





Preview text:
4. Tài nguyên nước (Nguồn nước và sự phân
bố nước trong tự nhiên. Tài nguyên biển và
đại dương. Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nước).
3.2.1.1. Nguồn nước và sự phân bố nước trong tự nhiên
Trên trái đất nước được phát sinh từ 3 nguồn:
- Từ trong lòng đất là chủ yếu.
- Từ các thiên thạch đưa lại.
- Từ lớp trên của khí quyển trái đất.
Nguồn nước từ trong lòng đất tạo nên nước mặn, nước ngọt và hơi nước
trên mặt đất. Hơi nước được hình thành ở nhiệt độ cao. Lúc đầu chúng
thoát ra ngoài không khí, nhưng sau đỏ ngưng tụ lại thành nước. Nước
tràn ngập những miền trũng trên bề mặt tạo nên đại dương mênh mông và các ao, hồ, sông, suối.
Nước tự nhiên tập trung phần lớn ở biển và đại dương (trên 97,61%) sau
đó là các khối băng ở các cực (1,83%) rồi đến nước ngầm (0,54%). Nước
ngọt tầng mặt chiếm một tỷ lệ không đáng kể.
Nước không ngừng vận động và chuyển trạng thái tạo nên vòng tuần
hoàn trong sinh quyển. Nước bốc hơi ngưng tụ rồi tạo thành mưa. Nước
mưa rơi xuống mặt đất. Một phần ngưng đọng trong các ao, hồ, phần
khác tạo thành dòng chảy trên bề mặt đất rồi đổ ra biển. Năng lượng cho
quá trình này lấy từ mặt trời dưới dạng bức xạ nhiệt.
3.2.1.2. Tài nguyên biển và đại dương
Đại dương chiếm một diện tích rộng đến 361.500.000 km² (gần 7/10 diện
tích Trái đất). Độ sâu trung bình của đại dương là 3.730m. Do nước biển
hấp thu nhanh năng lượng Mặt trời nên phần lớn sinh vật tồn tại trong
những lớp nước biển trên tương đối nóng. Thực tế, 90% sự sống ở biển
nằm trong những lớp nước 30m từ bề mặt xuống. Hoạt động sinh hoạt lớn
nhất ở biển diễn ra ở gần bờ nơi sông ngòi từ đất liền đổ vào liên tục cung
cấp các chất dinh dưỡng. Cho dù những vùng này chỉ chiếm có 15% diện
tích biển trong đó là những khu vực chủ yếu của sự sống ở biển.
Biển và đại dương có vai trò:
+ Là môi trường sống của loài sinh vật biển
+ Là nơi cung cấp nhiều loại thủy – hải sản làm thực phẩm quan trọng cho con người,
là nơi phát triển nghề nuôi trồng thủy hải sản. + Là nơi cung cấp muối
+ Là nơi nghỉ ngơi, an dưỡng và du lịch hấp dẫn.
+ Các quần đảo và rạn san hô là khu vực bảo tồn thiên nhiên, thẳng cảnh
du lịch hoặc đặc khu kinh tế.
+ Góp phần điều hòa khí hậu, góp phần điều hòa hàm lượng CO2 và O2
của khí quyển theo cơ chế dung dịch đệm: CO2 khí quyển + H2O nước
biển = H2CO3. Thực vật thủy sinh trong biển và đại dương còn hút CO2
để quang hợp và nhả O2 vào khí quyển: CO2 + H2O →C6H12O6 + O2. Vì
vậy, biển và đại dương còn được gọi là “lá phổi xanh thứ 2" của Trái đất (sau rừng).
+ Biển và đại dương còn chứa một nguồn năng lượng lớn. Người ta ước
tính trữ lượng dầu mỏ ở biển và đại dương khoảng 21 tỉ tấn, khí thiên
nhiên khoảng 14.000 tỉ m³. Trong nước biển chứa trên 70 loại nguyên tố
hóa học khác nhau. Người ta tính công suất lí thuyết của năng lượng thủy triều khoảng 1 tỷ kW...
+ Các vùng cửa sông, các vùng bãi lầy, các vùng ngập mặn ven bờ... là
nơi nuôi trồng thủy hải sản, hoặc có các kiểu rừng ngập mặn đặc trưng có
giá trị kinh tế cao và còn là kho các đa dạng sinh học.
