lOMoARcPSD| 60851861
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC N HOÁ HÀ NỘI
1
BÀI THUYẾT TRÌNH
MÔN: ĐỊA LÝ DU LỊCH
Đề bài: Tìm Hiểu Tài Nguyên Du Lịch
HỌC KỲ: II NĂM HỌC: 2024-2025
Sinh viên: Nhóm 2
1. Nguyễn Lê Hà (Nhóm trưởng) -
63DLH10026
2. Phạm Thị Thu Hồng - 63DLH10036
3. Trần Thị Hạnh - 63DLH10030
4. Bùi Văn Công - 63DLH10011
5. Nguyễn Thành An - 63DLH10001
6. Lữ Thành Sài Gòn - 63DLH10025
7. Hoàng Nguyễn Lâm Anh - 63DLH10003
8. Nguyễn Duy Ngọc – 63DLH10064
Lớp: LHHD10A.
Giảng viên: Nguyễn Thị Thanh Loan.
lOMoARcPSD| 60851861
1 KHÁI NIỆM TÀI NGUYÊN DU LỊCH
- Theo khoản 4 điều 3 luật du lịch 2017, tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên
nhiên , yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa làm cơ sở hình thành các sản phẩm
du lịch, khu du lich, điểm du lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch.
2. ĐẶC ĐIỂM
2.1. Một tài nguyên có thể có nhiêu giá trị du lịch khác nhau
Trong quá trình khai thác kinh doanh du lịch, khách du lịch được đưa đến
điểm du lịch đế họ thấm nhận tại chồ những giá trị của thế giới xung quanh, cụ thể
những giá trị cua tài nguyên du lịch. Môi loại hình du lịch đòi hỏi tài nguyên
những giá trị mang tính đặc thù khác nhau. Cho mục đích nghi ngơi, điều dường...
các loại nước khoáng, bùn, ĩhời tiết, khí hậu thích hợp cho việc chữa bệnh, phục
hồi sức khỏe, c cần chú ý đến giá trị chữa bệnh trong nước khoáng, công
dụng cứa các chất trong nước khoáng có lợi đối với sức khỏe con người. Du lịch thế
thao các cuộc hành trình càn những đặc điểm đặc biệt của lãnh thổ như những
chướng ngại vật (bến đò, đèo, ghềnh, thác...), những khu vực dân cư thưa thớt và
ở cách xa trung tâm... Loại hình du lịch tham quan yêu cầu các giá trị thẩm mỳ cua
danh thắng, gtrị văn hóa, lịch sử, giá trị kiến trúc nghệ thuật của di tích, giá trị
nghệ thuật và giá trị khoa học của các công trình... Loại hình du lịch mạo hiểm cần
những địa hình hiểm trở, sông suối lắm thác nhiều ghềnh. Du lịch treeking cần độ
khó, độ phức tạp của địa hình. Trong khi đó, những địa hình như vậy không phải
tài nguyên du lịch cho loại hình du lịch tham quan, cắm trại, picnic. Đối với du lịch
tắm biển, ngoài tiêu cđộ trong của nước biển, độ dốc của thềm đáy biển, độ mịn
của vật liệu của thềm biến du lịch, còn một điều kiện quan trọng nữa là sóng không
được quá lớn. Song sóng lớn lại một điều kiện quan trọng đế phát triến loại hình
du lịch thể thao biển như lượt sóng, thi chèo thuyền...
Như vậy, khi đánh giá tài nguyên du lịch cần hết sức lưu ý đến mục đích của
việc đánh giá, hay nói cách khác phải căn cứ vào các tiêu chí liên quan đến mục
đích đánh giá.
lOMoARcPSD| 60851861
2.2. Tài nguyên du lịch có tỉnh lịch sử
Trong một giai đoạn nhất định, một sản phẩm của thiên nhiên hay do con người
tạo ra chưa chắc sức hấp dẫn khách du lịch, chưa được khai thác đê phục vụ khách
du lịch, song vào một thời điếm khác, với cách nhìn nhận khác, sản phấm “bình
thường” đó lạỉ có sức hấp dẫn khách du lịch và ngược lại. Có thé lấy cồn cát ờ Mũi
Né, Bình Thuận làm ví dụ. Trong điều kiện bình thường trước đây, các cồn cát
Ninh Thuận, Bình Thuận hầu như là kiểu địa hình chỉ mang đến sự khắc nghiệt của
thiên nhiên cho đời sống cộng đồng. Những trảng cát rộng lớn làm tăng độ nóng của
không khí. Hầu như không một loại cây cối nào thê mọc được vùng cát bỏng
này. Nó là nôi ám ảnh của người dân. Ngày nay, đồi cát Bàu Trắng đã trở thành một
điểm tham quan, vui chơi giải trí không thể bỏ qua đối với khách du lịch khi đến
Bình Thuận. Sẽ không ai đê ý đến một cây cầu bắc qua sông Lai Vu vì nó bình dị
như hàng nghìn cây cầu khác trên khắp đất nước ta. Song nêu khách du lịch được
biết về nừ dân quân dũng cam Bùi Thị Vân thuộc phân đội súng trường Lai Vu,
huyện Kim Thành, Hái Dương, mặc dù “Răn quấn bên chân van ban thù, Mỹ hại
trám nhà lo diệt trước, Rân mình em chịu, có sao đâu!
1
’’ thì cây cầu kia trớ nên thật
hấp dẫn do họ đã biết một trong những nhân chứng lịch về sự gan dạ của
người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỳ cứu nước.
