-
Thông tin
-
Quiz
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn năm 2018-2020 | Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Tăng trưởng và phát triển kinh luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm ở mọi quốc gia trên thế giới. Với hầu hết các nước, tăng trưởng kinh tế luôn là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế, nâng cao hơn nữa đời sống người dân, giảm thất nghiệp và thực hiện nhiều mục tiêu vĩ mô khác. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Kinh tế vĩ mô 5 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn năm 2018-2020 | Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Tăng trưởng và phát triển kinh luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm ở mọi quốc gia trên thế giới. Với hầu hết các nước, tăng trưởng kinh tế luôn là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế, nâng cao hơn nữa đời sống người dân, giảm thất nghiệp và thực hiện nhiều mục tiêu vĩ mô khác. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Kinh tế vĩ mô 5 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA: KINH TẾ CHÍNH TRỊ ~~~~~~~~~~*~~~~~~~~~~ BÀI TIỂU LUẬN MÔN: KINH TẾ VĨ MÔ
ĐỀ TÀI: Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn năm 2018-2020
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: Lê Thị Thúy
SINH VIÊN THỰC HIỆN: Nguyễn Thảo Phương
LỚP: Quản lý kinh tế K39 A2 MÃ SINH VIÊN: 1955270100 Năm học 2020-2021 1 Mục Lục
Mở Đầu..................................................................................................................3
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................3
3.Phương pháp nghiên cứu....................................................................................4
4.Kết cấu của tiểu luận..........................................................................................4
Phần Nội Dung......................................................................................................5
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.......................5
Một số khái niệm cơ bản.......................................................................................5
Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế...................................................7
CHƯƠNG II TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÁC NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2018-2020
...............................................................................................................................9
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2018-2020......................................9
Những nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2018-
2020.....................................................................................................................13
CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ NHẰM TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TIẾP THEO
.............................................................................................................................17
Phần Kết Luận.....................................................................................................19 2 Mở Đầu 1. Lý do chọn đề tài
Tăng trưởng và phát triển kinh luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm ở mọi
quốc gia trên thế giới. Với hầu hết các nước, tăng trưởng kinh tế luôn là điều
kiện tiên quyết để phát triển kinh tế, nâng cao hơn nữa đời sống người dân, giảm
thất nghiệp và thực hiện nhiều mục tiêu vĩ mô khác. Đối với các nước đang phát
triển thì tăng trưởng kinh tế lại càng có ý nghĩa cấp thiết hơn vì tăng trưởng kinh
tế là điều kiện số một để gia nhập nhóm các nước phát triển tăng trưởng kinh tế
là nhân tố quyết định để đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, là điều kiện
để phát triển kinh tế, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, thực hiện
công bằng xã hội, nâng cao đời sống người dân.
Ở Việt Nam, tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn được Đảng và Nhà
nước đặc biệt quan tâm trong các Cương lĩnh và chiến lược phát triển kinh tế- xã
hội của đất nước. Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn đề cập đến vấn đề tăng
trưởng và phát triển kinh tế với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” mà điều kiện tiên quyết để thực hiện là phải phấn đấu
tăng trưởng kinh tế nhanh, mạnh và vững chắc theo hướng bền vững. Mức tăng
trưởng kinh tế Việt Nam những năm gần đây đang có dấu hiệu tích cực, đặc biêt
trong năm 2020 nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dương bất chấp đại dịch
Covid-19 kéo theo sự sụt giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu và trở thành một
trong những nước tăng trưởng cao nhất thế giới. Việc nghiên cứu về tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2018-2020, tìm ra những yếu tố tác động đến
tăng trưởng kinh tế để Việt Nam tiếp tục phát huy những ưu điểm và kịp thời
khắc phụ những hạn chế để tiếp tục có những chuyển biến tích cực trong tăng trưởng kinh tế.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu a. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực trạng tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam giai đoạn 2018-2020. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế Việt Nam b. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2018-2020 3
Thứ hai, tìm ra những nhân tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam giai đoạn 2018-2020
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm tăng trưởng kinh tế Việt
Nam trong những năm tiếp theo
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích – tổng
hợp, thống kê, phương pháp thu thập và xử lý thông tin.
4. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm: Phần mở đầu, phần nội dung gồm ba chương, phần kết
luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục. 4 Phần Nội Dung CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Một số khái niệm cơ bản
a. Định nghĩa tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về quy mô sản lượng của nền kinh tế
trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm gốc
sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng quy mô sản lượng
nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.
Dưới dạng khái quát, tăng trưởng kinh tế là thuật ngữ chỉ sự biến đổi kinh
tế theo chiều hướng tích cực. Đó là sự mở rộng quy mô về lượng kết quả đầu ra
của nền kinh tế, là sự gia tăng về mặt tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) trong một thời kỳ nhất định.
Tăng trưởng kinh tế thực chất đơn thuần là sự lớn mạnh của nền kinh tế
về mặt số lượng nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ giữ nguyên về cơ cấu và chất
lượng. Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta dùng sự chênh lệch của tổng
sản lượng nền kinh tế của thời kỳ sau so với thời kỳ trước.
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối,
tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong
một giai đoạn. Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy
mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế
kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức: y = dY/Y × 100(%)
Trong đó Y là quy mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu
quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng
trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng
GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế.
Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
b. Ý nghĩa của tăng trưởng kinh tế 5
Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển
nền kinh tế của mỗi quốc gia. Sau đây là một số ý nghĩa chính của sự tăng trưởng kinh tế:
- Tăng trưởng kinh tế sẽ tạo ra điều kiện giải quyết công ăn, việc làm và
giảm tỷ lệ thất nghiệp. Theo quy luật Okun: Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm 1% khi GDP thực tế tăng 2,5%.
- Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện để cải thiện chất lượng cuộc sống và
phúc lợi xã hội của cộng đồng. Là điều kiện tiền đề để phát triển các mặt khác của xã hội.
- Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập tăng lên và nâng cao mức sống của người dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mà tăng trưởng kinh tế mang lại còn có
những mặt trái khác như chi phí mà xã phải gánh chịu do sức tăng trưởng quá
cao. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế còn làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, ô nhiễm
môi trường và có nguy cơ phát sinh các vấn đề xã hội như gia tăng tệ nạn xã hội,
gia tăng bất bình đẳng xã hội…
c. Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế
Để giải thích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế các nhà kinh tế học dùng các mô hình kinh tế.
- Mô hình David Ricardo (1772-1823) với luận điểm cơ bản là đất đai sản
xuất nông nghiệp (R, Resources) là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Nhưng
đất sản xuất lại có giới hạn do đó người sản xuất phải mở rộng diện tích trên đất
xấu hơn để sản xuất, lợi nhuận của chủ đất thu được ngày càng giảm dẫn đến chí
phí sản xuất lương thực, thực phẩm cao, giá bán hàng hóa nông phẩm tăng, tiền
lương danh nghĩa tăng và lợi nhuận của nhà tư bản công nghiệp giảm. Mà lợi
nhuận là nguồn tích lũy để mở rộng đầu tư dẫn đến tăng trưởng. Như vậy, do
giới hạn đất nông nghiệp dẫn đến xu hướng giảm lợi nhuận của cả người sản
xuất nông nghiệp và công nghiệp và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Nhưng
thực tế mức tăng trưởng ngày càng tăng cho thấy mô hình này không giải thích
được nguồn gốc của tăng trưởng.
- Mô hình hai khu vực tăng trưởng kinh tế dựa vào sự tăng trưởng hai khu
vực nông nghiệp và công nghiệp trong đó chú trọng yếu tố chính là lao động (L
labor), yếu tố tăng năng suất do đầu tư và khoa học kỹ thuật tác động lên hai khu
vực kinh tế. Tiêu biểu cho mô hình hai khu vực là mô hình Lewis, Tân cổ điển và Harry T. Oshima.
- Mô hình Harrod-Domar nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn
(yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên. 6
- Mô hình Robert Solow (1956) với luận điểm cơ bản là việc tăng vốn sản
xuất chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng
trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt trạng thái dừng. Một nền kinh tế có mức tiết
kiệm cao hơn sẽ có mức sản lượng cao hơn không ảnh hưởng đến tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn (tăng trưởng kinh tế bằng không (0)).
- Mô hình Kaldor tăng trưởng kinh tế phụ thuộc phát triển kỹ thuật hoặc trình độ công nghệ.
- Mô hình Sung Sang Parknguồn gốc tăng trưởng là tăng cường vốn đầu tư
quốc gia cho đầu tư con người.
- Mô hình Tân cổ điển nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc vào cách thức
kết hợp hai yếu tố đầu vào vốn(K) và lao động (L).
Trước Keynes, kinh tế học cổ điển và tân cổ điển không phân biệt rành
mạch tăng trưởng kinh tế với phát triển kinh tế. Hơn nữa, ngoại trừ Schumpeter,
các trường phái trên đều không coi trọng vai trò của tiến bộ kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của kinh tế học vĩ mô Keynes tiêu biểu
là mô hình Harrod-Domar. Mô hình này dựa trên hai giả thiết căn bản: giá cả
cứng nhắc, và nền kinh tế không nhất thiết ở tình trạng toàn dụng lao động.
Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản
xuất tăng lên. Từ đó, họ suy luận ra được rằng một khi nền kinh tế đang ở trạng
thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân
bằng thì sẽ càng ngày càng không cân bằng (mất ổn định kinh tế).
Trong khi đó, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển xây dựng mô hình của
mình dựa trên hệ giả thiết mà hai giả thiết căn bản là: giá cả linh hoạt, và nền
kinh tế ở trạng thái toàn dụng lao động. Mô hình tăng trưởng kinh tế của họ cho
thấy, khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang
trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì đó chỉ là nhất thời, và nó sẽ mau
chóng trở về trạng thái cân bằng.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế trong dài hạn và
chia thành 2 nhóm chính là các yếu tố kinh tế và các yếu tố phi kinh tế. Các yếu tố kinh tế
Sau một số nghiên cứu thì các nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động
lực của phát triển kinh tế là bốn nhân tố bởi nguồn tài nguyên, nguồn nhân lực,
tư bản và trí tuệ công nghệ. 7
- Nguồn nhân lực: Chất lượng đầu vào của lao động là yếu tố rất quan trọng
của tăng trưởng kinh tế. Chất lượng lao động được đánh giá dựa trên kỹ năng,
kiến thức và kỷ luật của đội ngũ lao động. Các yếu tố như thiết bị máy móc,
nguyên vật liệu hay công nghệ chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả khi có
sự tham gia của một đội ngũ lao động có sức khỏe, trình độ và kỷ luật lao động tốt.
