan trong bộ máy
công quyền thuộc cả ba nhánh
quyền lực nhà nước với việc
đưa ra giải pháp để hoàn thịên
với tư cách là một MHLL về các
KGLP dưới dạng từng điều luật
cụ thể của một đạo luật cho việc
tổ chức thực thi chế KSQL
nhà nước (kể cả KSQL lập pháp)
ỏ Việt Nam.
2.2. Sự phân loại một số đặc điểm
bản của hoạt động KSQL nhà nước
(bao cả KSQL lập pháp) bằng chế định
bảo vệ Hiến pháp trong NNPQ
Trên sở nghiên cứu so sánh các chế
KSQL nhà nước (gồm cả KSQL lập pháp) bằng
chế bảo hiến của một số quốc gia trên thế giới
hiện nay [9], chúng ta thể chia các chế bảo
hiến thành hai (02) hình thức chủ yếu dưới đây.
2.2.1. Hình thức bảo
hiến thứ nhất - hoạt động KSQL
nhà nước được thực hiện bằng
chế giám sát Hiến pháp với
các đặc điểm bản là: 1) Thông
thường được thực hiện bằng
nhánh QLP (nói chung) hoặc đôi
khi bằng nhánh QHP
(Ví dụ: ở nước CH Kazakxtan khi Pháp lệnh về
Hội đồng bảo hiến do Tổng thống ban hành
các cựu Tổng thống đương nhiên thành viên
lOMoARcPSD| 46842444
206 L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
suốt đời của Hội đồng này); 2) Khi VBPL vi
hiến tquan chuyên trách được giao thẩm
quyền giám sát Hiến pháp chỉ tạm đình chỉ hiệu
lực thi hành của VBPL ấy, chứ VBPL bị bãi bỏ
theo quyết định tương ứng của cơ quan giám sát
Hiến pháp (Ví dụ: Đó Viện bảo Hiến nước
Cộng hòa Rumani); 3) Về cơ bản, các công dân
không quyền khiếu kiện lên quan giám sát
Hiến pháp để đề nghị xem xét vụ việc vi phạm
c quyền tự do hiến định của họ (Ví dụ: nước
CH Êxtônia); 4) Chính vậy, hiệu quả bảo vệ
Hiến pháp, cũng như bảo vệ các quyền và tự do
hiến định của con người của công dân không
(nói một cách khác là chỉ mang tính hình
thức) do đó; 5) Không tạo được nền tảng
pháp vững chắc cho sự cân bằng nhất định
trong bộ máy quyền lực giữa các cơ quan công
quyền thuộc cả ba nhánh quyền lực (QLP, QHP
QTP) không chế “kiểm tra chế
ước nhau” của ba nhánh quyền lực đã nêu.
2.2.2. Hình thức bảo
hiến thứ hai - hoạt động KSQL
nhà nước được thực hiện bằng
chế kiểm tra Hiến pháp
(KTrHP) bởi nhánh QTP với các
đặc điểm bản là: 1) Được
thực hiện bằng một quan tư
pháp (Ví dụ: ở hầu hết các nước
trong SNG, Châu Âu, Hoa Kỳ);
2) Khi VBPL bị xem vi hiến
thì Tòa án quyền tuyên bố là
văn bản đó hiệu bị bãi bỏ
theo quyết định tương ứng của
quan kiểm tra Hiến pháp; 3)
Bờt kỳ công dân có quyền khiếu
kiện lên cơ quan KTrHP khi cho
rằng, bằng việc áp dụng điều
(khoản) trong VBPL nào đó
hoặc bằng hành vi được thực
hiện trên sở VBPL tương ứng
đó các quyền và tự do hiến định
của họ đã bị xâm phạm; 4) Chính
vậy, so với hình thứ thứ nhất
thì hiệu quả bảo vệ Hiến pháp,
cũng như các quyền và t do
hiến định của con người của
công dân của hình thức thứ hai
này cao hơn nhiều do dó; 5)
Xây dựng được nền tảng pháp
vững chắc cho sự cân bằng nhất
định trong bộ máy quyền lực
giữa các quan công quyền
thuộc cả ba nhánh quyền lực
(QLP, QHPQTP) được
chế “kiểm tra chế ước
nhau) của ba nhánh quyền lực đã
nêu. chính hình thức bảo hiến
thứ hai này với chế KTrHP,
theo quan điểm của chúng tôi
phù hợp n cả trong điều kiện
xây dựng một NNPQ đich thực
của dân, do dân và vì dân ở Việt
Nam đương đại.
2.3. Khái niệm KTrHP bằng Tòa án
các đặc điểm bản của hoạt động
này với tư cách một chế kiểm soát
quyền lực nhà nước (kể cả QLP)
Nghiên cứu lịch sử hình thành phát triển
củaý chế này cho thấy, tưởng tiến bộ về chế
định KTrHP bằng nhánh quyền lực pháp (Tòa
án) đã cội nguồn xuất hiện ngay từ thế kỷ XVII
Vương quốc Anh khi Hội đồng mật của
Hoàng gia đã coi các đạo luật do các cơ quan lập
pháp của 13 bang đầu tiên (các thuộc địa) ở Hoa
Kỳ là hiệu khi các đạo luật này trái với các đạo
luật của Nghị viện Anh hoặc thông luật, sang thế
kỷ XVIII thì một số các văn bản của chính quốc
(Anh) lại bị Tòa án coi hiệu trên lãnh thổ
của các bang miền Bắc nước Mỹ, nhưng lẽ
bước ngoặc tính chất quyết định đối với việc
hình thành chế định KTrHP bằng Tòa án chỉ
chính thức được ghi nhận vào đầu thế kỷ XIX sau
khi Tòa án Tối cao Mỹ thông qua phán quyết coi
đạo luật do Quốc hội Mỹ ban hành trái với Hiến
pháp trong vụ kiện nổi tiếng Merberi kiện
Međisonvào năm 1803 [10]. Phát triển mạnh mẽ
lOMoARcPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 207
vào thế kỷ XX trong quá trình tổ chức thực
hiện quyền lực của nhiều quốc gia cho đến
hôm nay thì cơ chế KTrHP bằng Tòa án dã được
thừa nhận chung thực thi hầu hết các quốc
gia các NNPQ trên thế giới. Như vậy, từ đây
chúng ta thể hiểu: KTrHP bằng Tòa án trong
NNPQ với cách một hình thức bảo vệ Hiến
pháp-cơ chế KSQL nhà nước bằng nhánh quyền
lực tư pháp là chức năng của quan chuyên
môn về tài phán và được thể hiện bằng hoạt động
tố tụng về Hiến pháp trong việc kiểm tra tính hợp
hiến của các văn bản do tất cả các quan-một
số những người chức vụ nhất định trong bộ
máy công quyền, tổ chức hoặc đơn vị lực lượng
trang ban hành, cũng như những hành vi (và
bất tác vi) được thực hiện trên sở văn bản vi
hiến đã xâm phạm đến các quyền tự do hiến
định của con người của công dân, cũng như
các lợi ích của xã hội hoặc/và, đồng thời xem xét
giải quyết những vấn đề khác theo thẩm quyền
do Hiến pháp luật quy định để đưa ra phán xét
cuối cùng nhằm bảo đảm tính tối thượng và hiệu
quả trực tiếp của các quy phạm Hiến pháp trong
các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước sinh
hoạt của đời sông hội ý. Căn cứ vào định nghĩa
khoa học của khái niệm này, đồng thời xuất phát
từ thực tiễn bảo vệ Hiến pháp của đa số các nước
văn minh phát triển cao các NNPQ đích thực
trên thế giới [11] cho phép chỉ ra sáu (06) đặc
điểm bản dưới đây của chế KTrHP bằng
Tòa án-cơ chế KSQL nhà nước bằng nhánh QTP
trong NNPQ.
2.3.1. Thứ nhất,
KTrHP bằng Tòa án là một hình
thức bảo vệ Hiến pháp
chế KSQL nhà nước bằng nhánh
quyền lực pháp trong
NNPQ ngoài Tòa án ra, cũng
vẫn còn rất nhiều hình thức
bảo vệ Hiến pháp với các cơ chế
KSQL thuộc hai (02) nhánh
quyền khác (QLP QHP) nữa,
chứ không chỉ riêng Tòa án
bảo vệ Hiến pháp, nhưng thực
tiễn của các NNPQ trên thế giới
đã minh một cách xác đáng-có
căn cứ bảo đảm sức thuyết
phục rằng: KTrHP bằng Tòa án
nh thức bảo vệ Hiến pháp
khả thi nhất, đồng thời cũng
chế KSQL nhà nước (bao
gồm cả QLP) cao nhất hữu
hiệu hơn cả.
2.3.2. Thứ hai, KTrHP
bằng Tòa án chức năng riêng
biệt chỉ của quan chuyên môn
về tài phán, tức việc kiểm tra
này thể được tổ chức-thực
hiện bằng các phương án khác
nhau trong hệ thống quyền lực
(Ví dụ: giao cho quan xét xử
cao nhất của đất nước như TATC
hoặc thành lập TAHP độc lập)
nhưng dù đi theo phương án nào
chăng nữa, thì để cho hoạt động
KTrHP đạt hiệu quả thì nhất thiết
cần phải gắn với thẩm
quyền tố tụng pháp (theo
đúng nghĩa hẹp của từ
pháp”) trong NNPQ.
2.3.3. Thứ ba, KTrHP
bằng Tòa án được thể hiện bằng
khả năng tố tụng về Hiến pháp
trong việc kiểm tra tính hợp hiến
của các văn bản do các quan
và một số người chức vụ nhất
định trong bộ máy công quyền,
tổ chức hoặc đơn vị lực lượng
trang ban hành khi văn bản đó
dấu hiệu vi hiến bị khiếu
nại theo đúng quy trình do Hiến
pháp các luật liên quan quy
định.
2.3.4. Thứ , KTrHP
bằng Tòa án cũng được thể hiện
bằng việc xem xét giải quyết
cả những hành vi (hoặc bất tác
vi) được thực hiện trên sở văn
lOMoARcPSD| 46842444
208 L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
bản vi hiến đã xâm phạm đến
các quyền tự do hiến định của
công dân.
2.3.5. Thứ năm,
KTrHP bằng Tòa án cũng được
thể hiện đồng thời bằng việc
xem xét và giải quyết những vấn
đề khác theo thẩm quyền do
Hiến pháp các luật liên
quan quy định (Ví du: đó
những vấn đề như tính hợp hiến
của các Hiệp ước quốc tế của
quốc gia sở tại, các kết quả bầu
cử-trưng cầu dân ýý, trình tự phế
truất nguyên thủ quốc gia, thủ
tục cách chức những người
chức vụ cáo nhất trong Nhà
nước hay sự tranh chấp về thẩm
quyền của các quan quyền lực
Nhà nước ở TW, v.v...).
2.3.6. cuối cùng,
thứ sáu, kết quả của việc KTrHP
bằng Tán phải đưa ra được
phán xét cuối cùng mang tính
pháp nhằm bảo đảm tính tối
thượng và hiệu quả trực tiếp của
các quy phạm Hiến pháp trong
các lĩnh vực hoạt động của Nhà
nước sinh hoạt của hộiý,
phán xét cuối cùng đó là bắt
buộc đối với tất cả các pháp
nhân thể nhân liên quan
trên lãnh thổ của cả nước (nói
một ch khác, kết quả của thủ
tục tố tụng về Hiến pháp này
phải là chung thẩm).
3. Các phương án để thực hiện giải pháp hoàn
thiện chế KSQL nhà nước (gồm cả QLP)
bằng nhánh quyền lực tư pháp (Tòa án)
Trong giai đoạn xây dựng NNPQ và CCTP
Việt Nam hiện nay khi bàn về việc hoàn thiện cơ
chế KSQL nhà nước (gồm cả KSQL lập pháp)
nhà làm luật thể lựa chọn một trong bốn (04)
phương án là thành lập: 1) Ủy ban giám sát Hiến
pháp của Quốc hội; 2) Hội đồng bảo hiến do Chủ
tịch nước đứng đầu; 3) Tòa Hiến pháp với cách
Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân tối
cao (TANDTC) hoặc; 4) Tòa án Hiến pháp
(TAHP) độc lập (chỉ tổ chức cấp TW). Vậy thì
trong bốn Phương án này thì Phương án nào
khả thi hơn cả (?). Đây chính là câu hỏi cần phải
được lập luận một cách khoa học để câu
trả lời xác đáng, căn cứ và bảo đảm sức thuyết
phục mà chính các nhà luật học của đất nước cần
phải đưa ra cho Tổ quốc nhân dân. Dưới đây
chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng Phương án:
3.1. Nếu như tổ chức thực thi chế
định KTrHP theo cả ba (03) Phương án
đầu tiên (thứ 1, 2 3) thì sẽ không bảo
đảm tính khách quan vì hình chung sẽ
tạo nên chế “vừa đá bóng, vừa thổi
còi” của mỗi nhánh quyền lực - khi Quốc
họi Chủ tịch nước hoặc TANDTC ngoài
các chức năng-nhiệm vụ nặng nề đang
đảm nhiệm ra, sẽ tiếp tục thực hiện thêm
các chức năngnhiệm vụ của hoạt động
KTrHP đối với VBPL do các quan
thuộc hai nhánh quyền lực khác ban
hành và, đồng thời đối với cả các VBPL
do chính mình ban hành. Đó là chưa bàn
đến việc cả ba cấu trúc quyền lực này
còn phải dành rất nhiều thời gian để hoàn
thành cho thật tốt các chức năng-nhiệm
vụ hiến định vô cùng nặng nề và vinh dự
tương ứng với vị trí hiện tại của mình
trước Tổ quốc nhân dân nữa. Vậy thì
họ còn đủ thời gian để đảm đương
thêm các chức năng-nhiệm vụ của hoạt
động KTrHP cùng phức tạp, đòi hỏi
phải trình độ nghề nghiệp cao, kiến
thức chuyên môn giỏi (được giới luật học
của đất nước bạn quốc tế thừa nhận
chung) và, đầy trọng trách trước Tổ quốc
nhân dân hay không (?). Chắn chắn
lOMoARcPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 209
100% là “không thể” còn đủ thời gian để
đảm đương thêm được nữa (!).
3.2. Như vậy, ràng chỉ còn
Phương án cuối cùng (thứ 4) khả thi
hơn cả vì lý do xác đáng như sau: Chính
lịch sử lập hiến-bảo hiến, cũng như thực
tiễn KSQL nhà nước trên thế giới hàng
trăm năm qua đã đang chứng minh
đều đó các NNPQ đích thực các
nước văn minh phát triển cao. Ngay
hiện nay, chưa tính một loạt các nước
Châu Âu (như: Áo, Hungari, CHLB
Đức, Italia, BaLan, Rumana, Tursia, CH
Séc, v.v...) [12], chỉ tính riêng trong số
15 nước CHLB thuộc Liên Xô cũ thì có
đến 4/5 (12 nước) thành lập TAHP độc
lập và chỉ ở cấp TW [13].
4.3. Tóm lại, nếu như Quôc hội thực hiện đúng
Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính tr
tưởng của Đại hội đảng lần thứ X, cũng như đáp
ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân quyết
định chọn Phương án thứ 4 nêu trên này, thì giải
pháp khả thi n cả Quốc hội cần phải ban
hành Luật “Về Tòa án Hiến pháp Việt Nam” (chỉ
tổ chức một cấp TW song song bên cạnh
TANDTC) trong đó cần ghi nhận đầy đủ
những vấn đề về t chức hoạt động của
quan tài phán chuyên trách hoạt động ttụng
pháp về Hiến pháp để bảo đảm cho việc thực hiện
hiệu quả hoạt động KSQL nhà nước của nhánh
quyền lực tư pháp đối với cả ba nhánh quyền lực
nhà nuớc (nhánh QLP - Quốc hội, nhánh QHP -
Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, nhánh
QTP - hệ thống Tòa án chung).
4. Các luận cứ khoa học để tổ chức thực hiện
chế KSQL nhà nước (kể cả QLP) bằng
nhánh QTP (Tòa án) Việt Nam trong giai
đoạn xây đựng NNNQ hiện nay thể được
lý giải bởi các lý do chủ yếu dưới đây
4.1. Đã từ lâu, xung quanh nội dung
của chế bảo vHiến pháp đã được các
nhà khoa học-luật gia trao đổi, tranh luận
sôi nổi trong sách báo pháp lý, cũng như
trên nhiều diễn đàn của các Hội thảo
khoa học ở nước ta suốt nhiều năm qua
(nhất từ khi Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm
2002 chính thức ghi nhận về mặt hiến định
tưởng NNPQ ở Việt Nam) và tại Hội thảo khoa
học với chủ đề chế bảo hiến Việt Nam
do Ban Công tác lập pháp của UBTV Quốc hội
tổ chức tỉnh Nghệ An (TP. Vinh, tháng
5/2005) khi tổng thuật các ý kiến được phát biểu
tại buổi Hội thảo khoa học này, tác giả Hồng
Chanh đã viết: “Đa số các ý đều nhận xét rằng,
việc bảo vệ Hiến pháp nước ta không được
giao cho một quan chuyên trách mà tất cả các
quan trong bộ máy Nhà nước đều nghĩa
vụ bảo vệ Hiến pháp thì hiệu quả hiệu lực
không cao; không đề cao được trách nhiệm bảo
vệ Hiến pháp của Nhà nước hội. Bảo vệ
Hiến pháp theo chế hiện hành chủ yếu dựa
vào quyền giám sát tối cao của Quốc hội thì có
sự lẫn lộn giữa quyền lập pháp quyền tài phán
(tư pháp)” [14]. Điệt biệt, một số nhà khoa
họcluật gia Việt Nam đã thẳng thắng đưa ra sự
đánh giá về thực trạng bảo vệ Hiến pháp ở nước
ta mà chúng tôi đã trích dẫn trên đây (trong phần
về thực trạng KSQL lập pháp của Việt Nam).