2.3. Tài nguyên du lịch là loại tái tạo lại một cách đặc biệt
Trong nhiều lĩnh vực, nhiều tài nguyên sau khi được tiêu thụ thường bị mất đi
giá trị ban đầu, tức sau khi sử dụng, chúng không còn tài nguyên như trước.
Than đá sau khi đưa vào lò đê tạo ra nhiệt năng, xỉ than không còn nhiên liệu nữa.
Những loại tài nguyên này là dạng không thể tái tạo. Trong khi đó có một số loại tài
nguyên, nếu khai thác hợp lý, chúng thể tái tạo được
.
Tài nguyên du lịch được
khách du lịch “tiêu thụ” chủ yếu bằng cách ngắm nhìn, thông qua thuyết minh, hướng
dẫn của hướng dẫn viên (diễn giải môi trường
,
giải vàn hóa hay giải ảo hiện thực).
ràng ràng, sau khi khách du lịch “tiêu thụ”, tài nguyên du lịch hầu như không mất
đi giá trị ban đầu, khác với việc khai thác tài nguyên trong các lĩnh vực kinh tế khác.
Không những không mất đi, giá trị cúa tài nguyên thậm chí còn gia tăng nhờ sự nâng
cao kiến thức của hướng dẫn viên. Sau mồi chuyển đi hướng dẫn, kỳ năng hướng
dẫn, kiến thức về tài nguyên (hiểu biết về các giá trị tự nhiên, văn hóa...) của người
hướng dần tăng lên, điều này làm cho việc hướng dẫn của hướng dẫn viên hấp dẫn
lOMoARcPSD| 60851861
hơn, hay nói cách khác đã làm tăng sự hâp dẫn cua i nguyên du lịch. Như vậy,
sau mỗi chuyến ớng dẫn cho khách du lịch, mặc khách du lịch đâ được thẩm
nhận tại ch(tức “tiêu thụ”) những giá trị của tài nguyên, song những giá trị du
lịch của không những không mất đi, ngược lại còn phong phú hơn, tức được
tái tạo lại ở mức độ giá trị cao hơn
1
.
2.4. Tính địa
Đa số các i nguyên du lịch ncảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sứ...
đều gắn chặt với vị trí địa lý, không thể di rời được đi nơi khác. Ngay cả thế giới
động thực vật, khí hậu, lễ hội, văn hoá truyền thống cũng là hàm số của vị trí địa lý.
Tính địa thể rất trực quan nhưng cũng thể khá trừu tượng. Chỉ khi đến,
Nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bỉnh) khách du lịch mới có thế thấy, thậm chí chạm được
vào những con tiện bằng đá ớ nhà thờ Trái tim Đức Mẹ. Chsau khi vượt hàng nghìn
kilômét khách du lịch ngoài Bắc mới thể được đứng chụp ảnh kỷ niệm bên
tượng đài hình con thuyền đánh dấu vị trí địa của Mũi Mau. Hang năm, nhũng
người con xa xứ thường tổ chức Tết Nguyên Đán tại nơi mình đang sinh sống. Cho
dù có đủ các điều kiện, đủ các món ăn và các thứ có liên quan được gửi từ quê nhà,
song họ vẫn cảm thấy thiếu đi hương vị Tết truyền thống. Do vậy rất nhiều Việt kiêu
cổ gắng thu xếp công việc để về nước “ăn” Tết. Đặc điểm này tạo nên sự khác biệt
trong kinh doanh du lịch, đó là để bán được sản phâm du lịch, khách hàng, chứ không
phải sản phâm du lịch, được đưa đên nơi sản phâm du lịch. Cũng những trường
hợp tài nguyên du lịch được mang đến gần khách du lịch, hay mang khỏi địa bàn
khởi phát cùa mình. Tuy nhiên, cho tài nguyên được “chuyển” một cách
học đến một không gian địa lý khác, nó vẫn được gắn liền một cách hữu cơ với địa
danh gốc của nó. Ví dụ, khách du lịch ngồi ở Berlin cũng có thế “thưởng thức” một
món bún bò ngon nồi tiếng ở Việt Nam, được nghe một làn điệu dân ca quan họ với
nhạc điệu rất trữ tình, hoặc được thưởng thức một ly phê sánh đậm mà hhằng
ưa thích. Ngay cả trong trường họp đó trong ý thức của khách du lịch, bát bún bò đó
phải gắn với địa danh Huế, làn quan họ đó là làn điệu dân ca xứ Băc Ninh, ly cà phê
kia có xuất xứ từ Tây Nguyên...
Như vậy, tài nguyên du lịch hoặc là gắn chặt một cách vật với một địa chỉ cụ
thể, hoặc có thể được “mang” đến cho khách du lịch phương xa, đều định vị với
một địa bàn cụ thê.
lOMoARcPSD| 60851861
2.5. Tính thời vụ
Hầu hết các tài nguyên du lịch đều đặc điếm này, kể cả tài nguyên du lịch
tự nhiên tài nguyên du lịch văn hóa. Với cách tài nguyên du lịch, khí hậu
phù họp với du lịch nghỉ biến ớ miền Băc Việt Nam xuất hiện từ tháng tư đến tháng
tám, khí hậu phợp với du lịch trượt tuyết, trượt băng các nước phương Bắc là
mùa đông. Lễ hội chỉ diễn ra vào các giai đoạn nhất định trong năm. Ớ miền
Bắc nước ta, mùa xuân được coi mùa lễ hội với các lễ hội nôi tiêng như: Lc hội
Đền Hùng, cổ Loa, Tờng Yên, Sóc Sơn, Đống Đa, Chùa Hương, Yên Tử v.v... Đây
một trong nhân tố quan trọng quy định tính thời vụ của hoạt động du lịch nói
chung, kinh doanh du lịch nói riêng.
lOMoARcPSD| 60851861
3. VAI TRÒ CỦA TÀI NGUYÊN DU LỊCH
3.1. Tài nguyên du lịch là cơ sở tạo thành sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch được cấu thành bởi nhiều yếu tố, song trước hết phải kể
đến tài nguyên du lích (trong sản phẩm du lịch, tài nguyên chiếm giá trị từ 80 -
90%).