- Tài nguyên thiên nhiên: Đây là những yếu tố tài nguyên thiên nhiên được
sử dụng để làm yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Những tài nguyên quan
trọng nhất là đất đai, nguồn nước, khoáng sản... Các yếu tố này có một vai trò
quan trọng nhưng không phải là thiết yếu đối với nền kinh tế. Điển hình là một
số nước được thiên nhiên ưu đãi với sản lượng dầu mỏ lớn nên có mức thu nhập
đầu người rất cao như Ả Rập Xê Út...
- Vốn tư bản: Tư bản là một trong những nhân tố tạo tiền đề cho việc tối ưu
năng suất lao động và thương mại phát triển. Đó là những cơ sở vật chất, trang
thiết bị được sử dụng trong quá trình sản xuất. Yếu tố này có vai trò đặc biệt
quan trọng trong sự phát triển dài hạn. Những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tư bản
tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng bền vững. Tư bản không chỉ
là do tư nhân đầu tư cho sản xuất, nó còn là tư bản cố định xã hội tạo tiền đề cho
sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Tư bản cố định xã hội thường là những
dự án có quy mô lớn do chính phủ thực hiện. Ví dụ như các dự án thủy lợi, sức
khỏe cộng đồng, dự án hạ tầng của sản xuất (hệ thống giao thông, mạng lưới điện quốc gia...) ...
- Tri thức công nghệ: Trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế
không chỉ là sự sao chép đơn giản mà là một quá trình không ngừng thay đổi về
công nghệ sản xuất. Tri thức công nghệ là yếu tố giúp tăng hiệu quả sản xuất và
tạo ra sản lượng cao với mức chi phí tối ưu hơn. Công nghệ đang ngày càng phát
triển mạnh mẽ. Đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công
nghệ sinh học... đang có những bước tiến mạnh mẽ góp phần gia tăng hiệu quả
của sản xuất. Trí tuệ công nghệ không chỉ thể hiện đơn thuần ở việc tìm tòi,
nghiên cứu và ứng dụng công nghệ. Nó còn là sự duy trì cơ chế cho phép những
phát minh được bảo vệ và trả tiền một cách xứng đáng. Yếu tố phi kinh tế:
Bên cạnh những yếu tố về kinh tế thì tăng trưởng kinh tế còn bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố phi kinh tế như: Thể chế chính trị, Văn hóa - xã hội, Dân
tộc, Tôn giáo, Các quy định của pháp luật và khung phổ pháp lý... 8 CHƯƠNG II
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÁC NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2018-2020
1. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2018-2020
a. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 2018
Năm 2018, quy mô nền kinh tế Việt Nam tiếp tục mở rộng với tốc độ tăng
trưởng GDP đạt 7,08%, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra (6,7%), là mức tăng cao
nhất kể từ năm 2011. Với mức tăng trưởng kinh tế đạt 7,08% trong năm 2018
cho thấy, hình thái chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam tiếp tục đúng hướng và
không có biến động mạnh. Tăng trưởng kinh tế dần chuyển dịch theo chiều sâu,
tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp trong tăng trưởng GDP năm
2018 đạt 43,5% (bình quân giai đoạn 2016-2018 đạt 43,3%), cao hơn nhiều so
với mức bình quân 33,6% của giai đoạn 2011-2015. Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội
thực hiện/GDP năm 2018 đạt 33,5%, đảm bảo mục tiêu Quốc hội đề ra từ 33- 34%.
Năm 2018, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 14,57%
GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34,28%; khu vực dịch vụ chiếm
41,17%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,98%. Cụ thể, sự chuyển
biến mạnh mẽ trong cơ cấu kinh tế là điểm nhấn tích cực trong năm 2018, đóng
góp 0,65 điểm phần trăm vào giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế (nông
nghiệp và thủy sản lần lượt đóng góp 0,37 và 0,23 điểm phần trăm), qua đó, góp
phần tăng năng suất lao động và rút ngắn khoảng cách năng suất với khu vực
công nghiệp. Các yếu tố chính tạo nên sự tăng trưởng này là nhờ vào hiệu ứng từ
sự chuyển dịch cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng,
ứng dụng khoa học công nghệ và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Ở khu vực công nghiệp, động lực tăng trưởng chính là ngành Chế biến,
chế tạo tiếp tục trở thành điểm sáng với mức tăng trưởng 12,9%, đóng góp 2,55
điểm phần trăm vào tốc độ tăng trưởng GDP cả nước.
Năm 2018, thặng dư thương mại của Việt Nam đạt 7,2 tỷ USD, điều này
cho thấy, năng lực tận dụng cơ hội từ hội nhập khá tốt và góp phần đưa xuất
khẩu trở thành động lực quan trọng trong tăng trưởng GDP. Cụ thể, tổng kim
ngạch xuất, nhập khẩu cao gấp gần 2 lần GDP cả nước, trong đó, kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa ước đạt 244,7 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm 2017. Xuất khẩu
của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) (kể cả dầu thô) đạt 175,5
tỷ USD, chiếm 71,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 14% so với năm 2017. 9
Cơ cấu mặt hàng và thị trường xuất khẩu về cơ bản không có nhiều thay
đổi. Tuy nhiên, sự tăng trưởng cao về kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng chế
biến, chế tạo thuộc nhóm công nghệ như: Điện thoại và linh kiện (46,1 tỷ USD),
điện tử, máy tính và linh kiện (27 tỷ USD), máy móc thiết bị phụ tùng (15,1 tỷ
USD) cũng như tăng trưởng xuất khẩu cao của một số hàng nông sản truyền
thống là tín hiệu tốt, khả năng cạnh tranh xuất khẩu tiếp tục được giữ vững và
không còn phụ thuộc vào xuất khẩu tài nguyên, nhất là dầu thô (chỉ đạt 2,1 tỷ
USD). Trong năm 2018, các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam vẫn là Hoa
Kỳ (43,7 tỷ USD), Liên minh châu Âu - EU (38,2 tỷ USD), Trung Quốc (38,1 tỷ
USD), ASEAN (22,3 tỷ USD), Nhật Bản (17,1 tỷ USD) và Hàn Quốc (16,9 tỷ
USD). Việt Nam tiếp tục nhập siêu từ các nước trong khu vực Đông Á và duy trì
xuất siêu đối với thị trường Hoa Kỳ và EU.
