Tham khảo tài liệu Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tham khảo tài liệu Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học(KH)
Trường: Đại học Văn Lang
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
NỘI DUNG : Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào đổi mới về kinh tế, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đường lối xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Quan điểm này đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng, đồng thời cũng là
kết quả tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại
hội lần thứ VII (6-1991) đã xác định nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một trong
sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được bổ sung,
phát triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn kiện của Đảng sau này. Hội nghị lần thứ tư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ: "Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn
dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc". Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra nghị quyết riêng về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
tiếp tục khẳng định: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội"1.
Tháng 7-2004, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ra Kết luận Về tiếp
tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm sắp tới. Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng
định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm
sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”2.
Nhận thức toàn diện và sâu sắc về phương hướng, đặc trưng, nhiệm vụ và giải pháp để xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những
yêu cầu cấp thiết để tạo nên sự thống nhất và đồng thuận xã hội, tạo động lực cho việc triển khai
các nghị quyết của Đảng về lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Đồng thời, đây cũng
là cơ sở để chúng ta kế thừa những quan điểm và thành tựu lý luận này để xây dựng và phát
triển văn hoá Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.
I- ĐẶC TRƯNG CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM
TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
1. Phương hướng xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa
Khái niệm văn hóa thường được tiếp cận ở hai cấp độ lý luận và thực tiễn. Ở cấp độ lý luận, văn
hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người (cá nhân và cộng đồng) sáng tạo
ra để phục vụ sự tồn tại và phát triển của xã hội. Bản chất của văn hóa là sự sáng tạo, vươn tới
cái Chân - Thiện - Mỹ, vươn tới các giá trị nhân văn đem lại hạnh phúc cho con người. Văn hóa
là “thiên nhiên” thứ hai do con người tạo ra để phục vụ con người. Ở cấp độ thực tiễn, văn hóa
thể hiện trong toàn bộ hoạt động sống của con người, từ hoạt động sản xuất vật chất đến hoạt
động tinh thần, phản ánh kiểu lựa chọn sáng tạo của cá nhân và cộng đồng.
Như vậy, văn hóa vừa là sản phẩm sáng tạo của con người, vừa là môi trường nhân tạo để nuôi
dưỡng đời sống vật chất và tinh thần của con người. Cùng với thiên nhiên thứ nhất do tạo hóa
tạo nên, văn hóa trở thành môi trường sống của con người, văn hóa được nhìn nhận là động lực
của sự tiến bộ xã hội. Cần phải khắc phục nhận thức phiến diện về văn hóa, đồng nhất văn hóa
với một vài hoạt động thuộc lĩnh vực tinh thần và xem nhẹ vai trò, chức năng xã hội của nó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Người đã khẳng định: “Trong công
cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến và phải coi là quan trọng ngang
nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, phương hướng xây dựng và phát triển văn hoá đã được Đảng
ta xác định là: “phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập
tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa
thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể
và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên
đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”4.
Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc là những giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc Việt Nam. Những giá trị này
đã được giữ gìn, bảo lưu sáng tạo, và phát huy qua các thế hệ trở thành truyền thống văn hóa
dân tộc, là cơ sở để liên kết xã hội và liên kết các thế hệ, tạo nên sức sống bất diệt của dân tộc Việt Nam.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước
chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, tạo nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đánh bại mọi kẻ thù
cướp nước và bán nước. Ngay từ Đề cương văn hóa năm 1943, Đảng ta đã đề ra ba nguyên tắc
vận động văn hóa là dân tộc, khoa học, đại chúng để phát huy truyền thống yêu nước của dân
tộc, chống lại các xu hướng phản dân tộc, phản khoa học, phản lại nhân dân lao động. Chủ tịch
Hồ Chí Minh xác định văn hóa là một mặt trận để kháng chiến và kiến quốc. Tư tưởng văn hóa
hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa của Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành động lực thúc
đẩy cuộc kháng chiến chống xâm lược thắng lợi.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, truyền thống yêu nước và đại đoàn kết dân tộc đóng vai trò
nền tảng và là động lực để chúng ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, kế thừa và phát huy
những giá trị văn hóa tiêu biểu, truyền thống lịch sử tốt đẹp của dân tộc, bổ sung vào đó những
nội dung mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh là yêu cầu hàng đầu đối với việc xây dựng nền văn hóa hiện nay.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một yêu cầu cần thiết
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Phương
hướng phát triển này vừa giữ gìn và phát huy được bản sắc và bản lĩnh văn hóa dân tộc, vừa
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để phát triển không ngừng, đạt tới trình độ tiên tiến của các
nước trong khu vực và thế giới.
Để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cần phải tập trung
sức mạnh của toàn Đảng, của bộ máy nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội và toàn thể
các tầng lớp nhân dân, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động của cá
nhân và cộng đồng, phản ánh chất lượng và trình độ sống của xã hội, xây dựng đời sống tinh
thần cao đẹp, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đổi mới đất nước, làm cho
văn hóa thực sự trở thành môi trường nhân văn, trở thành động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
2. Đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhằm xây
dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại có sự thống nhất hữu cơ giữa tính tiên tiến và tính đậm đà
bản sắc dân tộc. Đây là kết quả của việc tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng và phát triển
nền văn hóa mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần 80 năm qua. Trong mỗi giai đoạn lịch
sử cụ thể, Đảng ta đều đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển văn hóa, phù hợp với yêu cầu
và nhiệm vụ cách mạng. Trong thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã
xác định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trình độ tiên tiến của nền văn hóa không mâu thuẫn với bản sắc văn hóa dân tộc, ngược lại, hai
đặc tính thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại và quy định lẫn nhau. Tuy nhiên, để
tìm hiểu đặc trưng của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta có thể cần làm rõ
từng nội dung “tiên tiến” và “đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nền văn hóa tiên tiến trước hết là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú,
tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hoà giữa tự nhiên với cá nhân và cộng
đồng, giữa tự nhiên với xã hội.
- Chủ nghĩa yêu nước là hệ thống quan niệm, tư tưởng, lý luận về địa vị và sự tồn tại của đất
nước, về độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, về tinh thần yêu nước và truyền thống đại đoàn
kết dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của người
dân đối với đất nước…, trong đó, lý tưởng độc lập dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Đây là chủ
nghĩa yêu nước chân chính, hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc chủ nghĩa
sôvanh nước lớn. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị cao nhất trong thang bậc giá trị của văn hóa Việt
Nam. Nó là cơ sở để liên kết cộng đồng và liên kết thế hệ tạo thành sức sống liên tục của truyền
thống văn hóa dân tộc. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam phải
được nâng lên tầm cao của thời đại và phải được bổ sung những nội dung mới gắn liền với lý
tưởng tiến bộ và cách mạng của thời đại, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, lý tưởng
độc lập dân tộc phải gắn liền với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đó là con đường phát triển vững
chắc của dân tộc, con đường đảm bảo hạnh phúc của toàn thể nhân dân. Vì vậy, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi của nền văn hóa Việt Nam hiện đại.