Để đáp ứng các yêu cầu của du khách, sản phẩm du lịch không thể nghèo
nàn, đơn điệu mà luôn phải đa dạng, phong phú, đặc sắc vả đổi mới. Chính sự đa
dạng và phong phú của tài nguyên du lịch đã tạo nên sự phong phú của sản phẩm
du lịch.
Tài nguyên du lịch càng đặc sắc, độc đáo bao nhiêu thì giá trị của sản phẩm
du lịch và độ hấp dẫn du khách cầng tăng cac bấy nhiêu. Nói cách khác, tài nguyên
du lịch là cơ sở để kích thích động cơ du lịch và từ đó tạo nên cầu du lịch, thúc đẩy
ngành này phát triển. Như vậy, có thể khẳng định số lượng, chất lượng, sự phân bố
của các dạng tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, số lượng và chất
lượng sản phẩm và hiệu quả hoạt động du lịch. Về mặt lãnh thổ có thể dễ dàng
nhận thấy sự giàu có về tài nguyên du lịch đã làm cho địa phương này có khả năng
thu hút nhiều khách du lịch hơn các địa phương khác và do đó, quy mô cũng như
cơ cấu ngành du lịch của mỗi địa phương cũng có sự khác nhau tương đối. 3.2. Tài
nguyên du lịch là cơ sở thiết yếu để phát triển các loại hình du lịch
Trong quá trình phát triển du lịch, để không ngừng đáp ứng các yêu cầu ngày
càng cao và đa dạng của du khách, các loại hình du lịch mới không ngừng xuất
hiện và phát tuển. Tài nguyên du lịch là cơ sở để hình thành các loại hình du lịch.
Các loại hình du lịch ra đời đều phải dựa vào tài nguyên du lịch vả cũng chính sự
xuất hiện của các loại hình du lịch đã làm cho nhiều yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã
hội trở thành tài nguyên du lịch. Chẳng hạn, một lãnh thổ sẽ không có loại hình du
lịch sinh thái nếu như không có các hệ sinh thái đặc trưng, các vườn quốc gia, khu
dự trữ sinh quyền hay các khu bảo tồn thiên nhiên; không có loại hình du lịch văn
hóa nếu nơi đó không tập trung nhiều di tích lịch sử - văn hóa, lễ hội, các dân tộc
và các làng nghề thủ công truyền thống...
3.3. Tài nguyên du lịch là bộ phận cầu thành quan trọng của hệ thống lãnh thổ
du lịch
Tổ chức lãnh thổ du lịch là một trong những vẫn để được quan tâm hàng đầu
trong nghiên cứu du lịch, bởi vì không thể tổ chức và quản lí có hiệu quả hoạt động
lOMoARcPSD| 60851861
này nếu không xem xét khía cạnh không gian (lãnh thổ) của nó. Hệ thống lãnh thổ
du lịch được tạo thành bởi nhiều thành tố có quan hệ qua lại mật thiết với nhau,
trong đó phân hệ tài nguyên du lịch có vai trò đặc biệt quan trọng.
Du lịch là ngành có sự định hướng tài nguyên. Tài nguyên du lịch ảnh
hưởng trực tiếp đến cơ cầu và chuyên môn hóa của vùng du lịch. Quy mô hoạt
động du lịch của một lãnh thổ được xác dịnh trên cơ sở khối lượng tài nguyên và
nó quyết định tính mùa, tính nhịp điệu của dòng khách du lịch. Sức hấp dẫn của
một lãnh thổ nào đó phụ thuộc nhiều vào tài nguyên du lịch.
Tài nguyên du lịch là một trong những yếu tố cơ sở để tạo nên vùng du lịch.S
lượng tài nguyên vốn có, chất lượng của chúng và mức độ kết hợp các loại tài
nguyên trên lãnh thổ có ý nghĩa đặc biệt trong việc hình thành và phát triển dư lịch
của một vùng hay một quốc gia. Một lãnh thổ nào đó có nhiều tài nguyên du lịch
với chất lượng càng cao và mức độ kết hợp các loại tài nguyên càng phong phú t
sức thu hút khách du lịch càng mạnh.
4. PHÂN LOẠI CỦAI NGUYÊN DU LỊCH
Tài nguyên du lịch rất phong phú, đa dạng, vì thế, có nhiều cách phân loại tùy
thuộc vào việc sử dụng các tiêu chí khác nhau.
Năm 1997, Tổ chức Du lịch Thế giới đã phân tải nguyên du lịch thành 3 loại,
với 9 nhóm gồm: Loại cung cấp tiềm tàng (3 nhóm: văn hóa kinh điển, tự nhiên
kinh điển, vận động); Loại cung cấp hiện tại (3 nhóm: giao thông, thiết bị, hình
tượng tổng thể) và Loại tải nguyên kĩ thuật (3 nhóm: khả năng hoạt động, cách
thức và tiềm lực khu vực).