Tăng trưởng các ngành đã góp phần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao
động, trong đó lao động khu vực nông lâm, thủy sản giảm còn 38,5%, tỷ trọng
lao động khu vực công nghiệp - xây dựng đạt 26% và khu vực dịch vụ là 35,3%.
Tỷ lệ thất nghiệp còn 2,2%, giảm nhẹ so với năm 2017, khu vực thành thị tỷ lệ
này là 3,09%, khu vực nông thôn là 1,75%.
b. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2019
GDP năm 2019 đạt kết quả ấn tượng với tốc độ tăng 7,02% vượt mục tiêu
của Quốc hội đề ra từ 6,6%-6,8% (Quý I tăng 6,82%, quý II tăng 6,73%; quý III
tăng 7,48%; quý IV tăng 6,97%). Đây là năm thứ hai liên tiếp tăng trưởng kinh
tế Việt Nam đạt trên 7% kể từ năm 2011.
Theo Tổng cục Thống kê, trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới tiếp tục
tăng trưởng chậm lại, căng thẳng thương mại giữa Mỹ - Trung và vấn đề địa
chính trị càng làm gia tăng đáng kể tính bất ổn của hệ thống thương mại toàn
cầu, gây ảnh hưởng không nhỏ tới niềm tin kinh doanh, quyết định đầu tư và
thương mại toàn cầu. Kết quả tăng trưởng GDP năm 2019 đạt 7,02% khẳng
định tính kịp thời và hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ; sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương trong thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để đạt và vượt mục tiêu tăng trưởng
năm 2019. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản tăng 2,01%, đóng góp 4,6% vào mức tăng chung; khu vực
công nghiệp và xây dựng tăng 8,90%, đóng góp 50,4%; khu vực dịch vụ tăng
7,3%, đóng góp 45%. Động lực chính của tăng trưởng kinh tế năm nay là tiếp
tục là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (tăng 11,29%) và các ngành dịch vụ
thị trường (ngành vận tải, kho bãi tăng 9,12%; bán buôn và bán lẻ tăng 8,82%;
hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,62%). 10
Về cơ cấu kinh tế năm 2019, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm
tỷ trọng 13,96% GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34,49%; khu
vực dịch vụ chiếm 41,64%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,91%
(Cơ cấu tương ứng của năm 2018 là: 14,68%; 34,23%; 41,12%; 9,97%).
Trên góc độ sử dụng GDP năm 2019, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,23% so
với năm 2018; tích lũy tài sản tăng 7,91%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng
6,71%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 8,35%.
Về chất lượng tăng trưởng kinh tế, năm 2019 đóng góp của năng suất các
nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP đạt 46,11%, bình quân giai đoạn
2016 - 2019 đạt 44,46%, cao hơn nhiều so với mức bình quân 33,58% của giai
đoạn 2011-2015. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành
năm 2019 ước tính đạt 110,4 triệu đồng/lao động (tương đương 4.791 USD/lao
động, tăng 272 USD so với năm 2018); theo giá so sánh, năng suất lao động
tăng 6,2% do lực lượng lao động được bổ sung và số lao động có việc làm năm
2019 tăng cao. Hiệu quả đầu tư được cải thiện với nhiều năng lực sản xuất mới
bổ sung cho nền kinh tế. Chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (Hệ số ICOR) giảm
từ mức 6,42 năm 2016 xuống 6,11 năm 2017; 5,97 năm 2018; năm 2019 ước
tính đạt 6,07. Bình quân giai đoạn 2016-2019 hệ số ICOR đạt 6,14, thấp hơn so
với hệ số 6,25 của giai đoạn 2011-2015.
Cũng theo Tổng cục Thống kê, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay cơ
bản ổn định; thị trường chứng khoán tăng trưởng tích cực, đóng góp quan trọng
vào huy động vốn phát triển kinh tế.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2019 đạt mức tăng 10,2% so với
năm 2018, trong đó vốn khu vực kinh tế ngoài Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng vốn đầu tư, khẳng định rõ chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế
tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế
Thu ngân sách Nhà nước năm 2019 (tính đến ngày 15/12) đã đạt dự toán
năm, trong đó nhiều khoản thu đạt trên 90% và vượt mức dự toán. Chi ngân sách
năm 2019 đáp ứng các nhiệm vụ đầu tư phát triển, chi trả nợ, bảo đảm quốc
phòng, an ninh và hoạt động của bộ máy Nhà nước.
c. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2020
Trong tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến nền kinh tế
toàn thế giới, Việt Nam thuộc nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới với
mức tăng GDP 2,91%. Tuy nhiên, với mức tăng GDP 2,91% trong năm 2020 là
mức tăng trưởng thấp nhất của thập kỷ 2011-2020.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng một số cây lâu
năm, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu và sản lượng tôm năm 2020 tăng khá đã đưa 11
tốc độ tăng của khu vực này đạt 2,68%, cao hơn năm 2019 (2,01%). Đối mặt với
tình hình dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi, biến đổi khí hậu, thẻ vàng EC
trong khai thác thủy sản chưa được gỡ bỏ, đặc biệt là dịch Covid-19 nhưng khu
vực này đã gặt hái được kết quả tăng trưởng khả quan với nỗ lực vượt bậc thông
qua các giải pháp chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ. Trong đó, ngành nông
nghiệp tăng 2,55%; ngành lâm nghiệp tăng 2,82% và ngành thủy sản tăng 3,08%
(tốc độ tăng tương ứng của các ngành trong năm 2019 là 0,61%; 4,98% và
6,30%). Đặc biệt, kết quả xuất khẩu nông sản tăng mạnh trong bối cảnh khó
khăn do dịch Covid-19, kim ngạch xuất khẩu gạo lần đầu tiên đạt hơn 3 tỷ USD,
tăng 9,3% so với năm 2019; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 12.323,3 tỷ USD, tăng
15,7%. Trái ngược với ngành lâm sản, bức tranh xuất khẩu thủy sản lại ảm đạm
hơn khi kim ngạch xuất khẩu năm 2020 chỉ đạt 8,4 tỷ USD, giảm 1,8% so với năm trước.
Trong tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu vực công nghiệp và
xây dựng đạt tốc độ tăng cao nhất với 3,98%, đóng góp 1,62 điểm phần trăm vào
mức tăng chung. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò chủ
chốt dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 5,82%, đóng góp 1,25
điểm phần trăm. Chỉ số sản xuất công nghiệp của một số ngành như sản xuất
thuốc, hóa dược và dược liệu; sản xuất kim loại; sản xuất than cốc, sản phẩm
dầu mỏ tinh chế; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang
học… tăng khá với tốc độ tăng tương ứng là 27,1%; 14,4%; 11,4% và 11,3%,
góp phần đưa ngành chế biến, chế tạo tăng trưởng khả quan trong bối cảnh dịch
Covid-19 làm đứt gãy chuỗi cung ứng nguyên liệu sản xuất đầu vào.
Đối với khu vực dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
tiêu dùng giảm 1,2% trong 6 tháng đầu năm 2020 so với cùng kỳ năm trước,
nhưng sau đó đã phục hồi rõ rệt với tốc độ tăng 6 tháng cuối năm đạt 6,2%, đưa
lĩnh vực thương mại trong nước cả năm tăng 2,6%. Tốc độ tăng trưởng của một
số ngành dịch vụ thị trường như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 5,53% so với năm
trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo
hiểm tăng 6,87%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm
1,88%, làm giảm 0,06 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm
14,68%, làm giảm 0,62 điểm phần trăm.
Một điểm sáng trong bức tranh kinh tế năm 2020 không thể không nhắc
đến đó là xuất khẩu vượt khó trong tình hình dịch bệnh, duy trì tăng trưởng
dương; xuất siêu hàng hóa đạt mức cao kỷ lục (19,1 tỷ USD) và cán cân thương
mại duy trì xuất siêu 5 năm liên tiếp (Kim ngạch xuất siêu hàng hóa các năm
trong giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: 1,6 tỷ USD; 1,9 tỷ USD; 6,5 tỷ USD; 12
10,9 tỷ USD; 19,1 tỷ USD). Việc ký kết các Hiệp định thương mại tự do đã
mang lại những tín hiệu tích cực cho nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là Hiệp định
Thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA). Năm 2020, xuất khẩu sang
EU đạt 34,8 tỷ USD; đáng chú ý, sau 5 tháng được thực thi (từ 01/8/2020), tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt 15,4 tỷ USD, tăng 1,6% so với
cùng kỳ năm trước. Điều này phản ánh năng lực sản xuất trong nước tăng trưởng
cao, môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh được tạo thuận lợi và quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu. Đây là kết
quả đáng khích lệ trong bối cảnh kinh tế khu vực EU suy giảm nghiêm trọng và
tiếp tục đối mặt với dịch Covid-19 diễn biến phức tạp.
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2018-2020
a. Các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2018- 2020
+ Hạ tầng cứng và hạ tầng mềm: Các quốc gia có nền kinh tế đang phát
triển như Việt Nam thường chưa kết nối hoàn chỉnh “hệ thống hạ tầng cứng”,
như đường sá, cầu cống, hải cảng, sân bay một số nhà đầu tư vẫn e ngại đối với
tốc độ xây dựng hạ tầng giao thông tại Việt Nam. Bù lại, Việt Nam đang áp dụng
công nghệ không dây nhanh hơn nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển. Bài
học nhiều nước cho thấy họ có thể tăng trưởng nhanh nhờ xuất hiện của “nền
kinh tế số” không dây, không tiền mặt. Các công ty internet mới cũng đang tăng
lên nhanh tại Việt Nam. Với kiến thức về thị hiếu và đa ngôn ngữ, họ đang mở
rộng khả năng tiếp cận với nhiều loại dịch vụ như ngân hàng và hoạt động văn
phòng, giúp các công ty khởi nghiệp dễ dàng tiến hành. Trung bình, doanh thu
từ kỹ thuật số đang tăng và chi phí khởi nghiệp giảm tại các nước có nền kinh tế
mới nổi so với các nước có nền kinh tế phát triển. Đây là cơ sở ha tầng mềm cho
kinh tế số Việt Nam đột phá vào tương lai. Ở một khía cạnh khác, sự vắng mặt
của du khách nước ngoài đã giáng một đòn mạnh vào ngành du lịch. Tuy nhiên,
nền kinh tế Việt Nam ít bị ảnh hưởng hơn so với các nước phụ thuộc vào du lịch
khác trong khu vực như Thái Lan, nơi IMF ước tính nền kinh tế sụt giảm tới 7,1% trong năm 2020.