- Nền văn hóa tiến bộ là nền văn hóa thúc đẩy sự phát triển của đất nước dựa trên tư tưởng
cách mạng và khoa học dẫn đường. Đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nền
văn hóa tiến bộ cũng là nền văn hóa thể hiện tinh thần nhân văn và dân chủ sâu sắc.
Tính nhân văn thể hiện ở ngay trong mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa mà
Đảng ta đã đề ra. Đây là nền văn hóa hướng tới đấu tranh, giải phóng cho con người, trước hết
là nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột về phương diện giai cấp, dân tộc và xã hội; phấn
đấu để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tạo điều kiện để
nhân dân tham gia sáng tạo, hưởng thụ nhiều hơn những thành tựu văn hóa của dân tộc và
nhân loại. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Mọi hoạt động văn hóa nhằm
xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể
chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối
sống có văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố
thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát
huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”5.
Tính nhân văn của nền văn hóa mà chúng ta xây dựng không phải là sự quan tâm đến con người
một cách chung chung trừu tượng mà là sự quan tâm cụ thể, thiết thực, toàn diện và sâu sắc đối
với con người, đối với các tầng lớp xã hội và các thành phần dân cư khác nhau “nhằm mục tiêu
tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người
trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên”6.
Tính dân chủ của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là dân chủ xã hội chủ nghĩa,
gắn liền với chế độ chính trị - xã hội tiến bộ “của dân, do dân và vì dân”. Nền văn hóa này khai
thác động lực dân chủ trong nhân dân, tạo điều kiện để phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân
và cộng đồng, đề cao trách nhiệm của công dân trước nhân dân, dân tộc và thời đại. Tính chất
dân chủ của nền văn hóa thống nhất với việc đề cao ý thức công dân, đề cao trật tự kỷ cương xã
hội và thống nhất giữa quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trước pháp luật. Đồng
thời phát huy dân chủ phải gắn liền với việc nâng cao ý thức chính trị, đạo đức xã hội và trình độ
dân trí, tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng bộ máy nhà nước, chống lãng phí, tham
nhũng, quan liêu và các tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước và ngoài xã hội. Phát huy dân chủ
phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, chống tư tưởng tự do vô chính
phủ, tự do vô kỷ luật.
Nền văn hóa tiên tiến phản ánh trình độ phát triển cao mang tính hiện đại, cập nhật với thành
tựu văn hóa chung của khu vực và cộng đồng quốc tế. Bên cạnh hệ tư tưởng tiên tiến là chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các thành tố khác của nền văn hóa Việt Nam cũng
phải được hiện đại hóa. Cần phải phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, nâng
cao trình độ dân trí, khả năng chiếm lĩnh và sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nền văn hóa mới phải tập trung xây dựng những phẩm chất mới, xây dựng đạo đức, lối sống
của con người Việt Nam hiện đại ngang tầm với công cuộc đổi mới. Mặt khác, nền văn hóa
Việt Nam phải tham gia cùng cộng đồng quốc tế giải quyết những vấn đề đặt ra trong xu thế
toàn cầu hóa, khẳng định bản lĩnh và bản sắc dân tộc trong giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế.
Nền văn hóa tiên tiến thể hiện ở nội dung phản ánh, đó là toàn bộ sự nghiệp đổi mới vĩ đại của
dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến bước vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội. Nền văn hóa hướng tới đấu tranh để khẳng định cái đúng, cái tốt, cái
đẹp, phủ nhận cái xấu, cái ác, cái giả; góp phần xây dựng con người phát triển toàn diện và tạo
lập môi trường văn hóa lành mạnh cho quá trình phát triển bền vững của đất nước. Đây cũng là
nền văn hóa có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền văn hóa
dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế.
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ánh diện mạo, cốt cách, phẩm
chất và bản lĩnh riêng của mỗi quốc gia, dân tộc; là dấu hiệu cơ bản để phân biệt nền văn hóa
của dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tập trung trong truyền thống
văn hóa dân tộc. Truyền thống văn hóa là các giá trị do lịch sử truyền lại, được các thế hệ sau kế
thừa gìn giữ và phát huy trong thời đại của mình, tạo nên dòng chảy liên tục của lịch sử văn hóa.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước. “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng
đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình,
đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối
sống”7. Bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở để liên kết xã hội và liên kết các thế hệ, tạo nên sức
mạnh tinh thần của dân tộc. Vì vậy, bản sắc văn hóa dân tộc vừa được coi là “căn cước”, vừa
được coi là “bộ gien” di truyền văn hóa dân tộc. Đứng trước sự bùng nổ của cách mạng khoa
học - công nghệ và sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, các quốc gia, dân tộc,
nhất là các nước đang phát triển đều ý thức sâu sắc việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị đặc sắc và đa
dạng của văn hóa dân tộc, chống nguy cơ bị đồng hóa. Vì vậy, bảo vệ và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc trở thành yêu cầu khách quan và là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam hiện nay.
Bản sắc văn hóa dân tộc là một khái niệm “động” và “mở”, mang tính lịch sử cụ thể và vận động,
đổi mới không ngừng trên cơ sở loại bỏ những yếu tố bảo thủ và tiêu cực, tiếp thu và phát huy
những yếu tố tích cực và tiến bộ, đồng thời tạo lập các giá trị mới để đáp ứng với yêu cầu phát
triển của thời đại. Không nên đồng nhất bản sắc dân tộc với “cái cũ”, với quá khứ, với cái
“nguyên gốc” do dân tộc mình tạo ra. Bản sắc văn hóa dân tộc vừa bao hàm các giá trị do dân
tộc mình sáng tạo ra trong quá khứ và hiện tại, vừa bao hàm các giá trị tinh hoa của văn hóa
nhân loại được dân tộc tiếp nhận một cách sáng tạo, biến nó thành nguồn lực bên trong để xây
dựng và bảo vệ đất nước. Cũng không nên đồng nhất bản sắc văn hóa dân tộc với một số yếu tố
hình thức bên ngoài của nền văn hóa, mà đây là sự thống nhất giữa nội dung và hình thức, thống
nhất giữa trình độ tư duy, tinh thần độc lập tự cường, ý chí và bản lĩnh dân tộc với các hình thức
biểu hiện bên ngoài của nó. Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trước hết cần bảo vệ và
phát huy truyền thống yêu nước và đại đoàn kết dân tộc, khẳng định ý chí và bản lĩnh của con
người Việt Nam hiện đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời bảo vệ và phát huy các tài
sản văn hóa vật thể và phi vật thể, các giá trị tinh hoa của văn hóa dân tộc, xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh để làm động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới
II- NHỮNG QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CƠ BẢN
VÀ NHIỆM VỤ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã xác định các quan điểm chỉ
đạo cơ bản và những nhiệm vụ cụ thể để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Các quan điểm này được bổ sung, phát triển, thể hiện trong Văn kiện Đại hội
lần thứ IX và Hội nghị lần thứ mười khoá IX của Đảng. Đây là những tư tưởng, lý luận quan trọng
của Đảng về lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ đổi mới, cần được triển khai sâu rộng trong toàn bộ đời sống xã hội.