4.2. Sự nhận thức-khoa học thống
nhất biện chứng của việc hoàn thiện
chế KSQL nhà nước (nói chung)
KSQL lập pháp (nói riêng) bằng hoạt
động KTrHP bởi nhánh quyền lực
pháp (Tòa án) trong giai đoạn xây dựng
NNPQ Việt Nam thể được giải
trên một số bình diện sau:
1) Thực tiễn lập hiến của
Nhà nước ta từ sau Cách mạng tháng
8/1945 đến nay cho thấy, các Hiến
pháp Việt Nam với cách những
đạo luật bản của Nhà nước
hiệu lực pháp cao nhất trong các
lOMoARcPSD| 46842444
210 L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
thời kỳ khác nhau đều ghi nhận các
mức độ khác nhau các quy phạm thuộc
lĩnh vực pháp (như: các quyền tự do
và bất khả xâm phạm về thân thể, nhà
ở, được pháp luật bảo hộ về tính mạng
sức khỏe, danh dự nhân phẩm của
công n; việc bắt, giam giữ, truy tố
xét xử công dân phải theo tuân theo
luật định; tổ chức và hoạt động của hệ
thống Tòa án hệ thống Viện kiểm
sát-VKS) - các điều 63-69 Hiến pháp
năm 1946 [15]; Điều 27-29, 38 và các
điều 97-108 Hiến pháp năm 1959
[16]; Điều 55, các điều 69-73, 77
các điều 127-141 Hiến pháp năm 1980
[17]; các điều 71-74 và các điều 126-
140 Hiến pháp năm 1992 [18].
2) Mặt khác, cả luận
thực tiễn về NNPQ hàng trăm năm
qua, cũng như thực tiễn quốc tế hiện
đại ở các nước văn minh và phát triển
cao những năm cuối của thế kỷ XX-
đầu thế kỷ XXI đã và đang khẳng định
một chân lý khách quan, có căn cứ và
đảm bảo sức thuyết phục rằng: dù cho
hoạt động của hệ thống tư pháp có tốt
đến đâu nhưng nếu không sự hiện
diện của hoạt động KSQL nhà nước
(kể cả KSQL lập pháp) với chế
KTrHP bằng nhánh QTP (Tòa án) để
đảm bảo tính tối thượng của luật (mà
trước hết Hiến pháp với cách
đạo luật bản của nhà nước hiệu
lực pháp lý cao nhất trong toàn bộ hệ
thống pháp luật của mỗi quốc gia), thì
cũng không thể nói đến việc nâng
cao hiệu quả của hoạt động đó, nhất
trong lĩnh vực pháp - lĩnh vực liên
quan hàng đầu thiết thực nhất đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm, cũng như các quyền tự do
của con người và của công dân.
3) Vai trò quan trọng nhất
của chế KTrHP bằng nhánh quyền
lực pháp (Tòa án) chính chỗ -
sẽ chế hữu hiệu nhất để đảm
bảo cho quyền lực Nhà nước một
thể thống nhất và thực sự dựa trên chủ
quyền của nhân dân, chứ không thể có
nhánh quyền lực nào được phép tự cho
mình cao nhất hay tối cao -
đứng trên các nhánh quyền lực kia.
Bởi lẽ, cùng với việc thực thi chế
KTrHP bằng nhánh quyền lực tư pháp
(Tòa án) chúng ta sẽ xây dựng được
một loạt các chế pháp hữu hiệu
để thực hiện sự kiểm soát quyền lực
Nhà nước bằng một hệ thống Tòa án
công minh, thực sự độc lập chỉ tuân
theo pháp luật, cũng như sự chế
ướcphối hợp với nhau giữa ba nhánh
quyền lực trong NNPQ (QLP, QHP
QTP). thực tiễn BVPL trong các
lĩnh vực khác nhau của đời sống hội
Việt Nam những năm qua đã minh
chứng một cách xác đáng rằng: không
thực thi chế định KTrHP - chính một
trong những nguyên nhân chủ yếu
cho đến nay nước ta vẫn chưa thể
khắc phục được thực trạng bức xúc đã
đang xâm phạm đến các quyền
tự do hiến định của con người của
công dân khi một số Bộ, ngành ở TW
chính quyền các địa phương tùy
tiện ban hành các văn bản trái pháp
luật (hoặc vi hiến). hậu quả tiêu
cực của việc triển khai thực hiện các
văn bản này - không chỉ gây thiệt hại
cho cho các quyền tự do hiến định
của công dân, còn xâm phạm thô
bạo pháp chế, gây ảnh hưởng xấu
trong dự luận quần chúng nhân dân
làm mất uy tín của Đảng Nhà nước.
4) Việc hoàn thiện chế
KSQL nhà nước (kể cả KSQL lập
pháp) bằng hoạt động KTrHP bởi
nhánh quyền lực pháp (Tòa án) sẽ
bảo đảm tính tối thượng của luật (mà
lOMoARcPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 211
trước hết là Hiến pháp) trong các lĩnh
vực sinh hoạt của Nhà nước sẽ góp
phần chống lại được sự độc đoán, tùy
tiện xâm hại đến sự bình đẳng
công lý, dân chủ các quyền, tự do
của công dân của từ phía một bộ phận
các quan chức trong bộ máy công
quyền). một khi quan tài phán về
Hiến pháp được trao thẩm quyền sẽ
tuyên bố hiệu đối với tất cả các văn
bản luật và dưới luật vi hiến do bất kỳ
quan Nhà nước, tổ chức hội, đơn
vị kinh tế, lực lượng trang hay bất
kể người chức vụ nào (kể cả chức
vụ cao nhất) ban hành, cũng như
những hành vi được thực hiện trên cơ
sở các văn bản vi hiến đó.
5) như vậy, chế
KSQL nhà nước (kể cả KSQL lập
pháp) bằng hoạt động KTrHP bởi
nhánh quyền lực pháp (Tòa án)
ràng một nhu cầu bức thiết kỳ
vọng chính đáng của nhân dân lao
động toàn hội, chức năng
nhiệm vụ của bmáy quyền lực nhà
nước ta nói chung và hệ thống tư pháp
của đất nuớc nói riêng để bảo đảm tốt
hiệu lực các quy định của Hiến pháp
với tính chất là đạo luật bản của
Nhà nước giá trị pháp cao nhất
nên nếu như chiến lược CCTP đến
năm 2020 Việt Nam được Nhà nước
thực sự quan tâm được tiến hành
một cách tổng thể toàn diện, đồng
thời muốn nâng cao được hiệu quả của
hệ thống tư pháp thì nên chăng chúng
ta cần phải triển khai việc thực thi
chế đã nêu.
5. hình lý luận về các KGLP với tên gọi
của từng điều luật cụ thể của Dự thảo Luật
Về Tòa án Hiến pháp Việt Nam (trong
tương lai)
Trên sở tham khảo hình tổ chức Tòa án
Hiến pháp (TAHP) của các nuớc Châu Âu (như:
Áo, Hungari, CHLB Đức, Italia, BaLan,
Rumana, Tursia, CH Séc và một số bang của của
Thụy Sĩ) [19], nghiên cứu so sánh một loạt các
văn bản như: 12 Luật về TAHP của các nước
thuộc Liên Xo (trừ ba nước: Tuốcmênia -
không TAHP, Kazaxtan - tổ chức Hội đồng bảo
hiến thuộc nhánh quyền hành pháp do Tổng
thống ra Pháp lệnh ban hành và, Extônia - tổ chức
Viện bảo hiến thuộc Quốc hội để thực hiện hoạt
động giám sát Hiến pháp) + 4 Quy chế về TAHP
(của LB Nga, Belarux, Gruzia, Ukraina) + 2 Luật
Về thủ tục tố tụng Hiến pháp(của Gruzia
Kưrgưxtan) + Bộ luật tố tụng Hiến pháp và Luật
Về các biện pháp bảo đảm vật chất cho sự độc
lập của các Thẩm phán TAHPcủa Môđavia +
Luật Về các bảo đảm hộ cho cho các Thẩm
phán TAHPcủa Gruzia [20], đồng thời xuất phát
từ thực tiễn tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước ở Việt Nam, cũng như sự phát triển của các
quan hệ hội trong giai đoạn xây dựng NNPQ
và CCTP hiện hay và
trong tương lai sau này, căn cứ vào các điều kiện
cụ thể về chính tri-pháp lí, kinh tế-xã hội, lịch sử-
văn hóa ở nước ta, theo quan điểm của chúng tôi
sẽ hợp nếu như các điều khoản cụ thể của Dự
thảo Luật Về Tòa án Hiến pháp Việt Nam
(trong tương lai) sẽ cấu gồm 05 Phần
được phân chia thành 15 Chương với tổng số 100
điều theo MHLL của các KGLP đã được chúng
tôi soạn thảo trong Phụ lục I ở cuối bài báo này.
6. Kết luận
Việc nghiên cứu những vấn đề luận về
thực trạng của cơ chế KSQL lập pháp ở nước ta
hiện nay giải pháp hoàn thiện trong giai
đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam cho phép đưa
ra những kết luận như sau:
Một , thực trạng KSQL lập pháp trong bộ
máy công quyền của Việt Nam đã được phân
tích trên ba bình diện (lập pháp, thực tiễn
lOMoARcPSD| 46842444
212 L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
luận) trên đây cho thấy, để góp phần cho thắng
lợi cuối cùng của sự nghiệp xây dựng một
NNPQ đích thực thì thực trạng đã nêu cần phải
được nhanh chóng khắc phục chỉ như vậy,
chúng ta mới thể tránh khỏi được những hệ
lụy tất yếu với tư cách quy luật khách quan
(như đã phân tích trên đây). ràng là nếu
như thực trạng đó vẫn tiếp tục bị kéo dài thì sẽ
vô cùng rất bất lợi cho Việt Nam trong các quan
hệ đối ngoại; bởi lẽ, chính trong đạo luật bản
của nhà nước hiệu lực pháp cao nhất chúng
ta đã long trọng tuyên bố trước toàn thế giới
(mặc dù sự thật Việt Nam chưa phảiNNPQ
mà chúng ta mói chỉ đang ở trong giai đoạn xây
dựng thôi) là Nhà nước cộng hòa XHCN
Việt Nam Nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân, nhân dân...(khoản
1 Điều 2 Hiến pháp năm 1992) nên cần phải có
giải pháp thiết thực cụ thể sao cho đồng quốc tế
khỏi đánh giá cam kết của Việt Nam “chỉ
tính chất tuyên ngôn trên giấy” hoặc là “lời nói
không đi đôi với việc làm” - chính điều
các nhà luật học Việt Nam cần phải cùng nhau
suy ngẫm để đưa ra các kiến giải lập pháp
(KGLP) cụ thể và cũng là vấn đề rất quan trọng
chúng ta phải khẩn trương triển khai ngay
trong chiến lược cải cách pháp (CCTP) tnay
đến năm 2020.
Hai là, đề hoàn thiện và xây dựng những căn
cứ pháp cho hoạt động KSQL nhà nước (gồm
cả kiểm soát QLP) theo chế KTrHP bằng
nhánh quyền lực tư pháp (Tòa án), thì với tư cách
là đạo luật cơ bản của nhà nước có hiệu lực pháp
cao nhất, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 cần
phải được sửa đổi-bổ sung, đồng thời Quốc hội
cần ban hành Luật Về Tòa án Hiến pháp Việt
Nam”.
Ba , KTrHP bằng Tòa án trong NNPQ với
cách là cơ chế KSQL nhà nước đối với không
chỉ nhánh QLP, còn đối với cả hai nhánh
quyền lực còn lại - QHP và QTPhình thức bảo
vệ Hiến pháp bằng nhánh quyền lực pháp ,
chức năng của cơ quan chuyên môn về xét xử (tài
phán) và được thể hiện bằng hoạt động tố tụng
pháp về Hiến pháp trong việc kiểm tra tính hợp
hiến của các VBPL do tất cả các cơ quan (những
người chức vụ) trong bộ máy công quyền, tổ
chức hoặc đơn vị lực lượng vụ trang ban hành,
cũng như những hành vi (và bất tác vi) được thực
hiện trên cơ sở văn bản vi hiến đã xâm phạm đến
các quyền và tự do hiến định của công dân, đồng
thời xem xét và giải quyết những vấn đề khác đã
nêu theo thẩm quyền do Hiến pháp pháp luật
quy định để đưa ra phán xét cuối cùng nhằm bảo
đảm tính pháp chế cao nhất, tính tối thượng
hiệu quả trực tiếp của các quy phạm Hiến pháp
trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước
sinh hoạt của xã hội.
Bốn , vấn đề thành lập TAHP Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng NNPQ hiện nay với tư
cách quan chuyên môn để thực hiện hiện
chức năng KSQL nhà nước (gồm cả KSQL lập
pháp) không chỉ xuất phát từ thực tiễn hoạt động
của hệ thống quyền lực nhà nước Việt Nam từ sau
Cách mang tháng 8/1945 đến nay, nguyện vọng
tha thiết của các tầng lớp nhân dân ta về việc thực
thi cơ chế KTrHP bằng nhánh quyền tư pháp với
mục đích làm cho đạo luật cơ bản của Nhà nước
được bảo vệ một cách hữu hiệu, loại trừ tình trạng
ban hành các VBPL vi hiến, những hành vi (và
bất tác vi) được thực hiện trên cơ sở các văn bản
đó, cũng như sự xâm phạm thô bạo các quyền và
tự do hiến định của con người và của công dân t
phía quyền lực nhà nước, góp phần xây dựng
thành công NNPQ triển khai thắng lợi công
cuộc CCTP ở nước ta.
cuối cùng, năm , từ tất cả sự phân tích
khoa học những vấn đề đã được nghiên cứu trong
bài viết này, chúng tôi đã cố gắng soạn thảo
MHLL về các KGLP với tên gọi của từng điều
khoản cụ thể trong Dự thảo Luật Về Tòa án Hiến
pháp Việt Nam(trong tương lai) với cơ cấu gồm
05 Phần và được phân chia thành 15 Chương với
tổng số 100 điều (Xem cụ thể hơn: Toàn văn tên
gọi của từng Phần, Chương Điều, cũng như
MHLL về nội dung cụ thể của các KGLP đói với
sáu điều đầu tiên thuộc các chương I, II III
lOMoARcPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 213
trong Dự thảo Luật đã nêu tại Phụ lục I & Phụ
lục II dưới đây).
PHỤ LỤC I
hình luận vcác kiến giải lập pháp với
tên gọi của từng điều cụ thể trong Dự thảo
Luật “Về Tòa án Hiến pháp Việt Nam
(trong tương lai)
1. Phần thứ nhất Các quy định về tổ chức-
hoạt động của TAHP Việt Namđược phân chia
thành bốn (04) Chương với 24 điều là:
1) Chương I Về vị trí, sở pháp lý
nhiệm vụ của TAHP Việt Nam gồm 03 điều
(Điều 1. Vị trí của Tòa án Hiến pháp; Điều 2.
sở pháp lýý của việc tổ chức-hoạt động, của việc
ghi nhận các thẩm quyền và các đặc điểm tố tụng
của TAHP và; Điều 3. Nhiệm vụ của TAHP).
2) Chương II Về các thẩm quyền bảo
đảm cho hoạt động của TAHP Việt Namgồm 02
điều (Điều 4. Các thẩm quyền của TAHP và; Điều
5. Các bảo đảm cho hoạt động của TAHP).
3) Chương III “Về địa vị pháp lý của thẩm
phán TAHP Việt Nam” gồm 12 điều (Điều 6. c
tiêu chuẩn của Thẩm phán TAHP; Điều 8.
Quy trình bổ nhiệm Thẩm phán TAHP; Điều 9.
Những hạn chế đối với Thẩm phán TAHP; Điều
10. Các bảo đảm cho sự độc lập của Thẩm phán
TAHP; Điều 11. Sự bất khả xâm phạm đối với
Thẩm phán TAHP; Điều 12. Sự bình đẳng về
quyền nghĩa vụ của các Thẩm phán TAHP;
Điều 13. Tuyên thệ của Thẩm phán TAHP; Điều
14. Nhiệm kỳ giữ chức vụ Thẩm phán TAHP;
Điều 15. Tạm đình chỉ chức vụ Thẩm phán
TAHP; Điều 16. Chấm dứt giữ chức vụ Thẩm
phán TAHP; Điều 16. Thôi giữ chức vụ của Thẩm
phán TAHP Điều 17. Nghỉ hưu của Thẩm phán
TAHP).
4) Chương IV Về cấu tổ chức hoạt
động của TAHP Việt Namgồm 07 điều (Điều
18. Các Tòa chuyên trách của TAHP; Điều 19.
Bộ máy giúp việc của TAHP; Điều 20. Những
vấn đề được xem xét giải quyết tại các phiên
họp toàn thể của TAHP; Điều 21. Những vấn đề
được xem xét giải quyết tại các phiên họp của
Tòa chuyên trách; Điều 22. Chức năng, quyền
hạn của Chánh án, Phó chánh án Thẩm phán-
Thư TAHP; Điều 23. Những nguyên tắc bản
trong tổ chức-hoạt động của TAHP và; Điều 24.
Trình tự thông qua nội dung cơ bản của Quy chế
về TAHP).
2. Phần thứ haiCác quy định chung về thủ
tục tố tụng TAHP Việt Namđược phân chia
thành năm (05) Chương với 50 điều là
1) Chương V Những nguyên tắc bản
của tố tụng về Hiến phápgồm có 09 điều (Điều
25. Nguyên tắc pháp chế của tố tụng về Hiến
pháp; Điều 26. Nguyên tắc độc lập của tố tụng về
Hiến pháp; Điều 27. Nguyên tắc tập thể của tố
tụng về Hiến pháp; Điều 28. Nguyên tắc công
khai của tố tụng về Hiến pháp; Điều 29. Nguyên
tắc xét xử liên tục của tố tụng về Hiến pháp; Điều
30. Nguyên tắc xét xử bằng miệng của tố tụng
về Hiến pháp; Điều 31. Nguyên tắc tranh tụng
của tố tụng về Hiến pháp; Điều 32. Nguyên tắc
bình đẳng của các bên trong tố tụng về Hiến pháp
và; Điều 33. Nguyên tắc bảo đảm quyền sử dụng
ngôn ngữ của những người tham gia trong tố tụng
về Hiến pháp).