Phân loại tài nguyên du lịch của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO)
(21]
lOMoARcPSD| 60851861
Loại tài nguyên
Nhóm tài nguyên
Tập hợp tài
nguyên
Yếu Tố
Cung cấp tiềm tàng
Văn hóa kinh điển
điển
Vận động vui chơi
-
Phong thủy
-
Tập quán sinh
hoạt truyền thống ,
dân tộc, tôn giáo
-
Khảo cổ học, di
tích lịch sử
-
Văn hóa hiện tại
-
phong cảnh non
sông
- dãy núi
-
biển, hồ,đường
thủy
-
hoa, cỏ, thủy tảo
khí hậu
giải trí trên biển
-
giải trí trên núi
-
suối nước nóng
-
trị liệu
du lịch săn bắn
-
và nhiếp ảnh
-
thể dục và giải
trí
ăn uống
-
• Phát hiện sự vật
mới, tìm kiếm sự
vật dị thường.
• Phong tục tập
quán. Văn hóa dân
tộc, hàng thủ công
mĩ nghệ.
• Lễ tiết và nghệ
thuật tôn giáo
• Di tích, vật kỉ
niệm, kiến trúc,
bảo tàng, lễ hội
• Cảnh sắc núi
sông
• Cảnh núi cao
• Bờ biển, cửa
sông, vịnh , dòng
sông, đảo
Thực vật, rừng,
động vật hoang dã
• Khí hậu và khí
tượng
Thể thao nước
Thể thao mùa
đông, leo núi
• Công năng trị
liệu trong nước
• Câu cá, công
viên , khu bảo tồn
thiên
• Du lịch xe đạp,
hang động
• Nếm thức ăn
Cung cấp hiện tại
Giao thông
-
Giao thông quốc
tế
-
Thiết bị thông tin
-
Cơ sở du lịch
-
Khoảng cách
không gian với du
• Đường bộ,
đường biển,
đường hàng không
• Mạng viễn
thông, vệ tinh
Thủ tục biên
lOMoARcPSD| 60851861
Theo Ngô Tất Hổ (2000), tài nguyên du lịch được chia thành 3 hệ thống
(thiên nhiên; nhân văn; dịch vụ); 10 loại (cảnh quan địa vẫn hóa; cảnh quan thuỷ
văn; khí hậu vi sinh vật; cảnh quan tự nhiên khác; di tích lịch sử; điểm nhân văn
hiện đại; điểm hấp dẫn nhân văn trửu tượng; điểm hấp dẫn nhân văn khác; dịch v
du lịch; các dịch vụ khác); 95 kiểu và 3 bậc. Ông cho rằng 3 bậc này phản ánh quy
mô của tài nguyện dựa trên mức dộ quan trọng và độ lớn của tải nguyễn.
Theo G. Cazes, R. Lanquar, Y. Raynouard [18] có thể phân tài nguyên du lịch
thành 3 loại: •
- Tài nguyên thiên nhiên như khi hậu (thuận lợi hay khó khăn cho việc phát
triển loại hình du lịch này hay loại hình du lịch khác), địa hình (tạo ra phong cảnh
núi, sông, hồ hoặc bãi biển), động vật và thực vật...
- Tải nguyên văn hóa - xã hội như các cuộc trình diễn nghệ thuật, liên hoan
âm nhạc, hòa nhạc quốc tế, triển lãm, hội thảo văn học, trình diễn thể thao, khoa .
học và công nghệ, các thành phố hiện đại, các điểm khảo cổ và lịch sử.
- Tài nguyên thuộc nhóm kinh tế như các nhà máy, các trung tâm kĩ thuật;kể
cả những điều kiện kinh tế thuận lợi cho việc mua sắm...
Theo Đồng Ngọc Minh. Vương Lôi Đình [27] lài nguyên du lịch chia thành
hai nhóm: i nguyên du lịch cảnh quan (bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên, tài
nguyên du lịch nhân văn, tài nguyên du lịch xã hội) và tài nguyên du lịch kinh
doanh (loại tài nguyên có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh du lịch, bao gồm
tải nguyên du lịch có hạn và lài nguyên du lịch vô hạn).
Ở nước ta, từ cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế ki XX, một số tác
giả (Vũ Tuần Cảnh, Thông, Nguyễn Minh Tuệ. Đặng Duy Lợi, Phạm Trung
Lương) trong quá trình đánh giá tài nguyên du lịch Việt Nam đã phân chúng thành
hại nhóm:
- Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm địa hình (các dạng địa hình đặc biệt).
khí hậu, nguồn nước (trên đất liền và biển), sinh vật.
- Tài nguyên dư lịch nhân văn gồm có di tích lịch sử - văn hóa các loại, lễ hội.
làngnghề. văn hóa - văn nghệ dân gian, ẩm thực...