1. Các quan điểm chỉ đạo
Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Quan điểm này xác định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới ở nước
ta hiện nay. Mục tiêu của sự nghiệp đổi mới là phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong đó phải giải quyết hài hoà giữa sự phát triển kinh tế và
văn hóa, đảm bảo cho đất nước phát triển bền vững và lâu dài. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam
nhấn mạnh tới vai trò của việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn
hóa này vừa phải là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động kinh tế phải đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát
triển, vừa phải chú ý đến hiệu quả kinh tế, vừa phải chú ý đến hiệu quả xã hội và văn hóa. Đồng
thời, phải chú trọng khai thác văn hóa như một nguồn lực đặc biệt để phát triển kinh tế - xã hội,
nhất là phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa và du lịch văn hóa… Như vậy,
văn hóa không phải là kết quả thụ động của nền kinh tế mà là nguyên nhân, động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Quan điểm này xác định phương hướng và đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam mà chúng
ta tập trung xây dựng trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Trình độ tiên tiến của nền văn hóa phải
thống nhất với bản sắc văn hóa dân tộc và khẳng định tầm vóc, vị thế của văn hóa dân tộc
trong giao lưu và hợp tác quốc tế.
Thứ ba, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Quan điểm này nhấn mạnh đến tư tưởng nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về đảm bảo tính
thống nhất và tính đa dạng của nền văn hóa Việt Nam hiện đại. Tính thống nhất của nền văn
hóa Việt Nam thể hiện ở sự thống nhất về truyền thống yêu nước và tinh thần đại đoàn kết của
các dân tộc anh em trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thống nhất ở việc đảm bảo
sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với việc xây dựng và phát triển sự nghiệp
văn hóa; thống nhất ở ý chí và nguyện vọng chung của cộng đồng các dân tộc trong sự nghiệp
đổi mới hiện nay. Tính thống nhất là điều kiện để đảm bảo sự phát triển đa dạng của văn hóa
các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay, trên đất nước ta có 54 dân tộc với các đặc trưng
văn hóa khác nhau. Các giá trị và các đặc trưng văn hóa đó bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát
triển, làm phong phú cho nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất quốc gia.
Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội
ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Quan điểm này xác định vai trò chủ thể xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa. Mọi người dân
Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đều
có vinh dự, trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ tham gia xây dựng và phát triển nền văn hóa
nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền
tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của
Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Thứ năm, văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Quan điểm này nhấn mạnh tới phương pháp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Văn hóa là một mặt trận, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ và
các nhà hoạt động văn hóa phải là chiến sĩ trên mặt trận đó. “Mặt trận” là nơi đoàn kết thống nhất
ý chí và tình cảm của nhân dân, của đội ngũ trí thức, văn nhà hoạt động văn hóa vào thực hiện
mục tiêu chung đổi mới do của sự nghiệp Đảng đề ra. “Mặt trận nghệ sĩ” là nơi đấu tranh chống
lại cái xấu, cái ác và cái giả, khẳng định cái đúng, cái tốt và cái đẹp nhằm xây dựng môi trường
văn hóa tinh thần lành mạnh. Đồng thời, đây cũng là nơi để chống lại mưu toan phá hoại của kẻ
thù, đặc biệt là âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch quốc tế trên lĩnh vực tư
tưởng, văn hóa. Trong quá trình đó, “xây” phải đi đôi với “chống” và lấy “xây” làm trọng tâm.
Quan điểm này cũng nhấn mạnh đến tính đặc thù của việc xây dựng và phát triển văn hóa. Bảo
tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị mới tích
cực và tiến bộ, loại bỏ những yếu tố bảo thủ và lạc hậu trong nền văn hóa, làm cho các giá trị
văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành tâm lý, tập quán tiến bộ, văn minh,
nhân bản là một quá trình đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian và cần phải
có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng, tránh nóng vội, chủ quan duy ý chí. Trong thời kỳ
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cần phải nhận thức sâu sắc
rằng, sản phẩm văn hóa là một sản phẩm hàng hóa đặc biệt, hoàn toàn khác với sản phẩm hàng
hóa thông thường khác. Đây là phương tiện để biểu đạt đời sống tinh thần của mỗi dân tộc. Vì
vậy, Đảng, Nhà nước và toàn xã hội cần có giải pháp hữu hiệu để bảo vệ và phát triển nền văn
hóa của dân tộc mình, chống nguy cơ bị đồng hóa về văn hóa.
2. Những nhiệm vụ chủ yếu
Để xây dựng thành công nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta đã chỉ ra mười
nhiệm vụ cụ thể như sau:
Nhiệm vụ thứ nhất: Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
Xây dựng con người Việt Nam hiện đại đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới là nhiệm
vụ trọng tâm của quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa hiện nay. Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực
sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn
hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy
con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh
thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”8.
Xây dựng con người và các thế hệ gắn bó với sự nghiệp cách mạng là một quá trình lâu dài, khó
khăn và phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực của từng cá nhân, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng,
gắn liền với các thiết chế và thể chế văn hóa của đất nước. Vì vậy, cần phải huy động sức mạnh
tổng hợp và toàn diện của các nguồn lực văn hóa để giáo dục và xây dựng con người, bằng
nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, tạo điều kiện và cơ hội cho con người phát triển
toàn diện và cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển đất nước.
Nhiệm vụ thứ hai: Xây dựng môi trường văn hóa.
Môi trường văn hóa là môi trường chứa những giá trị văn hóa và những quan hệ văn hóa của con
người từ quá khứ đến hiện tại và hướng tới tương lai. Môi trường văn hóa là nơi đồng thời diễn ra
các hoạt động văn hóa từ hoạt động sáng tạo, sản xuất, bảo quản, lưu giữ, truyền bá, thưởng thức
và đánh giá các giá trị văn hóa. Môi trường văn hóa được hiện diện bằng sự tồn tại của các giá trị
văn hóa vật thể, các giá trị văn hóa phi vật thể, các hoạt động văn hóa cá nhân và cộng đồng trong
những mối quan hệ đa dạng và sinh động, từ hành vi của cá nhân tới gia đình, họ hàng, làng xóm
và cộng đồng xã hội cùng với sự ứng xử của họ với quá khứ, hiện tại và tương lai, với con người và tự nhiên.