+ Kinh tế số: Các chuyên gia kinh tế nhận định: những biến đổi của đại
dịch đang cung cấp khả năng tiếp thêm sinh lực cho ít nhất một số nền kinh tế
mới nổi. Những chuyển đổi đó bao gồm một cuộc cách mạng kỹ thuật số đang
tăng tốc, các Báo cáo mới đây của Google và công ty đầu tư Singapore Temasek
đã mô tả nền kinh tế kỹ thuật số của Việt Nam - vốn đang tăng trưởng hơn 40% 13
mỗi năm - là "một con rồng đang được tháo dây". Điều rõ ràng là công nghệ
đang định hình lại cách mà người Việt Nam kinh doanh, sản xuất hàng hóa, giải
trí, mua sắm, tổ chức tài chính và giao tiếp. Tuy nhiên, công nghệ kỹ thuật số
khó có thể tạo ra tăng trưởng hai con số vì tác động của nó phần lớn chỉ giới hạn
trong nước, do vậy nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam vẫn phải đẩy mạnh xuất khẩu.
+ Cải cách thể chế phù hợp: Một bước phát triển lớn khác là cải cách thể
chế. Chỉ có cải cách thể chế liên tục chúng ta mới đạt được tăng trưởng 2,9%
trong đại dịch và kỳ vọng tăng 6,5% vào năm 2021. Thiếu vốn, các nước đang
phát triển như Việt Nam đang thúc đẩy cải cách thể chế, với hi vọng sẽ thu hút
đầu tư, thúc đẩy năng suất và thúc đẩy tăng trưởng. Nhìn ra chung quanh, hầu
hết các nước đều đẩy mạnh cải cách thể chế theo hướng dễ dàng hơn, thuận lợi
hơn. Ấn Độ đang nới lỏng luật lao động và các quy tắc đã bảo vệ nông dân khỏi
các lực lượng thị trường trong nhiều thập kỷ. Indonesia đang cắt giảm thuế và
cắt giảm các khoản đầu tư và việc làm. Brazil đang thúc đẩy kế hoạch cắt giảm
quy mô hệ thống lương hưu. Arab Saudi đang đại tu các quy tắc nhập cư để mở
cửa cạnh tranh trên thị trường lao động. Các chiến dịch tương tự đang được tiến
hành ở Ai Cập, các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và các quốc gia khác.
+Không chủ quan với lạm phát: Ngày 31/3, Forbes đã nhận định, Việt
Nam chiến thắng trong những diễn biến mới trên toàn cầu và “tỏa sáng trong bối
cảnh hỗn loạn COVID-19”, cho thấy “Hà Nội có một mùa xuân nhất định trong
bước đi của mình”. Tuy nhiên, tờ báo này viết, trong khi phần lớn thế giới phải
vật lộn để tránh các cuộc suy thoái liên quan đến COVID-19, Việt Nam được dự
báo phải đối mặt với một tình thế khó xử hoàn toàn khác: quá nóng. Về vấn đề
này, chuyên gia kinh tế Trương Văn Phước cho rằng Việt Nam không “nhập
khẩu lạm phát”. “Mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới hiện
nay là kiểm soát được dịch bệnh và phục hồi kinh tế chứ không phải vấn đề lạm
phát”, ông Phước nói khi trả lời phỏng vấn báo chí. Rõ ràng, Việt Nam đã có
kịch bản cho tình huống “phản ứng phụ không mong muốn” của lạm phát.
Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần nhấn mạnh, Chính phủ kiên định mục tiêu ổn
định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, tạo môi trường
thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong chỉ
đạo điều hành. Thật ra, trong khi nhìn ra để học bài học của các nước, chúng ta
đồng thời nhìn lại để tự học bài học của chính mình trong những năm qua. Khi
đưa cải cách thể chế vào hạng mục ưu tiên trong nghị trình chính sách, chúng ta
đang rút kinh nghiệm hay học bài học của chính mình – như Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng thường nói: “Luôn khiêm tốn học hỏi”. Việc Chính phủ thúc 14
đẩy, khuyến khích các địa phương thi đua, cạnh tranh nhau để phát triển địa
phương là một cách làm tốt.
b. Các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2018-2020
Thứ nhất, về dài hạn, nền kinh tế vẫn thiếu hụt các động lực tăng trưởng
chính trong khi áp lực lạm phát tăng lên, hạn chế dư địa nới lỏng chính sách tiền
tệ để thúc đẩy tăng trưởng.
Thứ hai, chiến tranh thương mại cùng xu hướng bảo hộ thương mại và
hàng rào phi thuế quan ngày càng gia tăng. Nhằm đảm bảo sự tăng trưởng của
thị trường nội địa, nhiều quốc gia đang ngày càng có xu hướng bảo hộ thương
mại và áp đặt nhiều hàng rào phi thuế quan đối với hàng hóa Việt Nam, gây ảnh
hưởng tiêu cực tới tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam nói riêng và hoạt
động sản xuất nói chung.
Thứ ba, giá các tài sản tài chính thế giới đã tăng quá cao (cao hơn cả thời
điểm xảy ra khủng hoảng tài chính 2008-2010), gây quan ngại về tình trạng
"bong bóng tài chính" đang âm thầm diễn ra, đặt tình hình tài chính toàn cầu trước nguy cơ mô ¥
t cuộc khủng hoảng tài chính tiếp theo, đặc biệt là những vấn
đề tài chính đang tích lũy trong nội tại nền kinh tế Trung quốc (khi mà giá bất
động sản đang được đẩy lên cao, trong khi tình trạng dư thừa rất rõ ràng,...).
Thứ tư, tác động bất lợi từ kinh tế thế giới. Do tính bất định và khó lường
trong môi trường kinh tế thế giới, Việt Nam sẽ chịu tác động lớn bởi những cú
sốc từ bên ngoài, trong khi khả năng kháng chịu và thích ứng còn chưa cao. Khi
gặp khó khăn trong việc xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ, hàng hóa Trung Quốc sẽ
tìm đến các thị trường khác, gia tăng sức ép cạnh tranh với hàng hóa Việt Nam.
Đặc biệt là, quá trình điều chỉnh lại chính sách tiền tệ của Mỹ và EU trong thời
gian tới, kéo theo sự mất giá của các đồng tiền và giá cả gia tăng ở hầu hết các
nước đang phát triển, cùng với sự bất ổn của giá dầu thế giới, cũng sẽ tạo áp lực
lên Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định lãi suất và giá
trị VND, trong bối cảnh dư địa chính sách tiền tệ đã bị thu hẹp.
Thứ năm, môi trường đầu tư và năng lực cạnh tranh của Việt Nam mặc dù
đã được cải thiện nhưng hiện vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu
tư nước ngoài: thủ tục hành chính rườm rà, hạ tầng chưa được cải thiện nhiều và
công nghiệp phụ trợ yếu kém, nhiều chính sách vẫn đang trong quá trình hoàn
thiện, trong khi yêu cầu về chất lượng các dự án FDI ngày càng cao (về công
nghệ, giá trị gia tăng cao, đạt tiêu chuẩn về môi trường,...) khiến các nhà đầu tư
vẫn dè dặt về môi trường hoạt động lâu dài, sức hấp dẫn của môi trường đầu tư giảm sút. 15
Thứ sáu, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 ảnh hưởng đến toàn bộ nền
kinh tế Việt Nam, đặc biệt là ngành dịch vụ và du lịch. Những đợt cách li khiến
nông sản không thể xuất khẩu, các cơ sở dịch vụ, buôn bán phải đóng cửa nhiều
ngày liền, việc di chuyển, đi lại đều gặp khó khăn khiến nền kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. 16 CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ NHẰM TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT
NAM TRONG NHỮNG NĂM TIẾP THEO
1. Định vị Việt Nam là một điểm đến quốc tế ưu việt
Trước COVID-19, Việt Nam đã là điểm đến hấp dẫn cho ngành sản xuất
gia công và du lịch. Ngay cả khi Việt Nam phải chiến đấu với chủng vi rút mới,
tổng số ca bệnh và số ca tử vong được ghi nhận ở mức thấp đã chứng minh năng
lực hệ thống của quốc gia này trong truy dấu và quản lý ổ dịch một cách hiệu
quả. Điều này tạo ra cho Việt Nam một định vị tốt khi du lịch quốc tế hoạt động
trở lại. Khi đó, Việt Nam có thể chú trọng các hoạt động quảng bá du lịch tại
châu Á, nơi có những du khách sớm nhất khi các quốc gia mở cửa biên giới.
Đồng thời, các đơn vị vận hành khách sạn và du lịch sẽ cần tận dụng cơ hội này
để đa dạng hóa cả sản phẩm du lịch và phân khúc thị trường. Có thể đẩy mạnh
du lịch nội địa để thử nghiệm các dịch vụ mới, nhưng cần giảm giá do sức chi
tiêu nội địa tương đối thấp hơn. Tái thu hút và tăng tốc đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) trong lĩnh vực sản xuất cũng rất quan trọng để thúc đẩy con đường
tăng trưởng lên mức cao hơn của Việt Nam. Trong phần trước, chúng tôi đã thảo
luận về vị thế thuận lợi của Việt Nam trong việc tiếp tục thu hút dòng vốn FDI,
đặc biệt khi các nhà sản xuất tìm cách tăng cường và đa dạng hóa chuỗi cung
ứng để đối phó với những yếu kém do đại dịch gây ra.
2. Đầu tư vào giáo dục và cơ sở hạ tầng để nâng cao năng suất
Để duy trì tăng trưởng lâu dài hơn, cũng có thể xem xét một số thay đổi
cơ cấu. Ba điều kiện hỗ trợ cần thiết là giáo dục, năng suất lực lượng lao động
và cơ sở hạ tầng.. Các sáng kiến giáo dục tập trung vào phát triển các kỹ năng
nhận thức, hành vi và thực hành, cũng như đẩy mạnh phát triển các trường dạy
nghề. Đầu tư cho giáo dục trong phạm vi các sáng kiến tăng năng suất có thể
nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động vốn dĩ bị tụt hậu so với các quốc gia
ngang hàng trong khu vực và không mấy cải thiện mặc dù tăng trưởng kinh tế
tích cực và vẫn duy trì chi phí lao động cạnh tranh. Lực lượng lao động có trình
độ cao hơn có thể là yếu tố hấp dẫn đối với các nhà sản xuất đang muốn khám
phá các công nghệ của nền Công nghiệp 4.0, giúp đất nước vươn lên trong chuỗi
giá trị, tiến sang các lĩnh vực có năng suất và thu nhập cao hơn. 3.
