lOMoARcPSD| 60851861
1. Khái quát
- Vùng du lịch Tây Nguyên là một lãnh thổ rộng lớn, bao gồm năm tỉnh:
Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông Lâm Đồng. Với diện tích
54.641km {50], vùng đất cao nguyên này chiếm đến 16,5% diện tích tự
nhiên toàn quốc và là vùng rộng lớn thứ hai trong bảy vùng du lịch của cả
nước. Tính đến năm 2015 dân số toàn vùng là 5.608.000 người, chỉ chiếm
6,1% dân số cả nước. Đây là một trong nhữngng có mật độ dân số thấp
nhất cả nước.
- Nằm về phía Tây Tây Nam nước ta, vùng du lịch Tây Nguyên không
chỉ vị trí chiến lược về chính trị, quốc phòng, còn khá quan trọng
đối với kinh tế và đặc biệt là đối với sự phát triển du lịch. Về mặt sinh thái
tự nhiên, Tây Nguyên sở hữu các giá trtự nhiên tổng hợp với địa hình
phân tầng ràng, khí hậu t mẻ quanh năm. Cùng với đó hthống
sông, hồ, thác ghềnh, suối nước nóng đặc biệt là hệ sinh thái tự nhiên
điển hình với độ đa dạng sinh học cao. Đây điều kiện tưởng để phát
triển các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, sinh thái, mạo hiểm. Về mặt văn
hóa – xã hội, Tây Nguyên là cái nôi của các buôn, làng. plei cùng với hàng
loạt những đặc điểm cấu trúc, sinh hoạt văn hóa truyền thống đặc trưng và
tiêu biểu cho nền văn hóa bản địa cổ vùng lục địa Đông Nam Á, đem lại
tiềm năng du lịch văn hóa vô cùng phong phú. Về mặt giao thông, giao lưu
trao đổi của vùng Tây Nguyên gắn liền với các vùng Duyên hải Nam Trung
Bộ Đông Nam Bộ thông qua các tuyến trục các quốc lộ 19, 14, 20,
24, 25, 26. 27, gần các thành phố, các hải cảng quan trọng như thành phố
Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang; hơn nữa, còn đường biên giới với
Lào Campuchia, nối với Thái Lan, Mianma qua các hành lang Đông -
Tây. Đây các thị trường du lịch giàu tiềm năng, là điều kiện để thiết kế
các tuyến du lịch liên vùng và liên quốc gia.
- Tuy nhiên, một trong hai vùng du lịch không giáp biển, lại phần hạn chế
giao thông, nằm cách xa các trung tâm kinh tế phát triển của đất nướcnên
cũng gây ra những khó khăn nhất định đối với sự phát triển du lịch.
lOMoARcPSD| 60851861
2. Tài nguyên du lch của Tây Nguyên
2.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên
- Về địa hình:
Địa hình Tây Nguyên khá đa dạng, ngoài những núi cao thung lũng sâu hiểm
trở còn có những cao nguyên, bình sơn nguyên lớn, những miền trũng và đồng bằng
khá rộng, là những thung lũng giữa núi và những dải bồi tích các sông lớn. Địa hình
núi cao, bao bọc cả 3 mặt bắc, đông và nam của vùng. Phía bắc được khống chế bởi
dãy núi Ngọc Linh là dãy núi đồ sộ nhất ở bắc Tây Nguyên, chạy dài theo hướng tây
bắc - đông nam với chiều dài đến gần 200 km. Phía đông được án ngữ bởi những
dãy núi nối tiếp nhau thành một bức tường ngăn cách Tây Nguyên với dải đồng bằng
ven biển duyên hải Nam Trung bộ, trong đó những dãy núi chính như dãy An
Khê, dãy Chư Đju, dãy Vọng Phu, dãy Tây Khánh Hòa, dãy Chư Yang Sin, dãy Bi
lOMoARcPSD| 60851861
Đúp. Phía Nam, được bao bọc bới những dãy của Trường Sơn Nam với những dãy
Brai An, Bơ Nam So Rlung.
Các cao nguyên bình sơn nguyên của Tây Nguyên: phân bố những độ cao
khác nhau từ 300 - 400 m đến trên 1.500 - 1.700 m, phân bố rộng khắp từ bắc vào
nam như cao nguyên Kon Plong nằm giữa dãy An Khê dãy Ngọc Linh; cao
nguyên Kon Hà Nừng; cao nguyên Pleiku; cao nguyên Buôn Thuột; cao nguyên
M’Đrắk; cao nguyên Di Linh; cao nguyên Đà Lạt
Các miền trũng và đồng bằng: từ bắc vào nam gồm trũng núi Kon Tum chạy
dọc theo sông Pô Kô khoảng 45 km bề mặt khá bằng phẳng như trũng An Khê; bình
sơn nguyên Ea Súp; trũng Krông Pắk - Lăk
Địa hình cao nguyên xếp tầng cùng địa hình núi cao, trũng núi đã tạo nên cảnh
quan thiên nhiên hùng vĩ, phong cảnh đẹp tạo sức hấp dẫn lớn cho du khách - Về khí
hậu:
Do vị trí địa lí hướng núi nên khí hậu Vùng Tây Nguyên sphân hóa
theo độ cao. Chia thành hai mùa mưa – khô rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng
11 (mưa nhiều vào tháng 10-11) và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 (tháng 3 - 4
hai tháng khô nóng nhất). Toàn Vùng thể chia thành 3 tiểu vùng khí hậu tương
ứng với 3 tiểu vùng địa hình, gồm Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon
Tum Gia Lai), Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Đắk Lắk Đắk Nông),
Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh m Đồng). Trung Tây Nguyên độ cao
thấp hơn nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc phía Nam. Do ảnh hưởng
của đai áp cao, nên cứ lên cao 100 m thì nhiệt độ giảm đi 0,6
0
C, do đó ở xấp xỉ trên
cùng tuyến, nhiệt độ trung bình Pleiku (800m) thấp hơn Quy Nhơn 5
0
C;
Buôn Ma Thuột thấp hơn Nha Trang 3
0
C; Đà Lạt (1.500m) thấp hơn Phan Rang
(500m) 9
0
C…Ngoại trừ các ng giữa núi, các bình nguyên (Cheo Reo - Phú Túc,
Kon Tum) có nhiệt độ cao, nói chung càng lên cao các cao nguyên đều mát hơn.
lOMoARcPSD| 60851861
Vùng du lịch Tây Nguyên thành phố Đà Lạt, đô thị du lịch mang nhiều đặc
tính của miền ôn đới, khí hậu dịu mát quanh năm, nhiệt độ trung bình không quá 20
-21 độ C (bao gồm cả những ngày nóng nhất). Đà Lạt cũng không lạnh quá, trong
những tháng mùa đông tại Đà Lạt nhiệt độ không dưới 10 độ C. Nhiệt đ trung bình
18 21 °C, nhiệt độ cao nhất chưa bao giờ quá 30 °C và thấp nhất không dưới 5 °C.
Đà Lạt hai mùa khô - mưa rệt. Mùa mưa Đà Lạt từ tháng 5 đến tháng 10,
mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4. Đà Lạt một kiểu khí hậu đặc trưng sương mù
bao quanh thành phố, thời điểm xuất hiện sương thường thường xuất hiện từ
tháng 2 cho đến tháng 5. Từ tháng 9 cho đến tháng 10 hàng năm tại Đà Lạt, sương
thường tập trung vào lúc sáng sớm hoặc vào lúc tối. Bởi Đà Lạt một địa thế
cao vút là địa hình lý tưởng để sương xuất hiện. Tuy nhiên, với loại hình thời tiết
lạnh khô, không khí ổn định, ban đêm trời quang, bức xạ nhiệt mạnh điều kiện
thuận lợi cho sự phát sinh sương muối. Đây một hiện tượng hay xảy ra Đà Lạt
và vùng lân cận, tập trung vào tháng 1- 2 gây trở ngại cho hoạt động du lịch.
- Về tài nguyên thủy văn:
lOMoARcPSD| 60851861
Tây Nguyên có 4 hệ thống sông lớn là Sesan, Serepok (chảy về sông Mê
Kông), sông Ba (chảy về Tuy Hòa - Phú Yên) sông Đồng Nai (chảy về Đồng Nai,
thành phố Hồ Chí Minh). Ngoài ra n một hệ thống sông suối nhỏ chảy xuống
vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Hệ thống hồ, thác ghềnh, suối nước nóng, đây
điều kiện tưởng đphát triển các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, sinh thái, mạo hiểm.
cảnh quan dọc các sông Đắk Bla, Pa Cô, Serepok, Krông Ana, Krông Nô, Đồng
Nai…; hệ thống các hồ lớn đẹp như Tuyền Lâm, Đan Kia Suối Vàng (Lâm Đồng),
Hồ Lắk (Đắk Lắk), Biển Hồ (Gia Lai), các hồ thủy điện (Yaly, Đại Ninh…); hệ thống
các thác nước như Dray Sap, Trinh Nữ, Diệu Linh, Phú Cường, Lưu Ly, Pongour,
Cam Ly, Pren,Thác Datanla- một trong những thác nước đẹp nhất Đà Lạt, với dòng
nước đổ xuống mạnh mẽ và khung cảnh xung quanh hùng vĩ.