Môi trường văn hóa chính là hệ sinh thái văn hóa, nuôi dưỡng đời sống tinh thần của xã hội. Xây
dựng môi trường văn hóa góp phần ổn định chính trị - xã hội, tạo bầu không khí tinh thần lành mạnh
làm tiền đề để xây dựng con người, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh. Đảng ta đã nhấn mạnh: "Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng,
bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị
bộ đội...), các vùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi...) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng
những nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân... Phát
triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa ở cơ sở; đầu tư
xây dựng một số công trình văn hoá trọng điểm tầm quốc gia. Tăng cường hoạt động của các tổ
chức văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển phong trào quần chúng hoạt động văn hóa,
nghệ thuật"9. Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa; xây dựng trường học, cơ quan,
đơn vị văn hóa; xây dựng làng bản, khối phố văn hóa là những nội dung quan trọng để xây dựng
môi trường văn hóa ở cơ sở.
Nhiệm vụ thứ ba: Phát triển sự nghiệp văn học và nghệ thuật.
Văn học, nghệ thuật là bộ phận tinh tế và nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng vươn tới
các giá trị Chân - Thiện - Mỹ của nhân dân. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp văn
học, nghệ thuật là sáng tạo những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng, nghệ thuật, thấm nhuần
tinh thần nhân văn, dân chủ sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục, bồi dưỡng tinh thần, tình cảm, nhân
cách và bản lĩnh cho các thế hệ công dân hiện nay. Khuyến khích các tìm tòi, thể nghiệm mọi
phương pháp, phong cách sáng tạo, đáp ứng mọi nhu cầu tinh thần lành mạnh của nhân dân.
Nâng cao trách nhiệm của đội ngũ nghệ sĩ trước nhân dân, dân tộc và thời đại. Đồng thời bài trừ
các khuynh hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính. Đấu tranh chống lại các khuynh hướng sáng
tác trái với đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ nghệ thuật cho
nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên, nhi đồng. Khuyến khích các hoạt động văn nghệ
quần chúng, tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng tạo, hưởng thụ các giá trị nghệ thuật cao
của dân tộc và nhân loại.
Nhiệm vụ thứ tư: Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa.
Di sản văn hóa là tài sản, của cải quý báu kết tinh sự sáng tạo lâu dài của dân tộc do lịch sử để
lại, bao gồm các di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa còn là cơ
sở để liên kết cộng đồng, là nền tảng để sáng tạo các giá trị văn hóa mới, là tiền đề để mở rộng
giao lưu văn hóa với các dân tộc khác trên thế giới. Di sản văn hóa không chỉ nhằm thoả mãn
nhu cầu tinh thần của nhân dân, góp phần khẳng định niềm tự hào dân tộc, mà còn là nguồn lực
để phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng qua hệ thống di sản
văn hóa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thế hệ trẻ hiện nay. Vì vậy, đầu tư cho việc bảo
tồn, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, nâng cao trách nhiệm của nhân dân đối với việc bảo vệ
và phát huy vai trò của di sản văn hóa dân tộc là công việc vừa cơ bản, vừa cấp bách, cần phải
được tiến hành nghiêm túc, kiên trì và thận trọng.
Nhiệm vụ thứ năm: Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Phát triển khoa học và
công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động
lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”10.
Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực, nhân tố quyết định sự phát triển đất nước
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo
dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo cần tập trung bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu
quê hương, gia đình và tinh thần tự hào dân tộc, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng khoan dung,
ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn.
Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm với
hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây
dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và các nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà quản
lý và kinh doanh giỏi. Có chính sách tốt trong việc sử dụng nhân lực và nhân tài để phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa.
Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ cũng được coi là chìa khoá cho sự phát
triển. Do đó, cần tăng cường tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý để khoa học và công nghệ thực
sự trở thành động lực phát triển đất nước. Phát huy vai trò của khoa học xã hội và nhân văn
trong việc tổng kết thực tiễn và đi sâu nghiên cứu những vấn đề lớn của đất nước, khu vực và
toàn cầu, giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế -
xã hội, phát huy nhân tố con người và văn hóa Việt Nam. Khoa học tự nhiên chú trọng việc
nghiên cứu thực tiễn, nghiên cứu cơ sở khoa học của việc phát triển công nghệ trọng điểm, khai
thác tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, dự báo phòng tránh thiên tai. Khoa học và công
nghệ tập trung nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu
quả kinh doanh, bảo vệ môi trường và an ninh quốc phòng. Coi trọng việc phát triển và ứng dụng
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá vào
trong sản xuất và dịch vụ. Mở rộng giao lưu và hợp tác khoa học giữa các địa phương, các
ngành trong nước và quốc tế. Các địa phương, các ngành cần chú trọng xây dựng các luận cứ
khoa học cho các dự án, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, có cơ chế để phát huy vai
trò dân chủ của nhân dân tham gia đóng góp vào các chương trình, dự án này. Mặt khác, cần
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn người lao động sử dụng đúng những thành tựu
khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất, tránh tình trạng lạm dụng hoặc thiếu hiểu biết khi sử
dụng những thành tựu này (thuốc trừ sâu, thuốc kích thích, các chất độc hại gây ô nhiễm môi
trường và gây độc hại cho người tiêu dùng).
Nhiệm vụ thứ sáu: Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
Các phương tiện thông tin đại chúng bao gồm sách, báo, tạp chí, các đài phát thanh và truyền
hình ở Trung ương và địa phương…, đóng vai trò to lớn trong việc tuyên truyền, phổ biến đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội tới nhân dân và
phản ánh nguyện vọng của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, góp phần to lớn vào việc xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bên cạnh phát triển
chiến lược truyền thông quốc gia, các địa phương, các ngành, các cấp ở cơ sở cần tăng cường
đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, tạo điều kiện để phát triển mạnh mạng lưới thông tin văn hóa ở
cơ sở. Phấn đấu đến năm 2010, hoàn thành cơ bản việc phổ cập các phương tiện phát thanh,
truyền hình đến mỗi gia đình. Phát triển các điểm văn hóa kết hợp với hệ thống bưu cục khắp
các xã trên phạm vi cả nước. Dùng tiếng nói dân tộc và chữ viết của các dân tộc trên các
phương tiện thông tin đại chúng ở vùng đồng bào dân tộc. Sớm phát hiện và xử lý kiên quyết đối
với việc tuyên truyền các thông tin phản động và phản văn hóa.