Trong Luật Du lịch (2005), tài nguyên du lịch cũng được chia làm hai nhóm cơ bản
sau đây:
lOMoARcPSD| 60851861
Tài nguyên du lịch
: Tự nhiên: Địa
hình Khí hậu
Nguồn nươc
Sinh vật
Nhân văn:
Di tích lịch sử văn hóa
Lễ hội
Dân tộc học
Nhân văn khác
Di sản hỗn hợp
Di sản tự nhiên
Di sản văn hóa

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60851861
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI 1 BÀI THUYẾT TRÌNH
MÔN: ĐỊA LÝ DU LỊCH
Đề bài: Tìm Hiểu Tài Nguyên Du Lịch
HỌC KỲ: II NĂM HỌC: 2024-2025
Sinh viên: Nhóm 2
1. Nguyễn Lê Hà (Nhóm trưởng) - 63DLH10026
2. Phạm Thị Thu Hồng - 63DLH10036
3. Trần Thị Hạnh - 63DLH10030
4. Bùi Văn Công - 63DLH10011
5. Nguyễn Thành An - 63DLH10001
6. Lữ Thành Sài Gòn - 63DLH10025
7. Hoàng Nguyễn Lâm Anh - 63DLH10003
8. Nguyễn Duy Ngọc – 63DLH10064 Lớp: LHHD10A.
Giảng viên: Nguyễn Thị Thanh Loan. lOMoAR cPSD| 60851861
1 KHÁI NIỆM TÀI NGUYÊN DU LỊCH
- Theo khoản 4 điều 3 luật du lịch 2017, tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên
nhiên , yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa làm cơ sở hình thành các sản phẩm
du lịch, khu du lich, điểm du lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch. 2. ĐẶC ĐIỂM
2.1. Một tài nguyên có thể có nhiêu giá trị du lịch khác nhau
Trong quá trình khai thác và kinh doanh du lịch, khách du lịch được đưa đến
điểm du lịch đế họ thấm nhận tại chồ những giá trị của thế giới xung quanh, cụ thể
là những giá trị cua tài nguyên du lịch. Môi loại hình du lịch đòi hỏi ở tài nguyên
những giá trị mang tính đặc thù khác nhau. Cho mục đích nghi ngơi, điều dường...
là các loại nước khoáng, bùn, ĩhời tiết, khí hậu thích hợp cho việc chữa bệnh, phục
hồi sức khỏe, tóc là cần chú ý đến giá trị chữa bệnh có trong nước khoáng, công
dụng cứa các chất trong nước khoáng có lợi đối với sức khỏe con người. Du lịch thế
thao và các cuộc hành trình càn những đặc điểm đặc biệt của lãnh thổ như những
chướng ngại vật (bến đò, đèo, ghềnh, thác...), những khu vực có dân cư thưa thớt và
ở cách xa trung tâm... Loại hình du lịch tham quan yêu cầu các giá trị thẩm mỳ cua
danh thắng, giá trị văn hóa, lịch sử, giá trị kiến trúc nghệ thuật của di tích, giá trị
nghệ thuật và giá trị khoa học của các công trình... Loại hình du lịch mạo hiểm cần
có những địa hình hiểm trở, sông suối lắm thác nhiều ghềnh. Du lịch treeking cần độ
khó, độ phức tạp của địa hình. Trong khi đó, những địa hình như vậy không phải là
tài nguyên du lịch cho loại hình du lịch tham quan, cắm trại, picnic. Đối với du lịch
tắm biển, ngoài tiêu chí độ trong của nước biển, độ dốc của thềm đáy biển, độ mịn
của vật liệu của thềm biến du lịch, còn một điều kiện quan trọng nữa là sóng không
được quá lớn. Song sóng lớn lại là một điều kiện quan trọng đế phát triến loại hình
du lịch thể thao biển như lượt sóng, thi chèo thuyền...
Như vậy, khi đánh giá tài nguyên du lịch cần hết sức lưu ý đến mục đích của
việc đánh giá, hay nói cách khác là phải căn cứ vào các tiêu chí liên quan đến mục đích đánh giá. lOMoAR cPSD| 60851861
2.2. Tài nguyên du lịch có tỉnh lịch sử
Trong một giai đoạn nhất định, một sản phẩm của thiên nhiên hay do con người
tạo ra chưa chắc có sức hấp dẫn khách du lịch, chưa được khai thác đê phục vụ khách
du lịch, song vào một thời điếm khác, với cách nhìn nhận khác, sản phấm “bình
thường” đó lạỉ có sức hấp dẫn khách du lịch và ngược lại. Có thé lấy cồn cát ờ Mũi
Né, Bình Thuận làm ví dụ. Trong điều kiện bình thường trước đây, các cồn cát ở
Ninh Thuận, Bình Thuận hầu như là kiểu địa hình chỉ mang đến sự khắc nghiệt của
thiên nhiên cho đời sống cộng đồng. Những trảng cát rộng lớn làm tăng độ nóng của
không khí. Hầu như không một loại cây cối nào có thê mọc được ở vùng cát bỏng
này. Nó là nôi ám ảnh của người dân. Ngày nay, đồi cát Bàu Trắng đã trở thành một
điểm tham quan, vui chơi giải trí không thể bỏ qua đối với khách du lịch khi đến
Bình Thuận. Sẽ không có ai đê ý đến một cây cầu bắc qua sông Lai Vu vì nó bình dị
như hàng nghìn cây cầu khác trên khắp đất nước ta. Song nêu khách du lịch được
biết về nừ dân quân dũng cam Bùi Thị Vân thuộc phân đội súng trường xã Lai Vu,
huyện Kim Thành, Hái Dương, mặc dù “Răn quấn bên chân van ban thù, Mỹ hại
trám nhà lo diệt trước, Rân mình em chịu, có sao đâu!1 ’’
thì cây cầu kia trớ nên thật
hấp dẫn do họ đã biết nó là một trong những nhân chứng lịch sư về sự gan dạ của
người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỳ cứu nước.
2.3. Tài nguyên du lịch là loại tái tạo lại một cách đặc biệt
Trong nhiều lĩnh vực, nhiều tài nguyên sau khi được tiêu thụ thường bị mất đi
giá trị ban đầu, tức là sau khi sử dụng, chúng không còn là tài nguyên như trước.
Than đá sau khi đưa vào lò đê tạo ra nhiệt năng, xỉ than không còn là nhiên liệu nữa.
Những loại tài nguyên này là dạng không thể tái tạo. Trong khi đó có một số loại tài
nguyên, nếu khai thác hợp lý, chúng có thể tái tạo được. Tài nguyên du lịch được
khách du lịch “tiêu thụ” chủ yếu bằng cách ngắm nhìn, thông qua thuyết minh, hướng
dẫn của hướng dẫn viên (diễn giải môi trường, giải mã vàn hóa hay giải ảo hiện thực).
Rõ ràng ràng, sau khi khách du lịch “tiêu thụ”, tài nguyên du lịch hầu như không mất
đi giá trị ban đầu, khác với việc khai thác tài nguyên trong các lĩnh vực kinh tế khác.
Không những không mất đi, giá trị cúa tài nguyên thậm chí còn gia tăng nhờ sự nâng
cao kiến thức của hướng dẫn viên. Sau mồi chuyển đi hướng dẫn, kỳ năng hướng
dẫn, kiến thức về tài nguyên (hiểu biết về các giá trị tự nhiên, văn hóa...) của người
hướng dần tăng lên, điều này làm cho việc hướng dẫn của hướng dẫn viên hấp dẫn lOMoAR cPSD| 60851861
hơn, hay nói cách khác là đã làm tăng sự hâp dẫn cua tài nguyên du lịch. Như vậy,
sau mỗi chuyến hướng dẫn cho khách du lịch, mặc dù khách du lịch đâ được thẩm
nhận tại chỗ (tức là “tiêu thụ”) những giá trị của tài nguyên, song những giá trị du
lịch của nó không những không mất đi, ngược lại còn phong phú hơn, tức là được
tái tạo lại ở mức độ giá trị cao hơn1.
2.4. Tính địa lý
Đa số các tài nguyên du lịch như cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sứ...
đều gắn chặt với vị trí địa lý, không thể di rời được đi nơi khác. Ngay cả thế giới
động thực vật, khí hậu, lễ hội, văn hoá truyền thống cũng là hàm số của vị trí địa lý.
Tính địa lý có thể rất trực quan nhưng cũng có thể là khá trừu tượng. Chỉ khi đến,
Nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bỉnh) khách du lịch mới có thế thấy, thậm chí chạm được
vào những con tiện bằng đá ớ nhà thờ Trái tim Đức Mẹ. Chỉ sau khi vượt hàng nghìn
kilômét khách du lịch ở ngoài Bắc mới có thể được đứng chụp ảnh kỷ niệm bên
tượng đài hình con thuyền đánh dấu vị trí địa lý của Mũi Cà Mau. Hang năm, nhũng
người con xa xứ thường tổ chức Tết Nguyên Đán tại nơi mình đang sinh sống. Cho
dù có đủ các điều kiện, đủ các món ăn và các thứ có liên quan được gửi từ quê nhà,
song họ vẫn cảm thấy thiếu đi hương vị Tết truyền thống. Do vậy rất nhiều Việt kiêu
cổ gắng thu xếp công việc để về nước “ăn” Tết. Đặc điểm này tạo nên sự khác biệt
trong kinh doanh du lịch, đó là để bán được sản phâm du lịch, khách hàng, chứ không
phải sản phâm du lịch, được đưa đên nơi có sản phâm du lịch. Cũng có những trường
hợp tài nguyên du lịch được mang đến gần khách du lịch, hay mang khỏi địa bàn
khởi phát cùa mình. Tuy nhiên, cho dù tài nguyên có được “chuyển” một cách cơ
học đến một không gian địa lý khác, nó vẫn được gắn liền một cách hữu cơ với địa
danh gốc của nó. Ví dụ, khách du lịch ngồi ở Berlin cũng có thế “thưởng thức” một
món bún bò ngon nồi tiếng ở Việt Nam, được nghe một làn điệu dân ca quan họ với
nhạc điệu rất trữ tình, hoặc được thưởng thức một ly cà phê sánh đậm mà họ hằng
ưa thích. Ngay cả trong trường họp đó trong ý thức của khách du lịch, bát bún bò đó
phải gắn với địa danh Huế, làn quan họ đó là làn điệu dân ca xứ Băc Ninh, ly cà phê
kia có xuất xứ từ Tây Nguyên...