Tiếp tục tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ và khu vực phi chính thức
Ngoài sản xuất và du lịch, Việt Nam có thể tập trung tăng cường khả năng
cạnh tranh của các lĩnh vực chiến lược khác trong nước— bao gồm các doanh 17
nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) và các công ty
khởi nghiệp — để tăng khả năng phục hồi của quốc gia. Các DNVVN và khu
vực phi chính thức cùng nhau tạo thành nguồn cầu nội địa quan trọng và cần
được tiếp tục hỗ trợ, đặc biệt là trong ngắn hạn khi tốc độ tăng trưởng và thu
nhập vẫn suy giảm. Có thể ưu tiên triển khai tài chính toàn diện và củng cố hệ
thống ngân hàng với trọng tâm tăng số lượng ngân hàng tuân thủ Basel. Việt
Nam cũng không thể bỏ qua một cỗ máy tăng trưởng lớn nhưng chưa phát huy
hết hiệu quả - các DNNN, hiện chiếm 1/3 GDP nhưng tăng trưởng chậm hơn
nhiều so với các doanh nghiệp khác. Mặc dù Việt Nam đã giảm hơn 90% số
lượng DNNN kể từ năm 2001, nhưng vẫn còn cách xa đích đến vì khu vực kinh
tế này vẫn chưa tinh gọn hơn (Hình 3). Các chương trình cổ phần hóa, thoái vốn
đảm bảo sự bền vững và đổi mới có mục tiêu được coi là nhằm gia tăng năng lực
cạnh tranh của các DNNN trên sân nhà và thậm chí vươn xa hơn nữa ra toàn
cầu. Ngoài ra, còn một tiềm năng đáng kể chưa được khai phá trong hệ sinh thái
khởi nghiệp của Việt Nam. Năm 2019, các công ty khởi nghiệp Việt Nam nhận
được 741 triệu USD đầu tư, so với 2,38 tỷ USD của Indonesia. Vì vậy, không có
gì ngạc nhiên khi Việt Nam chỉ tạo ra 1 kỳ lân so với 6 kỳ lân của Indonesia. Nỗ
lực cho một hệ sinh thái bài bản hơn có thể loại bỏ các hạn chế về mặt cơ cấu
đối với hoạt động kinh doanh tư nhân, cung cấp nguồn tài chính cho các dự án
có tiềm năng lớn và cơ cấu ươm mầm hiệu quả cho các loại hình kinh doanh tăng trưởng cao. 4.
Khám phá các nguồn năng lượng tái tạo để giảm khí thải carbon trong phát triển
Là một động lực thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu về các nguồn năng lượng mới
và một quốc gia có khả năng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu, Việt
Nam có thể đẩy nhanh hành trình tiến tới một tương lai giảm lượng phát thải khí
các-bon. Một kế hoạch quốc gia mới sẽ tạo động lực lớn cho bước chuyển đổi
này. Theo đề xuất mới nhất, dự kiến than đá sẽ chiếm 37% sản lượng năng
lượng tạo ra đến năm 2025 thay vì tỷ lệ bằng một nửa như kế hoạch trước đây.
Năng lượng tái tạo sẽ chiếm khoảng 25%, thay vì 13% theo đề xuất cũ. Đề xuất
mới này thể hiện sự thu hẹp đáng kể các kế hoạch phát triển các nhà máy than,
vốn đang chịu nhiều áp lực và đối mặt với những thách thức về tài chính trong
những năm gần đây. Việt Nam có thể xem xét cơ hội khuyến khích vốn đầu tư
mới vào năng lượng tái tạo thông qua các chính sách ưu đãi mạnh mẽ và tiến
hành đánh giá chi tiết năng lực lưới điện cho các dự án sản xuất điện mới, để
hiểu chính xác quốc gia này cần có những gì để tích hợp các loại năng lượng tái tạo. 18 Phần Kết Luận
Tăng trưởng kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia.
Nó là điều kiện cần thiết đầu tiên để khắc phục tình trạng đói nghèo, lạc hậu; để
cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân cư như tăng tuổi thọ, giảm
suy dinh dưỡng, giảm bệnh tật, phát triển giáo dục, văn hóa, thể thao. Việt Nam
trong giai đoạn 2018-2020 đã có những chuyển biến tích cực trong sự tăng
trưởng kinh tế. Năm 2020 trong khi thế giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đại
dịch Covid-19, Việt Nam vẫn giữ được mức tăng trưởng dương và trở thành một
trong những nước có mức tăng trưởng cao nhất thế giới. Từ đó Việt Nam đã
vượt mặt Singapore và Malaysia trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á.
Để đạt được sự tăng trưởng kinh tế tốt nhất là đề đạt được sự tăng trưởng
ở mức cao thì cần có sự phối hợp đồng bộ giữa điều hành vĩ mô và điều khiển
vi mô, kết hợp nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, vận dụng các quy luật
kinh tế và sử dụng các công cụ đòn bẩy như thuế, tiền tệ, lãi suất, việc
làm,... Tăng trưởng kinh tế là vấn đề cực kỳ quan trọng, liên quan đến sự thịnh
suy của một quốc gia.Trong những năm tiếp theo, Việt Nam không được “ ngủ
quên trên chiến thắng” mà phải tiếp tục lấy sự tăng trưởng này làm tiền đề cho
sự tiếp tục phát triển, phát huy những lợi thế, giữ vững vị trí trên trường quốc tế. 19
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình các nguyên lý kinh tế Học viện Báo chí và Tuyên truyền Báo Nhân dân
Tạp chí điện tử VnEconomy
Tạp chí đầu tư tài chính
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam 20