Nhiệm vụ thứ bảy: Bảo tồn và phát huy, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số.
Nước ta gồm có 54 dân tộc anh em từng đoàn kết, gắn bó với nhau trong quá trình xây dựng,
phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số
là một bộ phận tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa dạng và phong phú trong sự thống nhất; bổ
sung và hỗ trợ, tạo điều kiện để mỗi dân tộc phát triển bình đẳng trong cộng đồng quốc gia Việt
Nam. Vì vậy, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc không thể không
chú ý tới nhiệm vụ hết sức quan trọng là bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc
thiểu số. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Bảo tồn và phát huy các di sản
văn hóa dân tộc, các giá trị văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần phong mỹ tục của
các dân tộc; tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; khai thác các kho tàng
văn hóa cổ truyền. Tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa của nhân
loại. Đấu tranh chống sự xâm nhập của văn hóa độc hại”11.
Cần nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức và những nhà quản lý người dân tộc, khuyến khích
họ công tác tại địa phương mình. Tăng cường công tác điều tra, sưu tầm, tôn tạo, bảo vệ và phát
huy các công trình văn hóa mới, xây dựng lối sống, tác phong, phong tục và tập quán mới phục
vụ yêu cầu phát triển hiện nay, mở rộng hợp tác giao lưu, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân
tộc để cùng tiến bộ.
Nhiệm vụ thứ tám: Chính sách văn hóa đối với tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và đang tồn tại cùng dân
tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta thực hiện
nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Nghiêm cấm lợi dụng các
vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước,
kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Nội dung cốt
lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng, có giá trị định hướng để đoàn kết, gắn
bó các tôn giáo vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ở những vùng đồng bào theo các
tôn giáo khác nhau, có những đặc điểm văn hóa khác nhau, cần nêu cao tinh thần công bằng,
bác ái, hướng thiện của các tôn giáo vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống tốt đẹp của cộng
đồng. Đồng thời chăm lo phát triển kinh tế và văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa
học - công nghệ, hỗ trợ đồng bào xóa đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình
văn hóa. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của đồng bào theo các tôn giáo khác nhau với nhân
dân, với Tổ quốc và với sự nghiệp đổi mới hiện nay. Kiên quyết đấu tranh chống việc lợi dụng
tôn giáo để phá hoại sự nghiệp đổi mới.
Nhiệm vụ thứ chín: Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa.
Giao lưu, hợp tác quốc tế là một yêu cầu tất yếu để xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để thực hiện nhiệm vụ này, công tác quản lý nhà nước về văn
hóa cần chú trọng các nội dung chính sau:
- Làm tốt việc giới thiệu văn hoá đất nước và con người Việt Nam với thế giới, để nhân dân thế
giới hiểu biết, chia sẻ, đồng cảm và ủng hộ nhiều hơn nữa sự nghiệp đổi mới của Việt Nam.
- Tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học tiến bộ của nước ngoài; phổ biến những
kinh nghiệm tốt về xây dựng và phát triển văn hoá của các nước trên thế giới.
- Chú trọng giúp đỡ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn và bảo vệ văn hóa dân tộc,
hiểu biết hơn về đất nước và sự nghiệp đổi mới, tạo điều kiện để họ tham gia vào xây dựng, phát triển văn hóa dân tộc.
Mở rộng giao lưu văn hoá, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phải gắn liền với việc giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, phát triển văn hóa Việt Nam lên tầm cao mới để góp phần
đóng góp cho nền văn hóa nhân loại. Đồng thời phải nâng cao cảnh giác, chống xu hướng “lai
căng” và sự xâm nhập các loại sản phẩm phản văn hóa, đồi trụy, phản động vào đời sống tinh thần của nhân dân.
Nhiệm vụ thứ mười: Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá.
Thể chế văn hoá là hệ thống các quy định về quản lý, xây dựng và phát triển văn hoá, bao gồm:
- Hệ thống tổ chức, bộ máy cán bộ trên lĩnh vực văn hoá.
- Cơ chế hoạt động và phối hợp của các tổ chức văn hoá.
- Hệ thống chính sách văn hoá.
- Hệ thống các thiết chế văn hoá từ Trung ương đến cơ sở xã, phường.
Cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý có hiệu quả của cơ quan nhà nước ở các cấp,
phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội và của nhân dân trong việc xây dựng đời sống văn
hóa. Ở cấp cơ sở, nhiệm vụ củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá cần tập trung giải
quyết một số nội dung sau:
- Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các thiết chế hiện có.
- Thực hiện chủ trương "Nhà nước và nhân dân cùng làm" và xã hội hóa các hoạt động văn hoá.
- Xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hóa ở cơ sở như nhà văn hóa, thư viện, trạm phát
thanh, truyền hình, trạm bưu điện văn hóa, sân chơi, sân thể thao, trung tâm văn hóa giải trí cho thanh, thiếu niên...
- Thực hiện nghiêm túc các văn bản luật pháp về văn hóa, thông tin mà Nhà nước ban hành.
Củng cố nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý văn hóa ở cấp xã, phường; giải quyết tốt các chế
độ, chính sách cho hoạt động văn hóa ở cơ sở và đáp ứng tốt nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Trước mắt cần tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối
sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng và Nhà
nước, trong các đoàn thể quần chúng và gia đình. Để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm này, cần
thực hiện tốt các nội dung sau:
- Kiên quyết loại bỏ các phần tử thoái hóa, biến chất về đạo đức ra khỏi tổ chức Đảng và cơ
quan nhà nước. Nghiêm trị tội phạm. Ngăn ngừa và đẩy lùi các hoạt động phản văn hóa, các sản phẩm văn hóa độc hại.
- Xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, đẩy lùi hủ tục, tệ nạn cờ bạc, ma
tuý, mại dâm, bạo lực, gây rối trật tự công cộng.
- Cải thiện văn hóa ở những vùng đời sống còn quá khó khăn, nhất là những vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đáp ứng nhu cầu thiết yếu về văn hóa tinh thần cho nhân dân.
Những nhiệm vụ trên đây phải được tiến hành đồng bộ, thường xuyên và phải được cụ thể hoá ở
từng giai đoạn, từng địa phương. Ở đây, sự gương mẫu của đội ngũ lãnh đạo chủ chốt của
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội là điều kiện cơ bản để thực hiện thành công
những nhiệm vụ quan trọng này. 3. Các giải pháp
Để thực hiện năm quan điểm chỉ đạo và mười nhiệm vụ nêu trên, Đảng ta đã xác định bốn giải pháp lớn là:
- Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá.
- Xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hoá.
- Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá.
- Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá.
Đây là bốn giải pháp lớn có ý nghĩa vừa cơ bản, vừa cấp thiết để xây dựng và phát triển nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó giải pháp nâng cao hiệu quả lãnh đạo
của Đảng đóng vai trò quyết định.
Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (2004) đã đánh giá: Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII) có ý nghĩa chiến lược về văn hóa của cách mạng nước ta trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết là một nhân tố
quyết định để nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân ta, làm cho nền tảng tinh thần của
chế độ ta, của xã hội ta ngày càng vững chắc, tiến bộ, phong phú, góp phần giữ vững độc lập,
thống nhất, định hướng xã hội chủ nghĩa và thúc đẩy nhanh chóng quá trình phát triển đất nước.
Thông qua việc triển khai các nhiệm vụ văn hóa cụ thể, Hội nghị Trung ương 10 khoá IX nhấn
mạnh đến mục tiêu cần đạt tới là phải tạo được sự phát triển đồng bộ về chất lượng văn hóa trên các mặt:
- Bảo đảm gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là
then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự
phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát
triển toàn diện và bền vững của đất nước.
- Trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung
xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác
bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có
chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại.
- Vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hóa các dân tộc anh em, làm
phong phú nền văn hóa chung của cả nước, vừa kiên trì củng cố và nâng cao tính thống nhất
trong đa dạng của văn hóa Việt Nam, đấu tranh chống các khuynh hướng lợi dụng văn hóa để
chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
- Nghiên cứu, nắm bắt kịp thời thành tựu của văn hóa - thông tin hiện đại, huy động mọi tiềm lực
xã hội cho sự nghiệp phát triển văn hóa, chăm lo các tài năng, chủ động có kế hoạch, chính
sách, cơ chế phù hợp để tạo điều kiện cho văn hóa nước nhà phát triển vững chắc và đúng
hướng trong thời kỳ mới.
Như vậy, mục tiêu của sự phát triển văn hóa đã được nâng lên trên tầm vóc mới gắn liền với
nhiệm vụ phát triển kinh tế và xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị. Sự phát triển đồng bộ
của ba lĩnh vực này là điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Đây là nhận thức mới thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng trong quá trình thực hiện sự
nghiệp đổi mới vừa qua. Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc phải được phát triển đồng bộ so với sự phát triển kinh tế và góp phần xây dựng Đảng,
củng cố hệ thống chính trị và chế độ chính trị. Đồng thời, sự phát triển kinh tế và xây dựng Đảng
cũng phải dựa trên nền tảng văn hóa và hướng tới các giá trị văn hóa, hướng tới cái đúng, cái tốt
và cái đẹp. Đó là nền kinh tế và chính trị nhân văn phấn đấu không mệt mỏi vì sự phồn vinh của
dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân lao động, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Những nhiệm vụ trung tâm mà Hội nghị Trung ương 10 khóa IX nhấn mạnh là:
- Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa
lành mạnh trong xã hội, trước hết là các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể nhân dân và trong cá nhân, gia đình, thôn xóm, đơn vị, tổ chức cơ sở… Cần xác định đây là
nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài.
Gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng thông qua cuộc vận
động lớn về xây dựng đạo đức, lối sống theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể hóa các chuẩn mực
đạo đức, lối sống cho phù hợp với từng đối tượng cụ thể…
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam theo năm đức tính
được xác định trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII…
- Chú trọng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là cộng đồng dân cư, xây dựng môi trường văn
hóa lành mạnh, tốt đẹp, phong phú. Thường xuyên nâng cao trình độ phổ cập văn hóa đáp ứng
nhu cầu văn hóa ngày càng cao và đa dạng của nhân dân đi đôi với nhiệm vụ bồi dưỡng các tài
năng văn hóa, khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tạo được nhiều công trình văn hóa - nghệ thuật tiêu
biểu có giá trị cao về tư tưởng - nghệ thuật, tương xứng với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và công cuộc đổi mới.
Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) đã đề ra bốn giải pháp chủ yếu để thực hiện
những mục tiêu và nhiệm vụ trên. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến giải pháp hàng đầu là nâng
cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng và các cấp uỷ đảng đối với lĩnh vực
văn hóa; đảm bảo định hướng chính trị đi đôi với vận dụng đúng đắn những đặc trưng của công
tác văn hóa; chủ động xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển văn hóa từ địa phương đến
Trung ương, định kỳ làm việc với các cơ quan văn hóa, chỉ đạo các cơ quan nhà nước thể chế
hóa các chủ trương, chính sách về văn hóa; có kế hoạch chăm sóc, bồi dưỡng tài năng trong tất
cả các lĩnh vực văn hóa; tôn trọng tự do sáng tác, xây dựng quan hệ chân thành, cởi mở đối với
đội ngũ những người hoạt động văn hóa, có chính sách trọng dụng người tài, đồng thời chăm lo
định hướng chính trị và ý thức trách nhiệm công dân nhằm phát huy cao nhất sự đóng góp của
đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, những người làm báo cho sự nghiệp phát triển văn hóa. Các cấp uỷ
và tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước có kế hoạch, biện pháp đẩy mạnh việc xây dựng môi
trường văn hóa trong tổ chức đảng và trong các cơ quan nhà nước để làm gương cho xã hội và
nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ này.
Hội nghị cũng đã quyết định đầu tư cho văn hóa, phấn đấu đến năm 2010 ít nhất đạt 1,8% tổng
chi ngân sách của Nhà nước, tiếp tục đảm bảo kinh phí cho các chương trình, mục tiêu phát triển
văn hóa. Phát triển các doanh nghiệp văn hóa đủ khả năng đứng vững trong cơ chế thị trường,
đạt hiệu quả văn hóa xã hội, nâng cao chất lượng phục vụ. Động viên các tầng lớp nhân dân,
đầu tư và đóng góp cho sự nghiệp văn hóa, vì sự phồn vinh của văn hóa dân tộc.
III- XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 2006-2010
1. Kết quả của việc xây dựng và phát triển văn hóa trong những năm 1986-2005 a) Thành tựu
Nhìn một cách tổng quát, trong những năm 1986-2005, nền văn hoá nước ta đạt được những thành tựu nổi bật sau:
- Văn hóa góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, tham gia tích cực vào
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tính chủ động, sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân bước đầu được phát huy; dân chủ
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội được mở rộng.
- Đã phát huy được tính tích cực tự giác của nhân dân tham gia vào các hoạt động văn hóa, đặc
biệt là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” để tạo nên sự chuyển
biến bước đầu và là tiền đề quan trọng để văn hóa Việt Nam tiếp tục phát triển đúng hướng và vững chắc.
- Văn hóa đã trở thành một nội dung quan trọng trong các hoạt động của cấp ủy đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp, từng bước gắn bó chặt chẽ với các nhiệm vụ kinh tế, xã hội.
- Di sản văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy nhằm phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân.