Như vậy, tài nguyên du lịch hoặc là gắn chặt một cách vật lý với một địa chỉ cụ
thể, hoặc có thể được “mang” đến cho khách du lịch ở phương xa, đều có định vị với một địa bàn cụ thê. lOMoAR cPSD| 60851861
2.5. Tính thời vụ
Hầu hết các tài nguyên du lịch đều có đặc điếm này, kể cả tài nguyên du lịch
tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa. Với tư cách là tài nguyên du lịch, khí hậu
phù họp với du lịch nghỉ biến ớ miền Băc Việt Nam xuất hiện từ tháng tư đến tháng
tám, khí hậu phù hợp với du lịch trượt tuyết, trượt băng ở các nước phương Bắc là
mùa đông. Lễ hội chỉ diễn ra vào các giai đoạn nhất định trong năm. Ớ miền
Bắc nước ta, mùa xuân được coi là mùa lễ hội với các lễ hội nôi tiêng như: Lc hội
Đền Hùng, cổ Loa, Trường Yên, Sóc Sơn, Đống Đa, Chùa Hương, Yên Tử v.v... Đây
là một trong nhân tố quan trọng quy định tính thời vụ của hoạt động du lịch nói
chung, kinh doanh du lịch nói riêng. lOMoAR cPSD| 60851861
3. VAI TRÒ CỦA TÀI NGUYÊN DU LỊCH
3.1. Tài nguyên du lịch là cơ sở tạo thành sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch được cấu thành bởi nhiều yếu tố, song trước hết phải kể
đến tài nguyên du lích (trong sản phẩm du lịch, tài nguyên chiếm giá trị từ 80 - 90%).
Để đáp ứng các yêu cầu của du khách, sản phẩm du lịch không thể nghèo
nàn, đơn điệu mà luôn phải đa dạng, phong phú, đặc sắc vả đổi mới. Chính sự đa
dạng và phong phú của tài nguyên du lịch đã tạo nên sự phong phú của sản phẩm du lịch.
Tài nguyên du lịch càng đặc sắc, độc đáo bao nhiêu thì giá trị của sản phẩm
du lịch và độ hấp dẫn du khách cầng tăng cac bấy nhiêu. Nói cách khác, tài nguyên
du lịch là cơ sở để kích thích động cơ du lịch và từ đó tạo nên cầu du lịch, thúc đẩy
ngành này phát triển. Như vậy, có thể khẳng định số lượng, chất lượng, sự phân bố
của các dạng tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, số lượng và chất
lượng sản phẩm và hiệu quả hoạt động du lịch. Về mặt lãnh thổ có thể dễ dàng
nhận thấy sự giàu có về tài nguyên du lịch đã làm cho địa phương này có khả năng
thu hút nhiều khách du lịch hơn các địa phương khác và do đó, quy mô cũng như
cơ cấu ngành du lịch của mỗi địa phương cũng có sự khác nhau tương đối. 3.2. Tài
nguyên du lịch là cơ sở thiết yếu để phát triển các loại hình du lịch

Trong quá trình phát triển du lịch, để không ngừng đáp ứng các yêu cầu ngày
càng cao và đa dạng của du khách, các loại hình du lịch mới không ngừng xuất
hiện và phát tuển. Tài nguyên du lịch là cơ sở để hình thành các loại hình du lịch.
Các loại hình du lịch ra đời đều phải dựa vào tài nguyên du lịch vả cũng chính sự
xuất hiện của các loại hình du lịch đã làm cho nhiều yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã
hội trở thành tài nguyên du lịch. Chẳng hạn, một lãnh thổ sẽ không có loại hình du
lịch sinh thái nếu như không có các hệ sinh thái đặc trưng, các vườn quốc gia, khu
dự trữ sinh quyền hay các khu bảo tồn thiên nhiên; không có loại hình du lịch văn
hóa nếu nơi đó không tập trung nhiều di tích lịch sử - văn hóa, lễ hội, các dân tộc
và các làng nghề thủ công truyền thống...
3.3. Tài nguyên du lịch là bộ phận cầu thành quan trọng của hệ thống lãnh thổ du lịch
Tổ chức lãnh thổ du lịch là một trong những vẫn để được quan tâm hàng đầu
trong nghiên cứu du lịch, bởi vì không thể tổ chức và quản lí có hiệu quả hoạt động lOMoAR cPSD| 60851861
này nếu không xem xét khía cạnh không gian (lãnh thổ) của nó. Hệ thống lãnh thổ
du lịch được tạo thành bởi nhiều thành tố có quan hệ qua lại mật thiết với nhau,
trong đó phân hệ tài nguyên du lịch có vai trò đặc biệt quan trọng.
Du lịch là ngành có sự định hướng tài nguyên. Tài nguyên du lịch ảnh
hưởng trực tiếp đến cơ cầu và chuyên môn hóa của vùng du lịch. Quy mô hoạt
động du lịch của một lãnh thổ được xác dịnh trên cơ sở khối lượng tài nguyên và
nó quyết định tính mùa, tính nhịp điệu của dòng khách du lịch. Sức hấp dẫn của
một lãnh thổ nào đó phụ thuộc nhiều vào tài nguyên du lịch.
Tài nguyên du lịch là một trong những yếu tố cơ sở để tạo nên vùng du lịch.Số
lượng tài nguyên vốn có, chất lượng của chúng và mức độ kết hợp các loại tài
nguyên trên lãnh thổ có ý nghĩa đặc biệt trong việc hình thành và phát triển dư lịch
của một vùng hay một quốc gia. Một lãnh thổ nào đó có nhiều tài nguyên du lịch
với chất lượng càng cao và mức độ kết hợp các loại tài nguyên càng phong phú thì
sức thu hút khách du lịch càng mạnh.
4. PHÂN LOẠI CỦA TÀI NGUYÊN DU LỊCH
Tài nguyên du lịch rất phong phú, đa dạng, vì thế, có nhiều cách phân loại tùy
thuộc vào việc sử dụng các tiêu chí khác nhau.
Năm 1997, Tổ chức Du lịch Thế giới đã phân tải nguyên du lịch thành 3 loại,
với 9 nhóm gồm: Loại cung cấp tiềm tàng (3 nhóm: văn hóa kinh điển, tự nhiên
kinh điển, vận động); Loại cung cấp hiện tại (3 nhóm: giao thông, thiết bị, hình
tượng tổng thể) và Loại tải nguyên kĩ thuật (3 nhóm: khả năng hoạt động, cách
thức và tiềm lực khu vực).
 Phân loại tài nguyên du lịch của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) (21] lOMoAR cPSD| 60851861 Loại tài nguyên Nhóm tài nguyên Tập hợp tài Yếu Tố nguyên - Phong thủy • Phát hiện sự vật - Tập quán sinh mới, tìm kiếm sự
hoạt truyền thống , vật dị thường.
Văn hóa kinh điển dân tộc, tôn giáo • Phong tục tập
- Khảo cổ học, di quán. Văn hóa dân tích lịch sử tộc, hàng thủ công - Văn hóa hiện tại mĩ nghệ. • Lễ tiết và nghệ thuật tôn giáo • Di tích, vật kỉ niệm, kiến trúc, bảo tàng, lễ hội Cung cấp tiềm tàng - phong cảnh non • Cảnh sắc núi sông sông Tự nhiên kinh - dãy núi • Cảnh núi cao điển - biển, hồ,đường • Bờ biển, cửa thủy sông, vịnh , dòng
- hoa, cỏ, thủy tảo sông, đảo khí hậu • Thực vật, rừng, động vật hoang dã • Khí hậu và khí tượng
- giải trí trên biển • Thể thao nước - giải trí trên núi • Thể thao mùa - suối nước nóng đông, leo núi
Vận động vui chơi trị liệu • Công năng trị - du lịch săn bắn liệu trong nước và nhiếp ảnh • Câu cá, công - thể dục và giải viên , khu bảo tồn trí thiên - ăn uống • Du lịch xe đạp, hang động • Nếm thức ăn
- Giao thông quốc • Đường bộ, tế đường biển,
- Thiết bị thông tin đường hàng không - Cơ sở du lịch • Mạng viễn Cung cấp hiện tại - Khoảng cách thông, vệ tinh Giao thông không gian với du • Thủ tục biên lOMoAR cPSD| 60851861
Theo Ngô Tất Hổ (2000), tài nguyên du lịch được chia thành 3 hệ thống
(thiên nhiên; nhân văn; dịch vụ); 10 loại (cảnh quan địa vẫn hóa; cảnh quan thuỷ
văn; khí hậu vi sinh vật; cảnh quan tự nhiên khác; di tích lịch sử; điểm nhân văn
hiện đại; điểm hấp dẫn nhân văn trửu tượng; điểm hấp dẫn nhân văn khác; dịch vụ
du lịch; các dịch vụ khác); 95 kiểu và 3 bậc. Ông cho rằng 3 bậc này phản ánh quy
mô của tài nguyện dựa trên mức dộ quan trọng và độ lớn của tải nguyễn.
Theo G. Cazes, R. Lanquar, Y. Raynouard [18] có thể phân tài nguyên du lịch thành 3 loại: • -
Tài nguyên thiên nhiên như khi hậu (thuận lợi hay khó khăn cho việc phát
triển loại hình du lịch này hay loại hình du lịch khác), địa hình (tạo ra phong cảnh
núi, sông, hồ hoặc bãi biển), động vật và thực vật... -
Tải nguyên văn hóa - xã hội như các cuộc trình diễn nghệ thuật, liên hoan
âm nhạc, hòa nhạc quốc tế, triển lãm, hội thảo văn học, trình diễn thể thao, khoa .
học và công nghệ, các thành phố hiện đại, các điểm khảo cổ và lịch sử. -
Tài nguyên thuộc nhóm kinh tế như các nhà máy, các trung tâm kĩ thuật;kể
cả những điều kiện kinh tế thuận lợi cho việc mua sắm...
Theo Đồng Ngọc Minh. Vương Lôi Đình [27] lài nguyên du lịch chia thành
hai nhóm: Tài nguyên du lịch cảnh quan (bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên, tài
nguyên du lịch nhân văn, tài nguyên du lịch xã hội) và tài nguyên du lịch kinh
doanh (loại tài nguyên có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh du lịch, bao gồm
tải nguyên du lịch có hạn và lài nguyên du lịch vô hạn).
Ở nước ta, từ cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế ki XX, một số tác
giả (Vũ Tuần Cảnh, Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ. Đặng Duy Lợi, Phạm Trung
Lương) trong quá trình đánh giá tài nguyên du lịch Việt Nam đã phân chúng thành hại nhóm: -
Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm địa hình (các dạng địa hình đặc biệt).
khí hậu, nguồn nước (trên đất liền và biển), sinh vật. -
Tài nguyên dư lịch nhân văn gồm có di tích lịch sử - văn hóa các loại, lễ hội.
làngnghề. văn hóa - văn nghệ dân gian, ẩm thực...
Trong Luật Du lịch (2005), tài nguyên du lịch cũng được chia làm hai nhóm cơ bản sau đây: lOMoAR cPSD| 60851861  Tài nguyên du lịch :  Tự nhiên: Địa hình Khí hậu Nguồn nươc Sinh vật  Nhân văn:
Di tích lịch sử văn hóa Lễ hội Dân tộc học Nhân văn khác  Di sản hỗn hợp Di sản tự nhiên Di sản văn hóa