3.2.1.5. Sự ô nhiễm môi trường nước a) Khái niệm
Sự ô nhiễm môi trường nước là sự có mặt của một hay nhiều chất lạ trong
môi trường nước, làm biến đổi chất lượng của nước, gây tác hại đối với
sức khỏe của con người khi sử dụng nước trong sinh hoạt, trong công
nghiệp, nông nghiệp, trong chăn nuôi, trong thể dục thể thao, vui chơi, giải trí.
b) Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nước
- Do nước thải sinh hoạt: bao gồm nước thải từ các khu dân cư, nước thải
xuất phát từ sinh hoạt của con người. Nước thải sinh hoạt bao gồm các
chất protein, các chất béo, các chất tẩy rửa, các chất hữu cơ khác (ví dụ
như phân nước tiểu thức ăn thừa...), vi sinh vật, một lượng nhỏ các chất
vô cơ hòa tan hay rắn. Nước thải sinh hoạt có các chất gây ô nhiễm
thường dễ bị phân hủy bởi các vi sinh vật.
- Do nước thải công nghiệp (gọi là nước thải sản xuất). Đây là nước thải
từ các cơ sở sản xuất công nghiệp hay thủ công nghiệp. Nước thải công
nghiệp chứa những chất ô nhiễm không hoặc khó bị phân hủy bởi sinh
vật. Mặt khác, nước thải này còn chứa nhiều chất độc hại cho vi sinh vật
có vai trò phân hủy sinh học trong các nguồn nước trong tự nhiên.
- Do nước thải nông nghiệp: bao gồm phân, nước tiểu, các hóa chất bảo
vệ thực vật, thuốc trừ sâu và phân bón.
- Do nước thải đô thị. Đó là hỗn hợp các nước thải có trong đô thị, có
trong hệ thống cống rãnh của thành phố.
- Do nước tràn trên mặt đất ngoài khu vực đô thị. Nước chảy tạo thành
dòng chảy hòa tan hoặc cuốn trôi các chất gây ô nhiễm như chất rắn, rác
rưởi, dầu mỏ, chất hữu cơ,...trên các đường giao thông.
- Do nước thải của công nghiệp hạt nhân từ các nhà máy điện nguyên tử,
từ các trung nghiên cứu hạt nhân. tâm
- Do sự cố tại các dàn khoan, sự cố tràn dầu hoặc đắm tàu.
- Do đánh bắt cá, khai thác thủy hải sản và đắp đập làm thủy điện, khai
thông các rừng ngập mặn nuôi trồng thủy hải sản, biến các cửa sông, các
vũng nước sâu, các vịnh thành hải cảng.
- Do hoạt động của du khách, các bãi biển, các đảo và nước thải của
khách sạn chưa được xử lý đổ thẳng xuống biển góp phần làm ô nhiễm biển.
5. Tài nguyên rừng (Vai trò của
rừng đối với môi trường và cuộc
sống con người. Tài nguyên rừng
trên thế giới và ở Việt Nam)
3.2.4.1. Vai trò của rừng đối với môi trường và cuộc sống con người
- Rừng cung cấp lâm sản:
Rừng cung cấp nhiều loại lâm sản có giá trị cho các ngành
công nghiệp và nhiều nguyên liệu sản xuất thuốc chữa
bệnh và thức ăn cho con người và động vật.
Rừng là nơi cung cấp gỗ củi.
Rừng còn là nơi sống của nhiều loài động, thực vật là nơi
bảo vệ các nguồn gen quý hiếm và có giá trị sinh học cao.
- Rừng điều hòa lượng nước trên mặt đất
Nước mưa rơi trên rừng một phần được tán cây giữ lại, một
phần chảy theo cành, thân cây xuống đất, một phần nước
được thảm mục rừng giữ lại và thấm dần xuống lớp đất
sâu tới lớp nước ngầm tạo thành dòng chảy trong đất, sau
đó dòng chảy chảy vào chỗ thấp trên mặt đất thành suối nối
liền với các dòng sông. Đây là nguồn nước quan trọng cung cấp cho đời sống và sản xuất.
Ngoài ra, trong rừng nhiệt độ thấp, độ ẩm cao, gió yếu, vì
thế lượng nước bốc hơi từ đất rừng thấp hơn nơi trống trải.
Thảm mục trong rừng có tác dụng như một lớp xốp cách
nhiệt che phủ mặt đất rừng làm giảm trọng lượng nước
bốc hơi và làm tăng độ ẩm của đất.
- Rừng đối với khí quyển
Rừng có ảnh hưởng đến sự bốc hơi nước ở môi trường
xung quanh và giữ cân bằng nồng độ oxy trong khí quyển.
Vì thế rừng có vai trò điều hòa khí hậu.
Rừng không chỉ cung cấp oxy mà còn có tác dụng lọc
không khí làm cho không khi trong loại vi khuẩn, virus gây
vì thế nhiều nơi rừng được trồng quanh các khu dân cư và khu công nghiệp...