- Nhiều giá trị văn hóa và sản phẩm văn hóa mới được hình thành, góp phần nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
- Hoạt động văn học, nghệ thuật, thông tin, báo chí được mở rộng, có nhiều thành tựu đóng góp tích
cực cho sự nghiệp đổi mới.
- Đời sống văn hóa của nhân dân ở vùng dân tộc thiểu số, ở vùng gặp khó khăn như miền núi, hải đảo,
biên giới được cải thiện.
- Giao lưu quốc tế về văn hóa được mở rộng, việc quảng bá hình ảnh dân tộc và văn hóa Việt
Nam ra nước ngoài được chú ý. Việc thể chế hóa các nghị quyết của Đảng được coi trọng, tạo
hành lang pháp lý phù hợp và thông thoáng cho nhân dân và đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ hoạt
động và sáng tạo văn hóa. b) Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đó, nền văn hoá nước ta cũng bộc lộ những hạn chế sau:
- Những thành tựu và tiến bộ đạt được trên lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và vững chắc,
chưa đủ để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư
tưởng, đạo đức, lối sống.
- Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm
trọng hơn, tổn hại không nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân dân.
- Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó
với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình
phát triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng Đảng.
- Việc xây dựng và phát triển toàn diện con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa chưa tạo ra được sự chuyển biến rõ rệt.
- Môi trường văn hóa còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các sản phẩm và dịch
vụ văn hóa mê tín, dị đoan, độc hại, thấp kém, lai căng.
- Thiếu những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao.
- Có biểu hiện lúng túng, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng trong lý luận -
phê bình và sáng tác, trước những tác động ngày càng phức tạp của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế và giao lưu văn hóa.
- Xu hướng “thương mại hóa”, chạy theo thị hiếu thấp kém của một bộ phận báo chí, xuất bản,
văn học, nghệ thuật chưa được ngăn chặn một cách có hiệu quả.
- Việc xây dựng thể chế văn hóa, các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách trên lĩnh vực văn hóa còn chậm.
- Đời sống văn hóa còn nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và vùng căn cứ cách mạng trước đây chưa
được khắc phục có hiệu quả.
- Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các miền, khu vực, tầng lớp xã hội tiếp tục gia tăng.
Nguyên nhân của những hạn chế trên bao gồm: Về khách quan:
+ Sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu làm cho một số người hoang
mang, dao động về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
+ Sự tác động mạnh mẽ của những mặt trái do quá trình toàn cầu hóa kinh tế và sự xâm nhập
tràn lan những sản phẩm văn hóa dẫn đến những tư tưởng phức tạp trong đời sống văn hóa, xã hội.
+ Những tiền đề vật chất để xây dựng nền văn hóa còn yếu kém, mức sống của nhân dân còn
thấp so với các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
+ Các thế lực thù địch quốc tế luôn thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng nước ta. Về chủ quan:
- Nhận thức trong Đảng từ Trung ương đến cấp ủy đảng các cấp về vai trò đặc biệt quan trọng
của văn hóa chưa thật đầy đủ. Các quan điểm chỉ đạo, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và
phát triển văn hóa chưa được quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc. Việc tổ chức thực hiện
còn thiếu tập trung, chưa đồng bộ, không kiên quyết.
- Nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong Đảng, trong bộ máy nhà nước chưa được triển khai tích
cực, có nơi còn xem nhẹ, không ít cán bộ, đảng viên chưa nêu được tấm gương văn hóa cho quần chúng.
- Chậm thể chế hóa các quan điểm, chủ trương lớn của Đảng về văn hóa. Chưa có kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng tài năng, nâng cao năng lực của những người làm công tác văn hóa.
- Chưa xây dựng được cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp để phát triển văn hóa trong cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Một số bộ phận trí thức, văn nghệ sĩ, những người hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, thông tin,
báo chí, xuất bản có những biểu hiện xa rời đời sống, lúng túng trong định hướng sáng tạo và
hoạt động nghiệp vụ, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, tạo ra một số sản phẩm văn hóa chất
lượng thấp, thậm chí sai trái.
2. Chủ trương tiếp tục xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc trong những năm 2006-2010
Từ kinh nghiệm tổng kết thực tiễn đổi mới vừa qua, Đảng chỉ rõ sự phát triển văn hóa chưa đồng
bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu sự gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn
Đảng, được coi là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và
nhiệm vụ xây dựng Đảng. Vì vậy, phải tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực: phát triển
kinh tế là trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa -
nền tảng tinh thần của xã hội, là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền
vững của đất nước. Đây là những tư tưởng cơ bản, cốt lõi có ý nghĩa chỉ đạo chiến lược cho quá
trình xây dựng và phát triển văn hóa nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói chung trong
sự nghiệp đổi mới hiện nay.
a) Về mục tiêu tổng quát
Đại hội lần thứ X của Đảng đã xác định:
- Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội; làm cho văn hóa
thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.
- Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối
sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam12.
b) Về phương hướng phát triển văn hóa
Đại hội lần thứ X của Đảng đã nhấn mạnh đến ba lĩnh vực quan trọng cần phải tập trung chỉ đạo,
đó cũng chính là những phương hướng phát triển văn hoá chính:
- Xây dựng môi trường, lối sống và đời sống văn hóa của mọi người dân ở cơ sở. Phát huy tinh
thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong việc tổ chức và xây dựng
đời sống văn hóa. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động của phong trào Toàn dân đoàn kết, xây
dựng đời sống văn hóa.
- Phát huy tiềm năng, khuyến khích các sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có
giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Đây là một trong những nhiệm vụ trung tâm nhằm tạo ra
những tác phẩm văn học, nghệ thuật tiêu biểu, phản ánh sức sáng tạo của nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng.
- Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, chú trọng các công trình văn hóa
lớn, tiêu biểu. Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hóa, bảo tàng, nhà truyền thống, thư viện,...
c) Về nhiệm vụ và giải pháp
Đại hội X đã xác định một số nhiệm vụ và giải pháp sau:
- Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, các di sản
văn học, vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị văn hóa, nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần
phong mỹ tục của cộng đồng. Bảo tồn và phát huy văn hóa, văn nghệ dân gian. Kết hợp hài hòa
việc bảo vệ, phát huy di sản văn hóa với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch.
- Tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển, nâng cao chất lượng tư
tưởng và văn hóa, vươn lên trình độ hiện đại về mô hình, cơ cấu tổ chức và cơ sở vật chất - kỹ
thuật; đồng thời xây dựng cơ chế quản lý phù hợp, chủ động, khoa học.
- Đảm bảo tự do, dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật đi đôi với
việc phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ. Có chính sách trọng dụng tài năng văn hóa,
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của văn nghệ sĩ. Đẩy mạnh hoạt động lý luận - phê bình
văn học, nghệ thuật. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và cơ cấu tổ chức của các hội
văn học, nghệ thuật từ Trung ương đến địa phương.
- Tăng cường sự quản lý của Nhà nước về văn hóa. Xây dựng cơ chế, chính sách, chế độ ổn
định, phù hợp với yêu cầu phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Tích cực mở rộng giao lưu và
hợp tác quốc tế về văn hóa, chống sự xâm nhập của các loại văn hóa phẩm độc hại, lai căng...
- Phát huy tính năng động, chủ động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân, các hội văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, các hộ gia đình, các tổ chức
và cá nhân tham gia hoạt động trên các lĩnh vực văn hóa.
- Xây dựng và triển khai chương trình giáo dục văn hóa - thẩm mỹ, nếp sống văn minh, hiện đại trong nhân dân.
- Nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa trong nhân cách
của thanh niên, thiếu niên, chống những hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa.
- Chú trọng nhiều hơn đến việc xây dựng đời sống văn hóa ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Xúc tiến xã hội hóa các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thông tin với bước đi thích hợp cho từng loại hình, từng vùng13.
d) Một số quan điểm chỉ đạo trên một số lĩnh vực văn hoá
- Lĩnh vực tư tưởng, lý luận và báo chí
Để tập trung giải quyết những vấn đề bức thiết đặt ra trong công tác tư tưởng, lý luận và báo chí,
Hội nghị Trung ương 5 khoá X (2007) đã ban hành Nghị quyết Về công tác tư tưởng, lý luận và
báo chí trước yêu cầu mới. Nghị quyết xác định bốn quan điểm chỉ đạo về công tác tư tưởng, lý
luận và báo chí trước yêu cầu mới:
Quan điểm thứ nhất: Công tác tư tưởng, lý luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng
trong toàn bộ hoạt động của Đảng. Là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị
của chế độ, tuyên truyền giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách
mạng. Khẳng định vai trò tiền phong của Đảng về chính trị, lý luận, trí tuệ, văn hoá và đạo đức.
Thể hiện vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm thứ hai: Công tác tư tưởng, lý luận, báo chí phải đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ
và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng. Phải
làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những giá trị
tốt đẹp trong truyền thống văn hoá dân tộc, những tinh hoa văn hoá thế giới chiếm vị trí chủ đạo
trong đời sống tinh thần xã hội.
Quan điểm thứ ba: Công tác tư tưởng là nhiệm vụ của toàn Đảng. Đây là quan điểm xác định
công tác tư tưởng là nhiệm vụ của tất cả đảng viên, trước hết là cấp uỷ các cấp và bí thư cấp uỷ;
là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị với sự tham gia đóng góp của nhân dân. Đặc biệt, công tác
tư tưởng là nhiệm vụ của đội ngũ chuyên trách làm công tác tư tưởng, lý luận, báo chí - lực lượng
nòng cốt trong công tác tư tưởng của Đảng. Phải phát huy dân chủ, tự do tư tưởng, khai thác
mọi tiềm năng sáng tạo của toàn Đảng và toàn xã hội.
Quan điểm thứ tư: Công tác tư tưởng của Đảng là công tác đối với con người, một nhiệm vụ khó
khăn, phức tạp. Do vậy, đòi hỏi phải nắm vững quy luật riêng của tư tưởng; có thái độ, phương
pháp khoa học, kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu định hướng tư tưởng với sự tự nguyện, lý trí và
tình cảm, nói và làm, xây và chống, lấy xây làm chính, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực, phải gắn bó
mật thiết và phục vụ có hiệu quả công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao đời sống và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Do tính đặc thù của báo chí, Nghị quyết Trung ương 5 khoá X còn nhấn mạnh một số nội dung
sau: báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của các tổ chức chính trị - xã hội và là điểm đến
của nhân dân; báo chí đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; phải đảm bảo tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân,
tính chiến đấu và tính đa dạng.
Nghị quyết Trung ương 5 khoá X đã góp phần rất quan trọng vào việc nâng cao chất lượng công
tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới.
- Lĩnh vực văn học, nghệ thuật
Riêng về lĩnh vực văn học, nghệ thuật, một bộ phận tinh tế, nhạy cảm của văn hoá, Bộ Chính trị
khoá X đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ
thuật trong thời kỳ mới (2008). Nghị quyết này đã đánh giá tình hình văn học, nghệ thuật thời
gian qua, đề ra mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, chủ trương và giải pháp để tiếp tục xây dựng và
phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Những quan điểm chỉ đạo được nhấn mạnh là:
- Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hoá; là nhu cầu thiết yếu,
thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn, trực tiếp
góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển của con người Việt Nam.
- Văn học, nghệ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập quốc tế phải được phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần
nhân văn, dân chủ. Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và
nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn trong việc xây dựng con người; vừa có tác dụng định hướng,
vừa đáp ứng nhu cầu văn hoá - tinh thần ngày càng cao của nhân dân. Phát triển sâu rộng văn
nghệ quần chúng, đồng thời với việc tập trung xây dựng, phát triển văn học, nghệ thuật chuyên
nghiệp. Trên cơ sở giữ gìn, phát triển, phát huy những giá trị của văn học, nghệ thuật dân tộc,
tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của
nước ngoài, đồng thời kiên quyết ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn áp đặt, xâm lăng
văn hoá của các thế lực thù địch.
- Tài năng văn học, nghệ thuật là vốn quý của dân tộc. Chăm lo phát hiện, bồi dưỡng, quý trọng
và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của
Đảng, Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp. Tôn trọng, đảm bảo quyền tự
do sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của
văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ chính là người chiến sĩ trên mặt trận xây dựng và phát triển nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cần phát huy lòng yêu nước nồng nàn, gắn bó máu thịt
với nhân dân, nêu cao trách nhiệm công dân, sáng tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị phụng sự đất nước và nhân dân.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là quan điểm nhất quán và xuyên suốt thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Trong quá trình thực
hiện những quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta luôn chú ý tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, đề ra
những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể để đáp ứng yêu cầu của từng thời điểm, từng lĩnh vực khác
nhau của hoạt động văn hoá. Tư tưởng nhất quán về nguyên tắc, phương pháp biện chứng, linh
hoạt và bám sát thực tiễn là bài học kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo văn hoá của Đảng.
Chính vì vậy, nền văn hoá nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần tích cực vào
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đã và đang trở thành nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội. Những thành tựu lý luận của Đảng về
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ vừa
qua cần được kế thừa và phát huy trong giai đoạn mới, giai đoạn 2011 - 2020, giai đoạn tiến tới
đưa đất nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp như mục tiêu của Đảng đề ra. ----------------------