Mùa trên các sông chính Tây Nguyên như sông Serepôk, sông Ba, Dakbla,
Đồng Nai thượng thường trùng với mùa các nhiễu động mạnh như bão, áp thấp
nhiệt đới hoạt động trên biển Đông hoặc đ bộ vào vùng bờ biển từ Trung Trung bộ
đến Nam Trung bộ, kết hợp với gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh trong thời kỳ
tháng 8, tháng 9 không khí lạnh tăng cường trong thời kỳ tháng 10, tháng 11. Phần
nhiều những cơn bão, áp thấp nhiệt đới này tạo nên dải hội tụ trục đi ngang qua
Trung bộ. Do vậy, đa phần Tây Nguyên nằm phần phía Nam dải hội tụ này nên
mưa lũ thường xuất hiện. Đặc biệt, nếu bão hoặc áp thấp đổ bộ vào vùng bờ biển từ
Bình Định đến Nha Trang thì tàn của thường gây mưa lớn ở Tây Nguyên.
Điều này cũng gây ảnh hưởng lớn đến việc trải nghiệm du lịch của du khách.
- Về tài nguyên sinh vật:
Rừng một tài nguyên lớn có ý nghĩa rất quan trọng đối với sphát triển bền
vững của vùng du lịch Tây Nguyên. Một số nơi đa hình cao từ 1.000 – 2.000m nằm
giữa hai tỉnh Đắk Nông và Lâm Đồng, hệ thực vật đặc sắc, nhiều loài cây lớn như
thông ba lá, thông nàng, hương... Những nơi rừng chưa bị xâm hại, còn nhiều cây
gỗ lớn và quý, caong chục mét, đường kính lên đến trên 1m. Trên địa bàn một số
huyện ở Đắk Lắk hiện còn loài thủy tùng cực kỳ quý hiếm, được xem là “hóa thạch
sống” cần được bảo vệ nghiêm ngặt
Tây Nguyên hiện 6 vườn quốc gia : Phần lớn các vườn quốc gia, khu bảo
tồn thiên nhiên có các hệ sinh thái đặc sắc như hệ sinh thái núi cao, hệ sinh thái rừng
khộp. Đặc biệt các hệ sinh thái đều được bảo vệ nguyên trạng nhiều nơi vẫn còn giữ
được thảm rừng nguyên sinh.
Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Tây Nguyên - Viên Ngọc Xanh giữa Cao
Nguyên, với vẻ đẹp hoang đa dạng sinh học phong phú, nơi trú
lOMoARcPSD| 60851861
của nhiều khu bảo tồn thiên nhiên quý giá. Những khu bảo tồn này không chỉ
đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ hệ sinh thái còn là điểm đến hấp
dẫn cho những ai yêu thích khám phá thiên nhiên
Vườn quốc gia Chư Mom Ray (Kon Tum)Với diện tích rộng lớn, Chư Mom
Ray một trong những vườn quốc gia lớn nhất Việt Nam, nổi tiếng với hệ
sinh thái rừng nguyên sinh đa dạng.
Vườn quốc gia Yok Đôn (Đắk Lắk) Nổi tiếng với hệ sinh thái rừng kín
thường xanh, đồng cỏ và các loài động vật hoang dã như voi, bò tót, hổ.
Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh: Sở hữu hệ thống sông suối, thác nước hùng
vĩ và là nơi sinh sống của nhiều loài chim quý hiếm.
Vườn Quốc gia Bidoup Núi : Bidoup Núi một trong những vườn
quốc gia đa dạng sinh học nhất Việt Nam. Nơi đây hệ thống rừng đặc dụng,
rừng cận nhiệt đới và nhiều loài động thực vật quý hiếm.
Công viên Địa chất Toàn cầu Đắk Nông: Với diện tích hơn 4.700 km², trải
dài trên địa bàn 6 huyện, thị xã của tỉnh Đắk Nông, công viên địa chất này sở
hữu một hệ thống địa chất, địa mạo cùng độc đáo và đa dạng. Điểm nhấn
nổi bật nhất chính là hệ thống hang động núi lửa dài nhất khu vực Đông Nam
Á, được hình thành từ hoạt động phun trào của núi lửa Nâm Blang (Buôn
Choah).
Tây Nguyên còn khu dự trữ sinh quyển cùng quý giá, được UNESCO
công nhận. Những khu bảo tồn này là ngôi nhà chung của hàng ngàn loài động thực
vật quý hiếm, đồng thời cũng là điểm đến hấp dẫn cho những ai yêu thích khám p
thiên nhiên:
Khu dự trữ sinh quyển Lang Biang: Nằm ở phía bắc tỉnh Lâm Đồng, Khu
dự trữ sinh quyển Lang Biang là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng
của Tây Nguyên. Với diện tích hơn 275.000 ha, nơi đây sở hữu hệ sinh thái
đa dạng, bao gồm rừng nguyên sinh, đồng cỏ, hồ, thác nước các hệ sinh
thái đặc trưng của vùng cao nguyên.( Hồ Tuyền Lâm: Một trong những hồ
nước ngọt lớn nhất Việt Nam, với khung cảnh hữu tình không khí trong
lành)
Khu Dự Trữ Sinh Quyển Cao Nguyên Kon Hà Nừng: Nằm ở tỉnh Gia Lai,
Khu dự trữ sinh quyển Cao Nguyên Kon Nừng một trong những khu
bảo tồn lớn nhất Việt Nam. Với diện tích hơn 410.000 ha, nơi đây bao gồm
hai vùng lõi là Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh và Khu bảo tồn thiên nhiên Kon
Chư Răng.
lOMoARcPSD| 60851861
2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
2.2.1 Các di tích lịch sử, văn hóa
Vùng du lịch Tây Nguyên không chỉ nổi tiếng với sự hấp dẫn của các giá trị tự nhiên
nguyên sơ, hùng vĩ, vùng đất này còn chất chứa nhiều giá trị văn hóa dân tộc độc
đáo. Đây là vùng đất cộng cư của nhiều dân tộc anh em với sự hòa sắc của tập quán,
luật tục, nhiều loại hình sinh hoạt văn hóa. Theo chiều dài lịch sử chiếc nôi văn hóa
Tây Nguyên đã lưu lại được nhiều công trình kiến trúc, di tích văn hóa nghệ thuật
độc đáo. Không chỉ vậy, lịch sử hình thành phát triển của vùng đất Tây Nguyên
còn gắn liền với quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất,
cho đến nay những di tích lịch sử ở đây hầu như đều gắn với cuộc chiến tranh cách
mạng lâu dài và anh dũng của nhân dân ta.
Toàn vùng có 450 di tích các loại, trong đó 59 di tích được xếp hạng cấp quốc
gia 2 di tích cấp quốc gia đặc biệt (di chỉ khảo cổ “Thánh địa Cát Tiên
Đường mòn Hồ Chí Minh), có 1 Di sản văn hóa thế giới phi vật thể
Dưới góc độ du lịch, hệ thống di tích lịch sử văn hóa của Tây Nguyên đã thể hiện
được những nét đặc trưng riêng khả năng kết hợp với các tài nguyên du lịch
khác tạo nên những sản phẩm du lịch hài hòa giữa nét hùng vĩ của tự nhiên, đậm đà
của bản sắc kiêu hùng của truyền thống. Đặc biệt, hệ thống di tích lịch sử cách
mạng trong vùng là thế mạnh để phát triển loại hình du lịch văn hóa về chiến trường
xưa.
“Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản văn hóa phi vật thể
của nhân loại được UNESCO công nhận vào ngày 25 tháng 11 năm 2005.
Không gian văn hóa cồng chiêng được trải dài trên 5 tỉnh Tây Nguyên, bao
gồm các yếu tố: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, người chơi
công chiêng, lễ hội có sử dụng cng chiêng và địa điểm lễ hội đó. Được đánh
giá cao về giá trị và rất thuận lợi vkhả năng khai thác, không gian văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên là một trong các tài nguyên du lịch lớn của vùng.
Di tích lịch sử cách mạng gồm có chiến trường Đắk Tân Cảnh (Kon
Tum); đèo An Khê, nhà Plei Ku (Gia Lai); nhà tBuôn Ma Thuột; đường
Hồ Chí Minh,...
lOMoARcPSD| 60851861
Di tích kiến trúc nghệ thuật tòa giám mục, nhà thờ Gỗ (Kon Tum), tháp
Yang Prong (tháp cổ duy nhất ở Tây Nguyên nằm ở huyện Ea Súp, Đắk
Lắk), nhà sàn 100 tuổi của tộc trưởng Mnông, khu mộ cổ của vua săn voi
Bản Đôn (huyện Buôn Đôn, Đắk Lắk), nthờ Khải Đoan (Đắk Lắk), nhà thờ
Đà Lạt (Lâm Đồng), Thiền viện Trúc Lâm.
2.2.2 Lễ hội
Cũng như các vùng du lịch khác, lễ hội một hoạt động văn hóa phong phú, là
nguồn tài nguyên quý giá tham gia vào việc tạo nên những sản phẩm du lch đặc
sắc. Ngoài những lễ hội mang tính chất cộng đồng, đặc trưng cho cả dân tộc, lễ
hội Tây Nguyên chứa đựng những sắc thái văn hóa rất riêng. Đó văn hóa lấy
con người làm chủ, lấy đất trời làm khuôn mẫu. Tất cả tạo nên một không gian
đậm đà bản sắc dân tộc với các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, tồn tại cùng
thời gian.
Hệ thống lễ hội trên vùng đất Tây Nguyên kđa dạng và quy khác nhau.
những lễ hội chỉ tổ chức trong tùng gia đình riêng rẽ, một số khác lại mở rộng ra
trong buôn, làng. Cũng nhiều lễ hội quy rộng lớn hơn, thụ hút được
cộng đồng xung quanh.
Thời gian, không gian lhội: Ngoài các lễ hội xung quanh vòng đời người,
phần lớn các lễ hội của dân tộc bản địa thưởng tập trung vào các tháng cuối
cùng của năm, thường được gọi tháng “ning nong”. Đây thời gian con
người được nghỉ ngơi, chuẩn bị cho vụ mùa tới, tạ ơn thần linh và cầu xin
mưa thuận gió hòa. Không gian trước nhà Rông là nơi tôn nghiêm để diễn
ra phần lớn các lễ hội Tây Nguyên.
VD: Nhà mồ Tây Nguyên một nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng các
dân tộc Tây Nguyên. Tục làm nhà mồ của người Tây Nguyên cũng mang
ý nghĩa như lễ bốc mộ của nguời Kinh, Đối với họ, nhà mồ như một biểu
hiện cho tấm lòng của người cõi nhân gian, mong muốn tạo dựng cho
người đã khuất một cuộc sống mới tốt đẹp ở thể giới khác. Quan niệm này
cũng theo triết phương Đông, sự sống là bất tử, còn đời người vòng
luân hồi. Khi cuộc sống trần gian kết thúc cũng có nghĩa nó được bắt đầu
ở thế giới bên kia.
lOMoARcPSD| 60851861
Lễ hội Tây Nguyên là sự kết hợp đặc sắc những tinh hoa văn hóa vật thể và phi
vật thể. Hiện nay, nhiều lễ hội vẫn giữ được nguyên vẹn các giá trị truyền
thống của mình, đem lại cho du khách đặc biệt khách nước ngoài sự
hiếu kì và say mê đến lạ.
2.2.3 Các đối tượng du lịch gn với dân tc học
Tây Nguyên là vùng đất rộng người thưa, dân số thấp nhất 7 vùng. Mật độ cũng vào
loại thấp nhất cả nước. Dân lại không phân bố đồng đều giữa các tỉnh. Quy
dân số lớn nhất thuộc tỉnh Đắk Lắk, tiếp sau Gia Lai, Lâm Đồng. Đắk Nông
Kon Tum hai tỉnh quy dân số thấp nhất. Dân tập trung chủ yếu các
thành phố, đô thị, các thị trấn ven các trc đường giao thông.
Cộng đồng dân của Tây Nguyên bao gồm khoảng 33 dân tộc, trong đó
người Kinh chiếm 64,2%, còn lại là các dân tộc ít người. Các dân tộc bản địa
của Tây Nguyên thuộc 2 nhóm ngôn ngữ Nam Đảo Môn -- Khmer, gồm
các dân tộc là Gia-rai, Ê-đê, Ba-na, Xê-đăng, -ho, Mạ, Mnông, Brâu,
măm, Gié-triêng,…
Ngày nay, những đặc thù riêng của từng dần tộc sức hấp dẫn lớn đối với khách
du lịch. Đến với Tây Nguyên người ta được mắt thấy, tai nghe những người, những
vật, những cảnh như trước đây chỉ tùng tồn tại trong liệu; được vén tấm màn
ẩn của một vùng đất còn lưu lại khá nhiều những giá trị văn hóa bản địa. Đó s
kết tinh ca hàng loạt các tập tục lạ về trú, sinh hoạt, thói quen ăn uống; sự độc
đáo trong nét kiến trúc, trang phục: là giá trị của kho tàng văn hóa nghệ thuật.
Ê Đê: Dân tộc Ê Đê nổi tiếng với các lễ hội như lễ "Cúng bến nước" (lễ tạ ơn
sông suối), phong tục xây dựng nhà dài (nhà rông), các điệu múa, và nhạc
cụ như đàn T’rưng, chiêng. Các ngôi nhà rông của dân tộc Ê Đê là trung tâm
văn hóa, nơi diễn ra các sự kiện quan trọng của cộng đồng.
lOMoARcPSD| 60851861
Gia Rai: Dân tộc Gia Rai một nền văn hóa giàu bản sắc với những sử thi
dài về các anh hùng dân tộc. Cồng chiêng là một phần không thể thiếu trong
đời sống tâm linh của họ, gắn liền với các nghi lễ cầu mùa, đâm trâu, hay các
lễ hội truyền thống.
Ba Na: Dân tộc Ba Na nổi bật với những ngôi làng nằm trên cao, thường
nhà rông lớn, nơi sinh hoạt cộng đồng và tổ chức lễ hội. Lễ hội "mừng lúa
mới" và "lễ đâm trâu" của người Ba Na là những sự kiện quan trọng, trong đó
đâm trâu là một nghi thức thiêng liêng để tạ ơn thần linh.
lOMoARcPSD| 60851861
z
2.2.3.1. Nhạc cụ truyền thống
Các nhạc cụ truyền thống của Tây Nguyên như cồng chiêng, đàn T’rưng, khèn,
trống đóng vai trò quan trọng trong các nghi lễ tôn giáo và lễ hội.
Cồng chiêng: Đây một nhạc cụ nổi bật của Tây Nguyên, được sử dụng
trong các lễ hội, đặc biệt là các lễ hội cồng chiêng, một di sản văn hóa phi vật
thể được UNESCO công nhận. Cồng chiêng không chỉ là công cụ âm nhạc
còn biểu tượng của sự kết nối giữa con người thần linh, cũng như giữa
các thế hệ.
lOMoARcPSD| 60851861
Đàn T’rưng: Là một loại đàn gỗ, được tạo thành từ các thanh tre, gỗ có kích
thước khác nhau, phát ra âm thanh khi gõ. Đàn T’rưng thường được sử dụng
trong các buổi lễ cúng và sinh hoạt cộng đồng.
lOMoARcPSD| 60851861
2.2.3.2. Lễ hội và phong tục
Lễ hội cồng chiêng: Đây một trong những lhội nổi bật nhất của các dân
tộc Tây Nguyên. Lễ hội cồng chiêng không chỉ đơn thuần hoạt động âm
nhạc còn là dịp để cộng đồng thể hiện lòng biết ơn đối với tổ tiên, cầu
mong mùa màng tốt tươi, và tăng cường mối đoàn kết trong làng bản.
Lễ đâm trâu: Lễ hội đâm trâu của các dân tộc Tây Nguyên, đặc biệt là người
Ba Na, là một nghi lễ quan trọng nhằm tạ ơn thần linh, cầu mong sự bình an,
may mắn và mùa màng bội thu. Trong lễ hội này, người dân sẽ thực hiện nghi
thức đâm trâu, một hành động thể hiện lòng hiếu khách sự giao tiếp với các
thế lực siêu nhiên.
lOMoARcPSD| 60851861
Lễ mừng lúa mới: Lễ hội này được tổ chức vào mùa thu hoạch, là dịp để các
cộng đồng dân tộc Tây Nguyên tạ ơn thần linh đã giúp họ một mùa màng
bội thu. Lễ hội này không thể thiếu các điệu múa, nhạc cụ, và những bữa tiệc
truyền thống.
2.2.3.3. Kiến trúc truyền thống
Nhà rông: Đây đặc trưng của nhiều dân tộc Tây Nguyên như Ê Đê, Ba
Na, Gia Rai. Nhà rông không chỉ nơi còn trung tâm của các hoạt
động cộng đồng, nơi tổ chức các lễ hội, hội họp, sinh hoạt văn hóa. Nhà
rông thường được xây dựng từ gỗ hình dáng mái nhọn, biểu trưng cho
sự vươn lên và sức mạnh của cộng đồng.
lOMoARcPSD| 60851861
Nhà dài: Cũng một dạng kiến trúc đặc trưng, nhà dài được xây dựng chủ
yếu các dân tộc như Gia Rai Ba Na. Đây là ngôi nhà tập thể, nơi nhiều
gia đình cùng sinh sống và sinh hoạt.
2.2.3.4. Nghệ thuật dân gian
Các sử thi của dân tộc Tây Nguyên là một phần không thể thiếu trong đời sống văn
hóa của vùng đất này. Những sử thi này thường được kể lại bằng hình thức truyền
lOMoARcPSD| 60851861
miệng, kể về các anh hùng, các câu chuyện thần thoại, các trận chiến, cũng như đời
sống của người dân.
Sử thi của dân tộc Ê Đê: Các câu chuyện thường liên quan đến các vị anh
hùng, các thần linh và sự chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược.
Sử thi đăm săn
Sử thi của dân tộc Gia Rai: Thường kể vsự ra đời của thế giới, các cuộc
chiến tranh và các anh hùng dân tộc.
2.2.3.5. Ẩm thực
Cơm lam: Đây món ăn đặc trưng của Tây Nguyên, được chế biến tgạo
nếp, nướng trong ống tre. Cơm lam thường được ăn kèm với các món thịt
nướng hoặc rau rừng.
Thịt nướng: Thịt heo, gà, hay các loại thịt rừng đều được nướng trên lửa than.
Món ăn này thường được ăn trong các lễ hội, hoặc trong các buổi họp mặt
cộng đồng.
Canh măng: Một món ăn phổ biến của các dân tộc Tây Nguyên, thường được
nấu từ măng rừng kết hợp với thịt.
lOMoARcPSD| 60851861
lOMoARcPSD| 60851861
2.2.4 Làng nghề thủ công truyền thống
Hiện nay, trên địa bàn vùng du lịch Tây Nguyên nhiều làng nghề truyền thống,
với các tỉnh hoa nghệ thuật và các kĩ thuật được truyền qua nhiều thế hệ.
Phần lớn các sản phẩm của làng nghề được tạo nên từ nguồn nguyên liệu địa phương,
công nghệ quy trình sản xuất vẫn còn thô sơ, thuật chủ yếu dựa vào kinh nghiệm
truyền thống. Tuy nhiên, chính những yếu tố đó đã góp phần mang hồn của núi rừng
vào trong các sản phẩm làng nghề. Hiện nay, các làng nghề truyền thống không chỉ
đơn thuần là nơi sản xuất các sản phẩm lưu niệm, mà còn trở thành những điểm du
lịch có sức thu hút đối với du khách.
3. Thực trạng phát triển du lịch Tây Nguyên
3.1 Khách du lịch
Trong giai đoạn 2011-2015, vùng Tây Nguyên đã đạt được nhiều kết quả tích cực
trong việc mở rộng thị trường khách du lịch quốc tế, đặc biệt du khách từ các
nước phát triển và các nước trong khu vực ASEAN. Tổng doanh thu du lịch của các
tỉnh trong vùng Tây Nguyên tăng lên rệt, đến cuối năm 2015 mức thu đạt 88.443,9
tỷ đồng. Lượng khách du lịch quốc tế đi lại vùng Tây Nguyên có xu hướng tăng qua
từng năm và tốc độ tăng trưởng tương đối cao đạt khoảng 15%/năm trong giai đoạn
2011-2015 nhưng thị phần khách du lịch quốc tế của ng Tây Nguyên không
sự cải thiện nhiều, vẫn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng lượng khách quốc tế cả nước.
Lâm Đồng địa phương giữ vai tchủ đạo, trung tâm du lịch của toàn Vùng, lượng
khách du lịch quốc tế đến Lâm Đồng chiếm gần 68,5% tổng lượng khách quốc tế
đến Tây Nguyên. Tốc độ tăng trưởng khách du lịch đến với vùng trong những năm
gần đây bình quân chỉ đạt 10%, tốc độ tăng trưởng bình quân tổng thu du lịch xấp xỉ
30%. So sánh với cả nước, tổng thu du lịch vùng Tây Nguyên chỉ chiếm 4,3%; điều
này cho thấy, đóng góp về du lịch trong cơ cấu của vùng chưa đủ lớn.
Năm 2017, các tỉnh Tây Nguyên đã thu hút trên 1,881 triệu lượt khách, tăng 9% so
với năm 2016; trong đó, khách du lịch trong nước tăng 6,6%, khách quốc tế tăng
lOMoARcPSD| 60851861
2,4%, đạt doanh thu trên 2.906 tỷ đồng, tăng gần 14% so với năm 2016. Trong đó,
Lâm Đồng vẫn địa phương lượng du khách đến nhiều nhất so với các tỉnh trong
vùng, chiếm 78,34% so với toàn vùng, kế đến là Đắk Lắk.
Tuy nhiên, hoạt động du lịch vẫn chủ yếu tập trung tại một số trung tâm, điểm du
lịch lớn đã truyền thống. Việc phát triển các điểm du lịch mới nhằm thu hút khách
du lịch trong thời gian qua chưa khả quan, do sản phẩm du lịch chưa có sự khác biệt
để hấp dẫn du khách, thiếu sản phẩm du lịch mang tính đột phá.
Tây Nguyên gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông Lâm Đồng với
tổng diện tích 54.641 km2, chiếm 16,8% diện tích cả nước. Nơi đây hàm chứa nguồn
tài nguyên thiên nhiên nguồn tài nguyên văn hóa cùng to lớn tiềm năng phát
triển các loại hình du lịch.
3.2 Cơ sở lưu trú
Trong giai đoạn vừa qua, cơ sở vật chất kĩ thuật của vùng đã được chú trọng đầu tư
xây dựng và có những chuyển biến tích cực. Đáng kể slưu tngày càng phát
triển đáp ứng nhu cầu của du khách. Đây là một trong những yếu tố quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của ngành Du lch, góp phần tạo nên một sản phẩm
du lịch hoàn thiện.
Sự phát triển của hoạt động kinh doanh khách sạn trên địa bàn Tây Nguyên dựa trên
việc nâng cấp, mở rộng quy mô các cơ sở cũ và xây dựng mới. Cùng với sự gia tăng
về số lượng, các khách sạn cũng được đầu trang thiết bị hoàn chỉnh, hiện đại, chất
lượng của hệ thống slưu trú ngày càng đảm bảo. Hệ thống các sở lưu trú
được bổ sung thêm nhiều khách sạn đạt chuẩn, khách sạn được xếp sao.
Theo thống kê, Lâm Đồng là tỉnh shữu phần lớn các khách sạn được xếp sao trong
khu vực. Trong đó có hai khách sạn 5 sao là Sofitel Đà Lạt Palace, và Ana Mandara
Villas, bốn khách sạn 4 sao (khách sạn Novotel, Sài Gòn, Ngọc Lan, Sammy Đà
Lạt), năm khách sạn 3 sao, 13 khách sạn 2 sao, và 28 khách sạn I sao. Đắk Lắk hiện
6 khách sạn được xếp sao trong đó 2 khách sạn 3 sao, 3 khách sạn 2 sao, 3
khách sạn 1 sao. Gia Lai hiện có 11 khách sạn được xếp hạng với 1 khách sạn 4 sao,
1 khách sạn 3 sao, 3 khách sạn 2 sao và 6 khách sạn 1 sao, Kon Tum có 1 khách sạn
3 sao, 2 khách sạn 2 sao, 8 khách sạn 1 sao và hiện đang xây dựng khách sạn 5 sao
tại khu vực cửa khẩu Bờ Y.
lOMoARcPSD| 60851861
Tuy nhiên, so với sự phát triển chung của các vùng trong cả nước, hệ thống sở
lưu trú ở Tây Nguyên vẫn còn nhiều hạn chế. Trừ tỉnh Lâm Đồng, một số tỉnh trong
vùng số khách sạn, nhà nghỉ rất ít. các tỉnh Bắc Tây Nguyên, phần lớn các cơ sở
lưu trú tập trung trung tâm thành phố, hoặc trên các tuyến đường chính. Các sở
lưu trú tại những điểm du lịch cách xa thành phố chưa được xây dựng tổ chức
hợp lí, gây cản trở cho hoạt động du lịch và làm giảm nguồn thu từ du khách.
3.3Hệ thống giao thông
3.3.1 Đường bộ:
- Mạng lưới cao tốc: Tây Nguyên hiện có 01 tuyến Cao tốc trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng: Cao tốc Dầu Giây (Đồng Nai) – Liên Khương (Lâm Đồng)
- Mạng lưới quốc lộ: Tây Nguyên hiện có 04 tuyến quốc lộ đóng vai trò trụcdọc
theo hướng Bắc Nam 14 tuyến quốc lộ đóng vai trò trục ngang, với tổng
chiều dài 3.109 km.
Các tuyến trục dc theo hướng Bắc – Nam: gồm 04 tuyến
+ Đường Hồ Chí Minh giai đoạn I - Quốc lộ 14: tuyến đường trục chính
liên kết các trục ngang từ khu vực ven biển phía Đông sang khu vực biên giới
phía Tây, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của khu vực.
+ QL 14C: là tuyến hành lang biên giới chạy dọc Tây Nguyên, cách biên giới
Lào, Campuchia khoảng từ 1-15km. Tuyến ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc đảm bảo an ninh quốc phòng.Tuyến đi qua 4 tỉnh Tây Nguyên (
Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông.)
+ Đường Trường Sơn Đông: Tuyến đi qua 7 tỉnh miền trung và Tây Nguyên
bắt đầu từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum, Gia Lai, Phú Yên, Đắk Lắk,
Lâm Đồng. Tuyến đường đóng vai trò an ninh quốc phòng, tuyến đường này
còn ý nghĩa rất lớn trong phát triển kinh tế, văn hoá hội, phòng chống
thiên tai cho các vùng sâu, vùng xa có tuyến đường này đi qua.
+ Đường vành đai phía Tây Thành Phố Buôn Ma Thuột
- Các tuyến trục ngang: gồm 14 tuyến: Quốc lộ 19, Quốc lộ 19C, Quốc lộ
19D, Quốc lộ 20, Quốc lộ 24, Quốc lộ 25, Quốc lộ 26, Quốc lộ 27, Quốc lộ
28, Quốc lộ 28B, Quốc lộ 29, Quốc lộ 40, Quốc lộ 40B, Quốc lộ 55

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60851861 1. Khái quát
- Vùng du lịch Tây Nguyên là một lãnh thổ rộng lớn, bao gồm năm tỉnh:
Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Với diện tích
54.641km {50], vùng đất cao nguyên này chiếm đến 16,5% diện tích tự
nhiên toàn quốc và là vùng rộng lớn thứ hai trong bảy vùng du lịch của cả
nước. Tính đến năm 2015 dân số toàn vùng là 5.608.000 người, chỉ chiếm
6,1% dân số cả nước. Đây là một trong những vùng có mật độ dân số thấp nhất cả nước.
- Nằm về phía Tây và Tây Nam nước ta, vùng du lịch Tây Nguyên không
chỉ có vị trí chiến lược về chính trị, quốc phòng, mà còn khá quan trọng
đối với kinh tế và đặc biệt là đối với sự phát triển du lịch. Về mặt sinh thái
tự nhiên, Tây Nguyên sở hữu các giá trị tự nhiên tổng hợp với địa hình
phân tầng rõ ràng, khí hậu mát mẻ quanh năm. Cùng với đó là hệ thống
sông, hồ, thác ghềnh, suối nước nóng mà đặc biệt là hệ sinh thái tự nhiên
điển hình với độ đa dạng sinh học cao. Đây là điều kiện lí tưởng để phát
triển các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, sinh thái, mạo hiểm. Về mặt văn
hóa – xã hội, Tây Nguyên là cái nôi của các buôn, làng. plei cùng với hàng
loạt những đặc điểm cấu trúc, sinh hoạt văn hóa truyền thống đặc trưng và
tiêu biểu cho nền văn hóa bản địa cổ vùng lục địa Đông Nam Á, đem lại
tiềm năng du lịch văn hóa vô cùng phong phú. Về mặt giao thông, giao lưu
trao đổi của vùng Tây Nguyên gắn liền với các vùng Duyên hải Nam Trung
Bộ và Đông Nam Bộ thông qua các tuyến trục là các quốc lộ 19, 14, 20,
24, 25, 26. 27, gần các thành phố, các hải cảng quan trọng như thành phố
Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang; hơn nữa, còn có đường biên giới với
Lào và Campuchia, nối với Thái Lan, Mianma qua các hành lang Đông -
Tây. Đây là các thị trường du lịch giàu tiềm năng, là điều kiện để thiết kế
các tuyến du lịch liên vùng và liên quốc gia.
- Tuy nhiên, một trong hai vùng du lịch không giáp biển, lại có phần hạn chế
giao thông, nằm cách xa các trung tâm kinh tế phát triển của đất nướcnên
cũng gây ra những khó khăn nhất định đối với sự phát triển du lịch. lOMoAR cPSD| 60851861
2. Tài nguyên du lịch của Tây Nguyên
2.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên - Về địa hình:
Địa hình Tây Nguyên khá đa dạng, ngoài những núi cao thung lũng sâu hiểm
trở còn có những cao nguyên, bình sơn nguyên lớn, những miền trũng và đồng bằng
khá rộng, là những thung lũng giữa núi và những dải bồi tích các sông lớn. Địa hình
núi cao, bao bọc cả 3 mặt bắc, đông và nam của vùng. Phía bắc được khống chế bởi
dãy núi Ngọc Linh là dãy núi đồ sộ nhất ở bắc Tây Nguyên, chạy dài theo hướng tây
bắc - đông nam với chiều dài đến gần 200 km. Phía đông được án ngữ bởi những
dãy núi nối tiếp nhau thành một bức tường ngăn cách Tây Nguyên với dải đồng bằng
ven biển duyên hải Nam Trung bộ, trong đó có những dãy núi chính như dãy An
Khê, dãy Chư Đju, dãy Vọng Phu, dãy Tây Khánh Hòa, dãy Chư Yang Sin, dãy Bi lOMoAR cPSD| 60851861
Đúp. Phía Nam, được bao bọc bới những dãy của Trường Sơn Nam với những dãy Brai An, Bơ Nam So Rlung.
Các cao nguyên và bình sơn nguyên của Tây Nguyên: phân bố ở những độ cao
khác nhau từ 300 - 400 m đến trên 1.500 - 1.700 m, phân bố rộng khắp từ bắc vào
nam như cao nguyên Kon Plong nằm giữa dãy An Khê và dãy Ngọc Linh; cao
nguyên Kon Hà Nừng; cao nguyên Pleiku; cao nguyên Buôn Mê Thuột; cao nguyên
M’Đrắk; cao nguyên Di Linh; cao nguyên Đà Lạt
Các miền trũng và đồng bằng: từ bắc vào nam gồm trũng núi Kon Tum chạy
dọc theo sông Pô Kô khoảng 45 km bề mặt khá bằng phẳng như trũng An Khê; bình
sơn nguyên Ea Súp; trũng Krông Pắk - Lăk
Địa hình cao nguyên xếp tầng cùng địa hình núi cao, trũng núi đã tạo nên cảnh
quan thiên nhiên hùng vĩ, phong cảnh đẹp tạo sức hấp dẫn lớn cho du khách - Về khí hậu:
Do vị trí địa lí và hướng núi nên khí hậu Vùng Tây Nguyên có sự phân hóa
theo độ cao. Chia thành hai mùa mưa – khô rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng
11 (mưa nhiều vào tháng 10-11) và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 (tháng 3 - 4 là
hai tháng khô nóng nhất). Toàn Vùng có thể chia thành 3 tiểu vùng khí hậu tương
ứng với 3 tiểu vùng địa hình, gồm Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon
Tum và Gia Lai), Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông),
Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Trung Tây Nguyên có độ cao
thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và phía Nam. Do ảnh hưởng
của đai áp cao, nên cứ lên cao 100 m thì nhiệt độ giảm đi 0,6 0C, do đó ở xấp xỉ trên
cùng vĩ tuyến, nhiệt độ trung bình ở Pleiku (800m) thấp hơn ở Quy Nhơn 50C; ở
Buôn Ma Thuột thấp hơn Nha Trang 30C; ở Đà Lạt (1.500m) thấp hơn Phan Rang
(500m) 90C…Ngoại trừ các vùng giữa núi, các bình nguyên (Cheo Reo - Phú Túc,
Kon Tum) có nhiệt độ cao, nói chung càng lên cao các cao nguyên đều mát hơn. lOMoAR cPSD| 60851861
Vùng du lịch Tây Nguyên có thành phố Đà Lạt, đô thị du lịch mang nhiều đặc
tính của miền ôn đới, khí hậu dịu mát quanh năm, nhiệt độ trung bình không quá 20
-21 độ C (bao gồm cả những ngày nóng nhất). Đà Lạt cũng không lạnh quá, trong
những tháng mùa đông tại Đà Lạt nhiệt độ không dưới 10 độ C. Nhiệt độ trung bình
18 – 21 °C, nhiệt độ cao nhất chưa bao giờ quá 30 °C và thấp nhất không dưới 5 °C.
Đà Lạt có hai mùa khô - mưa rõ rệt. Mùa mưa ở Đà Lạt từ tháng 5 đến tháng 10,
mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4. Đà Lạt có một kiểu khí hậu đặc trưng là sương mù
bao quanh thành phố, thời điểm xuất hiện sương mù thường thường xuất hiện từ
tháng 2 cho đến tháng 5. Từ tháng 9 cho đến tháng 10 hàng năm tại Đà Lạt, sương
mù thường tập trung vào lúc sáng sớm hoặc vào lúc tối. Bởi Đà Lạt có một địa thế
cao vút là địa hình lý tưởng để sương mù xuất hiện. Tuy nhiên, với loại hình thời tiết
lạnh khô, không khí ổn định, ban đêm trời quang, bức xạ nhiệt mạnh là điều kiện
thuận lợi cho sự phát sinh sương muối. Đây là một hiện tượng hay xảy ra ở Đà Lạt
và vùng lân cận, tập trung vào tháng 1- 2 gây trở ngại cho hoạt động du lịch.
- Về tài nguyên thủy văn: lOMoAR cPSD| 60851861
Tây Nguyên có 4 hệ thống sông lớn là Sesan, Serepok (chảy về sông Mê
Kông), sông Ba (chảy về Tuy Hòa - Phú Yên) và sông Đồng Nai (chảy về Đồng Nai,
thành phố Hồ Chí Minh). Ngoài ra còn có một hệ thống sông suối nhỏ chảy xuống
vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Hệ thống hồ, thác ghềnh, suối nước nóng, đây là
điều kiện lí tưởng để phát triển các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, sinh thái, mạo hiểm.
cảnh quan dọc các sông Đắk Bla, Pa Cô, Serepok, Krông Ana, Krông Nô, Đồng
Nai…; hệ thống các hồ lớn và đẹp như Tuyền Lâm, Đan Kia Suối Vàng (Lâm Đồng),
Hồ Lắk (Đắk Lắk), Biển Hồ (Gia Lai), các hồ thủy điện (Yaly, Đại Ninh…); hệ thống
các thác nước như Dray Sap, Trinh Nữ, Diệu Linh, Phú Cường, Lưu Ly, Pongour,
Cam Ly, Pren,Thác Datanla- một trong những thác nước đẹp nhất Đà Lạt, với dòng
nước đổ xuống mạnh mẽ và khung cảnh xung quanh hùng vĩ.
Mùa lũ trên các sông chính ở Tây Nguyên như sông Serepôk, sông Ba, Dakbla,
Đồng Nai thượng thường trùng với mùa có các nhiễu động mạnh như bão, áp thấp
nhiệt đới hoạt động trên biển Đông hoặc đổ bộ vào vùng bờ biển từ Trung Trung bộ
đến Nam Trung bộ, kết hợp với gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh trong thời kỳ
tháng 8, tháng 9 và không khí lạnh tăng cường trong thời kỳ tháng 10, tháng 11. Phần
nhiều những cơn bão, áp thấp nhiệt đới này tạo nên dải hội tụ có trục đi ngang qua
Trung bộ. Do vậy, đa phần Tây Nguyên nằm ở phần phía Nam dải hội tụ này nên
mưa lũ thường xuất hiện. Đặc biệt, nếu bão hoặc áp thấp đổ bộ vào vùng bờ biển từ
Bình Định đến Nha Trang thì tàn dư của nó thường gây mưa lũ lớn ở Tây Nguyên.
Điều này cũng gây ảnh hưởng lớn đến việc trải nghiệm du lịch của du khách.
- Về tài nguyên sinh vật:
Rừng là một tài nguyên lớn có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển bền
vững của vùng du lịch Tây Nguyên. Một số nơi địa hình cao từ 1.000 – 2.000m nằm
giữa hai tỉnh Đắk Nông và Lâm Đồng, hệ thực vật đặc sắc, có nhiều loài cây lớn như
thông ba lá, thông nàng, vù hương... Những nơi rừng chưa bị xâm hại, còn nhiều cây
gỗ lớn và quý, cao hàng chục mét, đường kính lên đến trên 1m. Trên địa bàn một số
huyện ở Đắk Lắk hiện còn loài thủy tùng cực kỳ quý hiếm, được xem là “hóa thạch
sống” cần được bảo vệ nghiêm ngặt
Tây Nguyên hiện có 6 vườn quốc gia : Phần lớn các vườn quốc gia, khu bảo
tồn thiên nhiên có các hệ sinh thái đặc sắc như hệ sinh thái núi cao, hệ sinh thái rừng
khộp. Đặc biệt các hệ sinh thái đều được bảo vệ nguyên trạng nhiều nơi vẫn còn giữ
được thảm rừng nguyên sinh.
Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên ở Tây Nguyên - Viên Ngọc Xanh giữa Cao
Nguyên, với vẻ đẹp hoang sơ và đa dạng sinh học phong phú, là nơi cư trú lOMoAR cPSD| 60851861
của nhiều khu bảo tồn thiên nhiên quý giá. Những khu bảo tồn này không chỉ
đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ hệ sinh thái mà còn là điểm đến hấp
dẫn cho những ai yêu thích khám phá thiên nhiên
Vườn quốc gia Chư Mom Ray (Kon Tum)Với diện tích rộng lớn, Chư Mom
Ray là một trong những vườn quốc gia lớn nhất Việt Nam, nổi tiếng với hệ
sinh thái rừng nguyên sinh đa dạng.
Vườn quốc gia Yok Đôn (Đắk Lắk) Nổi tiếng với hệ sinh thái rừng kín
thường xanh, đồng cỏ và các loài động vật hoang dã như voi, bò tót, hổ.
Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh: Sở hữu hệ thống sông suối, thác nước hùng
vĩ và là nơi sinh sống của nhiều loài chim quý hiếm.
Vườn Quốc gia Bidoup Núi Bà: Bidoup Núi Bà là một trong những vườn
quốc gia đa dạng sinh học nhất Việt Nam. Nơi đây có hệ thống rừng đặc dụng,
rừng cận nhiệt đới và nhiều loài động thực vật quý hiếm.
Công viên Địa chất Toàn cầu Đắk Nông: Với diện tích hơn 4.700 km², trải
dài trên địa bàn 6 huyện, thị xã của tỉnh Đắk Nông, công viên địa chất này sở
hữu một hệ thống địa chất, địa mạo vô cùng độc đáo và đa dạng. Điểm nhấn
nổi bật nhất chính là hệ thống hang động núi lửa dài nhất khu vực Đông Nam
Á, được hình thành từ hoạt động phun trào của núi lửa Nâm Blang (Buôn Choah).
Tây Nguyên còn có khu dự trữ sinh quyển vô cùng quý giá, được UNESCO
công nhận. Những khu bảo tồn này là ngôi nhà chung của hàng ngàn loài động thực
vật quý hiếm, đồng thời cũng là điểm đến hấp dẫn cho những ai yêu thích khám phá thiên nhiên:
Khu dự trữ sinh quyển Lang Biang: Nằm ở phía bắc tỉnh Lâm Đồng, Khu
dự trữ sinh quyển Lang Biang là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng
của Tây Nguyên. Với diện tích hơn 275.000 ha, nơi đây sở hữu hệ sinh thái
đa dạng, bao gồm rừng nguyên sinh, đồng cỏ, hồ, thác nước và các hệ sinh
thái đặc trưng của vùng cao nguyên.( Hồ Tuyền Lâm: Một trong những hồ
nước ngọt lớn nhất Việt Nam, với khung cảnh hữu tình và không khí trong lành)
Khu Dự Trữ Sinh Quyển Cao Nguyên Kon Hà Nừng: Nằm ở tỉnh Gia Lai,
Khu dự trữ sinh quyển Cao Nguyên Kon Hà Nừng là một trong những khu
bảo tồn lớn nhất Việt Nam. Với diện tích hơn 410.000 ha, nơi đây bao gồm
hai vùng lõi là Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh và Khu bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng. lOMoAR cPSD| 60851861
2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
2.2.1 Các di tích lịch sử, văn hóa
Vùng du lịch Tây Nguyên không chỉ nổi tiếng với sự hấp dẫn của các giá trị tự nhiên
nguyên sơ, hùng vĩ, vùng đất này còn chất chứa nhiều giá trị văn hóa dân tộc độc
đáo. Đây là vùng đất cộng cư của nhiều dân tộc anh em với sự hòa sắc của tập quán,
luật tục, nhiều loại hình sinh hoạt văn hóa. Theo chiều dài lịch sử chiếc nôi văn hóa
Tây Nguyên đã lưu lại được nhiều công trình kiến trúc, di tích văn hóa nghệ thuật
độc đáo. Không chỉ có vậy, lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Tây Nguyên
còn gắn liền với quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất,
cho đến nay những di tích lịch sử ở đây hầu như đều gắn với cuộc chiến tranh cách
mạng lâu dài và anh dũng của nhân dân ta.
• Toàn vùng có 450 di tích các loại, trong đó 59 di tích được xếp hạng cấp quốc
gia và 2 di tích cấp quốc gia đặc biệt (di chỉ khảo cổ “Thánh địa Cát Tiên và
Đường mòn Hồ Chí Minh), có 1 Di sản văn hóa thế giới phi vật thể
Dưới góc độ du lịch, hệ thống di tích lịch sử văn hóa của Tây Nguyên đã thể hiện
được những nét đặc trưng riêng và có khả năng kết hợp với các tài nguyên du lịch
khác tạo nên những sản phẩm du lịch hài hòa giữa nét hùng vĩ của tự nhiên, đậm đà
của bản sắc và kiêu hùng của truyền thống. Đặc biệt, hệ thống di tích lịch sử cách
mạng trong vùng là thế mạnh để phát triển loại hình du lịch văn hóa về chiến trường xưa.
• “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản văn hóa phi vật thể
của nhân loại được UNESCO công nhận vào ngày 25 tháng 11 năm 2005.
Không gian văn hóa cồng chiêng được trải dài trên 5 tỉnh Tây Nguyên, bao
gồm các yếu tố: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, người chơi
công chiêng, lễ hội có sử dụng cồng chiêng và địa điểm lễ hội đó. Được đánh
giá cao về giá trị và rất thuận lợi về khả năng khai thác, không gian văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên là một trong các tài nguyên du lịch lớn của vùng.
• Di tích lịch sử cách mạng gồm có chiến trường Đắk Tô – Tân Cảnh (Kon
Tum); đèo An Khê, nhà tù Plei Ku (Gia Lai); nhà từ Buôn Ma Thuột; đường Hồ Chí Minh,... lOMoAR cPSD| 60851861
• Di tích kiến trúc nghệ thuật có tòa giám mục, nhà thờ Gỗ (Kon Tum), tháp
Yang Prong (tháp cổ duy nhất ở Tây Nguyên nằm ở huyện Ea Súp, Đắk
Lắk), nhà sàn 100 tuổi của tộc trưởng Mnông, khu mộ cổ của vua săn voi ở
Bản Đôn (huyện Buôn Đôn, Đắk Lắk), nhà thờ Khải Đoan (Đắk Lắk), nhà thờ
Đà Lạt (Lâm Đồng), Thiền viện Trúc Lâm. 2.2.2 Lễ hội
Cũng như các vùng du lịch khác, lễ hội là một hoạt động văn hóa phong phú, là
nguồn tài nguyên quý giá tham gia vào việc tạo nên những sản phẩm du lịch đặc
sắc. Ngoài những lễ hội mang tính chất cộng đồng, đặc trưng cho cả dân tộc, lễ
hội Tây Nguyên chứa đựng những sắc thái văn hóa rất riêng. Đó là văn hóa lấy
con người làm chủ, lấy đất trời làm khuôn mẫu. Tất cả tạo nên một không gian
đậm đà bản sắc dân tộc với các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, tồn tại cùng thời gian.
Hệ thống lễ hội trên vùng đất Tây Nguyên khá đa dạng và quy mô khác nhau. Có
những lễ hội chỉ tổ chức trong tùng gia đình riêng rẽ, một số khác lại mở rộng ra
trong buôn, làng. Cũng có nhiều lễ hội có quy mô rộng lớn hơn, thụ hút được cộng đồng xung quanh.
• Thời gian, không gian lễ hội: Ngoài các lễ hội xung quanh vòng đời người,
phần lớn các lễ hội của dân tộc bản địa thưởng tập trung vào các tháng cuối
cùng của năm, thường được gọi là tháng “ning nong”. Đây là thời gian con
người được nghỉ ngơi, chuẩn bị cho vụ mùa tới, tạ ơn thần linh và cầu xin
mưa thuận gió hòa. Không gian trước nhà Rông là nơi tôn nghiêm để diễn
ra phần lớn các lễ hội Tây Nguyên.
• VD: Nhà mồ Tây Nguyên là một nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng các
dân tộc Tây Nguyên. Tục làm nhà mồ của người Tây Nguyên cũng mang
ý nghĩa như lễ bốc mộ của nguời Kinh, Đối với họ, nhà mồ như một biểu
hiện cho tấm lòng của người ở cõi nhân gian, mong muốn tạo dựng cho
người đã khuất một cuộc sống mới tốt đẹp ở thể giới khác. Quan niệm này
cũng là theo triết lý phương Đông, sự sống là bất tử, còn đời người là vòng
luân hồi. Khi cuộc sống trần gian kết thúc cũng có nghĩa nó được bắt đầu ở thế giới bên kia. lOMoAR cPSD| 60851861
 Lễ hội Tây Nguyên là sự kết hợp đặc sắc những tinh hoa văn hóa vật thể và phi
vật thể. Hiện nay, nhiều lễ hội vẫn giữ được nguyên vẹn các giá trị truyền
thống của mình, đem lại cho du khách mà đặc biệt là khách nước ngoài sự
hiếu kì và say mê đến lạ.
2.2.3 Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học
Tây Nguyên là vùng đất rộng người thưa, dân số thấp nhất 7 vùng. Mật độ cũng vào
loại thấp nhất cả nước. Dân cư lại không phân bố đồng đều giữa các tỉnh. Quy mô
dân số lớn nhất thuộc tỉnh Đắk Lắk, tiếp sau là Gia Lai, Lâm Đồng. Đắk Nông và
Kon Tum là hai tỉnh có quy mô dân số thấp nhất. Dân cư tập trung chủ yếu ở các
thành phố, đô thị, các thị trấn ven các trục đường giao thông.
• Cộng đồng dân cư của Tây Nguyên bao gồm khoảng 33 dân tộc, trong đó
người Kinh chiếm 64,2%, còn lại là các dân tộc ít người. Các dân tộc bản địa
của Tây Nguyên thuộc 2 nhóm ngôn ngữ Nam Đảo và Môn -- Khmer, gồm
các dân tộc là Gia-rai, Ê-đê, Ba-na, Xê-đăng, Cơ-ho, Mạ, Mnông, Brâu, Rơ măm, Gié-triêng,…
Ngày nay, những đặc thù riêng của từng dần tộc có sức hấp dẫn lớn đối với khách
du lịch. Đến với Tây Nguyên người ta được mắt thấy, tai nghe những người, những
vật, những cảnh như trước đây chỉ tùng tồn tại trong tư liệu; được vén tấm màn bí
ẩn của một vùng đất còn lưu lại khá nhiều những giá trị văn hóa bản địa. Đó là sự
kết tinh của hàng loạt các tập tục lạ về cư trú, sinh hoạt, thói quen ăn uống; là sự độc
đáo trong nét kiến trúc, trang phục: là giá trị của kho tàng văn hóa nghệ thuật.
Ê Đê: Dân tộc Ê Đê nổi tiếng với các lễ hội như lễ "Cúng bến nước" (lễ tạ ơn
sông suối), phong tục xây dựng nhà dài (nhà rông), các điệu múa, và nhạc
cụ như đàn T’rưng, chiêng. Các ngôi nhà rông của dân tộc Ê Đê là trung tâm
văn hóa, nơi diễn ra các sự kiện quan trọng của cộng đồng. lOMoAR cPSD| 60851861
Gia Rai: Dân tộc Gia Rai có một nền văn hóa giàu bản sắc với những sử thi
dài về các anh hùng dân tộc. Cồng chiêng là một phần không thể thiếu trong
đời sống tâm linh của họ, gắn liền với các nghi lễ cầu mùa, đâm trâu, hay các lễ hội truyền thống.
Ba Na: Dân tộc Ba Na nổi bật với những ngôi làng nằm trên cao, thường có
nhà rông lớn, nơi sinh hoạt cộng đồng và tổ chức lễ hội. Lễ hội "mừng lúa
mới" và "lễ đâm trâu" của người Ba Na là những sự kiện quan trọng, trong đó
đâm trâu là một nghi thức thiêng liêng để tạ ơn thần linh. lOMoAR cPSD| 60851861 z
2.2.3.1. Nhạc cụ truyền thống
Các nhạc cụ truyền thống của Tây Nguyên như cồng chiêng, đàn T’rưng, khèn,
trống đóng vai trò quan trọng trong các nghi lễ tôn giáo và lễ hội. •
Cồng chiêng: Đây là một nhạc cụ nổi bật của Tây Nguyên, được sử dụng
trong các lễ hội, đặc biệt là các lễ hội cồng chiêng, một di sản văn hóa phi vật
thể được UNESCO công nhận. Cồng chiêng không chỉ là công cụ âm nhạc mà
còn là biểu tượng của sự kết nối giữa con người và thần linh, cũng như giữa các thế hệ. lOMoAR cPSD| 60851861 •
Đàn T’rưng: Là một loại đàn gỗ, được tạo thành từ các thanh tre, gỗ có kích
thước khác nhau, phát ra âm thanh khi gõ. Đàn T’rưng thường được sử dụng
trong các buổi lễ cúng và sinh hoạt cộng đồng. lOMoAR cPSD| 60851861
2.2.3.2. Lễ hội và phong tục
Lễ hội cồng chiêng: Đây là một trong những lễ hội nổi bật nhất của các dân
tộc Tây Nguyên. Lễ hội cồng chiêng không chỉ đơn thuần là hoạt động âm
nhạc mà còn là dịp để cộng đồng thể hiện lòng biết ơn đối với tổ tiên, cầu
mong mùa màng tốt tươi, và tăng cường mối đoàn kết trong làng bản. •
Lễ đâm trâu: Lễ hội đâm trâu của các dân tộc Tây Nguyên, đặc biệt là người
Ba Na, là một nghi lễ quan trọng nhằm tạ ơn thần linh, cầu mong sự bình an,
may mắn và mùa màng bội thu. Trong lễ hội này, người dân sẽ thực hiện nghi
thức đâm trâu, một hành động thể hiện lòng hiếu khách và sự giao tiếp với các thế lực siêu nhiên. lOMoAR cPSD| 60851861 •
Lễ mừng lúa mới: Lễ hội này được tổ chức vào mùa thu hoạch, là dịp để các
cộng đồng dân tộc Tây Nguyên tạ ơn thần linh đã giúp họ có một mùa màng
bội thu. Lễ hội này không thể thiếu các điệu múa, nhạc cụ, và những bữa tiệc truyền thống.
2.2.3.3. Kiến trúc truyền thống
Nhà rông: Đây là đặc trưng của nhiều dân tộc ở Tây Nguyên như Ê Đê, Ba
Na, Gia Rai. Nhà rông không chỉ là nơi ở mà còn là trung tâm của các hoạt
động cộng đồng, nơi tổ chức các lễ hội, hội họp, và sinh hoạt văn hóa. Nhà
rông thường được xây dựng từ gỗ và có hình dáng mái nhọn, biểu trưng cho
sự vươn lên và sức mạnh của cộng đồng. lOMoAR cPSD| 60851861 •
Nhà dài: Cũng là một dạng kiến trúc đặc trưng, nhà dài được xây dựng chủ
yếu ở các dân tộc như Gia Rai và Ba Na. Đây là ngôi nhà tập thể, nơi nhiều
gia đình cùng sinh sống và sinh hoạt.
2.2.3.4. Nghệ thuật dân gian
Các sử thi của dân tộc Tây Nguyên là một phần không thể thiếu trong đời sống văn
hóa của vùng đất này. Những sử thi này thường được kể lại bằng hình thức truyền lOMoAR cPSD| 60851861
miệng, kể về các anh hùng, các câu chuyện thần thoại, các trận chiến, cũng như đời sống của người dân. 
Sử thi của dân tộc Ê Đê: Các câu chuyện thường liên quan đến các vị anh
hùng, các thần linh và sự chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Sử thi đăm săn
Sử thi của dân tộc Gia Rai: Thường kể về sự ra đời của thế giới, các cuộc
chiến tranh và các anh hùng dân tộc. 2.2.3.5. Ẩm thực
Cơm lam: Đây là món ăn đặc trưng của Tây Nguyên, được chế biến từ gạo
nếp, nướng trong ống tre. Cơm lam thường được ăn kèm với các món thịt nướng hoặc rau rừng. •
Thịt nướng: Thịt heo, gà, hay các loại thịt rừng đều được nướng trên lửa than.
Món ăn này thường được ăn trong các lễ hội, hoặc trong các buổi họp mặt cộng đồng. •
Canh măng: Một món ăn phổ biến của các dân tộc Tây Nguyên, thường được
nấu từ măng rừng kết hợp với thịt. lOMoAR cPSD| 60851861 lOMoAR cPSD| 60851861
2.2.4 Làng nghề thủ công truyền thống
Hiện nay, trên địa bàn vùng du lịch Tây Nguyên có nhiều làng nghề truyền thống,
với các tỉnh hoa nghệ thuật và các kĩ thuật được truyền qua nhiều thế hệ.
Phần lớn các sản phẩm của làng nghề được tạo nên từ nguồn nguyên liệu địa phương,
công nghệ và quy trình sản xuất vẫn còn thô sơ, kĩ thuật chủ yếu dựa vào kinh nghiệm
truyền thống. Tuy nhiên, chính những yếu tố đó đã góp phần mang hồn của núi rừng
vào trong các sản phẩm làng nghề. Hiện nay, các làng nghề truyền thống không chỉ
đơn thuần là nơi sản xuất các sản phẩm lưu niệm, mà còn trở thành những điểm du
lịch có sức thu hút đối với du khách.
3. Thực trạng phát triển du lịch Tây Nguyên 3.1 Khách du lịch
Trong giai đoạn 2011-2015, vùng Tây Nguyên đã đạt được nhiều kết quả tích cực
trong việc mở rộng thị trường khách du lịch quốc tế, đặc biệt là du khách từ các
nước phát triển và các nước trong khu vực ASEAN. Tổng doanh thu du lịch của các
tỉnh trong vùng Tây Nguyên tăng lên rõ rệt, đến cuối năm 2015 mức thu đạt 88.443,9
tỷ đồng. Lượng khách du lịch quốc tế đi lại vùng Tây Nguyên có xu hướng tăng qua
từng năm và tốc độ tăng trưởng tương đối cao đạt khoảng 15%/năm trong giai đoạn
2011-2015 nhưng thị phần khách du lịch quốc tế của vùng Tây Nguyên không có
sự cải thiện nhiều, vẫn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng lượng khách quốc tế cả nước.
Lâm Đồng là địa phương giữ vai trò chủ đạo, trung tâm du lịch của toàn Vùng, lượng
khách du lịch quốc tế đến Lâm Đồng chiếm gần 68,5% tổng lượng khách quốc tế
đến Tây Nguyên. Tốc độ tăng trưởng khách du lịch đến với vùng trong những năm
gần đây bình quân chỉ đạt 10%, tốc độ tăng trưởng bình quân tổng thu du lịch xấp xỉ
30%. So sánh với cả nước, tổng thu du lịch vùng Tây Nguyên chỉ chiếm 4,3%; điều
này cho thấy, đóng góp về du lịch trong cơ cấu của vùng chưa đủ lớn.
Năm 2017, các tỉnh Tây Nguyên đã thu hút trên 1,881 triệu lượt khách, tăng 9% so
với năm 2016; trong đó, khách du lịch trong nước tăng 6,6%, khách quốc tế tăng lOMoAR cPSD| 60851861
2,4%, đạt doanh thu trên 2.906 tỷ đồng, tăng gần 14% so với năm 2016. Trong đó,
Lâm Đồng vẫn là địa phương có lượng du khách đến nhiều nhất so với các tỉnh trong
vùng, chiếm 78,34% so với toàn vùng, kế đến là Đắk Lắk.
Tuy nhiên, hoạt động du lịch vẫn chủ yếu tập trung tại một số trung tâm, điểm du
lịch lớn đã có truyền thống. Việc phát triển các điểm du lịch mới nhằm thu hút khách
du lịch trong thời gian qua chưa khả quan, do sản phẩm du lịch chưa có sự khác biệt
để hấp dẫn du khách, thiếu sản phẩm du lịch mang tính đột phá.
Tây Nguyên gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng với
tổng diện tích 54.641 km2, chiếm 16,8% diện tích cả nước. Nơi đây hàm chứa nguồn
tài nguyên thiên nhiên và nguồn tài nguyên văn hóa vô cùng to lớn có tiềm năng phát
triển các loại hình du lịch. 3.2 Cơ sở lưu trú
Trong giai đoạn vừa qua, cơ sở vật chất kĩ thuật của vùng đã được chú trọng đầu tư
xây dựng và có những chuyển biến tích cực. Đáng kể là cơ sở lưu trú ngày càng phát
triển đáp ứng nhu cầu của du khách. Đây là một trong những yếu tố quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của ngành Du lịch, góp phần tạo nên một sản phẩm du lịch hoàn thiện.
Sự phát triển của hoạt động kinh doanh khách sạn trên địa bàn Tây Nguyên dựa trên
việc nâng cấp, mở rộng quy mô các cơ sở cũ và xây dựng mới. Cùng với sự gia tăng
về số lượng, các khách sạn cũng được đầu tư trang thiết bị hoàn chỉnh, hiện đại, chất
lượng của hệ thống cơ sở lưu trú ngày càng đảm bảo. Hệ thống các cơ sở lưu trú
được bổ sung thêm nhiều khách sạn đạt chuẩn, khách sạn được xếp sao.
Theo thống kê, Lâm Đồng là tỉnh sở hữu phần lớn các khách sạn được xếp sao trong
khu vực. Trong đó có hai khách sạn 5 sao là Sofitel Đà Lạt Palace, và Ana Mandara
Villas, bốn khách sạn 4 sao (khách sạn Novotel, Sài Gòn, Ngọc Lan, Sammy Đà
Lạt), năm khách sạn 3 sao, 13 khách sạn 2 sao, và 28 khách sạn I sao. Đắk Lắk hiện
có 6 khách sạn được xếp sao trong đó có 2 khách sạn 3 sao, 3 khách sạn 2 sao, 3
khách sạn 1 sao. Gia Lai hiện có 11 khách sạn được xếp hạng với 1 khách sạn 4 sao,
1 khách sạn 3 sao, 3 khách sạn 2 sao và 6 khách sạn 1 sao, Kon Tum có 1 khách sạn
3 sao, 2 khách sạn 2 sao, 8 khách sạn 1 sao và hiện đang xây dựng khách sạn 5 sao
tại khu vực cửa khẩu Bờ Y. lOMoAR cPSD| 60851861
Tuy nhiên, so với sự phát triển chung của các vùng trong cả nước, hệ thống cơ sở
lưu trú ở Tây Nguyên vẫn còn nhiều hạn chế. Trừ tỉnh Lâm Đồng, một số tỉnh trong
vùng số khách sạn, nhà nghỉ rất ít. Ở các tỉnh Bắc Tây Nguyên, phần lớn các cơ sở
lưu trú tập trung ở trung tâm thành phố, hoặc trên các tuyến đường chính. Các cơ sở
lưu trú tại những điểm du lịch cách xa thành phố chưa được xây dựng và tổ chức
hợp lí, gây cản trở cho hoạt động du lịch và làm giảm nguồn thu từ du khách.
3.3Hệ thống giao thông 3.3.1 Đường bộ:
- Mạng lưới cao tốc: Tây Nguyên hiện có 01 tuyến Cao tốc trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng: Cao tốc Dầu Giây (Đồng Nai) – Liên Khương (Lâm Đồng)
- Mạng lưới quốc lộ: Tây Nguyên hiện có 04 tuyến quốc lộ đóng vai trò trụcdọc
theo hướng Bắc Nam và 14 tuyến quốc lộ đóng vai trò trục ngang, với tổng chiều dài 3.109 km.
Các tuyến trục dọc theo hướng Bắc – Nam: gồm 04 tuyến
+ Đường Hồ Chí Minh giai đoạn I - Quốc lộ 14: Là tuyến đường trục chính
liên kết các trục ngang từ khu vực ven biển phía Đông sang khu vực biên giới
phía Tây, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của khu vực.
+ QL 14C: là tuyến hành lang biên giới chạy dọc Tây Nguyên, cách biên giới
Lào, Campuchia khoảng từ 1-15km. Tuyến có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc đảm bảo an ninh quốc phòng.Tuyến đi qua 4 tỉnh Tây Nguyên (
Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông.)
+ Đường Trường Sơn Đông: Tuyến đi qua 7 tỉnh miền trung và Tây Nguyên
bắt đầu từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum, Gia Lai, Phú Yên, Đắk Lắk,
Lâm Đồng. Tuyến đường đóng vai trò an ninh quốc phòng, tuyến đường này
còn có ý nghĩa rất lớn trong phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, phòng chống
thiên tai cho các vùng sâu, vùng xa có tuyến đường này đi qua.
+ Đường vành đai phía Tây Thành Phố Buôn Ma Thuột
- Các tuyến trục ngang: gồm 14 tuyến: Quốc lộ 19, Quốc lộ 19C, Quốc lộ
19D, Quốc lộ 20, Quốc lộ 24, Quốc lộ 25, Quốc lộ 26, Quốc lộ 27, Quốc lộ
28, Quốc lộ 28B, Quốc lộ 29, Quốc lộ 40, Quốc lộ 40B, Quốc lộ 55