2) Chương VI Quy trình tiếp nhận phân
loại đơn thư gửi đến TAHP Việt Nam” gồm 03
điều (Điều 34. do căn cứ để xem xét vụ việc
ở TAHP; Điều 35. Những yêu cầu chung đối với
đơn thư gửi đến TAHP; Điều 36. Phân loại của
Ban thư kí các đơn thư gửi đến TAHP).
3) Chương VII Xem xét sơ bộ đơn thư gửi
đến TAHP Việt Namgồm 04 điều (Điều 37.
Nghiên cứu bộ đơn thư của Thẩm phán TAHP;
Điều 38. Tiếp nhận đơn thư để xem xét; Điều
39. Từ chối tiếp nhận đơn thư để xem xét và;
Điều 40. Rút lại đơn thư).
4) Chương VIII Thủ tục ttụng chung của
việc xem xét các vụ việc ở TAHP Việt Nam” gồm
22 điều (Điều 41. Triệu tập phiên họp toàn thể
của TAHP và phiên họp của Tòa chuyên trách;
lOMoARcPSD| 46842444
214 L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
Điều 42. Trình tự xem xét các vấn đề tại phiên
họp toàn thể của TAHP phiên họp của Tòa
chuyên trách; Điều 43. Quyết định đưa vụ việc ra
xem xét; Điều 44. Hợp nhất vụ việc; Điều 45.
Chuẩn bị xem xét vụ việc; Điều 46. Gửi các tài
liệu thông báo về lịch của các phiên họp; Điều
47. Những người tham gia tố tụng về Hiến pháp;
Điều 48. Các bên tham gia tố tụng về Hiến pháp
người đại diện của họ; Điều 49. Những trường
hợp Thẩm phán TAHP không được tham gia xem
xét vụ việc; Điều 50. Khai mạc phiên tòa; Điều
51. Ghi biên bản; Điều 52. Trật tự phiên tòa; Điều
53. Trình tự nghiên cứu các vấn đề và các tài liệu
tại phiên tòa; Điều 54. Trình bày của các bên;
Điều 55. Lời khai của nhân chứng; Điều 56. Kết
luận của giám định viên; Điều 57. Phát biểu kết
luận của các bên; Điều 58. Hoãn phiên tòa; Điều
59. Trở lại xem xét vấn đề; Điều 60. Những
trường hợp đình chỉ tố tụng vụ việc về Hiến pháp;
Điều 61. Kết thúc xem xét vụ việc tại phiên tòa;
Điều 62. Nghị án để thông qua phán quyết đối với
vụ việc).
5) Chương IX Các phán quyết của TAHP
Việt Nam gồm 12 điều (Điều 63. Các loại
phán quyết của TAHP; Điều 64. Trình tự thông
qua phán quyết của TAHP; Điều 65. Những yêu
cầu đối với c phán quyết của TAHP; Điều 66.
Những thông tin cần phải được ghi trong phán
quyết của TAHP; Điều 67. ýBảo lưu ý kiến riêng
của Thẩm phán TAHP; Điều 68. Hiệu lực pháp
của phán quyết do TAHP Việt Nam tuyên; Điều
69. Tuyên phán quyết của TAHP; Điều 70. Sửa
chữa những điểm chưa chính xác trong phán
quyết của TAHP; Điều 71. Công bố phán quyết
của TAHP; Điều 72. Giải thích phán quyết của
TAHP; Điều 73. Thời hạn thi hành phán quyết
của TAHP; Điều 74. Hậu quả của việc không thi
hành, thi hành không đúng hoặc cản trở việc thi
hành phán quyết của TAHP).
3. Phần thứ ba Các quy định về các đặc
điểm tố tụng đối với từng loại vụ việc thuộc thẩm
quyền của TAHP Việt Namđược phân chia thành
01 điều riêng không thuộc Chương nào (Điều 75.
Phân loại những vụ việc thuộc thẩm quyền tố
tụng của TAHP) + năm (06) Chương với
20 điều là
1) Chương X Các đặc điểm tố tụng đối với
những vụ việc về kiểm tra tính hợp hiến của các
văn bản quy phạm pháp luật” gồm 04 điều (Điều
76. Quyền gửi đơn tđến TAHP dưới hình thức
chất vấn; Điều 77. Điều kiện để chất vấn được
TAHP chấp nhận; Điều 78. Phạm vi kiểm tra tính
hợp hiến của văn bản QPPL bị chất vấn và; Điều
79. Phán quyết đối với vụ việc về kiểm tra tính
hợp hiến của văn bản QPPL bị chất vấn).
2) Chương XI “Các đặc điểm tố tụng đối
với những vụ việc về kiểm tra tính hợp hiến của
các quy định bị khiếu nại xâm phạm đến các
quyền tự do hiến định của công dân” gồm 04 điều
(Điều 80. Quyền gửi đơn t đến TAHP dưới
hình thức khiếu nại; Điều 81. Điều kiện để khiếu
nại được TAHP chấp nhận; Điều 82. Phạm vi
kiểm tra tính hợp hiến của quy định bị khiếu nại
và; Điều 83. Phán quyết đối với vụ việc về kiểm
tra tính hợp hiến của quy định bị khiếu nại).
3) Chương XII Các đặc điểm tố tụng đối
với những vụ việc giải quyết tranh chấp về phân
định thẩm quyềngồm 04 điều (Điều 84. Quyền
gửi đơn thư đến TAHP dưới hình thức đề nghị;
Điều 85. Điều kiện để đề nghị được TAHP chấp
nhận; Điều 86. Phạm vi kiểm tra tính hợp hiến
của tranh chấp được đề nghị giải quyết và; Điều
87. Phán quyết đối với vụ việc về kiểm tra tính
hợp hiến của tranh chấp được đề nghị giải quyết).
4) Chương XIII “Các đặc điểm tố tụng đối
với những vụ việc về giải thích Hiến pháp, cũng
như các văn bản pháp luật quốc tế khi mâu
thuẫn với các văn bản pháp luật quốc gia”`gồm
04 điều (Điều 88. Quyền gửi đơn thư đến TAHP
dưới hình thức chất vấn; Điều 89. Điều kiện để
chất vấn được TAHP chấp nhận; Điều 90. Phạm
vi giải thích nội dung được chất vấn và; Điều 91.
Phán quyết đối với vụ việc về giải thích nội dung
được chất vấn).
5) Chương XIV “Các đặc điểm tố tụng đối
với những vụ việc về sự tuân thủ trình tự do luật
lOMoARcPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 215
định trong việc khởi tố vụ án hình sự, đưa ra cáo
trạng hoặc bản án đối với những người chức
vụ cao nhất trong Ban lãnh đạo của đất nước”
gồm 04 điều (Điều 92. Quyền gửi đơn thư đến
TAHP dưới hình thức chất vấn; Điều 93. Điều
kiện để chất vấn được TAHP chấp nhận; Điều
94. Trình tự gửi chất vấn đến TAHP và; Điều
95. Phán quyết của TAHP).
4. Phần thứ tư vàmột Chương
XV Các quy định về ấn bản, con dấu,
biểu tượng quyền pháp trụ sở của
TAHP Việt Namgồm 04 điều (Điều 96.
Ấn bản chính thức của TAHP; Điều 97.
Con dấu của TAHP; Điều 98. Biểu tượng
quyền pháp của TAHP và; Điều 99.
Trụ sở làm việc của TAHP)
5. cuối cùng, Phần thứ năm
Quy định về hiệu lực thi hành Luật này
không phân chia thành Chương chỉ
gồm 01 điều (Điều 100. Hiệu lực thi
hành của Luật này)”.
PHỤ LỤC II
Mô hình lý luận mẫu về nội dung cụ thể của
các KGLP về sáu điều đầu tiên (1-6) thuộc
ba chương (I, II và III) trong Dự thảo Luật
Về Tòa án Hiến pháp Việt Nam” (tương lai)
Phần thứ nhất: Các quy định về tổ chức -
hoạt động của Tòa án Hiến pháp Việt Nam
Chương I
VỊ TRÍ, SỞ PHÁP NHIỆM VỤ
CỦAA ÁN HIẾN PHÁP VIỆT NAM
(Gồm 3 điều luật)
Điều 1. Vị trí của Tòa án Hiến pháp Việt Nam
Tòa án Hiến pháp (TAHP) Việt Nam
quan kiểm tra Hiến pháp (KTrHP) cao nhất trong
bộ máy quyền lực Nhà nước Việt Nam, độc lập
thực hiện quyền pháp bằng hoạt động tố tụng
về Hiến pháp đối với các vấn đ thuộc thẩm
quyền do Hiến pháp và Luật này quy định.
Điều 2. Cơ sở pháp lýý của việc tổ chức-hoạt
động, của các thẩm quyền của các đặc điểm tố
tụng của Tòa án Hiến pháp Việt Nam
1. Những sở pháp lýý của việc tổ
chứchoạt động, của các thẩm quyền của các
đặc điểm tố tụng của Tòa án Hiến pháp Việt Nam
do Hiến pháp và Luật này quy định.
2. Trong khi thực hiện hoạt động tố tụng về
Hiến pháp đối với các vấn đề thuộc thẩm quyền
của mình, Tòa án Hiến pháp Việt Nam có quyền
viện dẫn trực tiếp các quy định của Hiến pháp với
tư cách là Luật cơ bản của nhà nước có hiệu lực
pháp lýý cao nhất, của Luật này, cũng như của
các văn bản Luật và dưới Luật tương ứng khác.
Điều 3. Nhiệm vụ của Tòa án Hiến pháp Việt
Nam
1. Nhiệm vụ của Tòa án Hiến pháp Việt Nam
là:
a) Bảo vệ sự tối thượng, tính pháp chế
hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp trên toàn bộ
lãnh thổ Việt Nam với cách Luật bản
của nhà nước hiệu lực pháp lýý cao nhất
trong hệ thống pháp luật quốc gia;
b) Bảo vệ các quyền và tự do của công dân
được quy định trong Hiến pháp và các văn bản
pháp luật khác;
c) Bảo vệ các lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật;
d) Đấu tranh phòng và chống các vi phạm
Hiến pháp;
đ) Góp phần giáo dục công dân và cộng
đồng ý thức tôn trọng, tuân thủ chấp hành
nghiên chỉnh các quy định của Hiến pháp pháp
luật trong đời sống hàng ngày.
2. Để thực hiện những nhiệm vụ trên đây
nhằm bảo đảm cho sự độc lập của Tòa án Hiến
pháp trong hoạt động kiểm tra Hiến pháp, bên
cạnh các quy định của Hiến pháp, Luật này quy
định những vấn đề liên quan đến tổ chức-hoạt
lOMoARcPSD| 46842444
216 L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
động, trình tự-thủ tục tố tụng về Hiến pháp và các
đặc điểm tố tụng đối với từng loại vụ việc thuộc
thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp Việt
Nam.
Chương II
CÁC THẨM QUYỀN VÀ BẢO ĐẢM CHO
HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN HIẾN PHÁP
VIỆT NAM
(Gồm 2 điều)
Điều 4. Các thẩm quyền của Tòa án Hiến
pháp Việt Nam
1. Tòa án Hiến pháp Việt Nam thẩm
quyền kiểm tra để xem xét và đưa ra phán quyết
(quyết định hoặc kết luận) đối với những vụ việc
về tính hợp hiến của tất cả các văn bản quy phạm
pháp luật (QPPL) sau đây:
a) Các Bộ luật, Luật Nghị quyết do
Quốc hội ban hành, cũng như các Pháp lệnh
Nghị quyết do Ủy ban Thường vụ Quốc hôi ban
hành;
b) Các Lệnh Quyết định do Chủ tịch
nước
ban hành;
c) Các Nghị định do Chính phủ ban hành
và các Quyết định do Thủ tướng ban hành, cũng
như các Thông do Bộ trưởng, Thủ trưởng
quan ngang Bộ các Quyết định do Tổng Kiểm
toán Nhà nước ban hành;
d) Các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC, các Thông tư do Chánh án
TANDTC hoặc Viện Trưởng VKSNDTC ban
hành;
đ) Các văn bản QPPL do các cơ quan chính
quyền địa phương ban hành;
e) Các văn bản dưới Luật do lãnh đạo cấp
TW của các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã
hội, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức hội-nghề
nghiệp, đơn vị kinh tế hay lực lượng trang
nhân dân ban hành;
f) Bất kỳ văn bản nào do các chủ thể nêu
tại các điểm từ a” đến ekhoản 1 Điều này tự
mình (hoặc phối hợp) ban hành;
g) Các Hiệp ước quốc tế, cũng như các văn
bản dưới Luật khác do người chức vụ cao cấp
nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ Việt Nam
kết với nước ngoài nhưng chưa hiệu lực
pháp lý;
h) Các điều (khoản) luật đã (hoặc phải)
được áp dụng trong trường hợp cụ thể trên sở
đề nghị của Tòa án hoặc quan áp dụng điều
(khoản) luật tương ứng;
2. Tòa án Hiến pháp Việt Nam thẩm
quyền kiểm tra để xem xét và đưa ra phán quyết
(quyết định hoặc kết luận) đối với quy định trong
bất kỳ văn bản QPPL nào đã (hoặc phải) được áp
dụng trong trường hợp cụ thể bị khiếu nại
xâm phạm đến các quyền và tự do hiến định của
công dân.
3. Tòa án Hiến pháp Việt Nam thẩm
quyền giải quyết những vụ việc tranh chấp về
phân định thẩm quyền giữa:
a) Các cơ quan nhà nước ở Trung ương
(TW);
b) Các quan nhà nước TW với các
quan chính quyền địa phương cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc TW.
4. Tòa án Hiến pháp Việt Nam thẩm
quyền giải thích Hiến pháp và các Luật của Việt
Nam, cũng như các văn bản pháp luật quốc tế khi
mâu thuẫn với các văn bản pháp luật quốc gia.
5. Tòa án Hiến pháp Việt Nam thẩm
quyền xem xét và đưa ra kết luận về việc tuân thủ
đúng (hay không) trình tự do luật định trong việc
khởi tố vụ án hình sự, đưa ra cáo trạng hoặc bản
án đối với những người chức vụ cao nhất trong
Ban lãnh đạo của đất nước.
6. Tòa án Hiến pháp Việt Nam thẩm
quyền đưa ra ng kiến lập pháp đối với những
vấn đề có liên quan đến các lĩnh vực tổ chứchoạt
động và tố tụng thuộc thẩm quyền của mình.
lOMoARcPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 217
7. Tòa án Hiến pháp Việt Nam chỉ giải
quyết c vấn đề mang tính pháp ý th
thực hiện các thẩm quyền khác theo quy định của
Hiến pháp hoặc của Luật này.
8. Đối với các vấn đề thuộc tổ chức-hoạt
động nội bộ thì Tòa án Hiến pháp Việt Nam tự
mình thông qua Quy chế nhưng không được trái
với Hiến pháp và Luật này.
Điều 5. Các bảo đảm cho hoạt động của Tòa
án Hiến pháp Việt Nam
1. Hoạt động của Tòa án Hiến pháp Việt
Nam không bị phụ thuộc vào bất kỳ quan, tổ
chức hoặc cá nhân nào và được bảo đảm bằng sự
độc lập về mặt tổ chức-cán bộ, thông tin-xuất
bản, chi tiêu tài chính sử dụng các phương tiện
vật chất-kỹ thuật của Nhà nước trong việc thực
thi công vụ.
2. Phán quyết (quyết định hoặc kết luận) về
vụ việc thuộc thẩm quyền xem xét giải quyết
của Tòa án Hiến pháp Việt Nam được coi
chung thẩm đối với vụ việc tương ứng, hiệu
lực pháp lí cao nhất và bắt buộc đối với tất cả các
quan nhà nước, tổ chức, đơn vị kinh tế, lực
lượng trang nhân dân, người chức vụ
công dân, cũng như bất kỳ pháp nhân hoặc thể
nhân nào khác.
3. Bất kỳ sự can thiệp nào (bằng hành vi
hoặc bất tác vi) nhằm hạn chế sự độc lập về mặt
tổ chức-cán bộ, thông tin-xuất bản, chi tiêu tài
chính, sử dụng các phương tiện vật chất-kỹ thuật
của nhà nước hay những điều kiện khác đối với
hoạt động của Tòa án Hiến pháp Việt Nam trong
việc thực thi công vụ hoặc nhằm tác động (gây
ảnh hưởng) đến việc đưa ra phán quyết của Tòa
án Hiến pháp Việt Nam đều bị nghiêm cấm và xử
lí theo luật định.
Chương III
VỀ ĐỊA VỊ PHÁP CỦA THẨM PHÁN
TÒA ÁN HIẾN PHÁP VIỆT NAM
(Gồm 12 điều luật)
Điều 6. Các tiêu chuẩn của Thẩm phán Tòa
án Hiến pháp Việt Nam
Công dân Việt Nam trong độ tuổi không dưới
bốn mươi (40) tính đến ngày được bổ nhiệm,
trung thành với Tổ quốc nhân dân Việt Nam,
có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng tốt nghiệp Đại
học Luật chính quy trở lên, có thâm niên công tác
trên 10 năm trong ngành-nghề liên quan đến pháp
luật, được luật học của đất nước thừa nhận chung
trong giới là có trình độ nghề nghiệp cao và trinh
độ chuyên môn giỏi về luật học, thể được bổ
nhiệm làm Thẩm phán TAHP Việt Nam”./.
Tài liệu tham khảo
[1] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X,
NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
[2] GS.TSKH. Đào T Úc, PGS.TS. Nguyễn Như
Phát (Đồng chủ biên), Tài phán Hiến pháp và vấn
đề xây dựng hình tài phán Hiến pháp Việt
Nam (Sách chuyên khảo), NXB Công an Nhân dân,
Hà Nội, 2007.
[3] Trần Ngọc Đường, Bàn về chức năng, nhiệm vụ
quyền hạn của quan tài phán Hiến pháp
Việt Nam, Trong sách đã dẫn: Tài phán Hiến pháp
và vấn đề..., tr. 186 và 190.
[4] Nguyễn Đăng Dung, Tài phán Hiến pháp Việt
Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền hiện nay, Trong sách đã dẫn: Tài phán Hiến
pháp và vấn đề..., tr. 195.
[5] Bùi Xuân Đức, Bàn về mô hình bảo vệ Hiến pháp
Việt Nam: Sự cần thiết xác lập chế tài phán
Hiến pháp, Trong sách đã dẫn: Tài phán Hiến pháp
và vấn đề..., tr. 209-210.
[6] Thái Vĩnh Thắng, Nhu cầu bảo hiến pháp và
hình quan bảo hiến phù hợp với Việt Nam,
Trong Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5 (2009)
3.
[7] Lê Minh Thông, Quyền giám sát tối cao của Quốc
hội-Lịch sử phát triển và những vấn đề đặt ra trong
bối cảnh hiện nay, Trong sách đã dẫn: Giám sát
hoạt động giám sát..., tr.178.
[8] Minh Thông, Quyền giám sát tối cao của Quốc
hội-Lịch sử phát triển những vấn đề đặt ra trong
bối cảnh hiện nay, Trong sách đã dẫn: Giám sát
hoạt động giám sát..., tr.179.
lOMoARcPSD| 46842444
218 L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
[9] Xem: Ví dụ như: Trirkin V.E. Luật Hiến pháp của
các nước ngoài, NXB Luật gia, Maxcova, 1997
(tiếng Nga); Hiến pháp của các nuớc ngoài (Hoa
Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp, Italia, Tây Ban Nha,
Hilạp, Đức, Nhật Bản, Canađa), In lần thứ 2 sửa
chữa và bổ sung, NXB Bek, Maxcova, 1997 (tiếng
Nga); Hiến pháp của các nước ngoài Đông Âu, Tập
bài giảng và tra cứu, NXB Norma-Infra. Maxcova,
1996 (tiếng Nga); Êzeev. B.X. Hiến pháp-Nhà
nước pháp quyền-Tòa án Hiến pháp. (Tập bài
giảng đã dẫn); Baglai M.V. Luật Hiến pháp Liên
bang Nga, Tập bài giảng dành cho các Trường Đại
học, NXB Norma-Infra, Maxcova, 1998 (tiếng
Nga); Mikhalieva H.V, Luật Hiến pháp của các
nước thuộc SNG, Tập bài giảng NXB Luật gia,
Maxcova, 1998 (tiếng Nga); Sulzenkô Iu.L. Trích
giảng Luật Hiến pháp Liên bang Nga, Viện
Nhà nước Pháp luật thuộc Viện HLKH Nga,
NXB Luật gia, Maxcova, 1997 (tiếng Nga);
pháp về Hiến pháp ở các nước SNG và Bantích.
Tập các văn bản quy phạm (Ch biên
M.A.Mitriukôv), NXB Zertxalô.Maxcơva, 1998
(tiếng Nga); GS.TSKH Đào T Úc, PGS.TS
Nguyễn Như Phát (Đồng chủ biên), Tài phán
Hiến pháp vấn đxây dựng hình tài phán
Hiến pháp ở Việt Nám, NXB Công an Nhân dân,
Hà Nội, 2007; v.v...
[10] Xem: Các nguồn tài liệu đã dẫn ở chú thích số (9)
trên đây, đồng thời xem cụ thể hơn: V.N.Vitơruk.
Hoạt động pháp về Hiến pháp, Luật hiến pháp
về pháp và tố tụng, Tập bài giảng dành cho các
Trường đại học, NXB Đạo luật Pháp quyền.
Maxcơva, 1998, tr. 30 (tiếng Nga); Hệ thống Tòa
án của các nước Châu Âu, Sách tra cứu (Bản dịch
từ tiếng Pháp của Đ.I.Vaxiliev và từ tiếng Anh của
O.Iu.Kobiakôv), NXB Quan hệ quốc tế, Maxcơva,
2002 (tiếng Nga); Văn phòng Quốc hội Việt Nam
Văn phòng Dự án Hỗ trợ cải cách pháp của
Đan Mạch (JOPSO), Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế về
bảo hiến (TP.Hồ Chí Minh, 12-13/3/2009), NXB
Thời đại, Hà Nội, 2009; v.v...
[11] Xem: V.N.Vitơruk. Hoạt động pháp về Hiến
pháp, Luật hiến pháp về pháp tố tụng, Tập
bài giảng dành cho các Trường đại học, NXB Đạo
luật Pháp quyền, Maxcơva, 1998, tr. 30 (tiếng
Nga).
[12] Xem cụ thhơn: Hệ thống Tòa án của các nước
Châu Âu, Sách tra cứu (Bản dịch từ tiếng Pháp của
Đ.I.Vaxiliev từ tiếng Anh của O.Iu.Kobiakôv),
NXB Quan hệ quốc tế,
Maxcơva, 2002, các tr. 21, 68-69, 73-74, 141,
158-160, 179, 211-212, 233, 256-259, 309-310,
(tiếng Nga).
[13] Xem cụ thể hơn: Tư pháp về Hiến pháp ở các nước
SNG và Bantích. Tập các văn bản quy phạm (Chủ
biên M.A.Mitriukôv). NXB
Zertxalô.Maxcơva, 1998- 800 tr. (tiếng Nga).
[14] Hồng Chanh, Tìm cơ chế bảo đảm tính hợp hiến,
hợp pháp. Trong Bản tin "Luật ngày nay” (Bản
tin của Đoàn Luật sư Hà Nội), số 6 (2005) 5.
[15] Xem cụ thể hơn: Hiến pháp nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa năm 1946. Trong sách: Hiến pháp
Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 1992), NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
[16] Xem cụ thể hơn: Hiến pháp nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa năm 1959. Trong sách: Hiến pháp
Việt Nam… (Sách đã dẫn), tr.39-40, 42, 61-64.
[17] Xem cụ thể hơn: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1980. Trong sách: Hiến
pháp Việt Nam… (Sách đã dẫn), tr.94, 99101, 126-
131.
[18] Xem cụ thể hơn: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi). NXB
Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2002, tr.37-39, 6872.
[19] Xem cụ thể hơn: Hệ thống Tán của các nước
Châu Âu. Sách tra cứu (Bản dịch từ tiếng Pháp của
Đ.I.Vaxiliev từ tiếng Anh của O.Iu.Kobiakôv),
NXB Quan hệ quốc tế,
Maxcơva, 2002, các tr. 21, 68-69, 73-74, 141,
158-160, 179, 211-212, 233, 256-259, 309-310,
(tiếng Nga).
[20] Xem cụ thể hơn: pháp về Hiến pháp các nước
SNG Bantích, Tập các văn bản quy phạm (Chủ
biên M.A.Mitriukôv), NXB
Zertxalô.Maxcơva, 1998 (tiếng Nga).
lOMoARcPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 219
Suppervision of Legislative power:
Current mechanism and solutions for improvement in the
Stage of building the rule of Law State in Vietnam
Le Van Cam
1
, Duong Ba Thanh
2
1
School of Law, Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
2
Institute for Politics Studies under Ho Chi Minh, National Political-Administrative Academy
In the current stage of building a genuine rule of law state of the people, by the people and for the
people in Vietnam, examining theoritical and practical aspects of mechanism of suppervising legislative
power by which proposing solutions to improve this mechanism with specific theoritical model and
legislative interpretation has great social-legal and scientific-practical significance. Unfortunately, so
far in Vietnam, there has not any legal research focused on this topic. Our study is therefore timely and
needed.
| 1/19

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46842444
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
Cơ chế kiểm soát quyền lập pháp ở nước ta hiện nay:
Thực trạng và giải pháp hoàn thiện trong giai đoạn
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
Lê Văn Cảm1,*, Dương Bá Thành2*
1Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
2Viện Chính trị học thuộc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
Nhận ngày 30 tháng 3 năm 2009
Tóm tắt. Trong giai đoạn xây dựng một Nhà nước pháp quyền (NNPQ) đích thực của dân, do dân
và vì dân ở Việt Nam hiện nay, việc làm sáng tỏ về mặt lý luận thực trạng của cơ chế kiểm soát
quyền lực (KSQL) lập pháp ở nước ta, đồng thời đưa ra giải pháp để hoàn thiện cơ ché này với mô
hình lý luận (MHLL) của các kiến giải lập pháp (KGLP) cụ thể sẽ có ý nghĩa xã hội-pháp lý và ý
nghĩa khoa họcthực tiễn rất quan trọng. Tuy nhiên, cho đến nay trong khoa học pháp lý (KHPL) Việt
Nam vẫn chưa có nghiên cứu chuyên khảo nào đề cập riêng về chủ đề này. Điều đó không chỉ cho
phép khẳng định tính cấp bách của vấn đề nghiên cứu mà còm là lý do luận chứng cho chủ đề được
đề cập trong bài báo khoa học này của chúng tôi. 1.
Thực trạng của cơ chế kiểm soát E-mail: tskhlecam@yahoo.com
quyền lực lập pháp ở nước ta hiện nay *
thần chỉ đạo của Đại hội X của Đảng về sự cần
thiết cấp bách phải xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến
1.1. Những ý kiến của giới luật gia về thực trạng
pháp là: “Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra,
của cơ chế KSQL lập pháp ở nước ta hiện nay
giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động
Hầu như đã được giới KHPL Việt Nam đương
và quyết định của cơ quan công quyền”, “Xây
đại đưa ra có tính chất phê phán hết sức thẳng
dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến
thắn, trung thực và với tinh thần xây dựng, yêu
pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư
quý Tổ quốc và nhân dân mình mà có lẽ khi đọc
pháp [1]. Chẳng hạn, những ý kiến đó là:
thấy những ý kiến duới đây của họ, thì bất kỳ nhà
1.1.1. Nhà khoa học-luật gia hàng đầu của
luật học nào còn có lương tâm-biết vì nhân dân
nước ta, nguyên Viện trưởng Viện Nhà nước &
và mong muốn cho thắng lợi cuối cùng của sự
pháp luật thuộc Viện KHXH Việt Nam suốt hai
nghiệp xây dựng một NNPQ đích thực trên Tổ
thập kỷ (1988-2008), nguyên Phó Chủ tịch
quốc Việt Nam đều không thể không đau lòng và
thường trực kiêm Tổng thư ký Hội Luật gia Việt
buộc phải suy ngẫm để cùng nhau tìm ra giải pháp
Nam khóa X (2004-2009), Chủ tịch Hội đồng
khắc phục sao cho bảo đảm đúng tinh
Khoa học & Đào tạo của Khoa Luật trực thuộc
ĐHQGHN, GS.TSKH Đào Trí Úc khẳng định là ______
“chúng ta cũng chưa có một cơ chế nào để giám * ĐT: 84-4-
sát chính hoạt động của Quốc hội và giám sát 37547512. 201 lOMoAR cPSD| 46842444 202
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
tính hợp hiến của các đạo luật, nghị quyết do
lực cao nhất của Quốc hội và quyền giám sát tối
Quốc hội ban hành. Nhiều thiết chế quan trọng
cao của Quốc hội” vì “Chừng nào chúng ta vẫn
trong việc giám sát và bảo vệ Hiến như thẩm
còn cho Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước
quyền hủy bỏ, đình chỉ văn bản trái Hiến pháp
cao nhất, thực hiện tất cả các quyền lập hiến, lập
trong thực tiễn hầu như không được áp dụng,
pháp, hành pháp, tư pháp, giám sát và quyền nào
nhất là trong hoạt động của các cơ quan cao cấp
cũng là cao nhất hay tối cao thì chưa thể nói tới
của Nhà nước” [2];
giám sát Hiến pháp đúng nghĩa” [5];
1.1.2. Chuyên gia cao cấp của Viện Nghiên
1.1.5. Một trong vài nhà khoa học Luật Hiến
cứu lập pháp thuộc Văn phòng Quốc hội, nguyên
pháp hàng đầu của Việt Nam, Chủ nhiệm Khoa
Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội khóa XI
Nhà nước-hành chính của Trường Đại học Luật
(2002-2007), GS.TS Trần Ngọc Đường viết:
Hà Nội (Bộ Tư pháp), PGS.TS Thái Vĩnh Thắng
“Nhưng bản thân Quốc hội lại chưa có ai giám
chỉ ra và phân tích cụ thể một loạt các khiếm
sát để bảo đảm cho Quốc hội hoạt động hợp hiến,
khuyết ở Việt Nam hiện nay như: 1) “Thủ tục hoạt
làm đúng, làm đủ các quy định của Hiến pháp
động của Quốc hội không phù hợp vớiHiến [3];
pháp”; 2) “Thẩm quyền thực tế của Quốc hội
1.1.3. Một trong vài nhà khoa học Luật Hiến
chưa phù hợp với Hiến pháp”; 3) “Một số quy
pháp hàng đầu của Viêt Nam, Trưởng Bộ môn
định của Hiến pháp chưa được thực thi trên thực
Luật Hiến pháp-Luật Hành chính của Khoa Luật
tế”; 4) “Một số quy định của Hiến pháp chưa rõ
trực thuộc ĐHQGHN, GS.TS Nguyễn Đăng
ràng nhưng không được giải thích”; 5) “Một số
Dung khi phê phán tính thiếu khách quan của cái
quyền hiến định của công dân không có điều kiện
gọi là “quyền giám sát tối cao” và cơ chế “tự
đảm bảo thực hiện [6];
mình kiểm tra mình” viết: “Quốc hội có quyền
1.1.6. Nhà lý luận lớn về nhà nước và pháp
giám sát tối cao có nghĩa là không có một cơ quan
luật, nguyên Viện trưởng Viện khoa học tổ chức
nào có thể đứng trên Quốc hội để tài phán về tính
thuộc Ban Tổ chức TW Đảng, PGS.TS Lê Minh
hợp hiến trong hành vi của Quốc hội mà Quốc hội
Thông cho rằng: “hoạt động lập pháp (tức là hoạt
tự mình kiểm tra tính hợp hiến trong hành vi của
động ban hành các đao luật của Quốc hội) lại
mình” và cho rằng: đó là “xuất phát từ khiếm
không là đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội
khuyết trong cơ chế tổ chức và phân công quyền
dường như nằm ngoài sự giám sát từ phương
lực nhà nước ở nước ta, từ sự yếu kém của cơ chế
diện nhà nước” [7]; và ngoài ra, cũng còn rất
bảo hiến hiện có” [4];
nhiều các nhận xét của các nhà khoa học-luật gia
1.1.4. Nhà khoa học Luật Hiến pháp có tên khẵc nữa, v.v...
tuổi của Viêt Nam, Trưởng Ban dân chủ & pháp
luật của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
1.2. Nhận xét chung về thực trạng của cơ chế
PGS.TS Bùi Xuân Đức khi chỉ ra thực trạng
KSQL lập pháp ở Việt Nam
KSQL lập pháp hiện nay là “việc giám sát bản
thân Quóc hội còn bị bỏ ngỏ
” đã đề nghị: 1) “toàn
Nguyên nhân cơ bản và sâu xa nhất gây nên
bộ hoạt động của Quốc hội, mà trước hết là hoạt
thực trạng này nằm ở đâu (?). Đó đó chính là do động lập pháp
trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật hiện hành
- từ trước đến nay tuy có nguy cơ vi hiến rất cao
của Việt Nam vẫn còn có những “lỗ hỗng” rất lớn
- nhưng chưa được xếp vào đối
tượng giám sát của cơ quan nào mà đang để cho
trong cơ chế KSQL lập pháp bằng chính hệ thống
Quốc hội tự giám sát
(bộ máy) quyền lực, vì thực chất là cho đến nay
- cũng phải là đối tượng của
giám sát”; 2) “một điều rất hiển nhiên là đã đến
vẫn chưa hề có một điều khoản nào quy định ai
lúc phải xem xet lại vi trí tính chất cơ quan quyền
là chủ thể nhà nước có thẩm quyền giám sát tính
hợp hiến của các văn bản pháp luật (VBPL) do
lOMoAR cPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 203
Quốc hội ban hành (đúng như PGS.TS Lê Minh
được có bất kỳ cơ quan nào trong bộ máy quyền
Thông đã chỉ ra trên đây cho tất cả cãc nhà luật
lực nhà nước ta có quyền phán xét sự vi hiến đó.
học, Tổ quốc và nhân dân ta được biết). Tại sao
1.2.2. Về mặt thực tiễn, do quy phạm hiến
lại có thể có một thực trạng như vậy mà lại tồn tại
định nêu trên nên thực chất là trong hoạt động
suốt được hàng chục năm qua (?). Thiết tưởng,
của tất cả bộ máy quyền lực nhà nuớc (nói
đây chính là điều mà tất cả những nhà luật học
chung) và của nhánh QLP (nói riêng) ở Việt
Việt Nam chân chính đều phải có trách nhiệm
Nam từ trước đến nay vẫn chưa bao giờ tồn tại
cùng nhau suy ngẫm và tìm cho được câu trả lời.
cơ chế KSQL lập pháp bằng quyền lực công -
Thật vậy, từ những ý kiến nêu trên của các nhà
khi QLP phải bị kiểm tra bởi một cơ quan
khoa học-luật gia hàng đầu và có tên tuổi trong
chuyên trách thuộc nhánh quyền lực khác nào
đất nước, nghiên cứu các quy phạm hiến định có
đó trong chính nội bộ của hệ thống quyền lực
liên quan đến quyền lập pháp (QLP) trong tất cả
nhà nước vì căn cứ vào quy định tại khoản 4
bốn Hiến pháp đã được ban hành từ trước đến
Điều 83 Hiến pháp năm 1992 đã nêu trên đây và
nay, cũng như Luật “Về hoạt động giám sát của
các quy định của Luật “Về hoạt động giám sát
Quốc hội” năm 2003, đồng thời trên cơ sở phân
của Quốc hội” thì cơ quan lập pháp thuộc nhánh
tích thực tiễn hoạt động của 12 khóa Quốc hội
QLP ở Việt Nam bên cạnh việc giám sát hoạt
nước ta trong 65 năm qua (kể từ Quốc hội khóa I
động của hai nhánh quyền lực nhà nước kia
được nhân dân bầu ra sau thắng lợi của cuộc Cách
(quyền hành pháp-QHP và quyền tư pháp-QTP)
mạng tháng 8/1945 với sự ra đời của của Nhà
cũng đồng thời tự mình thực hiện việc giám sát
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), cho phép đưa
luôn cả hoạt động của chính bản thân mình – tức
ra nhận xét chung về thực trạng KSQL lập pháp
là vô hình chung tạo nên một cơ chế lạ kỳ và vô
ở Việt Nam hiện nay trên ba (03) bình diện sau:
cùng bất cập là không hề có hoạt động KSQL lập
1.2.1. Về mặt lập pháp, trong hệ thống các
pháp ở nước ta trong chính hệ nội bộ của hệ
VBPL đã và đang hiện hành ở Việt Nam từ sau
thống quyền lực nhà nước. Thực trạng đau lòng
Cách mạng tháng 8/1945 đến nay (kể cả bốn bản
này chính là câu trả lời xác đáng mà PGS.TS Hiến pháp 1946, 1959,
Minh Thông đã thẳng thắn đặt vấn đề như sau
1980 và 1992 với tư cãch là các đạo luật cơ
khi liệt kê các đối tượng chịu sự giám sát tối cao
bản của nhà nước và có hiệu lực pháp lý cao
của Quốc hội (Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ
nhất) vẫn chưa có bất kỳ một quy phạm pháp
tịch nước, Thủ tướng, Chính phủ, TANDTC và
luật (QPPL) nào được ghi nhận với tư cách là
VKSNDTC): “Vậy, ai sẽ giám sát hoạt động lập
căn cứ pháp lý cho cơ chế KSQL lập pháp bằng
pháp của Quốc hội ? Câu hỏi này đã được đặt ra
quyền lực công ở nước ta; mặt khác, theo Hiến
hiện còn đang bỏ ngõ trong thực tiễn pháp lý
pháp năm 1992 hiện hành thì “Quốc hội thực
nước ta và cuối cùng, PGS.TS Lê Minh Thông
hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
đưa ra kết luận (đồng thời là sự trả lời hoàn toàn
động của Nhà nước” (khoản 4 Điều 83). Và ở
khách quan và có căn cứ, bảo đảm sức thuyết
đây chính là nghịch lý hiển nhiên nhất, vì một
phục và rất khoa học (mà có lẽ cũng chính là
khi Quốc hội đã tự cho mình là “tối cao” (cao
nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam)
nhất) rồi, thì dù Quốc hội có ban hành đạo một
là: “Dù thế nào đi chăng nữa, thì sự phân công
luật nào đó vi phạm Hiến pháp (mặc cho đạo
phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp
luật đó có xâm phạm đến các quyền và tự do
và tư pháp cần kèm theo cơ chế giám sát lẫn
hiến định của công dân với tư cách là những giá
nhan để đạt được mục tiêu của quá trình thực
trị cao quý nhất được thừa nhận chung trong
hiện quyền lực trong một nhà nước thực sự của
NNPQ đích thực đi chăng nữa), thì cũng không
dân, do dân, vì dân [8]. lOMoAR cPSD| 46842444 204
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
1.2.3. Và cuối cùng, về mặt lý luận, dưới góc
thiện cơ chế KSQL lập pháp ở nước ta có ý nghĩa
độ KHPL (bao gồm cả lý luận về NNPQ) một khi
lập pháp-thực tiễn và lý luận rất quan trọng như
đã không có cơ chế KSQL nhà nước (nói chung) sau:
và cơ chế KSQL lập pháp (nói riêng), có nghĩa 2.1.1. Về mặt lập
là khi QLP không được kiểm soát bởi cơ quan
pháp, cho đến hôm nay mặc dù
chuyên trách thuộc nhánh quyền lực khác tự mình
đã hơn 20 năm rôi qua (kể từ khi
kiểm soát hoạt động của chính bản thân mình, thì
công cuộc đổi mới trên tất cả các
rõ ràng là hoàn toàn không phù hợp với những
lĩnh vực của đời sống xã hội Việt
đòi hỏi (yêu cầu) của một NNPQ đích thực
Nam do Đảng ta khởi xướng tại
quan điểm được thừa nhận chung của nền văn
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
minh nhân loại và cũng là của tất cả các luật gia
IV (tháng 12/1986), nhưng rất
tiến bộ trên thế giới - NNPQ phải là nhà nước mà
đáng tiếc là trong hệ thống pháp
trong đó quyền lực và chính trị phải bị kiểm soát
luật hiện hành của đất nước vẫn
bởi pháp luật (đúng cách diễn đạt của nhà triết
chưa có bất kỳ một VBPL nào
học Đức nổi tiếng I.Kant); bỏi lẽ, trong NNPQ
chính thức ghi nhận về mặt pháp
không thể có tình trạng một cơ quan quyền lực
cơ chế kiểm soát QLP bằng bộ
nhà nuớc nào đó “vừa đá bóng-vừa thổi còi” vì
máy công quyền vì thực tế Hiến
một khi đã là NNPQ đích thực (chứ không phải
pháp Việt Nam năm 1992 hiện
là “NNPQ” được tuyên ngôn trên giấy của các
hành của nước ta cũng chỉ mới
chính trị gia cầm quyền)) thì điều kiện đầu tiên
đề cập đến cơ chế kiểm soát
và tiên quyết là không thể có bất kỳ một cơ quan-
QHP và QTP bằng QLP (như
tổ chức-nhóm người hoặc cá nhân người có chức
khoản 4 Điều 83 đã phân tích
vụ nào có thể đứng trên-đứng ngoài pháp luật
trên đây), đồng thời trao cho
hay được phép tự cho mình có “quyền lực cao
nhánh QLP (Quốc hội) thẩm
nhất”, “quyền giám sát tối cao” hoặc tự quy định
quyền “Thực hiện quyền giám
cho mình bất kỳ thẩm quyền nào.
sát tối cao việc tuân theo Hiến
pháp
...” (khoản 2 Điều 84) + cho
Ủy ban Thường vụ Quốc hội
2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm soát
thẩm quyền “Giải thích Hiến
quyền lực lập pháp trong giai đoạn xây
pháp” và “Giám sát việc thi
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện
hành Hiến pháp” của (các khoản nay
3, 5 Điều 91) và, lại vừa trao cho
nhánh QHP (Chính phủ) nhiệm 2.1. Đặt vấn đề
vụ “bảo đảm việc tôn trọng và
Từ việc phân tích một số vấn đề lý luận cơ
chấp hành Hiến pháp” của
bản về cơ chế KSQL nhà nước (nói chung), cũng
Chính phủ (đoạn 2 Điều 100);
như khái niệm-chức năng và vai trò của cơ chế 2.1.2. Về mặt thực
kiểm soát QLP trong NNPQ được đề cập trong
tiễn, trong khi đó việc thành lập
bài viết mới đây của chúng tôi (Xem cụ thể hơn
cơ chế KSQL nhà nước bằng cơ
về bài này trong Tạp chí “Nghiên cứu lập pháp”,
chế bảo vệ Hiến pháp không chỉ
số 1-tháng 1/2010, tr.8-14 và 31), đồng thời trên
đã được chính thức đề cập trong
cơ sở phân tích thực trạng KSQL lập pháp bằng
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
bộ máy công quyền ở Việt Nam hiện nay trong
02/6/2005 của Bộ Chính trị BCH
bài viết này cho thấy: việc nghiên cứu để hoàn
TW Đảng và sau đó, Đại hội đại lOMoAR cPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 205
biểu toàn quốc lần thứ X của
chính trị học và luật học của Việt
Đảng (năm 2006) còn chỉ rõ sự
Nam mặc dù đã có một số
cần thiết phải xây dựng và hoàn
nghiên cứu về vấn đề này, nhưng
thiện cơ chế KSQL để giám sát,
rõ ràng là đến nay vẫn vắng
kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp
bóng các nghiên cứu chuyên
trong các hoạt động và quyết
khảo đề cập riêng đến việc phân
định của các cơ quan công
tích một cách có hệ thống và
quyền, cũng như xây dựng
toàn diện cơ chế KSQL nhà
chế phán quyết về những vi
nước (nói chung) và QLP (nói
phạm Hiến pháp trong các hoạt
riêng) bằng “phán quyết” (tức là
động lập pháp, hành pháp
bằng sự kiểm tra của Tòa án) về
pháp. Như vậy, không còn nghi
những vi phạm Hiến pháp của tất
ngơ gì nữa-rõ ràng là hiện nay từ
cả các cơ quan trong bộ máy
thực tiễn hoạt động của bộ máy
công quyền thuộc cả ba nhánh
quyền lực nhà nước ở Việt Nam,
quyền lực nhà nước với việc
Đảng và Nhà nước ta đã tự nhận
đưa ra giải pháp để hoàn thịên
thấy rằng: nguyện vọng tha thiết
với tư cách là một MHLL về các
của nhân dân ta đang đòi hỏi cấp
KGLP dưới dạng từng điều luật
bách phải hoàn thiện cơ chế
cụ thể của một đạo luật cho việc
KSQL nhà nước (nói chung) mà
tổ chức thực thi cơ chế KSQL
trong đó bao gồm cả KSQL lập
nhà nước (kể cả KSQL lập pháp)
pháp (nói riêng) để bảo vệ Hiến ỏ Việt Nam.
pháp bằng “cơ chế phán quyết
về những vi phạm Hiến pháp để 2.2.
Sự phân loại và một số đặc điểm
sao cho đạo luật cơ bản của Nhà
cơ bản của hoạt động KSQL nhà nước
nước được bảo vệ một cách hữu
(bao cả KSQL lập pháp) bằng chế định
hiệu nhằm loại trừ 1) tình trạng
bảo vệ Hiến pháp trong NNPQ
ban hành các VBPL vi hiến, 2)
những hành vi được thực hiện
Trên cơ sở nghiên cứu so sánh các cơ chế
trên cơ sở các văn bản đó, 3)
KSQL nhà nước (gồm cả KSQL lập pháp) bằng
cũng như sự xâm phạm thô bạo
cơ chế bảo hiến của một số quốc gia trên thế giới
các quyền và tự do hiến định của
hiện nay [9], chúng ta có thể chia các cơ chế bảo
con người và của công dân từ
hiến thành hai (02) hình thức chủ yếu dưới đây.
phía quyền lực nhà nước, để góp 2.2.1. Hình thức bảo
phần xây dựng thành công
hiến thứ nhất - hoạt động KSQL
NNPQ và triển khai thắng lợi
nhà nước được thực hiện bằng
công cuộc CCTP ở nước ta.
cơ chế giám sát Hiến pháp với 2.1.3.
các đặc điểm cơ bản là: 1) Thông Và cuối cùng,
về mặt lý luận, mặc dù việc hoàn
thường được thực hiện bằng
thiện cơ chế KSQL nhà nước
nhánh QLP (nói chung) hoặc đôi
(nói chung) và kiểm soát QLP khi bằng nhánh QHP
(nói riêng) có ývai trò quan
(Ví dụ: ở nước CH Kazakxtan khi Pháp lệnh về
trọng như vậy, và cho đến nay
Hội đồng bảo hiến do Tổng thống ban hành và
trong chuyên ngành khoa học về
các cựu Tổng thống đương nhiên là thành viên lOMoAR cPSD| 46842444 206
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
suốt đời của Hội đồng này); 2) Khi VBPL vi
cũng như các quyền và tự do
hiến thì cơ quan chuyên trách được giao thẩm
hiến định của con người và của
quyền giám sát Hiến pháp chỉ tạm đình chỉ hiệu
công dân của hình thức thứ hai
lực thi hành của VBPL ấy, chứ VBPL bị bãi bỏ
này cao hơn nhiều và do dó; 5)
theo quyết định tương ứng của cơ quan giám sát
Xây dựng được nền tảng pháp lý
Hiến pháp (Ví dụ: Đó là Viện bảo Hiến ở nước
vững chắc cho sự cân bằng nhất
Cộng hòa Rumani); 3) Về cơ bản, các công dân
định trong bộ máy quyền lực
không có quyền khiếu kiện lên cơ quan giám sát
giữa các cơ quan công quyền
Hiến pháp để đề nghị xem xét vụ việc vi phạm
thuộc cả ba nhánh quyền lực
các quyền tự do hiến định của họ (Ví dụ: ở nước
(QLP, QHP và QTP) vì có được
CH Êxtônia); 4) Chính vì vậy, hiệu quả bảo vệ
cơ chế “kiểm tra và chế ước
Hiến pháp, cũng như bảo vệ các quyền và tự do
nhau) của ba nhánh quyền lực đã
hiến định của con người và của công dân không
nêu. Và chính hình thức bảo hiến
có (nói một cách khác là chỉ mang tính hình
thứ hai này với cơ chế KTrHP,
thức) và do đó; 5) Không tạo được nền tảng
theo quan điểm của chúng tôi là
pháp lý vững chắc cho sự cân bằng nhất định
phù hợp hơn cả trong điều kiện
trong bộ máy quyền lực giữa các cơ quan công
xây dựng một NNPQ đich thực
quyền thuộc cả ba nhánh quyền lực (QLP, QHP
của dân, do dân và vì dân ở Việt
và QTP) vì không có cơ chế “kiểm tra và chế Nam đương đại.
ước nhau” của ba nhánh quyền lực đã nêu. 2.2.2. Hình thức bảo 2.3.
Khái niệm KTrHP bằng Tòa án
hiến thứ hai - hoạt động KSQL
và các đặc điểm cơ bản của hoạt động
nhà nước được thực hiện bằng
này với tư cách là một cơ chế kiểm soát
cơ chế kiểm tra Hiến pháp
quyền lực nhà nước (kể cả QLP)
(KTrHP) bởi nhánh QTP với các
Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển
đặc điểm cơ bản là: 1) Được
củaý cơ chế này cho thấy, tư tưởng tiến bộ về chế
thực hiện bằng một cơ quan
định KTrHP bằng nhánh quyền lực tư pháp (Tòa
pháp (Ví dụ: ở hầu hết các nước
án) đã có cội nguồn xuất hiện ngay từ thế kỷ XVII
trong SNG, Châu Âu, Hoa Kỳ);
ở Vương quốc Anh khi Hội đồng cơ mật của
2) Khi VBPL bị xem là vi hiến
Hoàng gia đã coi các đạo luật do các cơ quan lập
thì Tòa án có quyền tuyên bố là
pháp của 13 bang đầu tiên (các thuộc địa) ở Hoa
văn bản đó vô hiệu và bị bãi bỏ
Kỳ là vô hiệu khi các đạo luật này trái với các đạo
theo quyết định tương ứng của
luật của Nghị viện Anh hoặc thông luật, sang thế
cơ quan kiểm tra Hiến pháp; 3)
kỷ XVIII thì một số các văn bản của chính quốc
Bờt kỳ công dân có quyền khiếu
(Anh) lại bị Tòa án coi là vô hiệu trên lãnh thổ
kiện lên cơ quan KTrHP khi cho
của các bang miền Bắc nước Mỹ, nhưng có lẽ
rằng, bằng việc áp dụng điều
bước ngoặc có tính chất quyết định đối với việc
(khoản) trong VBPL nào đó
hình thành chế định KTrHP bằng Tòa án chỉ
hoặc bằng hành vi được thực
chính thức được ghi nhận vào đầu thế kỷ XIX sau
hiện trên cơ sở VBPL tương ứng
khi Tòa án Tối cao Mỹ thông qua phán quyết coi
đó các quyền và tự do hiến định
đạo luật do Quốc hội Mỹ ban hành là trái với Hiến
của họ đã bị xâm phạm; 4) Chính
pháp trong vụ kiện nổi tiếng “Merberi kiện
vì vậy, so với hình thứ thứ nhất
Međison” vào năm 1803 [10]. Phát triển mạnh mẽ
thì hiệu quả bảo vệ Hiến pháp, lOMoAR cPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 207
vào thế kỷ XX trong quá trình tổ chức và thực
tiễn của các NNPQ trên thế giới
hiện quyền lực của nhiều quốc gia và cho đến
đã minh một cách xác đáng-có
hôm nay thì cơ chế KTrHP bằng Tòa án dã được
căn cứ và bảo đảm sức thuyết
thừa nhận chung và thực thi ở hầu hết các quốc
phục rằng: KTrHP bằng Tòa án
gia là các NNPQ trên thế giới. Như vậy, từ đây
là hình thức bảo vệ Hiến pháp
chúng ta có thể hiểu: KTrHP bằng Tòa án trong
khả thi nhất, đồng thời cũng là
NNPQ với tư cách là một hình thức bảo vệ Hiến
cơ chế KSQL nhà nước (bao
pháp-cơ chế KSQL nhà nước bằng nhánh quyền
gồm cả QLP) cao nhất và hữu
lực tư pháp và là chức năng của cơ quan chuyên hiệu hơn cả.
môn về tài phán và được thể hiện bằng hoạt động 2.3.2. Thứ hai, KTrHP
tố tụng về Hiến pháp trong việc kiểm tra tính hợp
bằng Tòa án là chức năng riêng
hiến của các văn bản do tất cả các cơ quan-một
biệt chỉ của cơ quan chuyên môn
số những người có chức vụ nhất định trong bộ
về tài phán, tức là việc kiểm tra
máy công quyền, tổ chức hoặc đơn vị lực lượng
này có thể được tổ chức-thực
vũ trang ban hành, cũng như những hành vi (và
hiện bằng các phương án khác
bất tác vi) được thực hiện trên cơ sở văn bản vi
nhau trong hệ thống quyền lực
hiến đã xâm phạm đến các quyền và tự do hiến
(Ví dụ: giao cho cơ quan xét xử
định của con người và của công dân, cũng như
cao nhất của đất nước như TATC
các lợi ích của xã hội hoặc/và, đồng thời xem xét
hoặc thành lập TAHP độc lập)
và giải quyết những vấn đề khác theo thẩm quyền
nhưng dù đi theo phương án nào
do Hiến pháp và luật quy định để đưa ra phán xét
chăng nữa, thì để cho hoạt động
cuối cùng nhằm bảo đảm tính tối thượng và hiệu
KTrHP đạt hiệu quả thì nhất thiết
quả trực tiếp của các quy phạm Hiến pháp trong
là nó cần phải gắn với thẩm
các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và sinh
quyền tố tụng tư pháp (theo
hoạt của đời sông xã hội ý. Căn cứ vào định nghĩa
đúng nghĩa hẹp của từ “
khoa học của khái niệm này, đồng thời xuất phát pháp”) trong NNPQ.
từ thực tiễn bảo vệ Hiến pháp của đa số các nước 2.3.3. Thứ ba, KTrHP
văn minh và phát triển cao là các NNPQ đích thực
bằng Tòa án được thể hiện bằng
trên thế giới [11] cho phép chỉ ra sáu (06) đặc
khả năng tố tụng về Hiến pháp
điểm cơ bản dưới đây của cơ chế KTrHP bằng
trong việc kiểm tra tính hợp hiến
Tòa án-cơ chế KSQL nhà nước bằng nhánh QTP
của các văn bản do các cơ quan trong NNPQ.
và một số người có chức vụ nhất 2.3.1. Thứ nhất,
định trong bộ máy công quyền,
KTrHP bằng Tòa án là một hình
tổ chức hoặc đơn vị lực lượng vũ
thức bảo vệ Hiến pháp và là cơ
trang ban hành khi văn bản đó
chế KSQL nhà nước bằng nhánh
có dấu hiệu vi hiến và bị khiếu
quyền lực tư pháp vì trong
nại theo đúng quy trình do Hiến
NNPQ ngoài Tòa án ra, cũng
pháp và các luật có liên quan quy
vẫn còn có rất nhiều hình thức định.
bảo vệ Hiến pháp với các cơ chế 2.3.4. Thứ tư, KTrHP KSQL thuộc hai (02) nhánh
bằng Tòa án cũng được thể hiện
quyền khác (QLP và QHP) nữa,
bằng việc xem xét và giải quyết
chứ không chỉ có riêng Tòa án
cả những hành vi (hoặc bất tác
bảo vệ Hiến pháp, nhưng thực
vi) được thực hiện trên cơ sở văn lOMoAR cPSD| 46842444 208
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
bản vi hiến đã xâm phạm đến
chế KSQL nhà nước (gồm cả KSQL lập pháp)
các quyền và tự do hiến định của
nhà làm luật có thể lựa chọn một trong bốn (04) công dân.
phương án là thành lập: 1) Ủy ban giám sát Hiến 2.3.5. Thứ năm,
pháp của Quốc hội; 2) Hội đồng bảo hiến do Chủ
KTrHP bằng Tòa án cũng được
tịch nước đứng đầu; 3) Tòa Hiến pháp với tư cách
thể hiện đồng thời bằng việc
là Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân tối
xem xét và giải quyết những vấn
cao (TANDTC) hoặc; 4) Tòa án Hiến pháp
đề khác theo thẩm quyền do
(TAHP) độc lập (chỉ tổ chức ở cấp TW). Vậy thì
Hiến pháp và các luật có liên
trong bốn Phương án này thì Phương án nào là
quan quy định (Ví du: đó có là
khả thi hơn cả (?). Đây chính là câu hỏi cần phải
những vấn đề như tính hợp hiến
có được lập luận một cách khoa học để có câu
của các Hiệp ước quốc tế của
trả lời xác đáng, có căn cứ và bảo đảm sức thuyết
quốc gia sở tại, các kết quả bầu
phục mà chính các nhà luật học của đất nước cần
cử-trưng cầu dân ýý, trình tự phế
phải đưa ra cho Tổ quốc và nhân dân. Dưới đây
truất nguyên thủ quốc gia, thủ
chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng Phương án:
tục cách chức những người có
chức vụ cáo nhất trong Nhà 3.1.
Nếu như tổ chức thực thi chế
nước hay sự tranh chấp về thẩm
định KTrHP theo cả ba (03) Phương án
quyền của các cơ quan quyền lực
đầu tiên (thứ 1, 2 và 3) thì sẽ không bảo Nhà nước ở TW, v.v...).
đảm tính khách quan vì vô hình chung sẽ 2.3.6. Và cuối cùng,
tạo nên cơ chế “vừa đá bóng, vừa thổi
thứ sáu, kết quả của việc KTrHP
còi” của mỗi nhánh quyền lực - khi Quốc
bằng Toà án là phải đưa ra được
họi Chủ tịch nước hoặc TANDTC ngoài
phán xét cuối cùng mang tính
các chức năng-nhiệm vụ nặng nề đang
pháp lý nhằm bảo đảm tính tối
đảm nhiệm ra, sẽ tiếp tục thực hiện thêm
thượng và hiệu quả trực tiếp của
các chức năngnhiệm vụ của hoạt động
các quy phạm Hiến pháp trong
KTrHP đối với VBPL do các cơ quan
các lĩnh vực hoạt động của Nhà
thuộc hai nhánh quyền lực khác ban
nước và sinh hoạt của xã hộiý,
hành và, đồng thời đối với cả các VBPL
phán xét cuối cùng đó là bắt
do chính mình ban hành. Đó là chưa bàn
buộc đối với tất cả các pháp
đến việc cả ba cấu trúc quyền lực này
nhân và thể nhân có liên quan
còn phải dành rất nhiều thời gian để hoàn
trên lãnh thổ của cả nước (nói
thành cho thật tốt các chức năng-nhiệm
một cách khác, kết quả của thủ
vụ hiến định vô cùng nặng nề và vinh dự
tục tố tụng về Hiến pháp này
tương ứng với vị trí hiện tại của mình phải là chung thẩm).
trước Tổ quốc và nhân dân nữa. Vậy thì
họ có còn đủ thời gian để đảm đương
thêm các chức năng-nhiệm vụ của hoạt
3. Các phương án để thực hiện giải pháp hoàn
động KTrHP vô cùng phức tạp, đòi hỏi
thiện cơ chế KSQL nhà nước (gồm cả QLP)
phải có trình độ nghề nghiệp cao, kiến
bằng nhánh quyền lực tư pháp (Tòa án)
thức chuyên môn giỏi (được giới luật học
của đất nước và bạn bè quốc tế thừa nhận
Trong giai đoạn xây dựng NNPQ và CCTP ở
chung) và, đầy trọng trách trước Tổ quốc
Việt Nam hiện nay khi bàn về việc hoàn thiện cơ
và nhân dân hay không (?). Chắn chắn lOMoAR cPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 209
100% là “không thể” còn đủ thời gian để 4.1.
Đã từ lâu, xung quanh nội dung
đảm đương thêm được nữa (!).
của cơ chế bảo vệ Hiến pháp đã được các
nhà khoa học-luật gia trao đổi, tranh luận 3.2.
Như vậy, rõ ràng là chỉ còn
sôi nổi trong sách báo pháp lý, cũng như
Phương án cuối cùng (thứ 4) là khả thi
trên nhiều diễn đàn của các Hội thảo
hơn cả vì lý do xác đáng như sau: Chính
khoa học ở nước ta suốt nhiều năm qua
lịch sử lập hiến-bảo hiến, cũng như thực
(nhất là từ khi Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm
tiễn KSQL nhà nước trên thế giới hàng
2002 chính thức ghi nhận về mặt hiến định tư
trăm năm qua đã và đang chứng minh
tưởng NNPQ ở Việt Nam) và tại Hội thảo khoa
đều đó ở các NNPQ đích thực là các
học với chủ đề “Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam
nước văn minh và phát triển cao. Ngay
do Ban Công tác lập pháp của UBTV Quốc hội
hiện nay, chưa tính ở một loạt các nước
tổ chức ở tỉnh Nghệ An (TP. Vinh, tháng
Châu Âu (như: Áo, Hungari, CHLB
5/2005) khi tổng thuật các ý kiến được phát biểu
Đức, Italia, BaLan, Rumana, Tursia, CH
tại buổi Hội thảo khoa học này, tác giả Hồng
Séc, v.v...) [12], chỉ tính riêng trong số
Chanh đã viết: “Đa số các ý đều nhận xét rằng,
15 nước CHLB thuộc Liên Xô cũ thì có
việc bảo vệ Hiến pháp ở nước ta không được
đến 4/5 (12 nước) thành lập TAHP độc
giao cho một cơ quan chuyên trách mà tất cả các
lập và chỉ ở cấp TW [13].
cơ quan trong bộ máy Nhà nước đều có nghĩa
vụ bảo vệ Hiến pháp thì hiệu quả và hiệu lực
không cao; không đề cao được trách nhiệm bảo
4.3. Tóm lại, nếu như Quôc hội thực hiện đúng
vệ Hiến pháp của Nhà nước và xã hội. Bảo vệ
Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị và tư
Hiến pháp theo cơ chế hiện hành chủ yếu dựa
tưởng của Đại hội đảng lần thứ X, cũng như đáp
vào quyền giám sát tối cao của Quốc hội thì có
ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân mà quyết
sự lẫn lộn giữa quyền lập pháp và quyền tài phán
định chọn Phương án thứ 4 nêu trên này, thì giải
(tư pháp)” [14]. Điệt biệt, có một số nhà khoa
pháp khả thi hơn cả là Quốc hội cần phải ban
họcluật gia Việt Nam đã thẳng thắng đưa ra sự
hành Luật “Về Tòa án Hiến pháp Việt Nam” (chỉ
đánh giá về thực trạng bảo vệ Hiến pháp ở nước
tổ chức ở một cấp TW song song bên cạnh
ta mà chúng tôi đã trích dẫn trên đây (trong phần
TANDTC) mà trong đó cần ghi nhận đầy đủ
về thực trạng KSQL lập pháp của Việt Nam).
những vấn đề về tổ chức và hoạt động của cơ
quan tài phán chuyên trách hoạt động tố tụng tư
pháp về Hiến pháp để bảo đảm cho việc thực hiện 4.2.
Sự nhận thức-khoa học thống
có hiệu quả hoạt động KSQL nhà nước của nhánh
nhất và biện chứng của việc hoàn thiện
quyền lực tư pháp đối với cả ba nhánh quyền lực
cơ chế KSQL nhà nước (nói chung) và
nhà nuớc (nhánh QLP - Quốc hội, nhánh QHP -
KSQL lập pháp (nói riêng) bằng hoạt
Chủ tịch nước, Thủ tướng và Chính phủ, nhánh
động KTrHP bởi nhánh quyền lực tư
QTP - hệ thống Tòa án chung).
pháp (Tòa án) trong giai đoạn xây dựng
NNPQ ở Việt Nam có thể được lý giải
trên một số bình diện sau:
4. Các luận cứ khoa học để tổ chức thực hiện 1)
Thực tiễn lập hiến của
cơ chế KSQL nhà nước (kể cả QLP) bằng
Nhà nước ta từ sau Cách mạng tháng
nhánh QTP (Tòa án) ở Việt Nam trong giai
8/1945 đến nay cho thấy, các Hiến
đoạn xây đựng NNNQ hiện nay có thể được
pháp Việt Nam với tư cách là những
lý giải bởi các lý do chủ yếu dưới đây
đạo luật cơ bản của Nhà nước và
hiệu lực pháp lý cao nhất
trong các lOMoAR cPSD| 46842444 210
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
thời kỳ khác nhau đều ghi nhận ở các
lực tư pháp (Tòa án) chính là ở chỗ -
mức độ khác nhau các quy phạm thuộc
nó sẽ là cơ chế hữu hiệu nhất để đảm
lĩnh vực tư pháp (như: các quyền tự do
bảo cho quyền lực Nhà nước là một
và bất khả xâm phạm về thân thể, nhà
thể thống nhất và thực sự dựa trên chủ
ở, được pháp luật bảo hộ về tính mạng
quyền của nhân dân, chứ không thể có
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của
nhánh quyền lực nào được phép tự cho
công dân; việc bắt, giam giữ, truy tố
mình là “cao nhất” hay “tối cao” -
và xét xử công dân phải theo tuân theo
đứng trên các nhánh quyền lực kia.
luật định; tổ chức và hoạt động của hệ
Bởi lẽ, cùng với việc thực thi cơ chế
thống Tòa án và hệ thống Viện kiểm
KTrHP bằng nhánh quyền lực tư pháp
sát-VKS) - các điều 63-69 Hiến pháp
(Tòa án) chúng ta sẽ xây dựng được
năm 1946 [15]; Điều 27-29, 38 và các
một loạt các cơ chế pháp lý hữu hiệu
điều 97-108 Hiến pháp năm 1959
để thực hiện sự kiểm soát quyền lực
[16]; Điều 55, các điều 69-73, 77 và
Nhà nước bằng một hệ thống Tòa án
các điều 127-141 Hiến pháp năm 1980
công minh, thực sự độc lập và chỉ tuân
[17]; các điều 71-74 và các điều 126-
theo pháp luật, cũng như sự chế
140 Hiến pháp năm 1992 [18].
ướcphối hợp với nhau giữa ba nhánh 2)
Mặt khác, cả lý luận và
quyền lực trong NNPQ (QLP, QHP và
thực tiễn về NNPQ hàng trăm năm
QTP). Vì thực tiễn BVPL trong các
qua, cũng như thực tiễn quốc tế hiện
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội
đại ở các nước văn minh và phát triển
ở Việt Nam những năm qua đã minh
cao những năm cuối của thế kỷ XX-
chứng một cách xác đáng rằng: không
đầu thế kỷ XXI đã và đang khẳng định
thực thi chế định KTrHP - chính là một
một chân lý khách quan, có căn cứ và
trong những nguyên nhân chủ yếu
đảm bảo sức thuyết phục rằng: dù cho
cho đến nay ở nước ta vẫn chưa thể
hoạt động của hệ thống tư pháp có tốt
khắc phục được thực trạng bức xúc đã
đến đâu nhưng nếu không có sự hiện
và đang xâm phạm đến các quyền và
diện của hoạt động KSQL nhà nước
tự do hiến định của con người và của
(kể cả KSQL lập pháp) với cơ chế
công dân khi một số Bộ, ngành ở TW
KTrHP bằng nhánh QTP (Tòa án) để
và chính quyền ở các địa phương tùy
đảm bảo tính tối thượng của luật (mà
tiện ban hành các văn bản trái pháp
trước hết là Hiến pháp với tư cách là
luật (hoặc vi hiến). Và hậu quả tiêu
đạo luật cơ bản của nhà nước có hiệu
cực của việc triển khai thực hiện các
lực pháp lý cao nhất trong toàn bộ hệ
văn bản này là - không chỉ gây thiệt hại
thống pháp luật của mỗi quốc gia), thì
cho cho các quyền và tự do hiến định
cũng không thể nói gì đến việc nâng
của công dân, mà còn xâm phạm thô
cao hiệu quả của hoạt động đó, nhất là
bạo pháp chế, gây ảnh hưởng xấu
trong lĩnh vực tư pháp - lĩnh vực liên
trong dự luận quần chúng nhân dân và
quan hàng đầu và thiết thực nhất đến
làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước.
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân 4)
Việc hoàn thiện cơ chế
phẩm, cũng như các quyền và tự do
KSQL nhà nước (kể cả KSQL lập
của con người và của công dân.
pháp) bằng hoạt động KTrHP bởi 3) Vai trò quan trọng nhất
nhánh quyền lực tư pháp (Tòa án) sẽ
của cơ chế KTrHP bằng nhánh quyền
bảo đảm tính tối thượng của luật (mà lOMoAR cPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 211
trước hết là Hiến pháp) trong các lĩnh
Trên cơ sở tham khảo mô hình tổ chức Tòa án
vực sinh hoạt của Nhà nước sẽ góp
Hiến pháp (TAHP) của các nuớc Châu Âu (như:
phần chống lại được sự độc đoán, tùy
Áo, Hungari, CHLB Đức, Italia, BaLan,
tiện và xâm hại đến sự bình đẳng và
Rumana, Tursia, CH Séc và một số bang của của
công lý, dân chủ và các quyền, tự do
Thụy Sĩ) [19], nghiên cứu so sánh một loạt các
của công dân của từ phía một bộ phận
văn bản như: 12 Luật về TAHP của các nước
các quan chức trong bộ máy công
thuộc Liên Xo cũ (trừ ba nước: Tuốcmênia -
quyền). Vì một khi cơ quan tài phán về
không có TAHP, Kazaxtan - tổ chức Hội đồng bảo
Hiến pháp được trao thẩm quyền sẽ
hiến thuộc nhánh quyền hành pháp do Tổng
tuyên bố vô hiệu đối với tất cả các văn
thống ra Pháp lệnh ban hành và, Extônia - tổ chức
bản luật và dưới luật vi hiến do bất kỳ
Viện bảo hiến thuộc Quốc hội để thực hiện hoạt
cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn
động giám sát Hiến pháp) + 4 Quy chế về TAHP
vị kinh tế, lực lượng vũ trang hay bất
(của LB Nga, Belarux, Gruzia, Ukraina) + 2 Luật
kể người có chức vụ nào (kể cả chức
Về thủ tục tố tụng Hiến pháp” (của Gruzia và
vụ cao nhất) ban hành, cũng như
Kưrgưxtan) + Bộ luật tố tụng Hiến pháp và Luật
những hành vi được thực hiện trên cơ
Về các biện pháp bảo đảm vật chất cho sự độc
sở các văn bản vi hiến đó.
lập của các Thẩm phán TAHP” của Môđavia + 5) Và như vậy, cơ chế
Luật “Về các bảo đảm xã hộ cho cho các Thẩm
KSQL nhà nước (kể cả KSQL lập
phán TAHP” của Gruzia [20], đồng thời xuất phát
pháp) bằng hoạt động KTrHP bởi
từ thực tiễn tổ chức và thực hiện quyền lực nhà
nhánh quyền lực tư pháp (Tòa án) rõ
nước ở Việt Nam, cũng như sự phát triển của các
ràng là một nhu cầu bức thiết và kỳ
quan hệ xã hội trong giai đoạn xây dựng NNPQ
vọng chính đáng của nhân dân lao và CCTP hiện hay và
động và toàn xã hội, là chức năng và
trong tương lai sau này, căn cứ vào các điều kiện
nhiệm vụ của bộ máy quyền lực nhà
cụ thể về chính tri-pháp lí, kinh tế-xã hội, lịch sử-
nước ta nói chung và hệ thống tư pháp
văn hóa ở nước ta, theo quan điểm của chúng tôi
của đất nuớc nói riêng để bảo đảm tốt
sẽ là hợp lí nếu như các điều khoản cụ thể của Dự
hiệu lực các quy định của Hiến pháp
thảo Luật “Về Tòa án Hiến pháp Việt Nam
với tính chất là đạo luật cơ bản của
(trong tương lai) sẽ có cơ cấu gồm có 05 Phần và
Nhà nước có giá trị pháp lý cao nhất
được phân chia thành 15 Chương với tổng số 100
nên nếu như chiến lược CCTP đến
điều theo MHLL của các KGLP đã được chúng
năm 2020 ở Việt Nam được Nhà nước
tôi soạn thảo trong Phụ lục I ở cuối bài báo này.
thực sự quan tâm và được tiến hành
một cách tổng thể và toàn diện, đồng
thời muốn nâng cao được hiệu quả của 6. Kết luận
hệ thống tư pháp thì nên chăng chúng
Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về
ta cần phải triển khai việc thực thi cơ
thực trạng của cơ chế KSQL lập pháp ở nước ta chế đã nêu.
hiện nay và giải pháp hoàn thiện nó trong giai
đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam cho phép đưa
5. Mô hình lý luận về các KGLP với tên gọi
ra những kết luận như sau:
của từng điều luật cụ thể của Dự thảo Luật
Một là, thực trạng KSQL lập pháp trong bộ
Về Tòa án Hiến pháp Việt Nam” (trong
máy công quyền của Việt Nam đã được phân tương lai)
tích trên ba bình diện (lập pháp, thực tiễn và lý lOMoAR cPSD| 46842444 212
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
luận) trên đây cho thấy, để góp phần cho thắng
pháp về Hiến pháp trong việc kiểm tra tính hợp
lợi cuối cùng của sự nghiệp xây dựng một
hiến của các VBPL do tất cả các cơ quan (những
NNPQ đích thực thì thực trạng đã nêu cần phải
người có chức vụ) trong bộ máy công quyền, tổ
được nhanh chóng khắc phục và chỉ có như vậy,
chức hoặc đơn vị lực lượng vụ trang ban hành,
chúng ta mới có thể tránh khỏi được những hệ
cũng như những hành vi (và bất tác vi) được thực
lụy tất yếu với tư cách là quy luật khách quan
hiện trên cơ sở văn bản vi hiến đã xâm phạm đến
(như đã phân tích trên đây). Vì rõ ràng là nếu
các quyền và tự do hiến định của công dân, đồng
như thực trạng đó vẫn tiếp tục bị kéo dài thì sẽ
thời xem xét và giải quyết những vấn đề khác đã
vô cùng rất bất lợi cho Việt Nam trong các quan
nêu theo thẩm quyền do Hiến pháp và pháp luật
hệ đối ngoại; bởi lẽ, chính trong đạo luật cơ bản
quy định để đưa ra phán xét cuối cùng nhằm bảo
của nhà nước có hiệu lực pháp lý cao nhất chúng
đảm tính pháp chế cao nhất, tính tối thượng và
ta đã long trọng tuyên bố trước toàn thế giới
hiệu quả trực tiếp của các quy phạm Hiến pháp
(mặc dù sự thật là Việt Nam chưa phải là NNPQ
trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và
mà chúng ta mói chỉ đang ở trong giai đoạn xây
sinh hoạt của xã hội.
dựng nó mà thôi) là “Nhà nước cộng hòa XHCN
Bốn là, vấn đề thành lập TAHP ở Việt Nam
Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của
trong giai đoạn xây dựng NNPQ hiện nay với tư
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân...” (khoản
cách là cơ quan chuyên môn để thực hiện hiện
1 Điều 2 Hiến pháp năm 1992) nên cần phải có
chức năng KSQL nhà nước (gồm cả KSQL lập
giải pháp thiết thực cụ thể sao cho đồng quốc tế
pháp) không chỉ xuất phát từ thực tiễn hoạt động
khỏi đánh giá là cam kết của Việt Nam “chỉ có
của hệ thống quyền lực nhà nước Việt Nam từ sau
tính chất tuyên ngôn trên giấy” hoặc là “lời nói
Cách mang tháng 8/1945 đến nay, là nguyện vọng
không đi đôi với việc làm” - chính là điều mà
tha thiết của các tầng lớp nhân dân ta về việc thực
các nhà luật học Việt Nam cần phải cùng nhau
thi cơ chế KTrHP bằng nhánh quyền tư pháp với
suy ngẫm để đưa ra các kiến giải lập pháp
mục đích làm cho đạo luật cơ bản của Nhà nước
(KGLP) cụ thể và cũng là vấn đề rất quan trọng
được bảo vệ một cách hữu hiệu, loại trừ tình trạng
mà chúng ta phải khẩn trương triển khai ngay
ban hành các VBPL vi hiến, những hành vi (và
trong chiến lược cải cách tư pháp (CCTP) từ nay
bất tác vi) được thực hiện trên cơ sở các văn bản
đến năm 2020.
đó, cũng như sự xâm phạm thô bạo các quyền và
Hai là, đề hoàn thiện và xây dựng những căn
tự do hiến định của con người và của công dân từ
cứ pháp lý cho hoạt động KSQL nhà nước (gồm
phía quyền lực nhà nước, góp phần xây dựng
cả kiểm soát QLP) theo cơ chế KTrHP bằng
thành công NNPQ và triển khai thắng lợi công
nhánh quyền lực tư pháp (Tòa án), thì với tư cách cuộc CCTP ở nước ta.
là đạo luật cơ bản của nhà nước có hiệu lực pháp
Và cuối cùng, năm là, từ tất cả sự phân tích
lý cao nhất, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 cần
khoa học những vấn đề đã được nghiên cứu trong
phải được sửa đổi-bổ sung, đồng thời Quốc hội
bài viết này, chúng tôi đã cố gắng soạn thảo
cần ban hành Luật “Về Tòa án Hiến pháp Việt
MHLL về các KGLP với tên gọi của từng điều Nam”.
khoản cụ thể trong Dự thảo Luật “Về Tòa án Hiến
Ba là, KTrHP bằng Tòa án trong NNPQ với
pháp Việt Nam” (trong tương lai) với cơ cấu gồm
tư cách là cơ chế KSQL nhà nước đối với không
05 Phần và được phân chia thành 15 Chương với
chỉ nhánh QLP, mà còn đối với cả hai nhánh
tổng số 100 điều (Xem cụ thể hơn: Toàn văn tên
quyền lực còn lại - QHP và QTP là hình thức bảo
gọi của từng Phần, Chương và Điều, cũng như
vệ Hiến pháp bằng nhánh quyền lực tư pháp , là
MHLL về nội dung cụ thể của các KGLP đói với
chức năng của cơ quan chuyên môn về xét xử (tài
sáu điều đầu tiên thuộc các chương I, II và III
phán) và được thể hiện bằng hoạt động tố tụng tư lOMoAR cPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 213
trong Dự thảo Luật đã nêu tại Phụ lục I & Phụ
vấn đề được xem xét và giải quyết tại các phiên
lục II dưới đây).
họp toàn thể của TAHP; Điều 21. Những vấn đề
được xem xét và giải quyết tại các phiên họp của
Tòa chuyên trách; Điều 22. Chức năng, quyền PHỤ LỤC I
hạn của Chánh án, Phó chánh án và Thẩm phán-
Thư kí TAHP; Điều 23. Những nguyên tắc cơ bản
Mô hình lý luận về các kiến giải lập pháp với
trong tổ chức-hoạt động của TAHP và; Điều 24.
tên gọi của từng điều cụ thể trong Dự thảo
Trình tự thông qua nội dung cơ bản của Quy chế
Luật “Về Tòa án Hiến pháp Việt Nam về TAHP). (trong tương lai)
2. Phần thứ haiCác quy định chung về thủ
1. Phần thứ nhấtCác quy định về tổ chức-
tục tố tụng ở TAHP Việt Nam” được phân chia
hoạt động của TAHP Việt Nam” được phân chia
thành năm (05) Chương với 50 điều là
thành bốn (04) Chương với 24 điều là:
1) Chương VNhững nguyên tắc cơ bản
1) Chương IVề vị trí, cơ sở pháp lý và
của tố tụng về Hiến pháp” gồm có 09 điều (Điều
nhiệm vụ của TAHP Việt Nam” gồm 03 điều
25. Nguyên tắc pháp chế của tố tụng về Hiến
(Điều 1. Vị trí của Tòa án Hiến pháp; Điều 2. Cơ
pháp; Điều 26. Nguyên tắc độc lập của tố tụng về
sở pháp lýý của việc tổ chức-hoạt động, của việc
Hiến pháp; Điều 27. Nguyên tắc tập thể của tố
ghi nhận các thẩm quyền và các đặc điểm tố tụng
tụng về Hiến pháp; Điều 28. Nguyên tắc công
của TAHP và; Điều 3. Nhiệm vụ của TAHP).
khai của tố tụng về Hiến pháp; Điều 29. Nguyên 2)
tắc xét xử liên tục của tố tụng về Hiến pháp; Điều
Chương IIVề các thẩm quyền và bảo
đảm cho hoạt động của TAHP Việt Nam” gồm 02
30. Nguyên tắc xét xử bằng miệng của tố tụng
điều (Điều 4. Các thẩm quyền của TAHP và; Điều
về Hiến pháp; Điều 31. Nguyên tắc tranh tụng
5. Các bảo đảm cho hoạt động của TAHP).
của tố tụng về Hiến pháp; Điều 32. Nguyên tắc
bình đẳng của các bên trong tố tụng về Hiến pháp
3) Chương III “Về địa vị pháp lý của thẩm
và; Điều 33. Nguyên tắc bảo đảm quyền sử dụng
phán TAHP Việt Nam” gồm 12 điều (Điều 6. Các
ngôn ngữ của những người tham gia trong tố tụng
tiêu chuẩn của Thẩm phán TAHP; Điều 8. về Hiến pháp).
Quy trình bổ nhiệm Thẩm phán TAHP; Điều 9.
Những hạn chế đối với Thẩm phán TAHP; Điều
2) Chương VIQuy trình tiếp nhận và phân
10. Các bảo đảm cho sự độc lập của Thẩm phán
loại đơn thư gửi đến TAHP Việt Nam” gồm có 03
TAHP; Điều 11. Sự bất khả xâm phạm đối với
điều (Điều 34. Lí do và căn cứ để xem xét vụ việc
Thẩm phán TAHP; Điều 12. Sự bình đẳng về
ở TAHP; Điều 35. Những yêu cầu chung đối với
quyền và nghĩa vụ của các Thẩm phán TAHP;
đơn thư gửi đến TAHP và; Điều 36. Phân loại của
Điều 13. Tuyên thệ của Thẩm phán TAHP; Điều
Ban thư kí các đơn thư gửi đến TAHP).
14. Nhiệm kỳ giữ chức vụ Thẩm phán TAHP;
3) Chương VII Xem xét sơ bộ đơn thư gửi
Điều 15. Tạm đình chỉ chức vụ Thẩm phán
đến TAHP Việt Nam” gồm có 04 điều (Điều 37.
TAHP; Điều 16. Chấm dứt giữ chức vụ Thẩm
Nghiên cứu sơ bộ đơn thư của Thẩm phán TAHP;
phán TAHP; Điều 16. Thôi giữ chức vụ của Thẩm
Điều 38. Tiếp nhận đơn thư để xem xét; Điều
phán TAHP và Điều 17. Nghỉ hưu của Thẩm phán
39. Từ chối tiếp nhận đơn thư để xem xét và; TAHP).
Điều 40. Rút lại đơn thư).
4) Chương IV Về cơ cấu tổ chức và hoạt
4) Chương VIII Thủ tục tố tụng chung của
động của TAHP Việt Nam” gồm có 07 điều (Điều
việc xem xét các vụ việc ở TAHP Việt Nam” gồm
18. Các Tòa chuyên trách của TAHP; Điều 19.
22 điều (Điều 41. Triệu tập phiên họp toàn thể
Bộ máy giúp việc của TAHP; Điều 20. Những
của TAHP và phiên họp của Tòa chuyên trách; lOMoAR cPSD| 46842444 214
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
Điều 42. Trình tự xem xét các vấn đề tại phiên
Phân loại những vụ việc thuộc thẩm quyền tố
họp toàn thể của TAHP và phiên họp của Tòa
tụng của TAHP) + năm (06) Chương với
chuyên trách; Điều 43. Quyết định đưa vụ việc ra 20 điều là
xem xét; Điều 44. Hợp nhất vụ việc; Điều 45.
1) Chương XCác đặc điểm tố tụng đối với
Chuẩn bị xem xét vụ việc; Điều 46. Gửi các tài
những vụ việc về kiểm tra tính hợp hiến của các
liệu và thông báo về lịch của các phiên họp; Điều
văn bản quy phạm pháp luật” gồm 04 điều (Điều
47. Những người tham gia tố tụng về Hiến pháp;
76. Quyền gửi đơn thư đến TAHP dưới hình thức
Điều 48. Các bên tham gia tố tụng về Hiến pháp
chất vấn; Điều 77. Điều kiện để chất vấn được
và người đại diện của họ; Điều 49. Những trường
TAHP chấp nhận; Điều 78. Phạm vi kiểm tra tính
hợp Thẩm phán TAHP không được tham gia xem
hợp hiến của văn bản QPPL bị chất vấn và; Điều
xét vụ việc; Điều 50. Khai mạc phiên tòa; Điều
79. Phán quyết đối với vụ việc về kiểm tra tính
51. Ghi biên bản; Điều 52. Trật tự phiên tòa; Điều
hợp hiến của văn bản QPPL bị chất vấn).
53. Trình tự nghiên cứu các vấn đề và các tài liệu
2) Chương XI “Các đặc điểm tố tụng đối
tại phiên tòa; Điều 54. Trình bày của các bên;
với những vụ việc về kiểm tra tính hợp hiến của
Điều 55. Lời khai của nhân chứng; Điều 56. Kết
các quy định bị khiếu nại là xâm phạm đến các
luận của giám định viên; Điều 57. Phát biểu kết
quyền tự do hiến định của công dân” gồm 04 điều
luận của các bên; Điều 58. Hoãn phiên tòa; Điều
(Điều 80. Quyền gửi đơn thư đến TAHP dưới
59. Trở lại xem xét vấn đề; Điều 60. Những
hình thức khiếu nại; Điều 81. Điều kiện để khiếu
trường hợp đình chỉ tố tụng vụ việc về Hiến pháp;
nại được TAHP chấp nhận; Điều 82. Phạm vi
Điều 61. Kết thúc xem xét vụ việc tại phiên tòa;
kiểm tra tính hợp hiến của quy định bị khiếu nại
Điều 62. Nghị án để thông qua phán quyết đối với
và; Điều 83. Phán quyết đối với vụ việc về kiểm vụ việc).
tra tính hợp hiến của quy định bị khiếu nại).
5) Chương IX Các phán quyết của TAHP
3) Chương XII Các đặc điểm tố tụng đối
Việt Nam” gồm có 12 điều (Điều 63. Các loại
với những vụ việc giải quyết tranh chấp về phân
phán quyết của TAHP; Điều 64. Trình tự thông
định thẩm quyền” gồm 04 điều (Điều 84. Quyền
qua phán quyết của TAHP; Điều 65. Những yêu
gửi đơn thư đến TAHP dưới hình thức đề nghị;
cầu đối với các phán quyết của TAHP; Điều 66.
Điều 85. Điều kiện để đề nghị được TAHP chấp
Những thông tin cần phải được ghi trong phán
nhận; Điều 86. Phạm vi kiểm tra tính hợp hiến
quyết của TAHP; Điều 67. ýBảo lưu ý kiến riêng
của tranh chấp được đề nghị giải quyết và; Điều
của Thẩm phán TAHP; Điều 68. Hiệu lực pháp lý
87. Phán quyết đối với vụ việc về kiểm tra tính
của phán quyết do TAHP Việt Nam tuyên; Điều
hợp hiến của tranh chấp được đề nghị giải quyết).
69. Tuyên phán quyết của TAHP; Điều 70. Sửa
chữa những điểm chưa chính xác trong phán
4) Chương XIII “Các đặc điểm tố tụng đối
quyết của TAHP; Điều 71. Công bố phán quyết
với những vụ việc về giải thích Hiến pháp, cũng
của TAHP; Điều 72. Giải thích phán quyết của
như các văn bản pháp luật quốc tế khi có mâu
TAHP; Điều 73. Thời hạn thi hành phán quyết
thuẫn với các văn bản pháp luật quốc gia”`gồm
của TAHP; Điều 74. Hậu quả của việc không thi
04 điều (Điều 88. Quyền gửi đơn thư đến TAHP
hành, thi hành không đúng hoặc cản trở việc thi
dưới hình thức chất vấn; Điều 89. Điều kiện để
hành phán quyết của TAHP).
chất vấn được TAHP chấp nhận; Điều 90. Phạm
vi giải thích nội dung được chất vấn và; Điều 91.
3. Phần thứ baCác quy định về các đặc
Phán quyết đối với vụ việc về giải thích nội dung
điểm tố tụng đối với từng loại vụ việc thuộc thẩm được chất vấn).
quyền của TAHP Việt Nam” được phân chia thành
01 điều riêng không thuộc Chương nào (Điều 75.
5) Chương XIV “Các đặc điểm tố tụng đối
với những vụ việc về sự tuân thủ trình tự do luật lOMoAR cPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 215
định trong việc khởi tố vụ án hình sự, đưa ra cáo
thực hiện quyền tư pháp bằng hoạt động tố tụng
trạng hoặc bản án đối với những người có chức
về Hiến pháp đối với các vấn đề thuộc thẩm
vụ cao nhất trong Ban lãnh đạo của đất nước”
quyền do Hiến pháp và Luật này quy định.
gồm 04 điều (Điều 92. Quyền gửi đơn thư đến
Điều 2. Cơ sở pháp lýý của việc tổ chức-hoạt
TAHP dưới hình thức chất vấn; Điều 93. Điều
động, của các thẩm quyền và của các đặc điểm tố
kiện để chất vấn được TAHP chấp nhận; Điều
tụng của Tòa án Hiến pháp Việt Nam
94. Trình tự gửi chất vấn đến TAHP và; Điều
1. Những cơ sở pháp lýý của việc tổ
95. Phán quyết của TAHP).
chứchoạt động, của các thẩm quyền và của các
4. Phần thứ tư và là một Chương
đặc điểm tố tụng của Tòa án Hiến pháp Việt Nam
XVCác quy định về ấn bản, con dấu,
do Hiến pháp và Luật này quy định.
biểu tượng quyền tư pháp và trụ sở của
2. Trong khi thực hiện hoạt động tố tụng về
TAHP Việt Nam” gồm 04 điều (Điều 96.
Hiến pháp đối với các vấn đề thuộc thẩm quyền
Ấn bản chính thức của TAHP; Điều 97.
của mình, Tòa án Hiến pháp Việt Nam có quyền
Con dấu của TAHP; Điều 98. Biểu tượng
viện dẫn trực tiếp các quy định của Hiến pháp với
quyền tư pháp của TAHP và; Điều 99.
tư cách là Luật cơ bản của nhà nước có hiệu lực
Trụ sở làm việc của TAHP)
pháp lýý cao nhất, của Luật này, cũng như của
5. Và cuối cùng, Phần thứ năm
các văn bản Luật và dưới Luật tương ứng khác.
Quy định về hiệu lực thi hành Luật này
Điều 3. Nhiệm vụ của Tòa án Hiến pháp Việt
không phân chia thành Chương mà chỉ Nam
gồm 01 điều (Điều 100. Hiệu lực thi hành của Luật này)”.
1. Nhiệm vụ của Tòa án Hiến pháp Việt Nam là:
a) Bảo vệ sự tối thượng, tính pháp chế và PHỤ LỤC II
hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp trên toàn bộ
lãnh thổ Việt Nam với tư cách là Luật cơ bản
Mô hình lý luận mẫu về nội dung cụ thể của
các KGLP về sáu điều đầu tiên (1-6) thuộc
của nhà nước có hiệu lực pháp lýý cao nhất
ba chương (I, II và III) trong Dự thảo Luật
trong hệ thống pháp luật quốc gia;
Về Tòa án Hiến pháp Việt Nam” (tương lai)
b) Bảo vệ các quyền và tự do của công dân
được quy định trong Hiến pháp và các văn bản
Phần thứ nhất: Các quy định về tổ chức - pháp luật khác;
hoạt động của Tòa án Hiến pháp Việt Nam
c) Bảo vệ các lĩnh vực khác của trật tự pháp luật; Chương I
d) Đấu tranh phòng và chống các vi phạm Hiến pháp;
VỊ TRÍ, CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ NHIỆM VỤ
đ) Góp phần giáo dục công dân và cộng
CỦA TÒA ÁN HIẾN PHÁP VIỆT NAM
đồng ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành
(Gồm 3 điều luật)
nghiên chỉnh các quy định của Hiến pháp và pháp
luật trong đời sống hàng ngày.
Điều 1. Vị trí của Tòa án Hiến pháp Việt Nam
2. Để thực hiện những nhiệm vụ trên đây và
Tòa án Hiến pháp (TAHP) Việt Nam là cơ
nhằm bảo đảm cho sự độc lập của Tòa án Hiến
quan kiểm tra Hiến pháp (KTrHP) cao nhất trong
pháp trong hoạt động kiểm tra Hiến pháp, bên
bộ máy quyền lực Nhà nước Việt Nam, độc lập
cạnh các quy định của Hiến pháp, Luật này quy
định những vấn đề liên quan đến tổ chức-hoạt lOMoAR cPSD| 46842444 216
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
động, trình tự-thủ tục tố tụng về Hiến pháp và các
f) Bất kỳ văn bản nào do các chủ thể nêu
đặc điểm tố tụng đối với từng loại vụ việc thuộc
tại các điểm từ “a” đến “e” khoản 1 Điều này tự
thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp Việt
mình (hoặc phối hợp) ban hành; Nam.
g) Các Hiệp ước quốc tế, cũng như các văn Chương II
bản dưới Luật khác do người có chức vụ cao cấp
nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ Việt Nam
CÁC THẨM QUYỀN VÀ BẢO ĐẢM CHO
kí kết với nước ngoài nhưng chưa có hiệu lực
HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN HIẾN PHÁP pháp lý; VIỆT NAM
h) Các điều (khoản) luật đã (hoặc phải) (Gồm 2 điều)
được áp dụng trong trường hợp cụ thể trên cơ sở
đề nghị của Tòa án hoặc cơ quan áp dụng điều
Điều 4. Các thẩm quyền của Tòa án Hiến
(khoản) luật tương ứng; pháp Việt Nam
2. Tòa án Hiến pháp Việt Nam có thẩm
1. Tòa án Hiến pháp Việt Nam có thẩm
quyền kiểm tra để xem xét và đưa ra phán quyết
quyền kiểm tra để xem xét và đưa ra phán quyết
(quyết định hoặc kết luận) đối với quy định trong
(quyết định hoặc kết luận) đối với những vụ việc
bất kỳ văn bản QPPL nào đã (hoặc phải) được áp
về tính hợp hiến của tất cả các văn bản quy phạm
dụng trong trường hợp cụ thể mà bị khiếu nại là
pháp luật (QPPL) sau đây:
xâm phạm đến các quyền và tự do hiến định của công dân.
a) Các Bộ luật, Luật và Nghị quyết do
Quốc hội ban hành, cũng như các Pháp lệnh và
3. Tòa án Hiến pháp Việt Nam có thẩm
Nghị quyết do Ủy ban Thường vụ Quốc hôi ban
quyền giải quyết những vụ việc tranh chấp về hành;
phân định thẩm quyền giữa: b) a)
Các Lệnh và Quyết định do Chủ tịch
Các cơ quan nhà nước ở Trung ương nước (TW); ban hành;
b) Các cơ quan nhà nước ở TW với các cơ c)
quan chính quyền địa phương cấp tỉnh, thành phố
Các Nghị định do Chính phủ ban hành
và các Quyết định do Thủ tướng ban hành, cũng trực thuộc TW.
như các Thông tư do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
4. Tòa án Hiến pháp Việt Nam có thẩm
quan ngang Bộ và các Quyết định do Tổng Kiểm
quyền giải thích Hiến pháp và các Luật của Việt toán Nhà nước ban hành;
Nam, cũng như các văn bản pháp luật quốc tế khi d)
có mâu thuẫn với các văn bản pháp luật quốc gia.
Các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC, các Thông tư do Chánh án
5. Tòa án Hiến pháp Việt Nam có thẩm
TANDTC hoặc Viện Trưởng VKSNDTC ban
quyền xem xét và đưa ra kết luận về việc tuân thủ hành;
đúng (hay không) trình tự do luật định trong việc
đ) Các văn bản QPPL do các cơ quan chính
khởi tố vụ án hình sự, đưa ra cáo trạng hoặc bản
án đối với những người có chức vụ cao nhất trong
quyền địa phương ban hành;
Ban lãnh đạo của đất nước.
e) Các văn bản dưới Luật do lãnh đạo cấp 6.
TW của các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã
Tòa án Hiến pháp Việt Nam có thẩm
quyền đưa ra sáng kiến lập pháp đối với những
hội, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức xã hội-nghề
vấn đề có liên quan đến các lĩnh vực tổ chứchoạt
nghiệp, đơn vị kinh tế hay lực lượng vũ trang
động và tố tụng thuộc thẩm quyền của mình. nhân dân ban hành; lOMoAR cPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 217
7. Tòa án Hiến pháp Việt Nam chỉ giải
Điều 6. Các tiêu chuẩn của Thẩm phán Tòa
quyết các vấn đề mang tính pháp lýý và có thể án Hiến pháp Việt Nam
thực hiện các thẩm quyền khác theo quy định của
Công dân Việt Nam trong độ tuổi không dưới
Hiến pháp hoặc của Luật này.
bốn mươi (40) tính đến ngày được bổ nhiệm,
8. Đối với các vấn đề thuộc tổ chức-hoạt
trung thành với Tổ quốc và nhân dân Việt Nam,
động nội bộ thì Tòa án Hiến pháp Việt Nam tự
có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng tốt nghiệp Đại
mình thông qua Quy chế nhưng không được trái
học Luật chính quy trở lên, có thâm niên công tác
với Hiến pháp và Luật này.
trên 10 năm trong ngành-nghề liên quan đến pháp
Điều 5. Các bảo đảm cho hoạt động của Tòa
luật, được luật học của đất nước thừa nhận chung án Hiến pháp Việt Nam
trong giới là có trình độ nghề nghiệp cao và trinh 1.
độ chuyên môn giỏi về luật học, có thể được bổ
Hoạt động của Tòa án Hiến pháp Việt
Nam không bị phụ thuộc vào bất kỳ cơ quan, tổ
nhiệm làm Thẩm phán TAHP Việt Nam”./.
chức hoặc cá nhân nào và được bảo đảm bằng sự
Tài liệu tham khảo
độc lập về mặt tổ chức-cán bộ, thông tin-xuất
bản, chi tiêu tài chính và sử dụng các phương tiện
[1] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X,
vật chất-kỹ thuật của Nhà nước trong việc thực
NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. thi công vụ.
[2] GS.TSKH. Đào Trí Úc, PGS.TS. Nguyễn Như
Phát (Đồng chủ biên), Tài phán Hiến pháp và vấn
2. Phán quyết (quyết định hoặc kết luận) về
đề xây dựng mô hình tài phán Hiến pháp ở Việt
vụ việc thuộc thẩm quyền xem xét và giải quyết
Nam (Sách chuyên khảo), NXB Công an Nhân dân,
của Tòa án Hiến pháp Việt Nam được coi là Hà Nội, 2007.
chung thẩm đối với vụ việc tương ứng, có hiệu
[3] Trần Ngọc Đường, Bàn về chức năng, nhiệm vụ
lực pháp lí cao nhất và bắt buộc đối với tất cả các
và quyền hạn của cơ quan tài phán Hiến pháp ở
cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị kinh tế, lực
Việt Nam, Trong sách đã dẫn: Tài phán Hiến pháp
lượng vũ trang nhân dân, người có chức vụ và
và vấn đề..., tr. 186 và 190.
công dân, cũng như bất kỳ pháp nhân hoặc thể
[4] Nguyễn Đăng Dung, Tài phán Hiến pháp ở Việt nhân nào khác.
Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền hiện nay
, Trong sách đã dẫn: Tài phán Hiến
3. Bất kỳ sự can thiệp nào (bằng hành vi
pháp và vấn đề..., tr. 195.
hoặc bất tác vi) nhằm hạn chế sự độc lập về mặt [5]
tổ chức-cán bộ, thông tin-xuất bản, chi tiêu tài
Bùi Xuân Đức, Bàn về mô hình bảo vệ Hiến pháp
ở Việt Nam: Sự cần thiết xác lập cơ chế tài phán
chính, sử dụng các phương tiện vật chất-kỹ thuật
Hiến pháp, Trong sách đã dẫn: Tài phán Hiến pháp
của nhà nước hay những điều kiện khác đối với
và vấn đề..., tr. 209-210.
hoạt động của Tòa án Hiến pháp Việt Nam trong
[6] Thái Vĩnh Thắng, Nhu cầu bảo hiến pháp và mô
việc thực thi công vụ hoặc nhằm tác động (gây
hình cơ quan bảo hiến phù hợp với Việt Nam,
ảnh hưởng) đến việc đưa ra phán quyết của Tòa
Trong Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5 (2009)
án Hiến pháp Việt Nam đều bị nghiêm cấm và xử 3. lí theo luật định.
[7] Lê Minh Thông, Quyền giám sát tối cao của Quốc
hội-Lịch sử phát triển và những vấn đề đặt ra trong
bối cảnh hiện nay, Trong sách đã dẫn: Giám sát và Chương III
hoạt động giám sát..., tr.178. [8]
VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN
Lê Minh Thông, Quyền giám sát tối cao của Quốc
hội-Lịch sử phát triển và những vấn đề đặt ra trong
TÒA ÁN HIẾN PHÁP VIỆT NAM
bối cảnh hiện nay, Trong sách đã dẫn: Giám sát và
(Gồm 12 điều luật)
hoạt động giám sát..., tr.179. lOMoAR cPSD| 46842444 218
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217
[9] Xem: Ví dụ như: Trirkin V.E. Luật Hiến pháp của
[12] Xem cụ thể hơn: Hệ thống Tòa án của các nước
các nước ngoài, NXB Luật gia, Maxcova, 1997
Châu Âu, Sách tra cứu (Bản dịch từ tiếng Pháp của
(tiếng Nga); Hiến pháp của các nuớc ngoài (Hoa
Đ.I.Vaxiliev và từ tiếng Anh của O.Iu.Kobiakôv),
Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp, Italia, Tây Ban Nha, NXB Quan hệ quốc tế,
Hilạp, Đức, Nhật Bản, Canađa), In lần thứ 2 có sửa
Maxcơva, 2002, các tr. 21, 68-69, 73-74, 141,
chữa và bổ sung, NXB Bek, Maxcova, 1997 (tiếng
158-160, 179, 211-212, 233, 256-259, 309-310,
Nga); Hiến pháp của các nước ngoài Đông Âu, Tập (tiếng Nga).
bài giảng và tra cứu, NXB Norma-Infra. Maxcova,
[13] Xem cụ thể hơn: Tư pháp về Hiến pháp ở các nước
1996 (tiếng Nga); Êzeev. B.X. Hiến pháp-Nhà
SNG và Bantích. Tập các văn bản quy phạm (Chủ
nước pháp quyền-Tòa án Hiến pháp. (Tập bài
biên M.A.Mitriukôv). NXB
giảng đã dẫn); Baglai M.V. Luật Hiến pháp Liên
Zertxalô.Maxcơva, 1998- 800 tr. (tiếng Nga).
bang Nga, Tập bài giảng dành cho các Trường Đại
[14] Hồng Chanh, Tìm cơ chế bảo đảm tính hợp hiến,
học, NXB Norma-Infra, Maxcova, 1998 (tiếng
hợp pháp. – Trong Bản tin "Luật sư ngày nay” (Bản
Nga); Mikhalieva H.V, Luật Hiến pháp của các
tin của Đoàn Luật sư Hà Nội), số 6 (2005) 5.
nước thuộc SNG, Tập bài giảng NXB Luật gia, [15]
Maxcova, 1998 (tiếng Nga); Sulzenkô Iu.L. Trích
Xem cụ thể hơn: Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946.
giảng Luật Hiến pháp Liên bang Nga, Viện – Trong sách: Hiến pháp
Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992), NXB
Nhà nước và Pháp luật thuộc Viện HLKH Nga,
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
NXB Luật gia, Maxcova, 1997 (tiếng Nga); Tư [16]
pháp về Hiến pháp ở các nước SNG và Bantích.
Xem cụ thể hơn: Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959. Tập – Trong sách: Hiến pháp
các văn bản quy phạm (Chủ biên
Việt Nam… (Sách đã dẫn), tr.39-40, 42, 61-64.
M.A.Mitriukôv), NXB Zertxalô.Maxcơva, 1998
(tiếng Nga); GS.TSKH Đào Trí Úc, PGS.TS
[17] Xem cụ thể hơn: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
Nguyễn Như Phát (Đồng chủ biên), Tài phán
chủ nghĩa Việt Nam năm 1980. – Trong sách: Hiến
Hiến pháp và vấn đề xây dựng mô hình tài phán
pháp Việt Nam… (Sách đã dẫn), tr.94, 99101, 126-
Hiến pháp ở Việt Nám, NXB Công an Nhân dân, 131. Hà Nội, 2007; v.v...
[18] Xem cụ thể hơn: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi). NXB
[10] Xem: Các nguồn tài liệu đã dẫn ở chú thích số (9)
Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2002, tr.37-39, 6872.
trên đây, đồng thời xem cụ thể hơn: V.N.Vitơruk.
Hoạt động tư pháp về Hiến pháp, Luật hiến pháp
[19] Xem cụ thể hơn: Hệ thống Toà án của các nước
về tư pháp và tố tụng, Tập bài giảng dành cho các
Châu Âu. Sách tra cứu (Bản dịch từ tiếng Pháp của
Trường đại học, NXB Đạo luật và Pháp quyền.
Đ.I.Vaxiliev và từ tiếng Anh của O.Iu.Kobiakôv),
Maxcơva, 1998, tr. 30 (tiếng Nga); Hệ thống Tòa NXB Quan hệ quốc tế,
án của các nước Châu Âu, Sách tra cứu (Bản dịch
Maxcơva, 2002, các tr. 21, 68-69, 73-74, 141,
từ tiếng Pháp của Đ.I.Vaxiliev và từ tiếng Anh của
158-160, 179, 211-212, 233, 256-259, 309-310,
O.Iu.Kobiakôv), NXB Quan hệ quốc tế, Maxcơva, (tiếng Nga).
2002 (tiếng Nga); Văn phòng Quốc hội Việt Nam
[20] Xem cụ thể hơn: Tư pháp về Hiến pháp ở các nước
và Văn phòng Dự án Hỗ trợ cải cách tư pháp của
SNG và Bantích, Tập các văn bản quy phạm (Chủ
Đan Mạch (JOPSO), Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế về
biên M.A.Mitriukôv), NXB
bảo hiến (TP.Hồ Chí Minh, 12-13/3/2009), NXB
Zertxalô.Maxcơva, 1998 (tiếng Nga).
Thời đại, Hà Nội, 2009; v.v...
[11] Xem: V.N.Vitơruk. Hoạt động tư pháp về Hiến
pháp, Luật hiến pháp về tư pháp và tố tụng, Tập
bài giảng dành cho các Trường đại học, NXB Đạo
luật và Pháp quyền, Maxcơva, 1998, tr. 30 (tiếng Nga). lOMoAR cPSD| 46842444
L.V. Cảm, D.B. Thành / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 201-217 219
Suppervision of Legislative power:
Current mechanism and solutions for improvement in the
Stage of building the rule of Law State in Vietnam Le Van Cam1, Duong Ba Thanh2
1School of Law, Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
2Institute for Politics Studies under Ho Chi Minh, National Political-Administrative Academy
In the current stage of building a genuine rule of law state of the people, by the people and for the
people in Vietnam, examining theoritical and practical aspects of mechanism of suppervising legislative
power by which proposing solutions to improve this mechanism with specific theoritical model and
legislative interpretation has great social-legal and scientific-practical significance. Unfortunately, so
far in Vietnam, there has not any legal research focused on this topic. Our study is therefore timely and needed.