- Rừng đối với đất
Rừng có vai trò quan trọng trong việc hình thành và bảo vệ đất. Rừng
tham gia vào sự hình thành và phát triển của đất. Đất được hình thành lại
là nguyên liệu để duy trì và phát triển rừng. Vì thế hệ thống rừng - đất có
vai trò quan trọng trong việc duy trì sự sống trên trái đất,
Đất rừng có thể tự cung cấp chất dinh dưỡng cho mình bằng cách: cây
rừng lấy các chất khoáng, nước trong đất để tồn tại và phát triển sau đó
hàng năm một lượng lớn cành, lá rừng rụng xuống đất được vi sinh vật và
nấm phân hủy và bổ sung thêm một lượng khoáng cho đất. Ngoài ra,
nước mưa khi đi qua tán rừng đã rửa một lượng khoáng chất đọng trên bề
mặt tán lá làm cho lượng khoáng hòa tan trong nước ngấm xuống đất cao
hơn nhiều lần so với nước mưa.
Không những thế rừng còn có vai trò quan trọng trong việc hạn chế xói
mòn đất nhất là xói mòn trên sườn đất dốc, vì thế lớp đất bề mặt được bảo
vệ, đồng thời chống được bồi lấp lòng sông, lòng hồ...
- Rừng là nguồn gen quý giá
Rừng là ngân hàng nguồn gen to lớn và quý giá của nhân
loại. Trong rừng có nhiều loại động thực vật quan trọng đối
với môi trường và cuộc sống của con người.
Đối với rừng ở Việt Nam, các nhà khoa học đã ước tính có
khoảng trên 10.000 loài thực vật bậc cao trong đó có
khoảng 1.000 loài cây gỗ lớn. Ngoài ra còn có trên 280 loài
và phân loài thú, trên 1.020 loài và phân loài chim, 259
loài bò sát, 82 loại lưỡng cư và hàng vạn các loài sinh vật
khác. Riêng cây làm thuốc có khoảng 1.500 loài. Đây là tài
sản quý giá mà thiên nhiên đã ưu đãi cho chúng ta.
Hiện nay bên cạnh việc phát hiện ra các loài mới thì nhiều
loại đã vĩnh viễn mất đi hoặc bị đe doạ tuyệt diệt do nạn phá rừng.
3.2.4.2. Tài nguyên rừng trên thế giới và ở Việt Nam
Trên trái đất có nhiều kiểu rùng phù hợp với các điều kiện khí hậu và đất
đai từng vùng. Chẳng hạn, vùng ôn đới có 2 loại rừng chủ yếu đó là rừng
lá kim và rừng rụng lá về mùa đông; vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới phát
triển loại rừng mưa thường xanh; vùng khí hậu khô nóng thường có rừng
cây bụi nghèo nàn. Hiện nay, diện tích rừng trên thế giới chỉ còn khoảng 29 triệu km² vuông.
Ở Việt Nam có các loại rừng chính như sau:
+ Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới: trên các vùng đồi núi cao dưới 800
m phía Bắc, trên 1000m phía Nam. Rừng xanh tốt quanh năm có nhiều
tầng cây với lứa tuổi khác nhau.
+ Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới trên núi đá vôi: (Rừng quốc gia Cúc Phương).
+ Rừng lá rộng thường xanh á nhiệt đới vùng núi cao: trên vùng núi cao trên 800m phía Bắc.
+ Rừng khộp: phân bố ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, duyên hải Nam Trung bộ.
+ Rừng cây lá kim: phân bố chủ yếu ở phía Nam nơi có độ cao 1000 m
(rừng thông trên cao nguyên Lâm Đồng)
+ Rừng tre nứa (rừng nứa ở Việt Bắc, rừng lồ ô ở miền Nam, rừng luồng
ở Thanh Hóa, rừng trúc ở Bắc Cạn, Thái Nguyên, Cao Bằng...).
Ngoài ra ở Việt Nam tùy theo mục đích sử dụng mà loại như sau: người
ta còn phân rừng thành 3 loại như sau:
+ Rừng sản xuất: loại rừng này được sử dụng với mục đích chủ yếu là để kinh doanh
gỗ, mây, tre... và các lâm sản khác như cây thuốc, nuôi các loài động vật.
+ Rừng phòng hộ: được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ
đất, chống xói mòn, hạn chế thiên tai, điều hòa khí hậu.
+ Rừng đặc dụng: là loại rừng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên
nhiên, nguồn gen sinh vật rừng quý hiếm, các hệ sinh thái quan trọng của
quốc gia. Ngoài ra rừng còn là nơi học tập, nghiên cứu, bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa...