Thị trường trái phiếu tại Việt Nam | Tiểu luận môn Quản lý tài chính | Trường đại học Điện Lực

Tiểu luận Thị trường trái phiếu Việt Nam | Trường đại học Điện Lực được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Thị trường trái phiếu Việt Nam
M c l c
MỞ ĐẦU...........................................................................................................................1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU...........2
1. TRÁI PHIẾU......................................................................... ..................................................... .... 2
1.1 Khái niệm.............................................................................................................. 2
1.2 Những đặc trưng của trái phiếu.............................................................................2
1.3 Đặc điểm cơ bản của trái phiếu..............................................................................3
1.4 Phân loại trái phiếu................................................................................................4
1.5 Điều kiện phát hành trái phiếu ở Việt Nam............................................................7
2. THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU......................................................................... ............................ 9
2.1 Khái niệm..............................................................................................................9
2.2 Phân loại thị trường trái phiếu...............................................................................9
2.3 Vai trò của thị trường trái phiếu...........................................................................11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM.....................14
1. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM............................................ 14
1.1 Thị trường trái phiếu chính phủ...........................................................................14
1.2 Thị trường trái phiếu chính quyền địa phương:...................................................22
1.3 Thị trường trái phiếu công ty...............................................................................25
1.4 Trái phiếu quốc tế................................................................................................28
2. ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM...................................................31
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM
HIỆN NAY....................................................................................................................... 33
1. GIẢI PHÁP CHUNG......................................................................... ......................................... 33
Thị trường trái phiếu Việt Nam
2. GIẢI PHÁP RIÊNG................................................................................ .......................... .......... 36
2.1 Đối với thị trường trái phiếu chính phủ...............................................................36
2.2 Đối với thị trường trái phiếu đô thị......................................................................37
2.3 Đối với thị trường trái phiếu công ty...................................................................40
KẾT LUẬN......................................................................................................................43
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................44
Thị trường trái phiếu Việt Nam
M ĐẦẦU
Hiện nay các nhà kinh tế rất quan tâm đến cách huy động nguồn vốn cho các doanh
nghiệp. Việc huy động nguồn vốn trongngoài nước của Việt Nam đã đạt được kết quả
hết sức khả quan. Nếu như nguồn vốn trong nước, gồm nguồn vốn huy động từ dân cư,
các tổ chức kinh tế… giữ vai trò chủ đạo thì nguồn vốn nước ngoài, gồm vốn FDI, ODA,
FPI… động lực sở để thay đổi công nghệ. Tuy nhiên, việc huy động vốn trong
nước cũng chưa thật sự mạnh, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn.
Do đó, để đẩy nhanh việc huy động nguồn vốn dài hạn thì việc phát triển thị trường
vốn trong thời gian tới là rất cần thiết. Đặc biệt là phát triển thị trường chứng khoán, kênh
dẫn vốn quan trọng để phát triển nhanh nền kinh tế đất nước. Thời gian trước đây, chúng
ta chỉ tập trung phát triển thị trường cổ phiếu chưa đặc biệt quan tâm đến việc phát
triển thị trường trái phiếu. Tuy nhiên, thời gian gần đây, trái phiếu và thị trường trái phiếu
đang dần trở thành một vấn đề rất được quan tâm trong nền kinh tế.
Tính đến cuối tháng 6, thị trường trái phiếu Việt Nam đã tăng 26,8% so với cùng kỳ
năm trước, đạt 27 tỷ USD, chủ yếu trên sở sự tăng trưởng mạnh của thị trường trái
phiếu chính phủ. Thị trường này đã tăng 34,3% so với cùng kỳ năm trước, đạt 26 tỷ USD.
Trái lại, trái phiếu công ty đã giảm 55,5% xuống còn 800 triệu USD trong bối cảnh thị
trường gặp khó khăn.
Trước những chuyển biến như vậy, Nhóm xin trình bày về đề tài Thị trường trái
phiếu Việt Nam” để tìm hiểu hơn về trái phiếu cũng như thị trường trái phiếu ở Việt
Nam thời gian gần đây.
2
Thị trường trái phiếu Việt Nam
CH NG I: T NG QUAN VỀẦ TRÁI PHIỀẾU VÀ TH TR NG TRÁI ƯƠ ƯỜ
PHIỀẾU
1. TRÁI PHIẾẾU
1.1 Khái ni m
Trái phiếu là một hợp đồng nợ dài hạn được ký kết giữa chủ thể phát hành (chính phủ
hay doanh nghiệp) người cho vay, đảm bảo một sự chi trả lợi tức định kỳ hoàn lại
vốn gốc cho người cầm trái phiếu thời điểm đáo hạn. Trên giấy chứng nhận nợ này
ghi mệnh giá của trái phiếu và tỷ suất lãi trái phiếu.
Khác với cổ phiếu là một chứng khoán vốn, trái phiếu là một chứng khoán hứa nợ dài
hạn của chủ thể phát hành - Người phát hành trái phiếu phảinghĩa vụ trả lãi trái phiếu
và hoàn trả vốn gốc của trái phiếu cho chủ sở hữu của trái phiếu (trái chủ) khi đáo hạn. Vì
vậy, trái phiếu còn được gọi là chứng khoán nợ.
1.2 Nh ng đ c tr ng c a trái phiếếu ư
- Mệnh giá: Mệnh giá là giá trị danh nghĩa của trái phiếu được ghi trên tờ trái phiếu.
Mệnh giá trái phiếu là số vốn gốc trái chủ sẽ được nhận khi trái phiếu đến hạn
mệnh giá của trái phiếu thường bội số của một số tiền nhất định (ví dụ
100.000VND hoặc 100 USD).
- Lãi suất định kỳ (coupon): chính lợi tức trái chủ được hưởng định kỳ (quý
hoặc năm) khi đầu tư vào trái phiếu, được biểu hiện bằng số % cụ thể. Đối với một
số loại trái phiếu đặc thù như trái phiếu zero coupon thì không có lãi suất định kỳ,
trái chủ hưởng lợi tức từ chênh lệch giữa giá mua trái phiếu mệnh giá khi đáo
hạn.
- Thời hạn: Trái phiếu thường thời hạn đáo hạn cụ thể (5 năm, 10 năm,…) được
ghi trên tờ trái phiếu. Cũng thể loại trái phiếu vĩnh viễn, tức không
thời hạn đáo hạn, trái chủ mua trái phiếu này sẽ được hưởng lợi tức trái phiếu mãi
mãi từ chủ thế phát hành cho đến khi chủ thế phát hành không còn tồn tại nữa.
3
Thị trường trái phiếu Việt Nam
- Giá mua: Giá mua trái phiếu là khoản tiền thực tế mà người mua bỏ ra để có được
quyền sở hữu trái phiếu. Giá mua có thể bằng mệnh giá (Par value), có thể cao hơn
mệnh giá (Premium) hoặc thấp hơn mệnh giá (Discount). Tuy nhiên, dù giá mua là
loại giá nào thì tiền lãi luôn được xác định theo mệnh giá trái phiếu. Và đến ngày
đáo hạn, người nắm giữ trái phiếu sẽ được trả lại vốn gốc bằng với mệnh giá trái
phiếu.
- Quyền mua lại: đối với các loại trái phiếu điều khoản chuộc lại (Callable
Bonds) cho phép tổ chức phát hành trái phiếu thu hồi trái phiếu hoàn lại vốn
gốc với mức giá dự kiến trước thời hạn thanh toán. Tổ chức phát hành sử dụng
quyền này để bảo vệ họ không phải trả lãi suất cao hơn đối với số tiềnhọ vay.
Tổ chức phát hành thu hồi trái phiếu khi tỷ lệ lãi suất trên thị trường thấp hơn lãi
suất của trái phiếu của tổ chức phát hành đã phát hành trước đó thể phát
hành trái phiếu mới với tỷ lệ lãi suất thấp hơn.
1.3 Đ c đi m c b n c a trái phiếếu ơ
- Chủ thể phát hành không chỉ công ty còn Chính phủ hoặc chính quyền
địa phương
- Nếu như người mua cổ phiếu của công ty, trong thực tế, người mua một phần
công ty, là người chủ sở hữu công ty thì trái lại, người mua trái phiếu chỉ là người
cho chủ thể phát hành vay tiền, là chủ nợ của chủ thể phát hành trái phiếu.
- Nếu như thu nhập chủ yếu của chủ sở hữu cổ phiếu cổ tức phụ thuộc vào tình
hình sản xuất kinh doanh của công ty, thì trái lại, thu nhập chủ yếu của trái phiếu
tiền lãi khoản thu cố định, không phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh
doanh của người chủ phát hành.
- Nếu như cổ phiếu chứng khoán cung cấp cho người chủ sở hữu quyền truy đòi
cuối cùng đối với tài sản công ty, thì trái lại, trái phiếu chứng khoán nợ, vậy
nếu công ty bị giải thể hay bị phá sản thì trước hết công ty ưu tiên trả nợ cho các
trái chủ trước, sau đó còn lại mới phân chia cho các cổ đông.
4
Thị trường trái phiếu Việt Nam
Với những đặc điểm trên, trái phiếu tính ổn định chứa đựng ít rủi ro hơn cổ
phiếu. Vì vậy, đây là dạng đầu tư được các nhà đầu và các định chế đầu ưa chuộng.
Tuy nhiên, trong đầu tư trái phiếu, vẫn có thể gặp những rủi ro chủ yếu sau đây:
- Rủi ro tài chính: rủi ro về khả năng thanh toán, trong đó người phát hành trái
phiếu không đủ khả năng tài chính để hoàn trả đầy đủ, đúng hạn các khoản tiền
phải trả (vốn, lãi) như họ đã cam kết cho trái chủ.
- Rủi ro lãi suất: lãi suất là yếu tố thường xuyên liên tục biến động, phản ánh những
thay đổi về tương quan cung cầu vốn tiền tệ, cung cấp tín dụng trên thị trường tài
chính. Cũng từ đó dẫn tới những thay đổi liên tục về tỷ suất sinh lời cần thiết của
trái phiếu. Những thay đổi này đem lại rủi ro cho trái chủ thế cần phải
được bù đắp lại bằng những thay đổi về trị giá của trái phiếu.
- Rủi ro thanh khoản: được hiểu rủi ro về khả năng chuyển đổi trái phiếu thành
ngân quỹ (tiền mặt) trên thị trường, bao gồm cả yếu tố thời gian giá cả khi
chuyển đổi.
- Rủi ro sức mua hay rủi ro do lạm phát gây ra: lạm phát gây nên sự thay đổi giá trị,
sức mua của tiền tệ. Từ đó gây nên những thiệt hại nhất định cho các NĐT trái
phiếu. Lạm phát sẽ ảnh hưởng đến giá trị của các khoản tiền lời vốn đầu tư trái
phiếu. Lạm phát cũng ảnh hưởng đến sức mua trái phiếu trên thị trường.
1.4 Phân lo i trái phiếếu
1.4.1 Theo hình th c phát hành:
- Trái phiếu danh: loại trái phiếu không ghi tên người thụ hưởng, bất kỳ
nhân hoặc tổ chức nào nắm giữ trái phiếu sẽ là trái chủ được hưởng mọi quyền
lợi do trái phiếu mang l.
- Trái phiếu ký danh: Là trái phiếu có ghi tên cụ thể trái chủ trên tờ trái phiếu. Chỉ tổ
chức/cá nhân đứng tên trên trái phiếu mới được hưởng mọi quyền lợi do trái phiếu
mang lại. Tuy nhiên trái chủ thể chuyển nhượng trái phiếu lại cho đối tượng
khác bằng thủ tục ký hậu trái phiếu (thường được in ở mặt sau tờ trái phiếu).
5
Thị trường trái phiếu Việt Nam
1.4.2 Theo l i t c
- Trái phiếu chiết khấu (Zero coupon bond): là loại trái phiếu hứa hẹn một sự chi trả
một lần tại thời điểm nhất định trong tương lai, người mua không được nhận một
khoản chi trả nào cho đến khi đáo hạn.
- Trái phiếu trả lãi (Coupon bond): được định kỳ trả lãi.
+ Trái phiếu lãi suất ổn định (Level Coupon bond): lãi suất không đổi, giữ
nguyên trong thời gian lưu hành của trái phiếu.
+ Trái phiếu lãi suất thả nổi (Floating rate bond): lãi suất trái phiếu sẽ được
điều chỉnh tăng giảm cùng với sự biến động của lãi suất thị trường.
1.4.3 Theo ch th phát hành
- Trái phiếu chính phủ (Government Bonds) và chính quyền địa phương: Trái phiếu
Chính phủ hoặc chính quyền địa phương chứng khoán nợ do chính phủ hoặc
chính quyền địa phương phát hành nhằm mục đích đắp sự thiếu hụt ngân sách
tài trợ các dự án xây dựng các sở hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng
trung ương địa phương. Trái phiếu Chính phủ loại trái phiếu an toàn nhất vì
nguồn vốn ngân sách nhà nước làm đảm bảo. Người mua trái phiếu chính phủ
thường được miễn thuế thu nhập. Từ trước đến nay đã nhiều tên gọi khác nhau
về trái phiếu chính phủ, như công trái, trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, tín
phiếu kho bạc, kỳ phiếu kho bạc, hối phiếu kho bạc…Dù tên gọi thế nào, các loại
này đều nợ của chính phủ, do chính phủ phát hành được thanh toán bằng
ngân sách quốc gia.
+ Trái phiếu kho bạc: là phiếu nợ trung, dài hạn từ 5 đến 30 năm hay hơn nữa, do
kho bạc phát hành khi huy động vốn để bổ sung bù đắp ngân sách.
+ Trái phiếu đô thị: những trái phiếu do chính phủ hay chính quyền địa
phương phát hành nhằm huy động vốn tài trợ cho các dự án đầu tư hạ tầng như
xây dựng trường học, tu bổ phát triển đường sá, cầu cảng, sân bay…Kỳ hạn
trái phiếu này từ 10 đến 30 năm. Các trái phiếu này thường được các ngân
6
Thị trường trái phiếu Việt Nam
hàng mua khi phát hành, sau đó các ngân hàng tổ chức bán lại trên TTCK cho
các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, các người có tài sản lớn, thu nhập cao.
- Trái phiếu công ty (corporate bonds): do công ty phát hành với mục đích huy động
vốn để bổ sung vốn tạm thời thiếu hụt phục vụ cho đầu tư phát triển.
+ Trái phiếu thu nhập (Income Bonds): trái phiếu việc thanh toán lãi phụ
thuộc vào mức thu lợi hàng năm của công ty, loại trái phiếu này thường được
phát hành khi công ty gặp khó khăn về tài chính hay cần huy động vốn đầu
vào các dự án. Tùy theo lợi nhuận công ty thu được sẽ trả cho lãi cho trái chủ,
tuy nhiên, tỷ lệ lãi không lớn hơn lãi suất quy định trên trái phiếu. Về mặt này
loại trái phiếu này giống cổ phiếu ưu đãi nhưng khác chỗ tiền lãi trả cho
trái phiếu thu nhập được khấu trừ thuế (trả thuế trước), còn đốn với cổ phiếu
ưu đãi thì không được khấu trừ (trả sau thuế).
+ Trái phiếu thế chấp (Mortgage Bonds): Các công ty muốn phát hành trái
phiếu phải có thế chấp bằng tài sản hay chứng khoán. Người nắm giữ trái phiếu
này được bảo vệ một mức độ cao bằng chính tài sản thế chấp trong trường
hợp công ty phá sản.
+ Trái phiếu không có thế chấp (Debenture): Một số các công ty lớn có tiếng tăm
và uy tín trên thị trường quốc nội và quốc ngoại có thể phát hành trái phiếu mà
không cần thế chấp. Bởi chính uy tín của công ty ấy đã một đảm bảo
giá trị. Nếu công ty bị phá sản, người cầm trái phiếu này sẽ được trả nợ sau các
trái chủ có đảm bảo bằng tài sản thế chấp, nhưng trước các cổ đông.
+ Trái phiếu thể chuyển đổi (Convertible Bonds): loại trái phiếu thể
chuyển đổi thành cổ phiếu thường của công ty với giá của cổ phiếu được ấn
định trước gọigiá chuyển đổi. Đây loại trái phiếu rất được ưa chuộng bởi
khi giá cổ phiếu tăng cao trên thị trường, người nắm giữ trái phiếu này sẽ
thực hiện việc chuyển đổi và thu được những món lợi nhuận do chệnh lệch giá.
+ Trái phiếu có thể chuộc lại (Callable Bonds): trái phiếu này có kèm điều khoản
được công ty chuộc lại sau một thời gian với giá chuộc lại thường cao n
7
Thị trường trái phiếu Việt Nam
mệnh giá. Nhà đầu thể chọn lựa để chấp nhận sự chuộc lại của công ty
hay không.
+ Trái phiếu lãi suất ổn định (Straight Bonds): loại trái phiếu truyền thống
được phát hành phổ biến ở tất cả các thị trường chứng khoán trên thế giới. Với
đặc điểm trả lãi suất ổn định và định kỳ thường 6 tháng hay 1 năm một lần,
ràng buộc doanh nghiệp nghĩa vụ phải trả lãi trong suốt thời gian lưu hành trái
phiếu.
+ Trái phiếu lãi suất thả nổi (Floating Rate Bonds): loại trái phiếu lãi
suất của được điều chỉnh theo sthay đổi của lãi suất thị trường. Đặc điểm
này đã đảm bảo được quyền lợi của nhà đầu tư cũng như của doanh nghiệp khi
thị trường tài chính tiền tệ không ổn định. Thông thường cứ 6 tháng một lần,
căn cứ vào lãi suất tiền gửi ngắn hạn của ngân hàng lại điều chỉnh lãi suất trái
phiếu cho phù hợp.
+ Trái phiếu chiết khấu (Zero Coupon Bonds): loại trái phiếu không trả lãi
định kỳ. Căn cứ vào lãi suất thị trường lúc phát hành để định ra giá của trái
phiếu, giá này rất thấp so với mệnh giá gọi giá chiết khấu, nhưng khi đáo
hạn trái chủ lại được hoàn lại vốn gốc bằng với mệnh giá của trái phiếu.
1.4.4 Theo th tr ng phát hành ườ
- Trái phiếu trong nước
- Trái phiếu quốc tế (Foreign Bonds): Chính phủ phát hành các chứng chỉ vay nợ
(được gọi là trái phiếu quốc tế) ra thị trường vốn quốc tế, đây là hình thức vay vốn
trực tiếp từ các nhà đầu quốc tế không phải qua các tổ chức trung gian (như
ngân hàng), do vậy chi phí đi vay sẽ ít hơn khi đi vay thương mại. Đồng thời, khi
vay vốn dưới hình thức này, thì tính độc lập về tài chính của Chính phủ cũng lớn
hơn, Chính phủ sẽ mở rộng chi tiêu ngân sách không ràng buộc vào các điều
kiện về mục đích sử dụng vốn của người cho vay.
1.5 Điếều ki n phát hành trái phiếếu Vi t Nam
* Đối với trái phiếu không chuyển đổi:
8
Thị trường trái phiếu Việt Nam
- Doanh nghiệp thời gian hoạt động tối thiểu một (01) năm kể từ ngày doanh
nghiệp chính thức đi vào hoạt động;
- Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành phải
có lãi theo báo cáo tài chính được kiểm toán bởi Kiểm toán Nhà nước hoặc tổ chức
kiểm toán độc lập được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Báo cáo tài chính
được kiểm toán của doanh nghiệp phát hành phải báo cáo kiểm toán nêu ý kiến
chấp nhận toàn phần. Trường hợp doanh nghiệp phát hành trái phiếu trước ngày 01
tháng 4 hàng năm chưa có báo cáo tài chính năm của năm liền kề được kiểm toán
thì phải có:
+ Báo cáo tài chính được kiểm toán của năm trước năm liền kề với kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh có lãi;
+ Báo cáo tài chính quý gần nhất với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
lãi được kiểm toán (nếu có);
+ Báo cáo tài chính của năm liền kề với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
có lãi được Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty phê
duyệt theo Điều lệ hoạt động của công ty.
- Đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn các hạn chế khác về đảm bảo an toàn
trong hoạt động đối với các ngành nghề kinh doanhđiều kiện quy định tại pháp
luật chuyên ngành;
- Có phương án phát hành trái phiếu được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và chấp
thuận
* Đối với phát hành trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng quyền: doanh
nghiệp phát hành ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy định trên còn phải đáp
ứng các điều kiện sau:
- Thuộc đối tượng được phát nh trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm theo
chứng quyền;
- Đảm bảo tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam theo
quy định của pháp luật hiện hành;
- Các đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi phải cách nhau ít nhất sáu (06) tháng.
9
Thị trường trái phiếu Việt Nam
2. TH TR NG TRÁI PHIẾẾU ƯỜ
2.1 Khái ni m
Thị trường trái phiếu một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện chế
chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầusang nhà phát hành, qua đó thực hiện chức năng của
thị trường tài chính là cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
2.2 Phân lo i th tr ng trái phiếếu ườ
Thị trường trái phiếu được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
* Thị trường sơ cấp
- Khái niệm Thị trường cấp là thị trường mua bán các trái phiếu mới phát hành.:
Trên thị trường này vốn từ nhà đầu sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông
qua việc nhà đầu mua các trái phiếu mới phát hành.
- Đặc điểm:
+ Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các trái phiếu đem lại vốn cho người phát
hành. Là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và đồng thời cũng tạo ra hàng
hóa cho thị trường giao dịch. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, thị trường
cấp làm tăng vốn đầu tư.
+ Những người bán trái phiếu trên thị trường cấp được xác định thường
Kho bạc, Ngân hàng Nhà nước, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát
hành,...
+ Thị trường cấp chỉ được tổ chức một lần cho một loại chứng khoán nhất
định, trong thời gian hạn định.
- Vai trò
+ Trái phiếu hóa các nguồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy động
qua việc phát hành chứng khoán
+ Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền nhàn rỗi
tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền sang dạng vốn dài hạn.
* Thị trường thứ cấp
10
Thị trường trái phiếu Việt Nam
- Khái niệm
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các trái phiếu đã được phát hành trên thị trường sơ
cấp. thị trường chuyển nhượng quyền sở hữu trái phiếu. Thị trường thứ cấp đảm bảo
tính thanh khoản cho các trái phiếu đã phát hành.
- Đặc điểm
+ Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán trái phiếu thuộc về
các nhà đầu các nhà kinh doanh trái phiếu chứ không thuộc về nhà phát
hành. Nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào những người phát hành
trái phiếu vận chuyển giữa những người đầu trái phiếu trên thị trường.
Thị trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của thị trường trái phiếu, gắn bó
chặt chẽ với thị trường sơ cấp.
+ Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ảnh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá trái
phiếu trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định.
+ Thị trường thứ cấp một thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu thể
mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
* Mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
- Thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị trường
thứ cấp vì đó là nơi cung cấp hàng hóa trái phiếu trên thị trường thứ cấp. Không có
thị trường sơ cấp thì không thể sự xuất hiện của thị trường thứ cấp. Thị trường
thứ cấp là một loại thị trường đặc biệt, nó không thể ra đời chừng nào vẫn chưa
một thị trường sơ cấp rộng rãi, vững chắc với nhiều loại trái phiếu đa dạng, phong
phú, hấp dẫn nhiều nhà đầu và công chúng đến bỏ vốn ra để đầu tư trái phiếu.
- Ngược lại, thị trường thứ cấp đến lượt động lực, điều kiện cho sự phát
triển của thị trường cấp, một khi trái phiếu đã được phát hành ra trên thị
trường, nếu không có một thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao đổi tạo ra
tính thanh khoản cho trái phiếu thì thật khó thể thuyết phục nhà đầu bỏ tiền
ra mua trái phiếu.
- Chính việc mua bán giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp làm cho lưu động
hóa vốn đầu tư, các nhà đầu tư có thể chuyển từ trái phiếu thành tiền mặt.
11
Thị trường trái phiếu Việt Nam
- Vốn khả dụng thanh khoản cao của trái phiếu tính chất năng động của thị
trường thứ cấp đã hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ tiền ra mua trái phiếu. Điều này chính
là điều kiện cơ bản để các nhà phát hành trái phiếu có thể bán được trái phiếu trên
thị trường sơ cấp và huy động được nguồn vốn lớn theo nhu cầu.
2.3 Vai trò c a th tr ng trái phiếếu ườ
* Đối với nền kinh tế
Thị trường trái phiếu kênh huy động vốn nhanh chóng hiệu quả. Đây một bộ
phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện chức năng của thị trường tài chính là cung cấp
nguồn vốn trung,dài hạn cho nền kinh tế bằng khả năng huy động các nguồn vốn phân
tán, tạm thời nhàn rỗi trong toàn xã hội vào công cuộc đầu tư của nền kinh tế.
* Đối với Chính phủ
- Phát hành trái phiếu là kênh huy động vốn của Chính phủ nhằm thực hiện các mục
tiêu chính trị, kinh tế hội như: tài trợ vốn cho các dự án đầu đắp
thiếu hụt ngân sách quốc gia.
- Trái phiếu Chính phủ với đặc tính ít rủi ro nhất đã trở thành hàng hóa chủ đạo trên
thị trường, lãi suất giao dịch hàng ngày của trái phiếu Chính phủ góp phần hình
thành lãi suất chuẩn trên thị trường.
- Trái phiếu Chính phủ góp phần làm ổn định môi trường tiền tệ, nâng cao hiệu quả
sử dụng các nguồn lực tài chính trong nước, nâng cao hiệu quả của việc phân phối
và tái phân phối nguồn lực tài chính, định hướng hoạt động đầu tư trong nền kinh
tế.
- Thị trường trái phiếu thường quy lớn độ sâu nên thường hỗ trợ tốt hơn
nhu cầu vốn đầu dài hạn trong nền kinh tế, góp phần tạo ra một cấu trúc thị
trường vốn vững chắc dựa trên sở cân đối giữa thị trường vay nợ ngân
hàng, thị trường trái phiếu thị trường cổ phiếu trong tương lai. Thị trường trái
phiếu góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững, ổn định của thị trường vốn.
12
Thị trường trái phiếu Việt Nam
- Huy động vốn qua việc phát hành trái phiếu sẽ làm giảm sự tập trung vào hệ thống
ngân hàng. Đặc biệt thị trường trái phiếu công ty vừa thể huy động được
nguồn vốn dồi dào từ xã hội vừa góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế xã hội.
* Đối với tổ chức phát hành
- Phát hành trái phiếu đảm bảo cho doanh nghiệp được sử dụng một nguồn vốn ổn
định và dài hạn, không bị hạn chế về quy mô miễn doanh nghiệp phương án
sử dụng số vốn huy động một cách hợp lý, có tính khả thi và có khả năng hoàn trả
lãi và gốc cho những người cho vay.
- Trong trường hợp doanh nghiệp cần vốn nhưng lại ngại phát hành cổ phiếu rộng
rãi sẽ làm pha loãng quyền sở hữu trong doanh nghiệp, hoặc doanh nghiệp
không muốn lợi nhuận của mình bị chia đều cho các nhà đầu khi phải trả cổ tức
cao theo hiệu quả kinh doanh...thì phát hành trái phiếu là một giải pháp tối ưu.
- Chi phí sử dụng vốn khi phát hành trái phiếu thấp hơn phát hành cổ phiếu, do đặc
điểm của trái phiếu tính ổn định chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu. Việc đầu
tư vào cổ phiếu mức độ rủi ro cao hơn so với đầu tư vào trái phiếu, do đó mức
bù rủi ro mà nhà đầu tư đòi hỏi đối với trái phiếu thấp hơn cổ phiếu.
* Đối với nhà đầu tư
- Thị trường trái phiếu góp phần làm đa dạng hóa các sản phẩm tài chính, cung cấp
cho các nhà đầu tư ngày càng nhiều lựa chọn để đa dạng hóa danh mục đầu tư phù
hơp với những khẩu vị rủi ro khác nhau. Trái phiếu Chính phủ với độ an toàn cao
nhưng lãi suất không hấp dẫn bằng trái phiếu công ty. Bên cạnh đó, đầu tư vào cổ
phiếu sẽ đem lại cho nhà đầu tỷ suất lợi nhuận cao hơn tương ứng với mức rủi
ro cao hơn. Thị trường trái phiếu với các loại trái phiếu kỳ hạn khác nhau tạo
thêm cho nhà đầu tư lựa chọn phương án đầu tư phù hợp.
- Đối với nhà đầu tư trái phiếu tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu.
Trái phiếu luôn có một thời hạn nhất định và khi đáo hạn trái chủ nhận lại vốn góp
ban đầu của mình. Thu nhập chủ yếu của trái phiếu tiền lãi, đây khoản thu cố
định. Khi đầu tư vào trái phiếu công ty, trái chủ nhận tiền lãi không phụ thuộc vào
tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát hành, đặc điểm này không
13
Thị trường trái phiếu Việt Nam
giống với cổ đông chỉ nhận được cổ tức khi doanh nghiệp kinh doanh lãi. Đây
là dạng đầu tư phù hợp với các nhà đầu tư không thích mạo hiểm
14
Thị trường trái phiếu Việt Nam
CH NG II: TH C TR NG TH TR NG TRÁI PHIỀẾU VI T ƯƠ ƯỜ
NAM
1. TH C TR NG TH TR NG TRÁI PHIẾẾU VI T NAM ƯỜ
1.1 Th tr ng trái phiếếu chính ph ườ
Trong suốt 10m qua, thị trường trái phiếu Chính phủ đã hình thành phát triển
song song với sự phát triển của thị trường cổ phiếu niêm yết, với các mốc lịch sử sau:
- Năm 2000, quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ theo nghị định 72/CP ngày
26/07/1994 được thay thế bằng nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/01/2000 ban
hành quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ. Quy chế phát hành trái phiếu Chính
phủ đã đổi mới thể hiện qua việc áp dụng phương thức phát hành trái phiếu thông
qua đấu thầu qua thị trường giao dịch chứng khoán tập trung bảo lãnh phát
hành. Bên cạnh đó còn quy định việc trái phiếu Chính phủ niêm yết, giao dịch trên
thị trường chứng khoán phân trách nhiệm của các quan liên quan.
Tháng 8/2000: TPCP lần đầu tiên được đưa vào giao dịch trên Trung tâm giao dịch
chứng khoán Tp. HCM (HOSE)
- Tháng 11/2003, Chính phủ ban hành Nghị định 141/2003/NĐ-CP về việc phát
hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh trái phiếu chính
quyền địa phương bằng đồng Việt Nam ngoại tệ trong phạm vi cả nước. Trái
phiếu Chính phủ do Chính phủ phát hành bao gồm: Tín phiếu kho bạc, trái phiếu
kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ
công trái xây dựng Tổ quốc.
- Tháng 8/2005, trái phiếu Chính phủ được đưa vào giao dịch trên Trung tâm giao
dịch chứng khoán Nội. Tuy nhiên đến thời điểm này rất nhiều phiên đấu thầu
thất bại do nhiều nguyên nhân khác nhau lãi suất một trong những nguyên
nhân lớn.
- Tháng 6/2006, Quyết định số 2276/QĐ-BTC về tập trung đấu thầu trái phiếu
Chính phủ tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Nội Quyết định
46/2006/QĐ-BTC ban hành Quy chế về việc phát hành trái phiếu Chính phủ theo
15
Thị trường trái phiếu Việt Nam
lớn. Quyết định này quy định sẽ chỉ tập trung hoạt động đấu thầu trái phiếu
Chính phủ, bao gồm trái phiếu kho bạc trái phiếu đầu tại Trung tâm Giao
dịch Chứng khoán Hà Nội kể từ ngày 01/07/2006.
+ Chỉ sau 3 tháng kể từ ngày Quyết định này ra đời, Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Nội đạt được những thành công bước đầu khi tổ chức thành công 4
phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ theo kế hoạch huy động vốn của Kho bạc
Nhà nước, huy động được 1.200 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 5 năm, đạt 80% khối
lượng gọi thầu; đã 38 loại trái phiếu đăng giao dịch với tổng giá trị đạt
7.027 tỷ đồng.
+ 6 tháng đầu năm 2007 thông qua gần 30 phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ
tại HASTC, đã huy động được 12.695 tỷ đồng cho ngân sách nhà nước. Hơn
nữa, lãi suất đấu thầu trái phiếu giảm dần (lần đầu tiên lãi suất trái phiếu Chính
phủ đã giảm xuống mức thấp hơn lãi suất ngân hàng, cụ thể lãi suất cơ bản vào
ngày 1/6/2007 8,25% theo Quyết định 1143/QĐ-NHNN ngày 29/5/2007,
trong khi đó lãi suất trúng thầu trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm vào ngày
11/6/2007 là 7,15%), dẫn đến lãi suất bảo lãnh phát hành cũng giảm.
+ Tuy nhiên sự thành công đó cũng bắt đầu giảm dần khi tỷ lệ thành công các đợt
đấu thầu giảm mạnh từ 99% quý 1 xuống còn 58,39% của quý III năm 2007
tiếp sau đósự thất bại của hàng loạt các đợt đấu thầu như lô 200 tỷ đồng kỳ
hạn 15 năm phát hành ngày 27/9/2007 của Ngân hàng Phát triển Việt Nam
nguyên nhân chính do yếu tố lãi suất thấp, mặc độ rủi ro thấp. Nhiều
người đã lạc quan cho rằng “hoạt động đấu thầu loại chứng khoán này đang
thực sự chuyển biến tích cực và ngày càng hiệu quả hơn”.
+ Khối lượng phát hành của một lớn trái phiếu tối thiểu 1.000 tỷ đồng. Kỳ
hạn của trái phiếu lớn từ 5 năm trở lên. Trái phiếu lớn được phát hành
theo phương thức sau: đấu thầu trái phiếu hoặc bảo lãnh phát hành trái phiếu.
Thời hạn phát hành của một lô lớn trái phiếu tối đa không quá 365 ngày..
16
Thị trường trái phiếu Việt Nam
- Tính đến 30/9/2007, đã có hơn 114.809 tỉ đồng trái phiếu được niêm yết giao dịch
trên Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM (HOSE) Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Hà Nội (HASTC), tăng gấp hơn 104 lần so với giá trị niêm yết năm 2000
- Tháng 1/2008, Quyết định 86/2008/QĐ-BTC phê duyệt đề án xây dựng thị trường
TPCP chuyên biệt. Đây được xem là mốc sự kiện quan trọng nhất vì đã đặt ra mục
tiêu, lộ trình xác định hình phát triển của Thị trường trái phiếu chính phủ.
Đề án được xây dựng nhằm tạo ra một thị trường giao dịch trái phiếu chuyên biệt,
tách hẳn khỏi thị trường giao dịch cổ phiếu.
+ Hàng hóa giao dịch bao gồm các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính
quyền địa phương, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh. Tất cả các loại trái phiếu
giao dịch trong hệ thống đều được lưu tập trung tại Trung tâm Lưu
chứng khoán.
+ Trái phiếu Chính phủ giao dịch sẽ được gán giao dịch định danh
riêng biệt để tạo thuận lợi cho hoạt động giao dịch quản lý. Phương thức
giao dịch được áp dụng thỏa thuận. Thành viên thể thực hiện giao dịch
thỏa thuận từ xa thông qua hệ thống mạng máy tính nội bộ mở rộng.
- Tháng 5/2008, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quyết định chuyển trái phiếu
Chính phủ từ sàn Tp.HCM sang niêm yết tại sàn Hà Nội.
- Tháng 7/2008, Quyết định Số 46/2008/QĐ-BTC ban hành Quy chế quản giao
dịch trái phiếu Chính phủ tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
+ Quy chế này quy định về hoạt động đăng ký niêm yết, công bố thông tin, thành
viên giao dịch trái phiếu Chính phủ, giao dịch và quản lý giao dịch TPCP niêm
yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
+ Từ khoảng đầu năm 2008, liên tục diễn ra các cuộc đấu giá trái phiếu Chính
phủ không thành công, số lượng tham gia rất èo uột, thậm chí không có ai tham
dự. Một thống cho thấy: trong 10 cuộc đấu giá từ tháng 3/2008 đến
11/7/2008 thì chỉ 11 đơn vị tham gia với tổng cộng 875 tỷ đồng được đăng
đấu so với trên 8.000 tỷ đồng gọi thầu. 6 cuộc đấu giá chỉ một đơn vị
tham gia đấu giá và 9 cuộc đấu giá không có một trái phiếu nào được đấu thành
17
Thị trường trái phiếu Việt Nam
công. Từ đầu năm 2009 đến tháng 7/2009, các cuộc đấu thầu trái phiếu Chính
phủ cũng chịu chung số phận. Thậm chí, từ đầu tháng 4 đến tháng 7, lãi suất
trần huy động trái phiếu Chính phủ tăng thêm đến 1,2 điểm phần trăm (từ 7,6%
đến 8,8%), nhưng các cuộc đấu giá trái phiếu Chính phủ vẫn chưa thể tạo được
sức hút đối với các nhà đầu trong ngoài nước, như sự thất bại của phiến
đấu thầu 500 tỷ đồng ngày 29/5/2009 của Công ty CP Đầu phát triển
đường cao tốc VN (VEC) …
- Tháng 9/2009, Hệ thống giao dịch Trái phiếu Chính phủ chuyên biệt chính thức
được Sở Giao dịch Chứng khoán Nội đưa vào vận hành ra mắt vào ngày
24/09/2009 tới với mục tiêu phát huy tối đa tầm quan trọng của kênh huy động
vốn này đối với nền kinh tế.
+ Mục tiêu xây dựng phát triển Thị trường trái phiếu Chính mở rộng thị
trường, tăng cường tính thanh khoản trên thị trường trái phiếu Chính phủ, liên
kết thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, và tăng cường công tác giám sát thị
trường.
+ Sự ra đời của thị trường này được kỳ vọng không chỉ một kênh dẫn vốn hữu
hiệu của nền kinh tế mà còn làm đa dạng hóa các công cụ đầu tư trên thị trường
vốn. Đồng thời, thị trường trái phiếu Chính phủ còn giúp tăng cường sự độc lập
trong điều hành chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương thông qua
mua bán trái phiếu Chính phủ, tác động trực tiếp đến lượng cung tiền các
biến số kinh tế vĩ mô.
+ Sau một năm chính thức đi vào hoạt động, thị trường trái phiếu chuyên biệt đã
những bước tiến mới, đó thực hiện lưu tập trung tại Sở Giao dịch
Chứng khoán Nội chứ không thực hiện một cách rải rác trên nhiều thị
trường. Hơn nữa, nhờ yêu cầu khắt khe đối với các thành viên tham gia thị
trường về các yếu tố trang thiết bị, chất lượng nhân sự, các bên tham gia thị
trường có thể yên tâm về tính an toàn khi giao dịch. Các cơ chế dành cho giao
dịch REPO rất hạn chế. Trong giai đoạn 2010 2015 thị trường sẽ thêm
giao dịch option, future giao dịch corporation để đưa các trái phiếu doanh
18
Thị trường trái phiếu Việt Nam
nghiệp vào giao dịch.
- Năm 2010, thị trường trái phiếu Chính phủ tiếp tục ảm đạm, như đợt đấu thầu cho
3.000 tỷ đồng, kỳ hạn 2 năm tổ chức lần 1 vào ngày 25/1/2010 đã thất bại
phiên đấu thầu thứ 2 vào ngày 24/3/2010 cũng chỉ bán được 3,33% tổng khối
lượng chào bán. Tuy nhiên, tổng giá trị giao dịch đạt trên 81.000 tỷ đồng, bình
quân mỗi phiên giao dịch đạt 340 tỷ đồng. Người mua trái phiếu Chính phủ: Chủ
yếu là các nhà đầu tư trong nước, đặc biệt là các NHTM, với 2 lý do chủ yếu là:
+ Thứ nhất, các đầu nước ngoài chưa quay trở lại thị trường do sự quan
ngại nhất định về sự sụt giảm giá trị của VND so với USD.
+ Thứ hai, nhu cầu mua trái phiếu Chính phủ tăng mạnh của khối các tổ chức tín
dụng trong nước do: bối cảnh chính sách tiền tệ mở rộng giai đoạn giữa m
làm gia tăng áp lực dư thừa vốn; Thông tư 13 và Thông tư 19 buộc các tổ chức
tín dụng phải tăng cường đầu vào trái phiếu Chính phủ; các NHTM tích cực
tham gia mua trái phiếu Chính phủ do chênh lệch lãi suất khá hấp dẫn giữa thị
trường mở (OMO) huy động từ thị trường 1; một lượng khá lớn trái phiếu
Chính phủ đáo hạn trong năm 2010, phần lớn tại các NHTM, nên các
NHTM tiếp tục mua lại và nắm giữ trái phiếu Chính phủ.
- Năm 2011
+ Tổng giá trị giao dịch chỉ đạt trên 73.000 tỷ đồng, bình quân 280 tỷ
đồng/phiên. Giá trị giao dịch trái phiếu chính phủ trong năm 2011 lại giảm so
với 2010 (tốc độ giảm9,88%). Nguyên nhân sự sụt giảm TPCP 2011 do tác
động từ khủng hoảng nợ công châu Âu, suy thoái kinh tế Mỹ, lạm phát cao ở
nhiều nước châu Á, cùng với một lượng lớn trái phiếu chính phủ đã đến hạn
(hơn 50.000 tỷ đồng), bội chi ngân sách… gây áp lực lên nguồn cung trái phiếu
chính phủ thị trường cấp; lạm phát cao chính sách tiền tệ thắt chặt đã
hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư.
+ Tổng khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành thành công đạt 65.903,8 tỷ
đồng, đạt 77,5% kế hoạch năm. Khối lượng trái phiếu phát hành thành công
nhiều nhất thuộc kỳ hạn 3 năm (30.117,1 tỷ đồng) và 5 năm (22.678,5 tỷ đồng).
19
Thị trường trái phiếu Việt Nam
Khối lượng trái phiếu chính phủ bảo lãnh phát hành thành công đạt 14.957 tỷ
đồng, trong đó, khối lượng trúng thầu kỳ hạn 3 năm 5 năm đạt lần lượt
5.742 tỷ đồng và 4.770 tỷ đồng.
Biểu đồ: Khối lượng trái phiếu Chính phủ đã phát hành năm 2011
- Năm 2012, huy động phát hành trái phiếu chính phủ đạt kỷ lục kể từ khi thị
trường này được Sở Giao dịch Chứng khoán Nội vận hành chính thức ngày
24/9/2009
+ Trên thị trường cấp, tính đến cuối tháng 12/2012 đã huy động đạt gần
20
Thị trường trái phiếu Việt Nam
160.000 tỷ đồng (gần gấp 2 lần so với cả năm 2011), vượt chỉ tiêu kế hoạch
huy động điều chỉnh năm 2012 là 135.000 tỷ đồng. Trong tổng giá trị đấu thầu
huy động được trong năm 2012, chỉ riêng Kho bạc Nhà nước đã huy động
được 106.884 tỷ đồng. Lãi suất trúng thầu giảm so với năm 2011 thấp hơn
lãi suất huy động trên thị trường tiền tệ từ 1% - 2%.
+ Trên thị trường thứ cấp, hoạt động giao dịch "nhộn nhịp" hơn so với thị trường
cổ phiếu, giá trị giao dịch bình quân đạt 842 tỷ đồng/phiên, gấp 2,3 lần so với
bình quân phiên năm 2011. Giá trị giao dịch trên thị trường trái phiếu chính
phủ đạt 189.086 tỷ đồng tính đến thời điểm đầu tháng 12/2012, trong đó giao
dịch repos chỉ chiếm khoảng 30% tổng giá trị. Ngân hàng các tổ chức tín
dụng khu vực cung cấp phần lớn các nguồn vốn cho đầu của nền kinh tế
cũng nguồn cầu chủ yếu đối với trái phiếu. Mục tiêu chủ yếu mua trái
phiếu, đặc biệt với trái phiếu chính phủ, của các ngân hàng thương mại để
đảm bảo khả năng thanh khoản và làm công cụ trong giao dịch với Ngân hàng
Nhà nước... Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán cũng tham gia với mục
đích đầu tài chính. Tính tới thời điểm hiện tại, đã 24 ngân hàng thương
mại 29 công ty chứng khoán thành viên của thị trường trái phiếu chính
phủ
21
Thị trường trái phiếu Việt Nam
* Nhận định xu hướng:
- Trong 2 năm trở lại đây thị trường trái phiếu chính phủ đã trở nên sôi động hơn là
do:
+ Các tổ chức tín dụng trong quá trình tái cơ cấu lại đã chú trọng hơn đến việc
đảm bảo các chỉ tiêu an toàn hoạt động, nhiều ngân hàng đã nâng tỷ lệ sở hữu
trái phiếu chính phủ nhằm mở rộng dự trữ thanh khoản thứ cấp. Do đó trái
phiếu chính phủ trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn của các tổ chức tín dụng.
+ Việc Chính phủ Ngân hàng nhà nước thể hiện quyết tâm thực hiện tái cấu
trúc nền kinh tế cũng như hệ thống các tổ chức tín dụng đã tạo ra triển vọng
kinh tế vĩ mô ổn định, thu hút được sự quan tâm của các nhà đâu tư nước ngoài
đối với thị trường trái phiếu Chính phủ của Việt Nam.
+ Lãi suất trái phiếu chính phủ ở mức khá hấp dẫn đối với những nhà đầu tư.
- Giá trị giao dịch của thị trường xu hướng ngày càng tăng cao: năm 2011 tổng
giá trị giao dịch khoảng 90 nghìn tỷ đồng thì năm 2012 đã tăng lên 150 nghìn tỷ
đồng và trong 9 tháng đầu năm 2013 đã đạt gần 240 nghìn tỷ đồng.
- Lãi suất trái phiếu Chính phủ có xu hướng giảm dần qua 2 năm
- Theo nhận định thì trong năm 2013 và 2014 thị trường trái phiếu chính phủ sẽ tiếp
tục tăng cao khi các Ngân hàng thực hiện việc tái cơ cấu sẽ chú trọng hơn đến mức
22
Thị trường trái phiếu Việt Nam
độ an toàn và thanh khoản của tài sản để đảm bảo an toàn cho hoạt động của Ngân
hàng.
1.2 Th tr ng trái phiếếu chính quyếền đ a ph ng ườ ươ :
Dựa vào những điểm mốc của việc hình thành khung pháp chế phân cấp
NSNN cho việc phát hành trái phiếu đô thị, có thể chia làm hai giai đoạn cơ bản:
- Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2003
chế phân cấp của ngân sách trong giai đoạn này còn mang nặng tính tập trung,
phần lớn nguồn thu các dự án đầu đều do ngân sách trung ương thực hiện. Vì vậy, chỉ
một số địa phương vận dụng nội dung các văn bản pháp về phát hành trái phiếu
chính phủ, trái phiếu công trình để đầu cho các công trình địa phương. Những trái
phiếu này được đảm bảo thanh toán bằng nguồn ngân sách địa phương.
Năm 1995, triển khai Nghị định 72/CP của Chính phủ, Bộ Tài chính hướng dẫn Ủy
ban Nhân dân các tỉnh xây dựng đề án huy động vốn cho các dự án đầu tư trọng điểm của
địa phương về phát triển kinh tế xã hội. Ủy ban Nhân dân các tỉnh như: Bình Thuận, Tiền
Giang, Mau, Lào Cai… đã triển khai kế hoạch đầu các công trình thuộc hạ tầng
kinh tế hội. Vận dụng nội dung của Luật ngân sách nhà nước, nhằm khuyến khích các
địa phương đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, thông qua quỹ đầu tư phát triển đô thị, các địa
phương như TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng, Đồng Tháp, như: khu đô
thị Linh Đàm 42 tỷ đồng; khu đô thị mới Định Công 50 tỷ đồng; khu đô thị mới Chí Linh
71 tỷ đồng; nhà máy xi măng Bút Sơn 12,2 tỷ đồng; nhà máy xi măng Anh Sơn 7,6 tỷ
đồng; đường Nguyễn Tất Thành-liên tỉnh lộ 15 25,2 tỷ đồng… Ngoài ra, một số địa
phương như: Tiền Giang, Bình Thuận, Khánh Hòa… phát hành trái phiếu công trình huy
động trên 130 tỷ đồng.
- Giai đoạn từ năm 2003 đến nay
Đẩy mạnh đầu tư phát triển kinh tế, nhằm hoàn thành chỉ tiêu kinh tế hội trong kế
hoạch 5 năm (2000-2005) cùng với tiến trình đô thị hóa, đã làm cho nhu nhu cầu vốn đầu
tư của tỉnh, thành phố tăng lên rất lớn, đặc biệt là các dự án phát triển hạ tầng cơ sở. Vận
dụng nội dung ở khoản 3 điều 8 Luật ngân sách nhà nước về cho phép các tỉnh, thành chủ
23
Thị trường trái phiếu Việt Nam
động huy động vốn để thực hiện các công trình đầu tư cơ sở hạ tầng, và các nghị định của
Chính phủ về việc áp dụng quy chế tài chính đặc biệt cho một số địa phương như Nghị
định 123/2004/NĐ-CP và Nghị định 124/2004/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2004, cùng
với việc thực hiện hiệnchế phi tập trung hóa trong lĩnh vực ngân sách nhà nước, một
số tỉnh, thành phố điều kiện về tiềm lực kinh tế đã vận dụng phương thức phát hành
trái phiếu đô thị để huy động vốn tài trợ cho các dự án phát triển sở hạ tầng. Từ năm
2003-2007, thông qua Quỹ đầu tư phát triển các địa phương như TP.HCM, Hà Nội đã huy
động được một lượng vốn lớn cho ngân sách. Tổng lượng vốn hai địa phương này
huy động qua phát hành trái phiếu đô thị trên 11.000 tỷ đồng, trong đó TP.HCM là 10.000
tỷ đồng và Hà Nội là trên 1.000 tỷ đồng.
TP.HCM là địa phương đầu tiên ở Việt Nam được thực hiện phát hành trái phiếu chính
quyền địa phương, là trái phiếu đô thị TP.HCM. Quỹ Đầu tư là đơn vị được UBND TP ủy
nhiệm việc phát hành trái phiếu đô thị qua các năm. Năm 2003 - 2007, Quỹ đã đảm
nhiệm vai trò vấn kỹ thuật, phối hợp cùng Sở Tài chính thực hiện thành công 5 đợt
phát hành trái phiếu đô thị, huy động được 10.000 tỷ đồng trái phiếu đáp ứng nhu cầu
phát triển của Thành phố. Riêng năm 2009 là năm đầu tiên thành phố phát hành trái phiếu
đô thị cho các công trình nguồn thu, cụ thể cho dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm
với kế hoạch phát hành 14.000 tỷ đồng. Tính đến cuối tháng 11/2009, khối lượng trái
phiếu phát hành là 1.540 tỷ đồng, đạt 38,5% so với kế hoạch, với loại kỳ hạn 3 năm theo
phương thức bảo lãnh. Khối lượng trái phiếu còn lại đã được tiếp tục triển khai phát hành
trong năm 2010. Việc phát hành thành công trái phiếu đô thị TP.HCM không những mở
ra một kênh huy động vốn mới, có những ưu điểmcó thểthời hạn dài ổn định,
mức chi phí vốn hợp lý, góp phần đáng kể trong việc huy động vốn cho đầu phát triển
hạ tầng đô thị, đồng thời khắc phục một số hạn chế trong việc huy động tín dụng từ các
ngân hàng của chính quyền địa phương...mà còn ý nghĩa lớn về mặt thực hiện chủ
trương thí điểm phát hành trái phiếu của chính quyền địa phương theo cơ chế "tự vay, tự
trả" ở nước ta, mở ra triển vọng nâng cao tính tự chủ trong quảnngân sách đầu tư của
chính quyền địa phương.
Từ tháng 09/2012 UBND TP.HCM đã kiến nghị với Chính phủ Bộ Tài chính chấp
24
Thị trường trái phiếu Việt Nam
thuận cho huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu chính quyền địa phương
trong nước để đầu tư phát triển kinh tế xã hội năm 2012. Theo kế hoạch TP.HCM sẽ phát
hành 2.000 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 3 năm và 3.000 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 5 năm. Đà
Nẵng cũng đã phát hành 1.500 tỷ đồng trái phiếu trong kế hoạch 5.000 tỷ đồng cho năm
tài khóa 2013. Hà Nội cũng đã thông qua kế hoạch phát hành 5.000 tỷ đồng trái phiếu cho
địa phương mình, việc phát hành được thực hiện từ năm 2013 2015. Tiếp nối các thành
phố lớn thì các tỉnh như Bình Dương , Bắc Ninh một số địa phương phía Bắc cũng
đang đề xuất và có phương án phát hành trái phiếu cho địa phương mình.
* Một số hạn chế tồn tại của thị trường trái phiếu chính quyền địa phương:
- Quy mô thị trường phát hành trái phiếu đô thị còn quá nhỏ, vốn huy động còn hạn
chế chưa đáp được nhu cầu vốn đầu phát triển sở hạ tầng đô thị. Mặc dù,
Luật NSNN cho phép các địa phương huy động vốn đầu tư các công trình cơ sở hạ
tầng, tuy nhiên các địa phương vẫn chưa mạnh dạn lựa chọn phương thức này.
Tính đến cuối năm 2007, chỉ mới có 2 địa phương thực sự chủ động thực hiện phát
hành trái phiếu để huy động vốn đầu tư cho ngân sách là Hà Nội và TP.HCM.
- Công tác kế hoạch hóa kế hoạch huy động vốn còn chưa được quan tâm đúng
mức. Chỉ mới xây dựng kế hoạch hàng năm, các địa phương chưa chiến lược
tổng thể về huy động vốn thông qua phát hành trong khoảng thời gian dài 5-10
năm, trong khi đã phát hành loại trái phiếu kỳ hạn 15 năm. Việc xây dựng kế
hoạch phát hành trái phiếu mang tính thụ động, chủ yếu dựa vào nhu cầu chi tiêu
dự toán Ngân sách đã được thông qua. Quy trình lập dự toán ngân sách hiện
nay vẫn còn theo mô hình cũ, dựa trên sở nguồn tài chính huy động đầu vào từ
đó xác định đầu ra.
- Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2011/NĐ-CP về phát hành trái phiếu
chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh trái phiếu chính quyền địa
phương đã tạo hành lang pháp lý quan trọng trong việc phát hành trái phiếu chính
quyền địa phương. Tuy nhiên với quy định Bộ tài chính chịu trách nhiệm thẩm
định đề án phát hành trái phiếu ban hành văn bản chấp thuận hoặc không chấp
thuận việc phát hành trái phiếu thì khó tránh khỏi cơ chế xin – cho.
25
Thị trường trái phiếu Việt Nam
- Năng lực quản nguồn vốn phát hành trái phiếu của chính quyền địa phương
cũng là một điểm cần khắc phục trước khi được trao quyền phát hành trái phiếu.
1.3 Th tr ng trái phiếếu công ty ườ
Các doanh nghiệp phát hành bao gồm các doanh nghiệp nhà nước đang thực hiện cổ
phần hoá, hay các tổng công ty, tập đoàn kinh tế lớn. Số trái phiếu này được phát hành
thông qua kênh đấu giá, bảo lãnh môi giới. Tuy nhiên, tính thanh khoản của loại trái
phiếu này cũng không cao.
Năm 2007 mới chỉ 10 doanh nghiệp phát hành trái phiếu, gồm có:
PetroVietnam, Tổng công ty cao su, Vinashin, Electric Vietnam Copreration (EVN),
Lilama, Vietnam Steel Corperation, Vilexim, Tổng Công ty cổ phần xây dựng điện Việt
nam, Tổng công ty Sông Đà Vinaconex. Tất cả các công ty này đều những đơn vị
đầu ngành hoặc các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa. Thực tế, nhu cầu của họ
nguồn vốn lớn, dài hạn ổn định để đáp ứng yêu cầu, những nguồn vốn này khó
thể vay được từ một ngân hàng. Thực ra uy tín của các công ty này đủ để đề nghị với
ngân hàng bất kì khoản vay nào, tuy nhiên, các ngân hàng cũng những giới hạn trong
việc cho vay như khoản vay tối đa phải dưới 15% tổng vốn chủ sở hữu. Do vậy, thị
trường trái phiếu là một kênh cần thiết để huy động lượng vốn lớn, dài hạn.
Hầu hết các trái phiếu được phát hành đều kỳ hạn dài, ngắn nhất là 2 năm, dài
nhất là 10 năm. Trái phiếu EVN hầu hết đều có kỳ hạn 10 năm, đầu tư vào các công trình
thuỷ điện, cải tạo mạng lưới điện quốc gia. Trái phiếu Vinaconex Lilama phát hành
thường kỳ hạn 5 năm. Để khuyến khích các nhà đầu tư, Vinanconex phát hành trái
phiếu kèm theo chứng quyền (warrant) quyền mua cổ phiếu của Nhà máy xi măng
Cẩm Phả với mức giá ưu đãi. Trong một thị trường tài chính phát triển, trái phiếu thường
thời hạn từ trên 20 năm cho đến 30 năm. Các ngân hàng thường hạn chế trong việc
cho vay các khoản vay dài hạn như thế rủi ro cao. Tuy nhiên, Việt Nam, trong điều
kiện lạm phát cao, môi trường chính sách không đảm bảo do tác động khá nhạy cảm
của các biến động kinh tế quốc tế đã gây nên tâm thiếu tin tưởng của các nhà đầu
khi đầu tư vào một loại trái phiếu có thời hạn quá dài.
26
Thị trường trái phiếu Việt Nam
Tất cả các trái phiếu đều trả lãi sau, với phương thức trả lãi hàng năm (coupon), lãi
suất cố định. Riêng Tổng công ty Sông Đà EVN phát hành trái phiếu lãi suất thả
nổi, được điều chỉnh căn cứ vào lãi suất Trái phiếu Chính Phủ hoặc lãi suất trên thị
trường tiền tệ liên ngân hàng. Về bản, lãi suất trái phiếu doanh nghiệp đều cao hơn lãi
suất đấu thấu trái phiếu chính phủ.
Tính đến năm 2008 mới chỉ 21 doanh nghiệp phát hành trái phiếu gồm có:
Petro VietNam, Tổng công ty cao su, Vinashin, Electric Vietnam Copreration (EVN),
Lilama, Vietnam Steel Corperation, Vilexim,… Tất cả các công ty này đều những đơn
vị đầu ngành hoặc các doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa. Thực tế nhu cầu vốn
của họ nguồn vốn lớn, dài hạn ổn định để đáp ứng yêu cầu, những nguồn vốn
này khó thể vay được từ một ngân hàng. Thực ra uy tín của các công ty này đủ để đề
nghị với ngân hàng bất kỳ khoản vay nào, tuy nhiên các ngân hàng cũng những giới
hạn trong việc cho vay như các khoản vay tối đa phải dưới 15% tổng vốn chủ sở hữu. Do
vậy thị trường trái phiếu là một kênh cần thiết để huy động lượng vốn lớn, dài hạn.
Đến năm 2009, thị trường trái phiếu doanh nghiệp khá sôi động với nhiều đợt phát
hành thành công, trong đó chủ yếu hình thức phát hành trái phiếu với lãi suất thả nổi.
Do lo ngại rủi ro biến động lãi suất mức cao cả nhà phát hành lẫn đầu đều tập
trung vào loại hình trái phiếu này. Ước tính đã có khoảng 18.000 tỉ đồng giá trị trái phiếu
lãi suất thả nổi được bán ra, chiếm 77% trong tổng giá trị trái phiếu huy động được
(hơn 26.000 tỉ đồng). Điển hình là hồi cuối tháng 4/2009, ngân hàng ANZ tại Việt Nam
Công ty tài chính cổ phần Điện lực đã công bố hoàn tất việc phát hành trái phiếu
doanh nghiệp thời hạn 5 năm tổng trị giá 3.500 tỷ đồng cho Tập đoàn Điện lực Việt
Nam. Bên cạnh đó, công ty phát triển đô thị Kinh Bắc cũng đã phát hành được 700 tỷ
đồng trái phiếu kỳ hạn 5 năm với lãi suất 11.5%/năm nhằm phục vụ cho dự án Khu công
nghiệp Quế mở rộng khu đô thị mới Phúc Ninh. Ngoài ra còn nhiều doanh
nghiệp lớn nữa đã phát hành trái phiếu thành công khi thị trường chứng khoán dấu
hiệu khởi sắc trong năm 2009 như: Công ty cổ phần đầu tư phát triển đô thị và Khu công
nghiệp Sông Đà, Công ty Tín Nghĩa…Và chỉ tính riêng ba đợt phát hành của Hòa Phát,
27
Thị trường trái phiếu Việt Nam
Hoàng Anh Gia Lai và FPT, thì lượng vốn huy động đã lên đến 4.370 tỉ đồng, chiếm hơn
15% tổng khối lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong năm 2009.
Năm 2011 thị trường trái phiếu DN khá ảm đạm khi môi trường kinh tế cả trong
ngoài nước bất ổn, khiến việc phát hành trái phiếu DN hết sức khó khăn. Nhiều DN
phải hoãn hoặc hủy kế hoạch phát hành trái phiếu như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam hoãn
phát hành 500 triệu USD trái phiếu. Một loạt các DN trên sàn niêm yết như Địa ốc Hoàng
Quân (HQC), NHTMCP Sài Gòn (SCB); Khoáng sản Na (KSS) cũng trong tình
trạng tương tự. Rủi ro tín dụng tăng cao dẫn tới nhiều trái phiếu mặc dù được chào với lãi
suất rất cao từ 21-23%/năm vẫn không thể bán được, đặc biệt trái phiếu bất động sản.
Bức tranh thị trường thứ cấp cũng không sáng sủa hơn, thanh khoản rất ít và chỉ tập trung
ở một số trái phiếu của doanh nghiệp lớn như EVN, Lilama, BIDV, FPT… Theo thống kê
của Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA), năm 2011 ước tính có khoảng 27
đợt phát hành trái phiếu với khối lượng giao dịch khoảng 7.000 tỷ đồng, chỉ bằng 12,5%
so với năm 2010.
Năm 2012 43 doanh nghiệp đăng phát hành trái phiếu công ty với khối
lượng 33 nghìn tỷ đồng, thực tế khối lượng đã phát hành khoảng 17 nghìn tỷ đồng. Trong
năm 2012 các doanh nghiệp phát hành trái phiếu với lãi suất lên tới 16%/năm, thậm chí
18%/năm cho kỳ đầu tiên và biên lãi suất 4% - 4,5%/năm cho các kỳ thanh toán tiếp theo
nhưng những nhà đầu tư vẫn dè dặt với kênh đầu tư này.
6 tháng đầu năm 2013 tổng lượng trái phiếu công ty phát hành khoảng 15.000 tỷ
đồng, trong khi cả năm 2012 chỉ là 17.000 tỷ đồng. Đặc biệt, trong quý III-2013 có ít nhất
13.000 tỷ đồng trái phiếu công ty được phát hành. Như vậy, với ít nhất 3 đợt chào bán trái
phiếu công ty quy khoảng 2.000 tỷ đồng/đợt đang được thực hiện, tổng lượng trái
phiếu công ty phát hành trong năm 2013 thể lên tới 34.000 tỷ đồng (gấp đôi năm
2012). Một trong những doanh nghiệp thành công nhất trong việc phát hành trái phiếu
công ty là Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin).
6 tháng đầu năm 2012 thị trường trái phiếu công ty vẫn còn hết sức ảm đạm khi có
rất ít doanh nghiệp tổ chức phát hành trái phiếu để huy động vốn. Trong 6 tháng, chỉ
duy nhất thỏa thuận đạt được giữa CTCP Đầu tư hạ tầng kỹ thuật TPHCM (CII) và Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). Theo đó, Vietcombank sẽ mua toàn
28
Thị trường trái phiếu Việt Nam
bộ 1.000 tỷ đồng TPDN do CII phát hành. Trên thực tế, thị trường trái phiếu công ty chỉ
thật sự sôi động kể từ cuối quý II-2013, khi TP chính phủ không còn hấp dẫn do lợi suất
mang lại đã giảm về mức rất thấp. Bên cạnh đó, với bối cảnh thanh khoản hệ thống ngân
hàng dồi dào trong khi các kênh đầu như bất động sản, chứng khoán đều khá rủi ro đã
thúc đẩy các nhà đầu chuyển hướng nhu cầu sang đầu vào trái phiếu công ty với
mức lợi suất cao hơn hẳn, trung bình 12-14%/năm. Cụ thể, cuối tháng 8 vừa qua,
Vinacomin đã phát hành thành công 5.000 tỷ đồng TP, gấp 1,7 lần khối lượng dự kiến
3.000 tỷ đồng khi tập đoàn này bắt đầu thăm dò thị trường. Ngân hàng TMCP Đầu
Phát triển Việt Nam (BIDV) phát hành thành công TP 10 năm, với kết quả vượt 5% so
với mục tiêu 3.000 tỷ đồng ban đầu vượt gần 60% so với con số 2.000 tỷ đồng khi
ngân hàng này thăm dò nhu cầu thị trường hồi quý II-2013. Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai
(HAG) thu được 950 tỷ đồng từ TP bằng việc phát hàng 950 TP, mệnh giá 1 tỷ đồng/TP.
Số TP được HAG phát hành lần này kỳ hạn 3 năm lãi suất kỳ tính lãi đầu tiên
14%/năm
* Một số điểm hạn chế của thị trường trái phiếu công ty:
- Số lượng doanh nghiệp lượng vốn huy động từ thị trường trái phiếu doanh
nghiệp còn hạn chế. Các doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu chủ yếu là các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế.
- Thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn thiếu nhiều yếu tố quan trọng trong hệ
thống cơ sở hạ tầng (quản trị doanh nghiệp, tổ chức định mức tín nhiệm, hệ thống
thông tin giao dịch thứ cấp, hệ thống nhà đầu tư…).
- Điều kiện phát hành trái phiếu hiện nay quy định tại Nghị định 90/2011/NĐ-CP
quá chặt chẽ như yêu cầu doanh nghiệp phải lãi. Bởi những trường hợp
doanh nghiệp cần phát hành trái phiếu để cấu lại tài chính, đang bị lỗ cũng
thể phát hành trái phiếu
1.4 Trái phiếếu quôếc tếế
Năm 2005, lần đầu tiên Việt Nam phát hành thành công 750 triệu USD trái phiếu
Chính phủ ra thị trường vốn quốc tế. Đây là một đợt phát hành rất thành công và đã được
thị trường tài chính quốc tế bình chọn là một sự kiện lớn trên thị trường tài chính quốc tế.
29
Thị trường trái phiếu Việt Nam
Toàn bộ số tiền vay qua trái phiếu quốc tế đã được cho Vinashin vay lại để đầu phát
triển ngành công nghiệp đóng tàu.
Đợt phát hành trái phiếu ngày 26/01/2010, Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ
USD trái phiếu Chính Phủ thời hạn 10 năm trên thị trường quốc tế với lợi tức 6,95%. Số
tiền thu được từ đợt phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế này được tập trung o các
mục tiêu:
+ Hoàn trả vốn ngân sách Nhà Nước
+ Giao Bộ Kế hoạch&Đầu tư phối hợp Bộ Tài chính lựa chọn dự án phù hợp (dự
kiến cho các Tập đoàn Dầu khí, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công
ty Sông Đà Tổng Công ty lắp máy Việt Nam đầu bổ sung các dự án lọc
hóa dầu Dung Quất, dự án xây dựng thủy điện Ca Mản 3, nhà máy thủy
điện Hủa Na và mua tàu vận tải biển).
Phát hành trái phiếu quốc tế thể giúp doanh nghiệp huy động được lượng vốn lớn
với kỳ hạn dài để phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh, nhất trong bối cảnh lãi
suất ngân hàng cao như hiện nay. Đây là những động lực chính khiến nhiều “ông lớn” lên
kế hoạch phát hành trái phiếu trong năm nay. Nhiều DN lớn của Nhà nước và tư nhân đều
có kế hoạch phát hành trái phiếu quốc tế do nhu cầu vốn lớn như Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN), hiện đang triển khai xây dựng 15 dự án điện, với tổng công suất 10.581
MW. Tổng vốn đầu cho 15 dự án 9 tỷ USD. Ngoài ra, EVN còn 11 dự án trong
giai đoạn chuẩn bị đầu tư, với tổng công suất 7.285 MW đang thực hiện các thủ tục
đầu 5 dự án nguồn điện khác, dự kiến khởi công trong giai đoạn 2011 - 2015 gồm 2
nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1&2 (hơn 4.000 MW) và 3 dự án thuỷ điện tích năng
(Bắc Ái, Hàm Thuận Bắc, Mộc Châu, tổng công suất 3.600 MW).
Với những dự án lớn như vậy, khó thể chỉ trông chờ vào vốn nội địa. Để đảm bảo
nguồn vốn cho các dự án điện, EVN có kế hoạch phát hành 5.000 tỷ đồng trái phiếu trong
nước 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế năm 2011. Bên cạnh đó, kế hoạch phát hành 1 tỷ
USD trái phiếu ra thị trường quốc tế đã được Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) dự kiến
phát hành từ năm 2009, nhưng gần 2 năm trôi qua, kế hoạch này vẫn chưa được thực
hiện. Năm 2011 này, PVN đã có kế hoạch đầu tư khoảng 5-6 tỷ USD cho nhiều dự án của
30
Thị trường trái phiếu Việt Nam
mình mục tiêu hướng tới không vay ưu đãi sẽ phát hành trái phiếu quốc tế để
giải quyết nhu cầu về vốn. Đối với Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) cũng
vừa trình lên Chính phủ xin phép được tái phát hành 500 triệu USD trái phiếu quốc tế.
Thời điểm phát hành trái phiếu quốc tế thuận lợi nhất vào khoảng giữa năm 2011 khi
các báo cáo quyết toán đã hoàn thiện, nguồn tài chính trên thế giới dồi dào. Ngân hàng
Đầu tư Phát triển Việt Nam (BIDV) dự kiến sẽ làm việc với các cơ quan Nhà nước để
phát hành 500 triệu USD trái phiếu quốc tế, nhằm tăng vốn cấp 2 khi điều kiện thị trường
cho phép.
Không chỉ các tập đoàn Nhà nước cần đến dòng vốn quốc tế, Tập đoàn Hoàng Anh
Gia Lai (HAG) đã tổ chức đại hội cổ đông bất thường nhằm thông qua kế hoạch phát
hành 200 triệu USD trái phiếu quốc tế. Trái phiếu sẽ được niêm yết trên thị trường chứng
khoán Singapore.
Trong năm 2012, có 4 doanh nghiệp Việt Nam xây dựng kế hoạch phát hành trái phiếu
quốc tế. Cụ thể, tập đoàn Masan đã phát hành thành công 100 triệu USD trái phiểu
chuyển đổi, kỳ hạn 4 năm, lãi suất 5%/năm (tăng 1% sau mỗi năm). Tập đoàn Vingroup
đã phát hành thành công 300 triệu USD trái phiếu chuyển đổi, kỳ hạn 5 năm, lãi suất
5%/năm. Ngân ng Vietinbank dự kiến phát hành 500 triệu USD trái phiếu đã phát
hành thành công 250 triệu USD trái phiếu, kỳ hạn 4 năm, lãi suất 8%/năm. Riêng ngân
hàng BIDV dự kiến phát hành 500 triệu USD trái phiếu nhưng chưa thành công do tình
hình kinh tế trong và ngoài nước không thuận lợi.
ràng, chủ động trong huy động vốn đầu qua kênh phát hành trái phiếu quốc tế
thay vì phụ thuộc vào nguồn vốn đầu tư công hoặc dựa vào các khoản vay của Chính phủ
sẽ là xu hướng của các doanh nghiệp lớn tại Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp trên thế giới
đã đi theo cách này từ rất lâu. Thậm chí, tại các nước phát triển, chính quyền các thành
phố hay Chính phủ có thể chủ động đứng ra bảo lãnh phát hành trái phiếu quốc tế cho các
doanh nghiệp.Tuy nhiên, cần nhìn nhận rằng, trái phiếu quốc tế Việt Nam huy động,
thể thấy, giá vốn chúng ta huy động cao hơn khá nhiều so với các nước có hệ số tín nhiệm
cao. Cụ thể: giá vốn huy động cao hơn các nước trong khu vực như Indonesia, Philippin,
trong khi kinh tế của họ chưa hẳn tốt hơn Việt Nam, chất lượng tăng trưởng ở mức tương
31
Thị trường trái phiếu Việt Nam
tự… Như vậy, các nhà đầu tư quốc tế snhìn thấy những yếu tố rủi ro tại Việt Nam lớn
hơn. Ngoài ra, một đợt phát hành trái phiếu thành công phụ thuộc vào các yếu tố khách
quan (như điều kiện thị trường tại thời điểm phát hành) cũng như các điều kiện chủ quan
như: tính hấp dẫn của trái phiếu, sự chuẩn bị của doanh nghiệp trong việc đáp ứng yêu
cầu của nhà đầu tư quốc tế.
2. ĐÁNH GIÁ TH TR NG TRÁI PHIẾẾU VI T NAM ƯỜ
Như vậy, thị trường trái phiếu nước ta còn non trẻ, quy thị trường còn khiêm tốn,
chủ thể phát hành không đa dạng, chưa có hệ thống các nhà tạo lập thị trường và hệ thống
giao dịch, thanh toán còn nhiều hạn chế đặc biệt giúp cho chính quyền địa phương
và doanh nghiệp huy động vốn hầu như chưa tồn tại.
- Thị trường còn khá khai với quy quá nhỏ so với GDP, chỉ chiếm khoảng
16% GDP. Các doanh nghiệp phát hành thường lần đầu, chưa tạo ra một thị
trường nhất định chủ yếu vẫn các doanh nghiệp nhà nước... nhờ dựa vào uy
tín. Hiện tại, trái phiếu Chính phủ đang "thống lĩnh" thị trường, trong khi trái
phiếu của các công ty phát hành còn hạn chế.
- An toàn nhưng lợi nhuận thấp, quy mô quá nhỏ, tính thanh khoản của các loại trái
phiếu còn thấp. Thị trường trái phiếu Chính phủ thiếu một cơ chế giao dịchkhả
năng cung cấp thanh khoản cho các trái phiếu Chính phủ như các nhà tạo lập thị
trường, hợp đồng mua lại. Nhu cầu giao dịch phát sinh các giao dịch lớn ít
mang tính tương thích thời điểm, hạn chế tính thanh khoản của trái phiếu.
- Thị trường trái phiếu vẫn chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư. Trái phiếu Chính
phủ phát hành với khối lượng và giá trị niêm yết lớn nên những người nắm giữ trái
phiếu Chính phủ trên thị trường cấp chủ yếu các nhà đầu tư có tổ chức (trừ
các đợt phát hành riêng lẻ qua hệ thống Kho bạc).
- Tính cạnh tranh thấp: Trái phiếu Chính phủ chưa cạnh tranh được với sự thuận tiện
của hình thức gửi tiết kiệm, đầu tư kỳ phiếu ở các ngân hàng thương mại cùng với
tính thanh khoản kém hơn nên chưa thu hút được tiền nhàn rỗi của các tổ chức
kinh tế và cá nhân.
32
Thị trường trái phiếu Việt Nam
- Từ phía các công ty, chưa quen với kênh huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu: Thị trường trái phiếu công ty kém phát triển do các công ty chưa quen với
việc huy động vốn vay trực tiếp qua phát hành trái phiếu vẫn dựa vào nguồn
vốn vay của ngân hàng, đặc biệt các Tổng công ty lớn, các doanh nghiệp nhà
nước do khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay ngân hàng, vay ưu đãi. Các đơn
vị này cũng thiếu tổ chức định mức tín nhiệm giúp cho việc xác định tín nhiệm và
làm tăng tính minh bạch cho các trái phiếu phát hành; chưa xây dựng được đường
cong lợi suất phi rủi ro cho trái phiếu Chính phủ phát hành làm tiêu chuẩn cho việc
định lãi suất phát hành các công cụ nợ khác như trái phiếu công ty, trái phiếu đô
thị...
- Thông tin thị trường: Theo đánh giá của các chuyên gia tài chính, nguyên nhân
quan trọng khiến thị trường trái phiếu của Việt Nam kém hấp dẫn chính việc
thiếu một hệ thống cung cấp thông tin đầy đủ. Thể hiện rõ nhất là cho đến nay vẫn
chưa những công ty định mức tín nhiệm. Hiện nay, trên thị trường đang 3
loại trái phiếu được phát hành bởi Chính phủ, chính quyền địa phương
doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến nay, quy phát triển của thị trường này còn nhỏ
bé. Bên cạnh những vướng mắc xuất phát từ hệ thống văn bản chính sách khiến
tính thanh khoản của trái phiếu không được cao, lượng doanh nghiệp uy tín
tham gia phát hành... thì việc thiếu thông tin cũng khiến cho các nhà đầu "dè
dặt" hơn trong việc đầu vào loại hình này. Sau khi Nghị định 52/CP của Chính
phủ về việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp với yêu cầu bắt buộc minh bạch
thông tin, nhiều doanh nghiệp vừa muốn phát hành trái phiếu nhưng lại e ngại
chuyện... minh bạch
- Phí giao dịch cao : Theo quy định, việc giao dịch trái phiếu Chính phủ phải thông
qua các công ty chứng khoán - tổ chức trung gian thu phí cả người mua lẫn
người bán. Để một giao dịch trái phiếu Chính phủ 100 tỉ đồng được hoàn tất thì
nhà đầu phải mất đến cả 100 triệu đồng tiền phí, thông thường những giao
dịch mua bán trái phiếu Chính phủ là những giao dịch lớn, ít nhất có giá trị từ 100-
33
Thị trường trái phiếu Việt Nam
300 tỉ đồng. Chính điều này làm cho thị trường trái phiếu Chính phủ của Việt Nam
không thu hút được nhiều nhà đầu tư giao dịch, nhất là các ngân hàng nước ngoài.
- Không tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp rào cản lớn đối với doanh
nghiệp nhỏ khi phát hành trái phiếu. Theo thông lệ, tại các thị trường chứng khoán
phát triển, chỉ các doanh nghiệp được các tổ chức uy tín như Fitch, Standard &
Poor's, Moody’s… xếp hạng tín dụng tốt mới tìm được người mua trái phiếu. Trái
lại, tại Việt Nam, trái phiếu doanh nghiệp đang nổi lên như một kênh huy động
vốn ưa thích, nhưng chưa xếp hạng tương tự. Vì vậy tồn tại nhiều rủi ro. Trong
các đợt phát hành trái phiếu, doanh nghiệp phải công khai sức khỏe tài chính để
người mua đánh giá đúng. doanh nghiệp ngấp nghé bờ vực phá sản vẫn có thể phát
hành trái phiếu thành công theo nguyên tắc rủi ro cao đi kèm lợi nhuận lớn.
- Khả năng chuyển đổi của trái phiếu hiện nay còn thấp. Cho nên chỉ những nhà
đầu tư lớn, tập đoàn công ty, các tổ chức tín dụng… mới thực hiện mua trái phiếu,
chứ các nhà đầu tư nhỏ lẻ ít quan tâm tới trái phiếu.
CH NG III: GI I PHÁP PHÁT TRI N TH TR NG TRÁI ƯƠ ƯỜ
PHIỀẾU VI T NAM HI N NAY
1. GI I PHÁP CHUNG
- Đa dạng hóa trái phiếu: đa dạng hóa về kỳ hạn, lãi suất, loại hình phương thức
thanh toán vốn gốc và lãi trái phiếu.
- Hoàn thiện hệ thống pháp hệ thống quản lý: Để thị trường trái phiếu vận
hành tốt đòi hỏi một hệ thống pháp hoàn thiện mang lại một sân chơi công
bằng, luật sở hữu rõ ràng và thông tin minh bạch cũng như một cơ quan quản lý thị
trường có năng lực.
- Phát triển các sản phẩm phái sinh liên quan tới trái phiếu như: quyền chọn, hợp
đồng giao sau, hợp đồng kỳ hạn…Hệ thống NHTM phải đóng vai trò chủ đạo
34
Thị trường trái phiếu Việt Nam
trong quá trình cung cấp các sản phẩm phái sinh này. Ngoài ra, nghiệp vụ repo trái
phiếu tạo tính thanh khoản rất cao cho thị trường trái phiếu.
- Thu hút và phát triển đội ngũ tạo lập thị trường: các th trưng chng khoán
phát triển, các nhà to lp thtrưng là các trung gian tài chính. Họ niêm yết
giá mua, giá bán sẵn sàng thực hiện giao dịch vi các m c g iá đã niê m
yết . Các hot đn g c a h to t ính linh ho t cho th trường trái
phiếu; tăng khả năng thực hiện giao dịch trái phiếu làm cho thị trường giao dịch
trái phiếu sôi đng hơn thông qua cnh tranh v giá c đt ra giữa các
nhà tạo lập thị trường khác nhau…Trong điều kiện thị trường trái phiếu còn
khai, hình thành phát triển đội ngũ các nhà tạo lập thị trường điều cần thiết.
Cần đội ngũ chuyên gia năng lực làm vấn cho Chính phủ để xây dựng
chính sách phối hợp đồng bộ giữa các nh huy động vn. Để xây dng đi
ngũ các nhà to lập th trưng có tim năng tài chính đủ mạnh sẵn sàng mua -
bán một lượng trái phiếu nhất định khiyêu cu ca nhà đu tư, cn có ch
trương khuyến khích c ngân ng thương mi các công ty bảo hiểm có
tiềm năng tài chính lớn tham gia.
- Xây dựng thị trường trái phiếu chuyên biệt: Trái phiếu với những đặc điểm riêng
đòi hỏi phải chế phát hành giao dịch riêng. Giao dịch trái phiếu trên thị
trường thứ cấp cần tách khỏi thị trường cổ phiếu, xây dựng một thị trường trái
phiếu chuyên biệt nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư có tổ chức trên
thị trường. Cần tìm ra một hình giao dịch phù hợp cho thị trường trái phiếu
chuyên biệt. Việc lựa chọn hệ thống giao dịch phù hợp cho thị trường thứ cấp phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó mức độ phát triển của thị trường trái phiếu
quan trng nht, đc bit là th trường trái phiếu Chính phủ đóng vai trò chủ
đạo. Trong điều kiện thị trường trái phiếu còn non tr, s lưng nhà đu tư có
t chc n hn chế và mức giao dch trái phiếu thp thì hệ thống giao dịch
thỏa thuận phù hợp để tăng tính thanh khoản. Tuy nhiên, khi thị trường trái
phiếu phát triển, quy thị trường lớn, đã hệ thống các nhà kinh doanh trái
phiếu đủ lớn và chuyên nghiệp, việc ứng dụng công nghệ thông tin ở mức độ cao,
35
Thị trường trái phiếu Việt Nam
nhu cầu về tính hiệu quả minh bạch của thị trường càng lớn, lúc này cần vận
dụng các hình hệ thống hiện đại hơn vào thị trường trái phiếu. Giao dịch trái
phiếu tập trung sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu trong
nước, một kênh huy động vốn hiệu quả của nền kinh tế. Với sự ra đời của thị
trường trái phiếu chuyên biệt, nhà đầu tư, các quỹ đầu sẽ ngày càng quan tâm
hơn đến thị trường trái phiếu với niềm tin vào một thị trường trái phiếu sôi động
và minh bạch hơn, thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của thị trường trái phiếu cấp
và tính thanh khoản của thị trường thứ cấp.
- Thực hiện công khai hóa thông tin: Việc công khai minh bạch hoá thông tin
một yếu tố quan trọng để thị tng trái phiếu hot đng lành mnh. Do đó,
Chính phủ và doanh nghip cn tích cực thực hiện công khai hóa thông tin,
khắc phục tình trạng bưng bít thông tin hoc công khai mang tính hình thc.
Công b thông tin mt cách tùy tin, không có hệ thống và chuẩn mực sẽ tạo
tâm lý e ngại đối với nhà đầu tư là nguyên nhân làm cho thị trường trái phiếu kém
phát triển. Độ tin cậy của thông tin sở để nhà đầuđưa ra các quyết định
đầu tư, giảm thiểu rủi ro.
- Nâng cao nhận thức về chứng khoán nói chung trái phiếu nói riêng cho các
doanh nghiệp công chúng đầu tư: Doanh nghiệp công chúng đầu bộ
phận không thể thiếu góp phần quan trọng tạo nên sự phát triển của thị trường
trái phiếu. Chú trọng hơn nữa trong công tác tuyên truyền, đào tạo kiến thức về
chứng khoán cho các doanh nghiệp công chúng. Trong thời gian qua, tuy các
doanh nghiệp công chúng quan tâm tìm hiểu về thị trường chứng khoán
nhưng hầu như chỉ tập trung vào cổ phiếu. Thông qua các phương tiện đại chúng,
hệ thống thông tin trực tuyến internet để tuyên truyền cho doanh nghiệp công
chúng một sự hiểu biết toàn diện về thị trường chứng khoán trong đó có thị trường
trái phiếu. Giúp các doanh nghiệp nhận thức được vai trò, lợi ích của việc huy
động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Nâng cao nhận thức trong công chúng về
vai trò, rủi ro và tính hữu ích của việc đầu tư trái phiếu.
36
Thị trường trái phiếu Việt Nam
2. GI I PHÁP RIẾNG
2.1 Đôếi v i th tr ng trái phiếếu chính ph ườ
- Hoàn thiện phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ: Đẩy mạnh phương thức
phát hành qua đấu thầu và đấu giá qua Sở giao dịch chứng khoán vì đây là phương
thức tiên tiến tạo khả năng tạo thị trường giao dịch sôi động phát triển các
nhà tạo lập thị trường trái phiếu Chính phủ, đồng thời đây cũng phương thức
phát hành lãi suất trái phiếu được xác định theo chế thị trường. Việc phát
hành qua Sở giao dịch chứng khoán cần theo các bước sau:
+ Chỉ phát hành trái phiếu hạn năm trở lên, đảm bảo nâng dần tỉ trọng nguồn
vốn trung dài hạn huy động cho ngân sách nhà nước cho đầu phát
triển, đồng thời bổ sung hàng hóa cho thị trường chứng khoán;
+ Tiếp tục áp dụng hình thức đấu thầu cạnh tranh và không cạnh tranh, nâng cao
tỉ lệ đấu thầu không cạnh tranh, tạo điều kiện cho các thành viên chưa kinh
nghiệm tham gia thị trường;
+ Cần kế hoạch hóa hoạt động đấu thầu theo định kì phát hành với các loại kì hạn
đa dạng để tạo khung lãi suất chuẩn cho thị trường tài chính. Phát triển hình
thức bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ, đồng thời có biện pháp thích hợp
nhằm thúc đẩy các tổ chức bảo lãnh phát hành nhằm phân phối chứng khoán ra
công chúng;
+ Đối với hình thức bán lẻ qua Kho bạc Nhà nước, do chi phí phát hành lớn, khó
tạo thị trường giao dịch thứ cấp nên cần hạn chế phát hành. Bên cạnh huy động
vốn trong nước nên tiếp tục đẩy mạnh phát hành trái phiếu chính phủ ra nước
ngoài nhằm thu hút vốn cho đầu tư phát triển, giảm sự phụ thuộc các điều kiện
khi vay vốn nước ngoài.
- Nên áp dụng lãi suất thả nổi đối với hành trái phiếu chính phủ: Để tăng tính hấp
dẫn của trái phiếu chính phủn áp dụng lãi suất điều chỉnh theo lạm phát áp
dụng phương thức trả lãi linh hoạt như trả lãi trước, trả lãi định kỳ…để nhà đầu tư
có thể giảm thiểu rủi ro và đa dạng hoá danh mục đầu tư. Xây dựng một cơ chế lãi
suất thực sự hấp dẫn nhà đầu kể cả trong điều kiện lạm phát hay thiểu phát
37
Thị trường trái phiếu Việt Nam
nhằm tối đa lợi nhuận của nhà đầu trên sở dung hòa với lợi ích của Chính
phủ.
2.2 Đôếi v i th tr ng trái phiếếu đô th ườ
một phương thức vay nợ của chính quyền địa phương, phát hành trái phiếu đô thị
được thực hiện trên cơ sở các điều kiện về môi trường pháp lý, cơ chế tài chính thích hợp.
Trong điều kiện Việt Nam, để thị trường trái phiếu đô thị trở thành một kênh huy động
vốn thực hiện các dự án đầu mở rộng và chỉnh trang các đô thị lớn, thời gian tới cần
thiết phải thực hiện các giải pháp sau:
* Các giải pháp tạo sở tiền đề phát triển thị trường trái phiếu chính quyền địa
phương
- Đẩy mạnh phân cấp ngân sách nhà nước nhằm tạo ra cơ chế tài chính linh hoạt cho
chính quyền các tỉnh, thành phố chủ động mở rộng đầu phát triển sở hạ tầng
đô thị. Đồng thời, tăng cường nguồn thu cho ngân sách nhà nước địa phương đảm
bảo nguồn vốn trả nợ khi đến hạn. Mặc dù, những năm gần đây Nhà nước đã đẩy
mạnh đổi mới chế quản tài chính theo hướng phi tập trung hóa, trao nhiều
quyền hơn cho chính quyền địa phương trong lĩnh vực thu chi ngân sách nhà nước,
để kinh tế đất nước tăng trưởng mạnh bền vững phải dựa trên sở phát triển
thực bền vững của từng địa phương, những đổi mới trên vẫn chưa đủ cần
phải thực hiện mạnh mẽ hơn với các nội dung sau:
+ Tăng cường nguồn thu cho địa phương: Điều chỉnh tăng thu ngân sách địa
phương đảm bảo nguyên tắc sau: cân đối hợp nguồn thu giữa ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương, tăng cường hơn nữa năng lực tự chủ sáng
tạo của địa phương nhưng không phát vỡ sự cân bằng tổng thể trên cả nước.
Điều chỉnh phân định lại nguồn thu lớn cho ngân sách địa phương. Nhà
nước đẩy mạnh phân định tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương, các
nguồn thu thuế, hoặc phí lệ phí nguồn gốc của xác định rõ, khi địa
phương khai thác các nguồn thu này không ảnh hưởng đến các địa
phương khác. Cụ thể các loại phí, thuế thu nhập phát sinh từ hoạt động
38
Thị trường trái phiếu Việt Nam
kinh doanh chuyển nhượng quyền s dụng đất, tài sản trên đất do được
hưởng lợi từ các công trình đầu công. Đồng thời, cho phép địa phương
có quyền chủ động trong việc xác định mức thu. Tuy nhiên, để tính ổn định
chung hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa
phương Nhà nước nên xây dựng mức thuế suất và định mức phí trần để giới
hạn sự khai thác quá mức của các địa phương.
Xây dựng chế độ hợp lý đối với các loại phí dịch vụ thuộc hạ tầng cơ sở do
chính quyền địa phương đầu tư cung cấp mà có tính cạnh tranh với khu vực
theo nguyên tắc “người hưởng lợi phải trả tiền”. Hiện nay, theo pháp
lệnh phí lệ phí liên quan đến các dịch vụ thuộc hạ tầng sở cung cấp,
gồm các loại phí như: phí giao thông qua xăng dầu; phí sử dụng đường bộ;
phí qua cầu, qua đò, qua phà; lệ phí trước bạ xe ô tô, xe máy; phí vệ sinh;
phí bến bãi, đường; phí thoát nước. vậy, nên bổ sung thêm loại phí
giao thông đô thị đối với các phương tiện cơ giới đường bộ trong các đô thị,
để chi trả các khoản chi phí bảo trì đường bộ một phần chi phí đầu tư.
Mặt khác, việc áp dụng loại phí này, còn tác dụng hạn chế dân đô thị sử
dụng các loại phương tiện vận chuyển nhân, góp phần chống ách tắc
giao thông tại các đô thị lớn.
+ Phân cấp về vay nợ cho chính quyền địa phương: Xây dựng mức giới hạn vay
nợ riêng cho từng địa phương. Xác định mức giới hạn này trên sở các điều
kiện kinh tế hội và năng lực quản lý phù hợp. Giai đoạn đầu, khi chưa có tổ
chức xếp hạng tín nhiệm, xếp hạng tín nhiệm chính quyền địa phương để xây
dựng hạn mức vay nợ thể dựa trên các thông số về đánh giá hiệu quả quản
lý, phát triển kinh tế xã hội như:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP địa phương qua các năm, triển vọng phát
triển trong tương lai.
Tốc độ tăng dân số, mức thu nhập bình quân đầu người của địa phương.
Trình độ hiệu quả quản điều hành kinh tế hội của bộ máy chính
quyền nhà nước địa phương.
39
Thị trường trái phiếu Việt Nam
Tình hình điều hành ngân sách địa phương qua các năm, những triển vọng
về tăng nguồn thu ngân sách trong tương lai.
Mức độ phụ thuộc giữa NSĐP vào NSTW.
Hiệu quả trong việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Mức chi đầu tư phát triển, nhu cầu vay mượn và các giải pháp cân đối ngân
sách của địa phương qua các năm cũng như trong thời giai tới.
Hạn mức tín dụng này sẽ được ổn định trong khoảng thời gian từ 3-5 năm,
nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện kế hoạch đầu trung hạn của NSNN, sau
đó sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với các kế hoạch ngân sách giai đoạn
tiếp theo.
- Công khai hóa thông tin về tình hình tài chính địa phương, hiệu quả của các dự án
đầu tư sử dụng nguồn vốn ngân sách, để nhà đầu thể phân tích đánh giá khi
mua trái phiếu, cũng như góp phần gia tăng tính thanh khoản của trái phiếu trong
các giao dịch thứ cấp.
+ Nhà nước cần sớm điều chỉnh ban hành các chuẩn mực kế toán ngân sách địa
phương rõ ràng, thống nhất. Chế độ cập nhật báo cáo thông tin phải được chấp
hành nghiêm chỉnh ở các cấp chính quyền địa phương.
+ Quy định về chế độ công khai hóa thông tin cho các đợt phát hành trái phiếu.
Đặc biệt các thông tin về dự án hiệu quả của dự án được tài trợ bằng
nguồn vốn phát hành.
* Các giải pháp phát triển thị trường trái phiếu đô thị
- Đẩy mạnh các hoạt động trên thị trường thứ cấp, thực hiện phát triển mô hình ngân
hàng đa năng theo hướng mở rộng các hoạt động đầu tài chính. Mặt khác, khi
NHNN thực hiện nghiệp vụ lưu trái phiếu đô thị địa phương đưa trái phiếu
này vào danh mục hàng hóa giao dịch trên thị trường tiền tệ, cũng như công cụ tái
chiết khấu, tái cấp vốn sẽ khuyến khích các NHTM mở rộng các họat động chiết
khấu mua bán loại trái phiếu này.
- Bảo hiểm trái phiếu đô thị địa phương (đối với trái phiếu lợi tức): Với tình hình thị
trường trái phiếu đô thị nước ta, cần thiết thực hiện các giải pháp sau:
40
Thị trường trái phiếu Việt Nam
+ Giai đoạn đầu thể triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trái phiếu chính quyền địa
phương bằng công ty bảo hiểm tiền gửi hiện đang hiện hữu.
+ Tiến tới Bộ Tài chính bổ sung danh mục về sản phẩm bảo hiểm phát hành trái
phiếu trong đó có trái phiếu chính quyền địa phương, trong các văn bản pháp lý
về lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
+ Từng bước hoàn thiện những quy định tạo khung pháp thống nhất cho việc
triển khai bảo hiểm trái phiếu nói chung và trái phiếu đô thị nói riêng.
2.3 Đôếi v i th tr ng trái phiếếu công ty ườ
- Xây dựng và phát triển hệ thống định mức tín nhiệm:
+ Thông tin về doanh nghiệp phát hành trái phiếu trên thị trường đối với nhà đầu
còn rất ít. Nhiều doanh nghiệp phát hành còn không công bố những thông
tin bất lợi của mình cho nhà đầu tư biết trước khi phát hành. Điều này, làm cho
nhà đầu không an tâm trong việc đầu trái phiếu công ty. Do vậy, việc
thành lập công ty định mức tín nhiệm cho thị trường trái phiếu đòi hỏi tất
yếu và cấp bách.
+ Công ty định mức tín nhiệm (CRA) giảm thiểu rủi ro cho nền kinh tế. CRA sẽ
đánh giá các ngành kinh tế, phân tích tiền tệ, phân tích đánh giá các chương
trình đầu của Chính phủ, chẳng hạn như chương trình phát triển mía đường,
chương trình xây dựng các nhà máy xi măng,…giúp minh bạch hoá thông tin
của doanh nghiệp, tổ chức phát hành trái phiếu. Từ đây, nhà đầu thể biết
được mức độ rủi ro khi đầu vào trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu địa
phương và trái phiếu chính phủ. Từ đó, họsở để ra quyết định có đầu
hay không, đầu thì với lãi suất mong đợi của họ là bao nhiêu? Điều này
cũng giúp cho những doanh nghiệp, địa phương Chính phủ mức độ tín
nhiệm cao sẽ được huy động vốn với chi phí thấp, chứ không cào bằng lãi suất
trái phiếu như trước đây. CRA tập trung đánh giá các tổ chức tài chính, ngân
hang, bảo hiểm, định chế tài chính phi ngân hàng, doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh lớn, niêm yết trên thị trường chứng khoán, doanh nghiệp phát hành
41
Thị trường trái phiếu Việt Nam
chứng khoán ra công chúng, các tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp lớn của
nhà nước. CRA cũng đánh giá cả Chính phủ, các địa phương, các bộ trong việc
phát hành trái phiếu dài hạn. CRA với vai trò một tổ chức đánh giá trung
gian, độc lập, chuyên nghiệp, sẽ phương thức tốt nhất để quảng hình ảnh
của những doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả đầu tư, cơ cấu tài chính để phòng
tránh rủi ro về khả năng thanh toán. Thông qua đánh giá các doanh nghiệp,
ngân hàng, CRA sẽ giúp Chính phủ những điều chỉnh chính sách kịp thời,
có đối sách để quản lý chương trình xử lý nợ khó đòi.
+ Ngoài CRA trong nước, thì cần cho phép một số tổ chức định mức tín nhiệm có
uy tín của nước ngoài thực hiện hoạt động định mức tín nhiệm Việt Nam.
Như vậy, với CRA trongnước nước ngoài sẽ gọi vốn đầuvào Việt Nam:
Một trong những do khiến các nhà đầu chưa dám đầu tư mạnh mẽ vào thị
trường Việt Nam như chúng ta mong đợi, cũng là vì thiếumột công ty định mức
tín nhiệm trên thị trường vốn Việt Nam. Dựa trên các kết quả CRAmang lại,
các nhà đầu tư mới có công cụ để thẩm định, lựa chọn danh mục đầu tư, dự báo
tìnhhình phát triển doanh nghiệp đưa ra quyết định đầu tư. Thông qua bảng
xếp hạng tín dụng, nhà đầu sẽ hiểu hơn về sức mạnh tài chính của các
công ty, dễ dàng đánh giá các tổ chứctài chính quan hệ kinh doanh hoặc
quan tâm tới việc mua trái phiếu của các công ty này.
- Các doanh nghiệp cần nâng cao, đổi mới tư duy quản doanh nghiệp và sử dụng
vốn có hiệu quả để tạo nim tin cho nhà đu tư; bo đm an toàn tài chính;
yêu cầu các doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải tuân thủ theo chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam Quốc tế; đầu đổi mới công nghệ, các số liệu phải được
hạch toán kịp thời, chính xác với thực trạng. Xây dựng và thẩm định dự án thật kỹ
trước khi quyết định đầu tư; phải nhân diện được rủi ro trong hoạt động kinh
doanh biện pháp hạn chế rủi ro; đảm bảo tỷ lệ lợi nhuận phải cao hơn lãi
suất tiền gửi tiết kiệm
- Đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế: Với thành công của đợt
phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế đầu tiênvào tháng 10/2005,
42
Thị trường trái phiếu Việt Nam
thì việc đẩy mạnh phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế cần thiếtnhằm đầu
một số dự án trọng điểm phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước. Cần khuyến
khích những doanh nghiệp lớn trong nước phát hành trái phiếu ra thị trường vốn
để phát triển doanh nghiệp. Để đảm bảo cho việc huy động vốn ở thị trường quốc
tế với chi phí rẻ, Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với thông lệ
Quốc tế minh bạch hoá thông tin; khi đó mới được các tổ chức xếp hạng tín
nhiệm đánh giá cao. Ngoài ra, cầnkế hoạch sử dụng nguồn vốn huy động ngay
nhằm tránh lãng phí, chúng ta còn phải vừa trả lãi.vậy, phải xem xét
những dự án hiệu quả, sử dụng vốn được ngay, giải ngân được ngay thì mới
tính đến phương án phát hành.
43
Thị trường trái phiếu Việt Nam
KỀẾT LU N
Báo cáo của em cho thấy, Việt Nam vẫnmột trong những thị trường trái phiếu phát
triển nhanh nhất châu Á. Sức bật của thị trường trái phiếu Việt Nam chủ yếu trên cơ sở sự
tăng trưởng mạnh của thị trường trái phiếu chính phủ.
Nhằm xây dựng định hướng phát triển mới, đặc biệt triển khai kế hoạch phát triển
hệ thống sản phẩm trong năm 2014, HNX đang dự kiến cho ra đời chỉ số trái phiếu (Bond
index). Trước mắt, trái phiếu Chính phủ được lựa chọn để hình thành hệ thống Bond
index đầu tiên vì đây là loại hàng hóa có độ rủi ro thấp nhất. Chỉ số trái phiếu Chính phủ
cũng sẽ loại hàng hóa sở để nhà đầu tham chiếu khi tiến hành định giá các loại
trái phiếu khác trên thị trường. Sau khi triển khai thành công bộ chỉ số trái phiếu Chính
phủ, HNX sẽ tiếp tục phát triển các bộ chỉ số trái phiếu khác như trái phiếu được Chính
phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, chỉ số trái phiếu chuẩn, chỉ số trái phiếu
thanh khoản…Sau khi thành công với những bước đi vững chắc và căn bản như xây dựng
đường cong lợi suất chuẩn cho thị trường, HNX cũng cải tiến phương thức hình thức
phát hành trái phiếu với các kỳ hạn và thời gian đáo hạn hợp lý. Sở hiện đã xây dựng lịch
biểu phát hành trái phiếu Chính phủ theo lớn phù hợp với yêu cầu sử dụng vốn của
Chính phủ; xây dựng được cơ sở dữ liệu tập trung, qua đó thông tin được cập nhật nhanh,
thuận tiện cho các nhà đầu tư khi tham gia thị trường. Và với việc sản phẩm Bond index
ra đời trong tương lai, kỳ vọng sản phẩm mới này sẽ giúp tạo “đòn bẩy” cho thị trường,
giúp thị trường trái phiếu bước phát triển bền vững mạnh mẽ hơn, đóng góp hiệu
quả hơn cho sự ổn định lành mạnh của thị trường tài chính Việt Nam, nâng tầm kênh
huy động vốn quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội.
ràng, trái phiếu được xem là một trong những công cụ hút tiền từ lưu thông hiệu
quả, kênh huy động vốn giá rẻ, an toàn, dài hạn với khối lượng lớn công cụ hữu
hiệu trong chính sách tiền tệ. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cho Chính phủ
Ngân hàng Nhà nước trong vấn đề chính sách cả về vi mô lẫn vĩ mô để đưa trái phiếu trở
thành một công cụ huy động vốn hiệu quả trên thị trường.
44
Thị trường trái phiếu Việt Nam
TÀI LI U THAM KH O
1. Thị trường chứng khoán GS.TS Văn Tư, TS. Thân Thị Thu Thủy, NXB Tài
chính (2006)
2. Thị trường tài chính chứng khoán PGS. TS Bùi Kim Yến - NXB Thống
(2008)
3. Sử Đình Thành (2002), , tham luận“Phát triển thị trường trái phiếu đô thị VN”
tại hội thảo: “Trái phiếu đô thị ở VN: Triển vọng và phương thức phát hành”.
4. Tạp chí phát triển kinh tế số 215, tháng 09/2008
5. Phân tích chứng khoán quản danh mục đầu PGS.TS Bùi Kim Yến
NXB Lao động xã hội (2011)
6. Thời báo Kinh tế Sài gòn
7. Website của Bộ Tài chính, Ủy ban CK Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, các
NHTM…
8. Các báo điện tử: VnEconomy, tintuconline, infoTV…
45
| 1/46

Preview text:

Thị trường trái phiếu Việt Nam M c l c
MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU...........2
1. TRÁI PHIẾU..................................................................................................................................2
1.1 Khái niệm.............................................................................................................. 2
1.2 Những đặc trưng của trái phiếu.............................................................................2
1.3 Đặc điểm cơ bản của trái phiếu..............................................................................3
1.4 Phân loại trái phiếu................................................................................................4
1.5 Điều kiện phát hành trái phiếu ở Việt Nam............................................................7
2. THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU.....................................................................................................9
2.1 Khái niệm..............................................................................................................9
2.2 Phân loại thị trường trái phiếu...............................................................................9
2.3 Vai trò của thị trường trái phiếu...........................................................................11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM.....................14
1. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM............................................14
1.1 Thị trường trái phiếu chính phủ...........................................................................14
1.2 Thị trường trái phiếu chính quyền địa phương:...................................................22
1.3 Thị trường trái phiếu công ty...............................................................................25
1.4 Trái phiếu quốc tế................................................................................................28
2. ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM...................................................31
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM
HIỆN NAY....................................................................................................................... 33
1. GIẢI PHÁP CHUNG..................................................................................................................33
Thị trường trái phiếu Việt Nam
2. GIẢI PHÁP RIÊNG....................................................................................................................36
2.1 Đối với thị trường trái phiếu chính phủ...............................................................36
2.2 Đối với thị trường trái phiếu đô thị......................................................................37
2.3 Đối với thị trường trái phiếu công ty...................................................................40
KẾT LUẬN......................................................................................................................43
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................44
Thị trường trái phiếu Việt Nam M Đ Ở ẦẦU
Hiện nay các nhà kinh tế rất quan tâm đến cách huy động nguồn vốn cho các doanh
nghiệp. Việc huy động nguồn vốn trong và ngoài nước của Việt Nam đã đạt được kết quả
hết sức khả quan. Nếu như nguồn vốn trong nước, gồm nguồn vốn huy động từ dân cư,
các tổ chức kinh tế… giữ vai trò chủ đạo thì nguồn vốn nước ngoài, gồm vốn FDI, ODA,
FPI… là động lực và cơ sở để thay đổi công nghệ. Tuy nhiên, việc huy động vốn trong
nước cũng chưa thật sự mạnh, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn.
Do đó, để đẩy nhanh việc huy động nguồn vốn dài hạn thì việc phát triển thị trường
vốn trong thời gian tới là rất cần thiết. Đặc biệt là phát triển thị trường chứng khoán, kênh
dẫn vốn quan trọng để phát triển nhanh nền kinh tế đất nước. Thời gian trước đây, chúng
ta chỉ tập trung phát triển thị trường cổ phiếu mà chưa đặc biệt quan tâm đến việc phát
triển thị trường trái phiếu. Tuy nhiên, thời gian gần đây, trái phiếu và thị trường trái phiếu
đang dần trở thành một vấn đề rất được quan tâm trong nền kinh tế.
Tính đến cuối tháng 6, thị trường trái phiếu Việt Nam đã tăng 26,8% so với cùng kỳ
năm trước, đạt 27 tỷ USD, chủ yếu trên cơ sở sự tăng trưởng mạnh của thị trường trái
phiếu chính phủ. Thị trường này đã tăng 34,3% so với cùng kỳ năm trước, đạt 26 tỷ USD.
Trái lại, trái phiếu công ty đã giảm 55,5% xuống còn 800 triệu USD trong bối cảnh thị trường gặp khó khăn.
Trước những chuyển biến như vậy, Nhóm xin trình bày về đề tài “Thị trường trái
phiếu Việt Nam” để tìm hiểu rõ hơn về trái phiếu cũng như thị trường trái phiếu ở Việt Nam thời gian gần đây. 2
Thị trường trái phiếu Việt Nam CH NG I: T ƯƠ NG QU
AN VỀẦ TRÁI PHIỀẾU VÀ TH TR NG TRÁI ƯỜ PHIỀẾU
1. TRÁI PHIẾẾU 1.1 Khái ni m
Trái phiếu là một hợp đồng nợ dài hạn được ký kết giữa chủ thể phát hành (chính phủ
hay doanh nghiệp) và người cho vay, đảm bảo một sự chi trả lợi tức định kỳ và hoàn lại
vốn gốc cho người cầm trái phiếu ở thời điểm đáo hạn. Trên giấy chứng nhận nợ này có
ghi mệnh giá của trái phiếu và tỷ suất lãi trái phiếu.
Khác với cổ phiếu là một chứng khoán vốn, trái phiếu là một chứng khoán hứa nợ dài
hạn của chủ thể phát hành - Người phát hành trái phiếu phải có nghĩa vụ trả lãi trái phiếu
và hoàn trả vốn gốc của trái phiếu cho chủ sở hữu của trái phiếu (trái chủ) khi đáo hạn. Vì
vậy, trái phiếu còn được gọi là chứng khoán nợ. 1.2 Nh ng đ c tr ng c ư a tr ủ ái phiếếu
- Mệnh giá: Mệnh giá là giá trị danh nghĩa của trái phiếu được ghi trên tờ trái phiếu.
Mệnh giá trái phiếu là số vốn gốc mà trái chủ sẽ được nhận khi trái phiếu đến hạn
và mệnh giá của trái phiếu thường là bội số của một số tiền nhất định (ví dụ 100.000VND hoặc 100 USD).
- Lãi suất định kỳ (coupon): chính là lợi tức mà trái chủ được hưởng định kỳ (quý
hoặc năm) khi đầu tư vào trái phiếu, được biểu hiện bằng số % cụ thể. Đối với một
số loại trái phiếu đặc thù như trái phiếu zero coupon thì không có lãi suất định kỳ,
trái chủ hưởng lợi tức từ chênh lệch giữa giá mua trái phiếu và mệnh giá khi đáo hạn.
- Thời hạn: Trái phiếu thường có thời hạn đáo hạn cụ thể (5 năm, 10 năm,…) được
ghi rõ trên tờ trái phiếu. Cũng có thể có loại trái phiếu vĩnh viễn, tức là không có
thời hạn đáo hạn, trái chủ mua trái phiếu này sẽ được hưởng lợi tức trái phiếu mãi
mãi từ chủ thế phát hành cho đến khi chủ thế phát hành không còn tồn tại nữa. 3
Thị trường trái phiếu Việt Nam
- Giá mua: Giá mua trái phiếu là khoản tiền thực tế mà người mua bỏ ra để có được
quyền sở hữu trái phiếu. Giá mua có thể bằng mệnh giá (Par value), có thể cao hơn
mệnh giá (Premium) hoặc thấp hơn mệnh giá (Discount). Tuy nhiên, dù giá mua là
loại giá nào thì tiền lãi luôn được xác định theo mệnh giá trái phiếu. Và đến ngày
đáo hạn, người nắm giữ trái phiếu sẽ được trả lại vốn gốc bằng với mệnh giá trái phiếu.
- Quyền mua lại: đối với các loại trái phiếu có điều khoản chuộc lại (Callable
Bonds) cho phép tổ chức phát hành trái phiếu thu hồi trái phiếu và hoàn lại vốn
gốc với mức giá dự kiến trước thời hạn thanh toán. Tổ chức phát hành sử dụng
quyền này để bảo vệ họ không phải trả lãi suất cao hơn đối với số tiền mà họ vay.
Tổ chức phát hành thu hồi trái phiếu khi tỷ lệ lãi suất trên thị trường thấp hơn lãi
suất của trái phiếu của tổ chức phát hành đã phát hành trước đó và có thể phát
hành trái phiếu mới với tỷ lệ lãi suất thấp hơn. 1.3 Đ c đi m c b ơ n c a trái phiếế u
- Chủ thể phát hành không chỉ có công ty mà còn có Chính phủ hoặc chính quyền địa phương
- Nếu như người mua cổ phiếu của công ty, trong thực tế, là người mua một phần
công ty, là người chủ sở hữu công ty thì trái lại, người mua trái phiếu chỉ là người
cho chủ thể phát hành vay tiền, là chủ nợ của chủ thể phát hành trái phiếu.
- Nếu như thu nhập chủ yếu của chủ sở hữu cổ phiếu là cổ tức – phụ thuộc vào tình
hình sản xuất kinh doanh của công ty, thì trái lại, thu nhập chủ yếu của trái phiếu
là tiền lãi – là khoản thu cố định, không phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh
doanh của người chủ phát hành.
- Nếu như cổ phiếu là chứng khoán cung cấp cho người chủ sở hữu quyền truy đòi
cuối cùng đối với tài sản công ty, thì trái lại, trái phiếu là chứng khoán nợ, vì vậy
nếu công ty bị giải thể hay bị phá sản thì trước hết công ty ưu tiên trả nợ cho các
trái chủ trước, sau đó còn lại mới phân chia cho các cổ đông. 4
Thị trường trái phiếu Việt Nam
Với những đặc điểm trên, trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ
phiếu. Vì vậy, đây là dạng đầu tư được các nhà đầu tư và các định chế đầu tư ưa chuộng.
Tuy nhiên, trong đầu tư trái phiếu, vẫn có thể gặp những rủi ro chủ yếu sau đây:
- Rủi ro tài chính: là rủi ro về khả năng thanh toán, trong đó người phát hành trái
phiếu không đủ khả năng tài chính để hoàn trả đầy đủ, đúng hạn các khoản tiền
phải trả (vốn, lãi) như họ đã cam kết cho trái chủ.
- Rủi ro lãi suất: lãi suất là yếu tố thường xuyên liên tục biến động, phản ánh những
thay đổi về tương quan cung cầu vốn tiền tệ, cung cấp tín dụng trên thị trường tài
chính. Cũng từ đó dẫn tới những thay đổi liên tục về tỷ suất sinh lời cần thiết của
trái phiếu. Những thay đổi này đem lại rủi ro cho trái chủ và vì thế nó cần phải
được bù đắp lại bằng những thay đổi về trị giá của trái phiếu.
- Rủi ro thanh khoản: được hiểu là rủi ro về khả năng chuyển đổi trái phiếu thành
ngân quỹ (tiền mặt) trên thị trường, bao gồm cả yếu tố thời gian và giá cả khi chuyển đổi.
- Rủi ro sức mua hay rủi ro do lạm phát gây ra: lạm phát gây nên sự thay đổi giá trị,
sức mua của tiền tệ. Từ đó gây nên những thiệt hại nhất định cho các NĐT trái
phiếu. Lạm phát sẽ ảnh hưởng đến giá trị của các khoản tiền lời và vốn đầu tư trái
phiếu. Lạm phát cũng ảnh hưởng đến sức mua trái phiếu trên thị trường.
1.4 Phân lo i trái phiếếu
1.4.1 Theo hình thứ c phát hành:
- Trái phiếu vô danh: Là loại trái phiếu không ghi tên người thụ hưởng, bất kỳ cá
nhân hoặc tổ chức nào nắm giữ trái phiếu sẽ là trái chủ và được hưởng mọi quyền
lợi do trái phiếu mang l.
- Trái phiếu ký danh: Là trái phiếu có ghi tên cụ thể trái chủ trên tờ trái phiếu. Chỉ tổ
chức/cá nhân đứng tên trên trái phiếu mới được hưởng mọi quyền lợi do trái phiếu
mang lại. Tuy nhiên trái chủ có thể chuyển nhượng trái phiếu lại cho đối tượng
khác bằng thủ tục ký hậu trái phiếu (thường được in ở mặt sau tờ trái phiếu). 5
Thị trường trái phiếu Việt Nam 1.4.2 Theo lợi tứ c
- Trái phiếu chiết khấu (Zero coupon bond): là loại trái phiếu hứa hẹn một sự chi trả
một lần tại thời điểm nhất định trong tương lai, người mua không được nhận một
khoản chi trả nào cho đến khi đáo hạn.
- Trái phiếu trả lãi (Coupon bond): được định kỳ trả lãi.
+ Trái phiếu có lãi suất ổn định (Level Coupon bond): là lãi suất không đổi, giữ
nguyên trong thời gian lưu hành của trái phiếu.
+ Trái phiếu có lãi suất thả nổi (Floating rate bond): lãi suất trái phiếu sẽ được
điều chỉnh tăng giảm cùng với sự biến động của lãi suất thị trường. 1.4.3 Theo chủ th ể phát hành
- Trái phiếu chính phủ (Government Bonds) và chính quyền địa phương: Trái phiếu
Chính phủ hoặc chính quyền địa phương là chứng khoán nợ do chính phủ hoặc
chính quyền địa phương phát hành nhằm mục đích bù đắp sự thiếu hụt ngân sách
và tài trợ các dự án xây dựng các cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng
trung ương và địa phương. Trái phiếu Chính phủ là loại trái phiếu an toàn nhất vì
có nguồn vốn ngân sách nhà nước làm đảm bảo. Người mua trái phiếu chính phủ
thường được miễn thuế thu nhập. Từ trước đến nay đã có nhiều tên gọi khác nhau
về trái phiếu chính phủ, như công trái, trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, tín
phiếu kho bạc, kỳ phiếu kho bạc, hối phiếu kho bạc…Dù tên gọi thế nào, các loại
này đều là nợ của chính phủ, do chính phủ phát hành và được thanh toán bằng ngân sách quốc gia.
+ Trái phiếu kho bạc: là phiếu nợ trung, dài hạn từ 5 đến 30 năm hay hơn nữa, do
kho bạc phát hành khi huy động vốn để bổ sung bù đắp ngân sách.
+ Trái phiếu đô thị: là những trái phiếu do chính phủ hay chính quyền địa
phương phát hành nhằm huy động vốn tài trợ cho các dự án đầu tư hạ tầng như
xây dựng trường học, tu bổ phát triển đường sá, cầu cảng, sân bay…Kỳ hạn
trái phiếu này là từ 10 đến 30 năm. Các trái phiếu này thường được các ngân 6
Thị trường trái phiếu Việt Nam
hàng mua khi phát hành, sau đó các ngân hàng tổ chức bán lại trên TTCK cho
các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, các người có tài sản lớn, thu nhập cao.
- Trái phiếu công ty (corporate bonds): do công ty phát hành với mục đích huy động
vốn để bổ sung vốn tạm thời thiếu hụt phục vụ cho đầu tư phát triển.
+ Trái phiếu thu nhập (Income Bonds): là trái phiếu mà việc thanh toán lãi phụ
thuộc vào mức thu lợi hàng năm của công ty, loại trái phiếu này thường được
phát hành khi công ty gặp khó khăn về tài chính hay cần huy động vốn đầu tư
vào các dự án. Tùy theo lợi nhuận công ty thu được sẽ trả cho lãi cho trái chủ,
tuy nhiên, tỷ lệ lãi không lớn hơn lãi suất quy định trên trái phiếu. Về mặt này
loại trái phiếu này giống cổ phiếu ưu đãi nhưng nó khác ở chỗ tiền lãi trả cho
trái phiếu thu nhập được khấu trừ thuế (trả thuế trước), còn đốn với cổ phiếu
ưu đãi thì không được khấu trừ (trả sau thuế).
+ Trái phiếu có thế chấp (Mortgage Bonds): Các công ty muốn phát hành trái
phiếu phải có thế chấp bằng tài sản hay chứng khoán. Người nắm giữ trái phiếu
này được bảo vệ ở một mức độ cao bằng chính tài sản thế chấp trong trường hợp công ty phá sản.
+ Trái phiếu không có thế chấp (Debenture): Một số các công ty lớn có tiếng tăm
và uy tín trên thị trường quốc nội và quốc ngoại có thể phát hành trái phiếu mà
không cần thế chấp. Bởi vì chính uy tín của công ty ấy đã là một đảm bảo có
giá trị. Nếu công ty bị phá sản, người cầm trái phiếu này sẽ được trả nợ sau các
trái chủ có đảm bảo bằng tài sản thế chấp, nhưng trước các cổ đông.
+ Trái phiếu có thể chuyển đổi (Convertible Bonds): là loại trái phiếu có thể
chuyển đổi thành cổ phiếu thường của công ty với giá của cổ phiếu được ấn
định trước gọi là giá chuyển đổi. Đây là loại trái phiếu rất được ưa chuộng bởi
vì khi giá cổ phiếu tăng cao trên thị trường, người nắm giữ trái phiếu này sẽ
thực hiện việc chuyển đổi và thu được những món lợi nhuận do chệnh lệch giá.
+ Trái phiếu có thể chuộc lại (Callable Bonds): trái phiếu này có kèm điều khoản
được công ty chuộc lại sau một thời gian với giá chuộc lại thường cao hơn 7
Thị trường trái phiếu Việt Nam
mệnh giá. Nhà đầu tư có thể chọn lựa để chấp nhận sự chuộc lại của công ty hay không.
+ Trái phiếu có lãi suất ổn định (Straight Bonds): là loại trái phiếu truyền thống
được phát hành phổ biến ở tất cả các thị trường chứng khoán trên thế giới. Với
đặc điểm trả lãi suất ổn định và định kỳ thường 6 tháng hay 1 năm một lần, nó
ràng buộc doanh nghiệp nghĩa vụ phải trả lãi trong suốt thời gian lưu hành trái phiếu.
+ Trái phiếu có lãi suất thả nổi (Floating Rate Bonds): là loại trái phiếu mà lãi
suất của nó được điều chỉnh theo sự thay đổi của lãi suất thị trường. Đặc điểm
này đã đảm bảo được quyền lợi của nhà đầu tư cũng như của doanh nghiệp khi
thị trường tài chính tiền tệ không ổn định. Thông thường cứ 6 tháng một lần,
căn cứ vào lãi suất tiền gửi ngắn hạn của ngân hàng lại điều chỉnh lãi suất trái phiếu cho phù hợp.
+ Trái phiếu chiết khấu (Zero Coupon Bonds): là loại trái phiếu không trả lãi
định kỳ. Căn cứ vào lãi suất thị trường lúc phát hành để định ra giá của trái
phiếu, giá này rất thấp so với mệnh giá gọi là giá chiết khấu, nhưng khi đáo
hạn trái chủ lại được hoàn lại vốn gốc bằng với mệnh giá của trái phiếu.
1.4.4 Theo thị trườ ng phát hành - Trái phiếu trong nước
- Trái phiếu quốc tế (Foreign Bonds): Chính phủ phát hành các chứng chỉ vay nợ
(được gọi là trái phiếu quốc tế) ra thị trường vốn quốc tế, đây là hình thức vay vốn
trực tiếp từ các nhà đầu tư quốc tế không phải qua các tổ chức trung gian (như
ngân hàng), do vậy chi phí đi vay sẽ ít hơn khi đi vay thương mại. Đồng thời, khi
vay vốn dưới hình thức này, thì tính độc lập về tài chính của Chính phủ cũng lớn
hơn, Chính phủ sẽ mở rộng chi tiêu ngân sách mà không ràng buộc vào các điều
kiện về mục đích sử dụng vốn của người cho vay.
1.5 Điếều ki n phát hành tr ái phiếếu Vi t Nam
* Đối với trái phiếu không chuyển đổi: 8
Thị trường trái phiếu Việt Nam
- Doanh nghiệp có thời gian hoạt động tối thiểu là một (01) năm kể từ ngày doanh
nghiệp chính thức đi vào hoạt động;
- Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành phải
có lãi theo báo cáo tài chính được kiểm toán bởi Kiểm toán Nhà nước hoặc tổ chức
kiểm toán độc lập được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Báo cáo tài chính
được kiểm toán của doanh nghiệp phát hành phải là báo cáo kiểm toán nêu ý kiến
chấp nhận toàn phần. Trường hợp doanh nghiệp phát hành trái phiếu trước ngày 01
tháng 4 hàng năm chưa có báo cáo tài chính năm của năm liền kề được kiểm toán thì phải có:
+ Báo cáo tài chính được kiểm toán của năm trước năm liền kề với kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh có lãi;
+ Báo cáo tài chính quý gần nhất với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có
lãi được kiểm toán (nếu có);
+ Báo cáo tài chính của năm liền kề với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
có lãi được Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty phê
duyệt theo Điều lệ hoạt động của công ty.
- Đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn và các hạn chế khác về đảm bảo an toàn
trong hoạt động đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện quy định tại pháp luật chuyên ngành;
- Có phương án phát hành trái phiếu được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và chấp thuận
* Đối với phát hành trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng quyền: doanh
nghiệp phát hành ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy định ở trên còn phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Thuộc đối tượng được phát hành trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm theo chứng quyền;
- Đảm bảo tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam theo
quy định của pháp luật hiện hành;
- Các đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi phải cách nhau ít nhất sáu (06) tháng. 9
Thị trường trái phiếu Việt Nam 2. TH TR
Ị ƯỜ NG TRÁI PHIẾẾU 2.1 Khái ni m
Thị trường trái phiếu là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế
chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành, qua đó thực hiện chức năng của
thị trường tài chính là cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. 2.2 Phân lo i th tr ng trái phiếếu ườ
Thị trường trái phiếu được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. * Thị trường sơ cấp - Khái niệm: Thị
trường sơ cấp là thị trường mua bán các trái phiếu mới phát hành.
Trên thị trường này vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông
qua việc nhà đầu mua các trái phiếu mới phát hành. - Đặc điểm:
+ Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các trái phiếu đem lại vốn cho người phát
hành. Là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và đồng thời cũng tạo ra hàng
hóa cho thị trường giao dịch. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, thị trường sơ
cấp làm tăng vốn đầu tư.
+ Những người bán trái phiếu trên thị trường sơ cấp được xác định thường là
Kho bạc, Ngân hàng Nhà nước, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành,...
+ Thị trường sơ cấp chỉ được tổ chức một lần cho một loại chứng khoán nhất
định, trong thời gian hạn định. - Vai trò
+ Trái phiếu hóa các nguồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy động
qua việc phát hành chứng khoán
+ Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền nhàn rỗi
tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền sang dạng vốn dài hạn. * Thị trường thứ cấp 10
Thị trường trái phiếu Việt Nam - Khái niệm
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các trái phiếu đã được phát hành trên thị trường sơ
cấp. Là thị trường chuyển nhượng quyền sở hữu trái phiếu. Thị trường thứ cấp đảm bảo
tính thanh khoản cho các trái phiếu đã phát hành. - Đặc điểm
+ Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán trái phiếu thuộc về
các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh trái phiếu chứ không thuộc về nhà phát
hành. Nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào những người phát hành
trái phiếu mà vận chuyển giữa những người đầu tư trái phiếu trên thị trường.
Thị trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của thị trường trái phiếu, gắn bó
chặt chẽ với thị trường sơ cấp.
+ Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ảnh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá trái
phiếu trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định.
+ Thị trường thứ cấp là một thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể
mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
* Mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
- Thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị trường
thứ cấp vì đó là nơi cung cấp hàng hóa trái phiếu trên thị trường thứ cấp. Không có
thị trường sơ cấp thì không thể có sự xuất hiện của thị trường thứ cấp. Thị trường
thứ cấp là một loại thị trường đặc biệt, nó không thể ra đời chừng nào vẫn chưa có
một thị trường sơ cấp rộng rãi, vững chắc với nhiều loại trái phiếu đa dạng, phong
phú, hấp dẫn nhiều nhà đầu và công chúng đến bỏ vốn ra để đầu tư trái phiếu.
- Ngược lại, thị trường thứ cấp đến lượt nó là động lực, là điều kiện cho sự phát
triển của thị trường sơ cấp, vì một khi trái phiếu đã được phát hành ra trên thị
trường, nếu không có một thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao đổi tạo ra
tính thanh khoản cho trái phiếu thì thật khó có thể thuyết phục nhà đầu tư bỏ tiền ra mua trái phiếu.
- Chính việc mua bán giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp làm cho lưu động
hóa vốn đầu tư, các nhà đầu tư có thể chuyển từ trái phiếu thành tiền mặt. 11
Thị trường trái phiếu Việt Nam
- Vốn khả dụng thanh khoản cao của trái phiếu mà tính chất năng động của thị
trường thứ cấp đã hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ tiền ra mua trái phiếu. Điều này chính
là điều kiện cơ bản để các nhà phát hành trái phiếu có thể bán được trái phiếu trên
thị trường sơ cấp và huy động được nguồn vốn lớn theo nhu cầu. 2.3 Vai trò c a th tr ng trái phiếếu ườ
* Đối với nền kinh tế
Thị trường trái phiếu là kênh huy động vốn nhanh chóng và hiệu quả. Đây một bộ
phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện chức năng của thị trường tài chính là cung cấp
nguồn vốn trung,dài hạn cho nền kinh tế bằng khả năng huy động các nguồn vốn phân
tán, tạm thời nhàn rỗi trong toàn xã hội vào công cuộc đầu tư của nền kinh tế. * Đối với Chính phủ
- Phát hành trái phiếu là kênh huy động vốn của Chính phủ nhằm thực hiện các mục
tiêu chính trị, kinh tế và xã hội như: tài trợ vốn cho các dự án đầu tư và bù đắp
thiếu hụt ngân sách quốc gia.
- Trái phiếu Chính phủ với đặc tính ít rủi ro nhất đã trở thành hàng hóa chủ đạo trên
thị trường, lãi suất giao dịch hàng ngày của trái phiếu Chính phủ góp phần hình
thành lãi suất chuẩn trên thị trường.
- Trái phiếu Chính phủ góp phần làm ổn định môi trường tiền tệ, nâng cao hiệu quả
sử dụng các nguồn lực tài chính trong nước, nâng cao hiệu quả của việc phân phối
và tái phân phối nguồn lực tài chính, định hướng hoạt động đầu tư trong nền kinh tế.
- Thị trường trái phiếu thường có quy mô lớn và độ sâu nên thường hỗ trợ tốt hơn
nhu cầu vốn đầu tư dài hạn trong nền kinh tế, góp phần tạo ra một cấu trúc thị
trường vốn vững chắc mà nó dựa trên cơ sở cân đối giữa thị trường vay nợ ngân
hàng, thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu trong tương lai. Thị trường trái
phiếu góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững, ổn định của thị trường vốn. 12
Thị trường trái phiếu Việt Nam
- Huy động vốn qua việc phát hành trái phiếu sẽ làm giảm sự tập trung vào hệ thống
ngân hàng. Đặc biệt là thị trường trái phiếu công ty vừa có thể huy động được
nguồn vốn dồi dào từ xã hội vừa góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế xã hội.
* Đối với tổ chức phát hành
- Phát hành trái phiếu đảm bảo cho doanh nghiệp được sử dụng một nguồn vốn ổn
định và dài hạn, không bị hạn chế về quy mô miễn là doanh nghiệp có phương án
sử dụng số vốn huy động một cách hợp lý, có tính khả thi và có khả năng hoàn trả
lãi và gốc cho những người cho vay.
- Trong trường hợp doanh nghiệp cần vốn nhưng lại ngại phát hành cổ phiếu rộng
rãi vì sẽ làm pha loãng quyền sở hữu trong doanh nghiệp, hoặc doanh nghiệp
không muốn lợi nhuận của mình bị chia đều cho các nhà đầu khi phải trả cổ tức
cao theo hiệu quả kinh doanh...thì phát hành trái phiếu là một giải pháp tối ưu.
- Chi phí sử dụng vốn khi phát hành trái phiếu thấp hơn phát hành cổ phiếu, do đặc
điểm của trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu. Việc đầu
tư vào cổ phiếu có mức độ rủi ro cao hơn so với đầu tư vào trái phiếu, do đó mức
bù rủi ro mà nhà đầu tư đòi hỏi đối với trái phiếu thấp hơn cổ phiếu. * Đối với nhà đầu tư
- Thị trường trái phiếu góp phần làm đa dạng hóa các sản phẩm tài chính, cung cấp
cho các nhà đầu tư ngày càng nhiều lựa chọn để đa dạng hóa danh mục đầu tư phù
hơp với những khẩu vị rủi ro khác nhau. Trái phiếu Chính phủ với độ an toàn cao
nhưng lãi suất không hấp dẫn bằng trái phiếu công ty. Bên cạnh đó, đầu tư vào cổ
phiếu sẽ đem lại cho nhà đầu tư tỷ suất lợi nhuận cao hơn tương ứng với mức rủi
ro cao hơn. Thị trường trái phiếu với các loại trái phiếu và kỳ hạn khác nhau tạo
thêm cho nhà đầu tư lựa chọn phương án đầu tư phù hợp.
- Đối với nhà đầu tư trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu.
Trái phiếu luôn có một thời hạn nhất định và khi đáo hạn trái chủ nhận lại vốn góp
ban đầu của mình. Thu nhập chủ yếu của trái phiếu là tiền lãi, đây là khoản thu cố
định. Khi đầu tư vào trái phiếu công ty, trái chủ nhận tiền lãi không phụ thuộc vào
tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát hành, đặc điểm này không 13
Thị trường trái phiếu Việt Nam
giống với cổ đông chỉ nhận được cổ tức khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi. Đây
là dạng đầu tư phù hợp với các nhà đầu tư không thích mạo hiểm 14
Thị trường trái phiếu Việt Nam CH NG II: TH ƯƠ C TR NG TH TR NG TRÁI PHIỀẾU VI ƯỜ T NAM 1. TH C TRNG TH TR
Ị ƯỜ NG TRÁI PHIẾẾU VIT NAM 1.1 Th tr ng tr ườ
ái phiếếu chính phủ
Trong suốt 10 năm qua, thị trường trái phiếu Chính phủ đã hình thành và phát triển
song song với sự phát triển của thị trường cổ phiếu niêm yết, với các mốc lịch sử sau:
- Năm 2000, quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ theo nghị định 72/CP ngày
26/07/1994 được thay thế bằng nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/01/2000 ban
hành quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ. Quy chế phát hành trái phiếu Chính
phủ đã đổi mới thể hiện qua việc áp dụng phương thức phát hành trái phiếu thông
qua đấu thầu qua thị trường giao dịch chứng khoán tập trung và bảo lãnh phát
hành. Bên cạnh đó còn quy định việc trái phiếu Chính phủ niêm yết, giao dịch trên
thị trường chứng khoán và phân rõ trách nhiệm của các cơ quan có liên quan.
Tháng 8/2000: TPCP lần đầu tiên được đưa vào giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp. HCM (HOSE)
- Tháng 11/2003, Chính phủ ban hành Nghị định 141/2003/NĐ-CP về việc phát
hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính
quyền địa phương bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ trong phạm vi cả nước. Trái
phiếu Chính phủ do Chính phủ phát hành bao gồm: Tín phiếu kho bạc, trái phiếu
kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ và
công trái xây dựng Tổ quốc.
- Tháng 8/2005, trái phiếu Chính phủ được đưa vào giao dịch trên Trung tâm giao
dịch chứng khoán Hà Nội. Tuy nhiên đến thời điểm này rất nhiều phiên đấu thầu
thất bại do nhiều nguyên nhân khác nhau mà lãi suất là một trong những nguyên nhân lớn.
- Tháng 6/2006, Quyết định số 2276/QĐ-BTC về tập trung đấu thầu trái phiếu
Chính phủ tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và Quyết định
46/2006/QĐ-BTC ban hành Quy chế về việc phát hành trái phiếu Chính phủ theo 15
Thị trường trái phiếu Việt Nam
lô lớn. Quyết định này quy định sẽ chỉ tập trung hoạt động đấu thầu trái phiếu
Chính phủ, bao gồm trái phiếu kho bạc và trái phiếu đầu tư tại Trung tâm Giao
dịch Chứng khoán Hà Nội kể từ ngày 01/07/2006.
+ Chỉ sau 3 tháng kể từ ngày Quyết định này ra đời, Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Hà Nội đạt được những thành công bước đầu khi tổ chức thành công 4
phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ theo kế hoạch huy động vốn của Kho bạc
Nhà nước, huy động được 1.200 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 5 năm, đạt 80% khối
lượng gọi thầu; đã có 38 loại trái phiếu đăng ký giao dịch với tổng giá trị đạt 7.027 tỷ đồng.
+ 6 tháng đầu năm 2007 thông qua gần 30 phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ
tại HASTC, đã huy động được 12.695 tỷ đồng cho ngân sách nhà nước. Hơn
nữa, lãi suất đấu thầu trái phiếu giảm dần (lần đầu tiên lãi suất trái phiếu Chính
phủ đã giảm xuống mức thấp hơn lãi suất ngân hàng, cụ thể lãi suất cơ bản vào
ngày 1/6/2007 là 8,25% theo Quyết định 1143/QĐ-NHNN ngày 29/5/2007,
trong khi đó lãi suất trúng thầu trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm vào ngày
11/6/2007 là 7,15%), dẫn đến lãi suất bảo lãnh phát hành cũng giảm.
+ Tuy nhiên sự thành công đó cũng bắt đầu giảm dần khi tỷ lệ thành công các đợt
đấu thầu giảm mạnh từ 99% quý 1 xuống còn 58,39% của quý III năm 2007 và
tiếp sau đó là sự thất bại của hàng loạt các đợt đấu thầu như lô 200 tỷ đồng kỳ
hạn 15 năm phát hành ngày 27/9/2007 của Ngân hàng Phát triển Việt Nam …
nguyên nhân chính là do yếu tố lãi suất thấp, mặc dù độ rủi ro là thấp. Nhiều
người đã lạc quan cho rằng “hoạt động đấu thầu loại chứng khoán này đang
thực sự chuyển biến tích cực và ngày càng hiệu quả hơn”.
+ Khối lượng phát hành của một lô lớn trái phiếu tối thiểu là 1.000 tỷ đồng. Kỳ
hạn của trái phiếu lô lớn từ 5 năm trở lên. Trái phiếu lô lớn được phát hành
theo phương thức sau: đấu thầu trái phiếu hoặc bảo lãnh phát hành trái phiếu.
Thời hạn phát hành của một lô lớn trái phiếu tối đa không quá 365 ngày.. 16
Thị trường trái phiếu Việt Nam
- Tính đến 30/9/2007, đã có hơn 114.809 tỉ đồng trái phiếu được niêm yết giao dịch
trên Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM (HOSE) và Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Hà Nội (HASTC), tăng gấp hơn 104 lần so với giá trị niêm yết năm 2000
- Tháng 1/2008, Quyết định 86/2008/QĐ-BTC phê duyệt đề án xây dựng thị trường
TPCP chuyên biệt. Đây được xem là mốc sự kiện quan trọng nhất vì đã đặt ra mục
tiêu, lộ trình và xác định mô hình phát triển của Thị trường trái phiếu chính phủ.
Đề án được xây dựng nhằm tạo ra một thị trường giao dịch trái phiếu chuyên biệt,
tách hẳn khỏi thị trường giao dịch cổ phiếu.
+ Hàng hóa giao dịch bao gồm các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính
quyền địa phương, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh. Tất cả các loại trái phiếu
giao dịch trong hệ thống đều được lưu ký tập trung tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán.
+ Trái phiếu Chính phủ giao dịch sẽ được gán mã giao dịch và mã định danh
riêng biệt để tạo thuận lợi cho hoạt động giao dịch và quản lý. Phương thức
giao dịch được áp dụng là thỏa thuận. Thành viên có thể thực hiện giao dịch
thỏa thuận từ xa thông qua hệ thống mạng máy tính nội bộ mở rộng.
- Tháng 5/2008, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quyết định chuyển trái phiếu
Chính phủ từ sàn Tp.HCM sang niêm yết tại sàn Hà Nội.
- Tháng 7/2008, Quyết định Số 46/2008/QĐ-BTC ban hành Quy chế quản lý giao
dịch trái phiếu Chính phủ tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
+ Quy chế này quy định về hoạt động đăng ký niêm yết, công bố thông tin, thành
viên giao dịch trái phiếu Chính phủ, giao dịch và quản lý giao dịch TPCP niêm
yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
+ Từ khoảng đầu năm 2008, liên tục diễn ra các cuộc đấu giá trái phiếu Chính
phủ không thành công, số lượng tham gia rất èo uột, thậm chí không có ai tham
dự. Một thống kê cho thấy: trong 10 cuộc đấu giá từ tháng 3/2008 đến
11/7/2008 thì chỉ có 11 đơn vị tham gia với tổng cộng 875 tỷ đồng được đăng
ký đấu so với trên 8.000 tỷ đồng gọi thầu. 6 cuộc đấu giá chỉ có một đơn vị
tham gia đấu giá và 9 cuộc đấu giá không có một trái phiếu nào được đấu thành 17
Thị trường trái phiếu Việt Nam
công. Từ đầu năm 2009 đến tháng 7/2009, các cuộc đấu thầu trái phiếu Chính
phủ cũng chịu chung số phận. Thậm chí, từ đầu tháng 4 đến tháng 7, lãi suất
trần huy động trái phiếu Chính phủ tăng thêm đến 1,2 điểm phần trăm (từ 7,6%
đến 8,8%), nhưng các cuộc đấu giá trái phiếu Chính phủ vẫn chưa thể tạo được
sức hút đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước, như sự thất bại của phiến
đấu thầu lô 500 tỷ đồng ngày 29/5/2009 của Công ty CP Đầu tư phát triển
đường cao tốc VN (VEC) …
- Tháng 9/2009, Hệ thống giao dịch Trái phiếu Chính phủ chuyên biệt chính thức
được Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội đưa vào vận hành và ra mắt vào ngày
24/09/2009 tới với mục tiêu phát huy tối đa tầm quan trọng của kênh huy động
vốn này đối với nền kinh tế.
+ Mục tiêu xây dựng và phát triển Thị trường trái phiếu Chính là mở rộng thị
trường, tăng cường tính thanh khoản trên thị trường trái phiếu Chính phủ, liên
kết thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, và tăng cường công tác giám sát thị trường.
+ Sự ra đời của thị trường này được kỳ vọng không chỉ là một kênh dẫn vốn hữu
hiệu của nền kinh tế mà còn làm đa dạng hóa các công cụ đầu tư trên thị trường
vốn. Đồng thời, thị trường trái phiếu Chính phủ còn giúp tăng cường sự độc lập
trong điều hành chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương thông qua
mua bán trái phiếu Chính phủ, tác động trực tiếp đến lượng cung tiền và các biến số kinh tế vĩ mô.
+ Sau một năm chính thức đi vào hoạt động, thị trường trái phiếu chuyên biệt đã
có những bước tiến mới, đó là thực hiện lưu ký tập trung tại Sở Giao dịch
Chứng khoán Hà Nội chứ không thực hiện một cách rải rác trên nhiều thị
trường. Hơn nữa, nhờ yêu cầu khắt khe đối với các thành viên tham gia thị
trường về các yếu tố trang thiết bị, chất lượng nhân sự, các bên tham gia thị
trường có thể yên tâm về tính an toàn khi giao dịch. Các cơ chế dành cho giao
dịch REPO rất hạn chế. Trong giai đoạn 2010 – 2015 thị trường sẽ có thêm
giao dịch option, future và giao dịch corporation để đưa các trái phiếu doanh 18
Thị trường trái phiếu Việt Nam nghiệp vào giao dịch.
- Năm 2010, thị trường trái phiếu Chính phủ tiếp tục ảm đạm, như đợt đấu thầu cho
lô 3.000 tỷ đồng, kỳ hạn 2 năm tổ chức lần 1 vào ngày 25/1/2010 đã thất bại và
phiên đấu thầu thứ 2 vào ngày 24/3/2010 cũng chỉ bán được 3,33% tổng khối
lượng chào bán. Tuy nhiên, tổng giá trị giao dịch đạt trên 81.000 tỷ đồng, bình
quân mỗi phiên giao dịch đạt 340 tỷ đồng. Người mua trái phiếu Chính phủ: Chủ
yếu là các nhà đầu tư trong nước, đặc biệt là các NHTM, với 2 lý do chủ yếu là:
+ Thứ nhất, các đầu tư nước ngoài chưa quay trở lại thị trường do có sự quan
ngại nhất định về sự sụt giảm giá trị của VND so với USD.
+ Thứ hai, nhu cầu mua trái phiếu Chính phủ tăng mạnh của khối các tổ chức tín
dụng trong nước do: bối cảnh chính sách tiền tệ mở rộng giai đoạn giữa năm
làm gia tăng áp lực dư thừa vốn; Thông tư 13 và Thông tư 19 buộc các tổ chức
tín dụng phải tăng cường đầu tư vào trái phiếu Chính phủ; các NHTM tích cực
tham gia mua trái phiếu Chính phủ do chênh lệch lãi suất khá hấp dẫn giữa thị
trường mở (OMO) và huy động từ thị trường 1; một lượng khá lớn trái phiếu
Chính phủ đáo hạn trong năm 2010, phần lớn là tại các NHTM, nên các
NHTM tiếp tục mua lại và nắm giữ trái phiếu Chính phủ. - Năm 2011
+ Tổng giá trị giao dịch chỉ đạt trên 73.000 tỷ đồng, bình quân 280 tỷ
đồng/phiên. Giá trị giao dịch trái phiếu chính phủ trong năm 2011 lại giảm so
với 2010 (tốc độ giảm là 9,88%). Nguyên nhân sự sụt giảm TPCP 2011 do tác
động từ khủng hoảng nợ công châu Âu, suy thoái kinh tế Mỹ, lạm phát cao ở
nhiều nước châu Á, cùng với một lượng lớn trái phiếu chính phủ đã đến hạn
(hơn 50.000 tỷ đồng), bội chi ngân sách… gây áp lực lên nguồn cung trái phiếu
chính phủ ở thị trường sơ cấp; lạm phát cao và chính sách tiền tệ thắt chặt đã
hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư.
+ Tổng khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành thành công đạt 65.903,8 tỷ
đồng, đạt 77,5% kế hoạch năm. Khối lượng trái phiếu phát hành thành công
nhiều nhất thuộc kỳ hạn 3 năm (30.117,1 tỷ đồng) và 5 năm (22.678,5 tỷ đồng). 19
Thị trường trái phiếu Việt Nam
Khối lượng trái phiếu chính phủ bảo lãnh phát hành thành công đạt 14.957 tỷ
đồng, trong đó, khối lượng trúng thầu kỳ hạn 3 năm và 5 năm đạt lần lượt
5.742 tỷ đồng và 4.770 tỷ đồng.
Biểu đồ: Khối lượng trái phiếu Chính phủ đã phát hành năm 2011
- Năm 2012, huy động và phát hành trái phiếu chính phủ đạt kỷ lục kể từ khi thị
trường này được Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội vận hành chính thức ngày 24/9/2009
+ Trên thị trường sơ cấp, tính đến cuối tháng 12/2012 đã huy động đạt gần 20
Thị trường trái phiếu Việt Nam
160.000 tỷ đồng (gần gấp 2 lần so với cả năm 2011), vượt chỉ tiêu kế hoạch
huy động điều chỉnh năm 2012 là 135.000 tỷ đồng. Trong tổng giá trị đấu thầu
huy động được trong năm 2012, chỉ riêng Kho bạc Nhà nước đã huy động
được 106.884 tỷ đồng. Lãi suất trúng thầu giảm so với năm 2011 và thấp hơn
lãi suất huy động trên thị trường tiền tệ từ 1% - 2%.
+ Trên thị trường thứ cấp, hoạt động giao dịch "nhộn nhịp" hơn so với thị trường
cổ phiếu, giá trị giao dịch bình quân đạt 842 tỷ đồng/phiên, gấp 2,3 lần so với
bình quân phiên năm 2011. Giá trị giao dịch trên thị trường trái phiếu chính
phủ đạt 189.086 tỷ đồng tính đến thời điểm đầu tháng 12/2012, trong đó giao
dịch repos chỉ chiếm khoảng 30% tổng giá trị. Ngân hàng và các tổ chức tín
dụng là khu vực cung cấp phần lớn các nguồn vốn cho đầu tư của nền kinh tế
và cũng là nguồn cầu chủ yếu đối với trái phiếu. Mục tiêu chủ yếu mua trái
phiếu, đặc biệt với trái phiếu chính phủ, của các ngân hàng thương mại là để
đảm bảo khả năng thanh khoản và làm công cụ trong giao dịch với Ngân hàng
Nhà nước... Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán cũng tham gia với mục
đích đầu tư tài chính. Tính tới thời điểm hiện tại, đã có 24 ngân hàng thương
mại và 29 công ty chứng khoán là thành viên của thị trường trái phiếu chính phủ 21
Thị trường trái phiếu Việt Nam
* Nhận định xu hướng:
- Trong 2 năm trở lại đây thị trường trái phiếu chính phủ đã trở nên sôi động hơn là do:
+ Các tổ chức tín dụng trong quá trình tái cơ cấu lại đã chú trọng hơn đến việc
đảm bảo các chỉ tiêu an toàn hoạt động, nhiều ngân hàng đã nâng tỷ lệ sở hữu
trái phiếu chính phủ nhằm mở rộng dự trữ thanh khoản thứ cấp. Do đó trái
phiếu chính phủ trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn của các tổ chức tín dụng.
+ Việc Chính phủ và Ngân hàng nhà nước thể hiện quyết tâm thực hiện tái cấu
trúc nền kinh tế cũng như hệ thống các tổ chức tín dụng đã tạo ra triển vọng
kinh tế vĩ mô ổn định, thu hút được sự quan tâm của các nhà đâu tư nước ngoài
đối với thị trường trái phiếu Chính phủ của Việt Nam.
+ Lãi suất trái phiếu chính phủ ở mức khá hấp dẫn đối với những nhà đầu tư.
- Giá trị giao dịch của thị trường có xu hướng ngày càng tăng cao: năm 2011 tổng
giá trị giao dịch khoảng 90 nghìn tỷ đồng thì năm 2012 đã tăng lên 150 nghìn tỷ
đồng và trong 9 tháng đầu năm 2013 đã đạt gần 240 nghìn tỷ đồng.
- Lãi suất trái phiếu Chính phủ có xu hướng giảm dần qua 2 năm
- Theo nhận định thì trong năm 2013 và 2014 thị trường trái phiếu chính phủ sẽ tiếp
tục tăng cao khi các Ngân hàng thực hiện việc tái cơ cấu sẽ chú trọng hơn đến mức 22
Thị trường trái phiếu Việt Nam
độ an toàn và thanh khoản của tài sản để đảm bảo an toàn cho hoạt động của Ngân hàng. 1.2 Th tr ng tr ườ
ái phiếếu chính quyếền đ a ph ng ươ :
Dựa vào những điểm mốc của việc hình thành khung pháp lý và cơ chế phân cấp
NSNN cho việc phát hành trái phiếu đô thị, có thể chia làm hai giai đoạn cơ bản:
- Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2003
Cơ chế phân cấp của ngân sách trong giai đoạn này còn mang nặng tính tập trung,
phần lớn nguồn thu các dự án đầu tư đều do ngân sách trung ương thực hiện. Vì vậy, chỉ
có một số địa phương vận dụng nội dung các văn bản pháp lý về phát hành trái phiếu
chính phủ, trái phiếu công trình để đầu tư cho các công trình địa phương. Những trái
phiếu này được đảm bảo thanh toán bằng nguồn ngân sách địa phương.
Năm 1995, triển khai Nghị định 72/CP của Chính phủ, Bộ Tài chính hướng dẫn Ủy
ban Nhân dân các tỉnh xây dựng đề án huy động vốn cho các dự án đầu tư trọng điểm của
địa phương về phát triển kinh tế xã hội. Ủy ban Nhân dân các tỉnh như: Bình Thuận, Tiền
Giang, Cà Mau, Lào Cai… đã triển khai kế hoạch đầu tư các công trình thuộc hạ tầng
kinh tế xã hội. Vận dụng nội dung của Luật ngân sách nhà nước, nhằm khuyến khích các
địa phương đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, thông qua quỹ đầu tư phát triển đô thị, các địa
phương như TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng, Đồng Tháp, … như: khu đô
thị Linh Đàm 42 tỷ đồng; khu đô thị mới Định Công 50 tỷ đồng; khu đô thị mới Chí Linh
71 tỷ đồng; nhà máy xi măng Bút Sơn 12,2 tỷ đồng; nhà máy xi măng Anh Sơn 7,6 tỷ
đồng; đường Nguyễn Tất Thành-liên tỉnh lộ 15 là 25,2 tỷ đồng… Ngoài ra, một số địa
phương như: Tiền Giang, Bình Thuận, Khánh Hòa… phát hành trái phiếu công trình huy
động trên 130 tỷ đồng.
- Giai đoạn từ năm 2003 đến nay
Đẩy mạnh đầu tư phát triển kinh tế, nhằm hoàn thành chỉ tiêu kinh tế xã hội trong kế
hoạch 5 năm (2000-2005) cùng với tiến trình đô thị hóa, đã làm cho nhu nhu cầu vốn đầu
tư của tỉnh, thành phố tăng lên rất lớn, đặc biệt là các dự án phát triển hạ tầng cơ sở. Vận
dụng nội dung ở khoản 3 điều 8 Luật ngân sách nhà nước về cho phép các tỉnh, thành chủ 23
Thị trường trái phiếu Việt Nam
động huy động vốn để thực hiện các công trình đầu tư cơ sở hạ tầng, và các nghị định của
Chính phủ về việc áp dụng quy chế tài chính đặc biệt cho một số địa phương như Nghị
định 123/2004/NĐ-CP và Nghị định 124/2004/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2004, cùng
với việc thực hiện hiện cơ chế phi tập trung hóa trong lĩnh vực ngân sách nhà nước, một
số tỉnh, thành phố có điều kiện về tiềm lực kinh tế đã vận dụng phương thức phát hành
trái phiếu đô thị để huy động vốn tài trợ cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng. Từ năm
2003-2007, thông qua Quỹ đầu tư phát triển các địa phương như TP.HCM, Hà Nội đã huy
động được một lượng vốn lớn cho ngân sách. Tổng lượng vốn mà hai địa phương này
huy động qua phát hành trái phiếu đô thị trên 11.000 tỷ đồng, trong đó TP.HCM là 10.000
tỷ đồng và Hà Nội là trên 1.000 tỷ đồng.
TP.HCM là địa phương đầu tiên ở Việt Nam được thực hiện phát hành trái phiếu chính
quyền địa phương, là trái phiếu đô thị TP.HCM. Quỹ Đầu tư là đơn vị được UBND TP ủy
nhiệm việc phát hành trái phiếu đô thị qua các năm. Năm 2003 - 2007, Quỹ đã đảm
nhiệm vai trò tư vấn kỹ thuật, phối hợp cùng Sở Tài chính thực hiện thành công 5 đợt
phát hành trái phiếu đô thị, huy động được 10.000 tỷ đồng trái phiếu đáp ứng nhu cầu
phát triển của Thành phố. Riêng năm 2009 là năm đầu tiên thành phố phát hành trái phiếu
đô thị cho các công trình có nguồn thu, cụ thể là cho dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm
với kế hoạch phát hành là 14.000 tỷ đồng. Tính đến cuối tháng 11/2009, khối lượng trái
phiếu phát hành là 1.540 tỷ đồng, đạt 38,5% so với kế hoạch, với loại kỳ hạn 3 năm theo
phương thức bảo lãnh. Khối lượng trái phiếu còn lại đã được tiếp tục triển khai phát hành
trong năm 2010. Việc phát hành thành công trái phiếu đô thị TP.HCM không những mở
ra một kênh huy động vốn mới, có những ưu điểm là có thể có thời hạn dài và ổn định,
mức chi phí vốn hợp lý, góp phần đáng kể trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển
hạ tầng đô thị, đồng thời khắc phục một số hạn chế trong việc huy động tín dụng từ các
ngân hàng của chính quyền địa phương...mà còn có ý nghĩa lớn về mặt thực hiện chủ
trương thí điểm phát hành trái phiếu của chính quyền địa phương theo cơ chế "tự vay, tự
trả" ở nước ta, mở ra triển vọng nâng cao tính tự chủ trong quản lý ngân sách đầu tư của
chính quyền địa phương.
Từ tháng 09/2012 UBND TP.HCM đã kiến nghị với Chính phủ và Bộ Tài chính chấp 24
Thị trường trái phiếu Việt Nam
thuận cho huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu chính quyền địa phương
trong nước để đầu tư phát triển kinh tế xã hội năm 2012. Theo kế hoạch TP.HCM sẽ phát
hành 2.000 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 3 năm và 3.000 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 5 năm. Đà
Nẵng cũng đã phát hành 1.500 tỷ đồng trái phiếu trong kế hoạch 5.000 tỷ đồng cho năm
tài khóa 2013. Hà Nội cũng đã thông qua kế hoạch phát hành 5.000 tỷ đồng trái phiếu cho
địa phương mình, việc phát hành được thực hiện từ năm 2013 – 2015. Tiếp nối các thành
phố lớn thì các tỉnh như Bình Dương , Bắc Ninh và một số địa phương phía Bắc cũng
đang đề xuất và có phương án phát hành trái phiếu cho địa phương mình.
* Một số hạn chế tồn tại của thị trường trái phiếu chính quyền địa phương:
- Quy mô thị trường phát hành trái phiếu đô thị còn quá nhỏ, vốn huy động còn hạn
chế chưa đáp được nhu cầu vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô thị. Mặc dù,
Luật NSNN cho phép các địa phương huy động vốn đầu tư các công trình cơ sở hạ
tầng, tuy nhiên các địa phương vẫn chưa mạnh dạn lựa chọn phương thức này.
Tính đến cuối năm 2007, chỉ mới có 2 địa phương thực sự chủ động thực hiện phát
hành trái phiếu để huy động vốn đầu tư cho ngân sách là Hà Nội và TP.HCM.
- Công tác kế hoạch hóa kế hoạch huy động vốn còn chưa được quan tâm đúng
mức. Chỉ mới xây dựng kế hoạch hàng năm, các địa phương chưa có chiến lược
tổng thể về huy động vốn thông qua phát hành trong khoảng thời gian dài 5-10
năm, trong khi đã phát hành loại trái phiếu có kỳ hạn 15 năm. Việc xây dựng kế
hoạch phát hành trái phiếu mang tính thụ động, chủ yếu dựa vào nhu cầu chi tiêu
và dự toán Ngân sách đã được thông qua. Quy trình lập dự toán ngân sách hiện
nay vẫn còn theo mô hình cũ, dựa trên cơ sở nguồn tài chính huy động đầu vào từ đó xác định đầu ra.
- Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2011/NĐ-CP về phát hành trái phiếu
chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa
phương đã tạo hành lang pháp lý quan trọng trong việc phát hành trái phiếu chính
quyền địa phương. Tuy nhiên với quy định Bộ tài chính chịu trách nhiệm thẩm
định đề án phát hành trái phiếu và ban hành văn bản chấp thuận hoặc không chấp
thuận việc phát hành trái phiếu thì khó tránh khỏi cơ chế xin – cho. 25
Thị trường trái phiếu Việt Nam
- Năng lực quản lý nguồn vốn phát hành trái phiếu của chính quyền địa phương
cũng là một điểm cần khắc phục trước khi được trao quyền phát hành trái phiếu. 1.3 Th tr ng trái phiếếu c ườ ông ty
Các doanh nghiệp phát hành bao gồm các doanh nghiệp nhà nước đang thực hiện cổ
phần hoá, hay các tổng công ty, tập đoàn kinh tế lớn. Số trái phiếu này được phát hành
thông qua kênh đấu giá, bảo lãnh và môi giới. Tuy nhiên, tính thanh khoản của loại trái phiếu này cũng không cao.
Năm 2007 mới chỉ có 10 doanh nghiệp phát hành trái phiếu, gồm có:
PetroVietnam, Tổng công ty cao su, Vinashin, Electric Vietnam Copreration (EVN),
Lilama, Vietnam Steel Corperation, Vilexim, Tổng Công ty cổ phần xây dựng điện Việt
nam, Tổng công ty Sông Đà và Vinaconex. Tất cả các công ty này đều là những đơn vị
đầu ngành hoặc các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa. Thực tế, nhu cầu của họ là
nguồn vốn lớn, dài hạn và ổn định để đáp ứng yêu cầu, mà những nguồn vốn này khó có
thể vay được từ một ngân hàng. Thực ra uy tín của các công ty này đủ để đề nghị với
ngân hàng bất kì khoản vay nào, tuy nhiên, các ngân hàng cũng có những giới hạn trong
việc cho vay như khoản vay tối đa phải dưới 15% tổng vốn chủ sở hữu. Do vậy, thị
trường trái phiếu là một kênh cần thiết để huy động lượng vốn lớn, dài hạn.
Hầu hết các trái phiếu được phát hành đều có kỳ hạn dài, ngắn nhất là 2 năm, dài
nhất là 10 năm. Trái phiếu EVN hầu hết đều có kỳ hạn 10 năm, đầu tư vào các công trình
thuỷ điện, cải tạo mạng lưới điện quốc gia. Trái phiếu Vinaconex và Lilama phát hành
thường có kỳ hạn 5 năm. Để khuyến khích các nhà đầu tư, Vinanconex phát hành trái
phiếu kèm theo chứng quyền (warrant) là quyền mua cổ phiếu của Nhà máy xi măng
Cẩm Phả với mức giá ưu đãi. Trong một thị trường tài chính phát triển, trái phiếu thường
có thời hạn từ trên 20 năm cho đến 30 năm. Các ngân hàng thường hạn chế trong việc
cho vay các khoản vay dài hạn như thế vì rủi ro cao. Tuy nhiên, ở Việt Nam, trong điều
kiện lạm phát cao, môi trường chính sách không đảm bảo và do tác động khá nhạy cảm
của các biến động kinh tế quốc tế đã gây nên tâm lý thiếu tin tưởng của các nhà đầu tư
khi đầu tư vào một loại trái phiếu có thời hạn quá dài. 26
Thị trường trái phiếu Việt Nam
Tất cả các trái phiếu đều trả lãi sau, với phương thức trả lãi hàng năm (coupon), lãi
suất cố định. Riêng Tổng công ty Sông Đà và EVN phát hành trái phiếu có lãi suất thả
nổi, được điều chỉnh căn cứ vào lãi suất Trái phiếu Chính Phủ hoặc lãi suất trên thị
trường tiền tệ liên ngân hàng. Về cơ bản, lãi suất trái phiếu doanh nghiệp đều cao hơn lãi
suất đấu thấu trái phiếu chính phủ.
Tính đến năm 2008 mới chỉ có 21 doanh nghiệp phát hành trái phiếu gồm có:
Petro VietNam, Tổng công ty cao su, Vinashin, Electric Vietnam Copreration (EVN),
Lilama, Vietnam Steel Corperation, Vilexim,… Tất cả các công ty này đều là những đơn
vị đầu ngành hoặc các doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa. Thực tế nhu cầu vốn
của họ là nguồn vốn lớn, dài hạn và ổn định để đáp ứng yêu cầu, mà những nguồn vốn
này khó có thể vay được từ một ngân hàng. Thực ra uy tín của các công ty này đủ để đề
nghị với ngân hàng bất kỳ khoản vay nào, tuy nhiên các ngân hàng cũng có những giới
hạn trong việc cho vay như các khoản vay tối đa phải dưới 15% tổng vốn chủ sở hữu. Do
vậy thị trường trái phiếu là một kênh cần thiết để huy động lượng vốn lớn, dài hạn.
Đến năm 2009, thị trường trái phiếu doanh nghiệp khá sôi động với nhiều đợt phát
hành thành công, trong đó chủ yếu là hình thức phát hành trái phiếu với lãi suất thả nổi.
Do lo ngại rủi ro biến động lãi suất ở mức cao mà cả nhà phát hành lẫn đầu tư đều tập
trung vào loại hình trái phiếu này. Ước tính đã có khoảng 18.000 tỉ đồng giá trị trái phiếu
có lãi suất thả nổi được bán ra, chiếm 77% trong tổng giá trị trái phiếu huy động được
(hơn 26.000 tỉ đồng). Điển hình là hồi cuối tháng 4/2009, ngân hàng ANZ tại Việt Nam
và Công ty tài chính cổ phần Điện lực đã công bố hoàn tất việc phát hành trái phiếu
doanh nghiệp thời hạn 5 năm có tổng trị giá 3.500 tỷ đồng cho Tập đoàn Điện lực Việt
Nam. Bên cạnh đó, công ty phát triển đô thị Kinh Bắc cũng đã phát hành được 700 tỷ
đồng trái phiếu kỳ hạn 5 năm với lãi suất 11.5%/năm nhằm phục vụ cho dự án Khu công
nghiệp Quế Võ mở rộng và khu đô thị mới Phúc Ninh. Ngoài ra còn có nhiều doanh
nghiệp lớn nữa đã phát hành trái phiếu thành công khi thị trường chứng khoán có dấu
hiệu khởi sắc trong năm 2009 như: Công ty cổ phần đầu tư phát triển đô thị và Khu công
nghiệp Sông Đà, Công ty Tín Nghĩa…Và chỉ tính riêng ba đợt phát hành của Hòa Phát, 27
Thị trường trái phiếu Việt Nam
Hoàng Anh Gia Lai và FPT, thì lượng vốn huy động đã lên đến 4.370 tỉ đồng, chiếm hơn
15% tổng khối lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong năm 2009.
Năm 2011 thị trường trái phiếu DN khá ảm đạm khi môi trường kinh tế cả trong
và ngoài nước bất ổn, khiến việc phát hành trái phiếu DN hết sức khó khăn. Nhiều DN
phải hoãn hoặc hủy kế hoạch phát hành trái phiếu như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam hoãn
phát hành 500 triệu USD trái phiếu. Một loạt các DN trên sàn niêm yết như Địa ốc Hoàng
Quân (HQC), NHTMCP Sài Gòn (SCB); Khoáng sản Na Rì (KSS) cũng ở trong tình
trạng tương tự. Rủi ro tín dụng tăng cao dẫn tới nhiều trái phiếu mặc dù được chào với lãi
suất rất cao từ 21-23%/năm vẫn không thể bán được, đặc biệt là trái phiếu bất động sản.
Bức tranh thị trường thứ cấp cũng không sáng sủa hơn, thanh khoản rất ít và chỉ tập trung
ở một số trái phiếu của doanh nghiệp lớn như EVN, Lilama, BIDV, FPT… Theo thống kê
của Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA), năm 2011 ước tính có khoảng 27
đợt phát hành trái phiếu với khối lượng giao dịch khoảng 7.000 tỷ đồng, chỉ bằng 12,5% so với năm 2010.
Năm 2012 có 43 doanh nghiệp đăng ký phát hành trái phiếu công ty với khối
lượng 33 nghìn tỷ đồng, thực tế khối lượng đã phát hành khoảng 17 nghìn tỷ đồng. Trong
năm 2012 các doanh nghiệp phát hành trái phiếu với lãi suất lên tới 16%/năm, thậm chí
18%/năm cho kỳ đầu tiên và biên lãi suất 4% - 4,5%/năm cho các kỳ thanh toán tiếp theo
nhưng những nhà đầu tư vẫn dè dặt với kênh đầu tư này.
6 tháng đầu năm 2013 tổng lượng trái phiếu công ty phát hành khoảng 15.000 tỷ
đồng, trong khi cả năm 2012 chỉ là 17.000 tỷ đồng. Đặc biệt, trong quý III-2013 có ít nhất
13.000 tỷ đồng trái phiếu công ty được phát hành. Như vậy, với ít nhất 3 đợt chào bán trái
phiếu công ty quy mô khoảng 2.000 tỷ đồng/đợt đang được thực hiện, tổng lượng trái
phiếu công ty phát hành trong năm 2013 có thể lên tới 34.000 tỷ đồng (gấp đôi năm
2012). Một trong những doanh nghiệp thành công nhất trong việc phát hành trái phiếu
công ty là Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin).
6 tháng đầu năm 2012 thị trường trái phiếu công ty vẫn còn hết sức ảm đạm khi có
rất ít doanh nghiệp tổ chức phát hành trái phiếu để huy động vốn. Trong 6 tháng, chỉ có
duy nhất thỏa thuận đạt được giữa CTCP Đầu tư hạ tầng kỹ thuật TPHCM (CII) và Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). Theo đó, Vietcombank sẽ mua toàn 28
Thị trường trái phiếu Việt Nam
bộ 1.000 tỷ đồng TPDN do CII phát hành. Trên thực tế, thị trường trái phiếu công ty chỉ
thật sự sôi động kể từ cuối quý II-2013, khi TP chính phủ không còn hấp dẫn do lợi suất
mang lại đã giảm về mức rất thấp. Bên cạnh đó, với bối cảnh thanh khoản hệ thống ngân
hàng dồi dào trong khi các kênh đầu tư như bất động sản, chứng khoán đều khá rủi ro đã
thúc đẩy các nhà đầu tư chuyển hướng nhu cầu sang đầu tư vào trái phiếu công ty với
mức lợi suất cao hơn hẳn, trung bình 12-14%/năm. Cụ thể, cuối tháng 8 vừa qua,
Vinacomin đã phát hành thành công 5.000 tỷ đồng TP, gấp 1,7 lần khối lượng dự kiến là
3.000 tỷ đồng khi tập đoàn này bắt đầu thăm dò thị trường. Ngân hàng TMCP Đầu tư và
Phát triển Việt Nam (BIDV) phát hành thành công TP 10 năm, với kết quả vượt 5% so
với mục tiêu 3.000 tỷ đồng ban đầu và vượt gần 60% so với con số 2.000 tỷ đồng khi
ngân hàng này thăm dò nhu cầu thị trường hồi quý II-2013. Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai
(HAG) thu được 950 tỷ đồng từ TP bằng việc phát hàng 950 TP, mệnh giá 1 tỷ đồng/TP.
Số TP được HAG phát hành lần này có kỳ hạn 3 năm và lãi suất kỳ tính lãi đầu tiên 14%/năm
* Một số điểm hạn chế của thị trường trái phiếu công ty:
- Số lượng doanh nghiệp và lượng vốn huy động từ thị trường trái phiếu doanh
nghiệp còn hạn chế. Các doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu chủ yếu là các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế.
- Thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn thiếu nhiều yếu tố quan trọng trong hệ
thống cơ sở hạ tầng (quản trị doanh nghiệp, tổ chức định mức tín nhiệm, hệ thống
thông tin giao dịch thứ cấp, hệ thống nhà đầu tư…).
- Điều kiện phát hành trái phiếu hiện nay quy định tại Nghị định 90/2011/NĐ-CP
quá chặt chẽ như yêu cầu doanh nghiệp phải có lãi. Bởi có những trường hợp
doanh nghiệp cần phát hành trái phiếu để cơ cấu lại tài chính, đang bị lỗ cũng có
thể phát hành trái phiếu
1.4 Trái phiếếu quôếc tếế
Năm 2005, lần đầu tiên Việt Nam phát hành thành công 750 triệu USD trái phiếu
Chính phủ ra thị trường vốn quốc tế. Đây là một đợt phát hành rất thành công và đã được
thị trường tài chính quốc tế bình chọn là một sự kiện lớn trên thị trường tài chính quốc tế. 29
Thị trường trái phiếu Việt Nam
Toàn bộ số tiền vay qua trái phiếu quốc tế đã được cho Vinashin vay lại để đầu tư phát
triển ngành công nghiệp đóng tàu.
Đợt phát hành trái phiếu ngày 26/01/2010, Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ
USD trái phiếu Chính Phủ thời hạn 10 năm trên thị trường quốc tế với lợi tức 6,95%. Số
tiền thu được từ đợt phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế này được tập trung vào các mục tiêu:
+ Hoàn trả vốn ngân sách Nhà Nước
+ Giao Bộ Kế hoạch&Đầu tư phối hợp Bộ Tài chính lựa chọn dự án phù hợp (dự
kiến cho các Tập đoàn Dầu khí, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công
ty Sông Đà và Tổng Công ty lắp máy Việt Nam đầu tư bổ sung các dự án lọc
hóa dầu Dung Quất, dự án xây dựng thủy điện Xê Ca Mản 3, nhà máy thủy
điện Hủa Na và mua tàu vận tải biển).
Phát hành trái phiếu quốc tế có thể giúp doanh nghiệp huy động được lượng vốn lớn
với kỳ hạn dài để phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh, nhất là trong bối cảnh lãi
suất ngân hàng cao như hiện nay. Đây là những động lực chính khiến nhiều “ông lớn” lên
kế hoạch phát hành trái phiếu trong năm nay. Nhiều DN lớn của Nhà nước và tư nhân đều
có kế hoạch phát hành trái phiếu quốc tế do nhu cầu vốn lớn như Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN), hiện đang triển khai xây dựng 15 dự án điện, với tổng công suất 10.581
MW. Tổng vốn đầu tư cho 15 dự án là 9 tỷ USD. Ngoài ra, EVN còn có 11 dự án trong
giai đoạn chuẩn bị đầu tư, với tổng công suất 7.285 MW và đang thực hiện các thủ tục
đầu tư 5 dự án nguồn điện khác, dự kiến khởi công trong giai đoạn 2011 - 2015 gồm 2
nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1&2 (hơn 4.000 MW) và 3 dự án thuỷ điện tích năng
(Bắc Ái, Hàm Thuận Bắc, Mộc Châu, tổng công suất 3.600 MW).
Với những dự án lớn như vậy, khó có thể chỉ trông chờ vào vốn nội địa. Để đảm bảo
nguồn vốn cho các dự án điện, EVN có kế hoạch phát hành 5.000 tỷ đồng trái phiếu trong
nước và 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế năm 2011. Bên cạnh đó, kế hoạch phát hành 1 tỷ
USD trái phiếu ra thị trường quốc tế đã được Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) dự kiến
phát hành từ năm 2009, nhưng gần 2 năm trôi qua, kế hoạch này vẫn chưa được thực
hiện. Năm 2011 này, PVN đã có kế hoạch đầu tư khoảng 5-6 tỷ USD cho nhiều dự án của 30
Thị trường trái phiếu Việt Nam
mình và mục tiêu hướng tới là không vay ưu đãi mà sẽ phát hành trái phiếu quốc tế để
giải quyết nhu cầu về vốn. Đối với Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) cũng
vừa trình lên Chính phủ xin phép được tái phát hành 500 triệu USD trái phiếu quốc tế.
Thời điểm phát hành trái phiếu quốc tế thuận lợi nhất là vào khoảng giữa năm 2011 khi
các báo cáo quyết toán đã hoàn thiện, nguồn tài chính trên thế giới dồi dào. Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) dự kiến sẽ làm việc với các cơ quan Nhà nước để
phát hành 500 triệu USD trái phiếu quốc tế, nhằm tăng vốn cấp 2 khi điều kiện thị trường cho phép.
Không chỉ các tập đoàn Nhà nước cần đến dòng vốn quốc tế, Tập đoàn Hoàng Anh
Gia Lai (HAG) đã tổ chức đại hội cổ đông bất thường nhằm thông qua kế hoạch phát
hành 200 triệu USD trái phiếu quốc tế. Trái phiếu sẽ được niêm yết trên thị trường chứng khoán Singapore.
Trong năm 2012, có 4 doanh nghiệp Việt Nam xây dựng kế hoạch phát hành trái phiếu
quốc tế. Cụ thể, tập đoàn Masan đã phát hành thành công 100 triệu USD trái phiểu
chuyển đổi, kỳ hạn 4 năm, lãi suất 5%/năm (tăng 1% sau mỗi năm). Tập đoàn Vingroup
đã phát hành thành công 300 triệu USD trái phiếu chuyển đổi, kỳ hạn 5 năm, lãi suất
5%/năm. Ngân hàng Vietinbank dự kiến phát hành 500 triệu USD trái phiếu và đã phát
hành thành công 250 triệu USD trái phiếu, kỳ hạn 4 năm, lãi suất 8%/năm. Riêng ngân
hàng BIDV dự kiến phát hành 500 triệu USD trái phiếu nhưng chưa thành công do tình
hình kinh tế trong và ngoài nước không thuận lợi.
Rõ ràng, chủ động trong huy động vốn đầu tư qua kênh phát hành trái phiếu quốc tế
thay vì phụ thuộc vào nguồn vốn đầu tư công hoặc dựa vào các khoản vay của Chính phủ
sẽ là xu hướng của các doanh nghiệp lớn tại Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp trên thế giới
đã đi theo cách này từ rất lâu. Thậm chí, tại các nước phát triển, chính quyền các thành
phố hay Chính phủ có thể chủ động đứng ra bảo lãnh phát hành trái phiếu quốc tế cho các
doanh nghiệp.Tuy nhiên, cần nhìn nhận rằng, trái phiếu quốc tế Việt Nam huy động, có
thể thấy, giá vốn chúng ta huy động cao hơn khá nhiều so với các nước có hệ số tín nhiệm
cao. Cụ thể: giá vốn huy động cao hơn các nước trong khu vực như Indonesia, Philippin,
trong khi kinh tế của họ chưa hẳn tốt hơn Việt Nam, chất lượng tăng trưởng ở mức tương 31
Thị trường trái phiếu Việt Nam
tự… Như vậy, các nhà đầu tư quốc tế sẽ nhìn thấy những yếu tố rủi ro tại Việt Nam lớn
hơn. Ngoài ra, một đợt phát hành trái phiếu thành công phụ thuộc vào các yếu tố khách
quan (như điều kiện thị trường tại thời điểm phát hành) cũng như các điều kiện chủ quan
như: tính hấp dẫn của trái phiếu, sự chuẩn bị của doanh nghiệp trong việc đáp ứng yêu
cầu của nhà đầu tư quốc tế.
2. ĐÁNH GIÁ TH TR
Ị ƯỜ NG TRÁI PHIẾẾU VIT NAM
Như vậy, thị trường trái phiếu nước ta còn non trẻ, quy mô thị trường còn khiêm tốn,
chủ thể phát hành không đa dạng, chưa có hệ thống các nhà tạo lập thị trường và hệ thống
giao dịch, thanh toán còn nhiều hạn chế mà đặc biệt là giúp cho chính quyền địa phương
và doanh nghiệp huy động vốn hầu như chưa tồn tại.
- Thị trường còn khá sơ khai với quy mô quá nhỏ so với GDP, chỉ chiếm khoảng
16% GDP. Các doanh nghiệp phát hành thường là lần đầu, chưa tạo ra một thị
trường nhất định và chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp nhà nước... nhờ dựa vào uy
tín. Hiện tại, trái phiếu Chính phủ đang "thống lĩnh" thị trường, trong khi trái
phiếu của các công ty phát hành còn hạn chế.
- An toàn nhưng lợi nhuận thấp, quy mô quá nhỏ, tính thanh khoản của các loại trái
phiếu còn thấp. Thị trường trái phiếu Chính phủ thiếu một cơ chế giao dịch có khả
năng cung cấp thanh khoản cho các trái phiếu Chính phủ như các nhà tạo lập thị
trường, hợp đồng mua lại. Nhu cầu giao dịch phát sinh là các giao dịch lớn và ít
mang tính tương thích thời điểm, hạn chế tính thanh khoản của trái phiếu.
- Thị trường trái phiếu vẫn chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư. Trái phiếu Chính
phủ phát hành với khối lượng và giá trị niêm yết lớn nên những người nắm giữ trái
phiếu Chính phủ trên thị trường sơ cấp chủ yếu là các nhà đầu tư có tổ chức (trừ
các đợt phát hành riêng lẻ qua hệ thống Kho bạc).
- Tính cạnh tranh thấp: Trái phiếu Chính phủ chưa cạnh tranh được với sự thuận tiện
của hình thức gửi tiết kiệm, đầu tư kỳ phiếu ở các ngân hàng thương mại cùng với
tính thanh khoản kém hơn nên chưa thu hút được tiền nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và cá nhân. 32
Thị trường trái phiếu Việt Nam
- Từ phía các công ty, chưa quen với kênh huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu: Thị trường trái phiếu công ty kém phát triển do các công ty chưa quen với
việc huy động vốn vay trực tiếp qua phát hành trái phiếu mà vẫn dựa vào nguồn
vốn vay của ngân hàng, đặc biệt là các Tổng công ty lớn, các doanh nghiệp nhà
nước do có khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay ngân hàng, vay ưu đãi. Các đơn
vị này cũng thiếu tổ chức định mức tín nhiệm giúp cho việc xác định tín nhiệm và
làm tăng tính minh bạch cho các trái phiếu phát hành; chưa xây dựng được đường
cong lợi suất phi rủi ro cho trái phiếu Chính phủ phát hành làm tiêu chuẩn cho việc
định lãi suất phát hành các công cụ nợ khác như trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị...
- Thông tin thị trường: Theo đánh giá của các chuyên gia tài chính, nguyên nhân
quan trọng khiến thị trường trái phiếu của Việt Nam kém hấp dẫn chính là việc
thiếu một hệ thống cung cấp thông tin đầy đủ. Thể hiện rõ nhất là cho đến nay vẫn
chưa có những công ty định mức tín nhiệm. Hiện nay, trên thị trường đang có 3
loại trái phiếu và được phát hành bởi Chính phủ, chính quyền địa phương và
doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến nay, quy mô phát triển của thị trường này còn nhỏ
bé. Bên cạnh những vướng mắc xuất phát từ hệ thống văn bản chính sách khiến
tính thanh khoản của trái phiếu không được cao, lượng doanh nghiệp có uy tín
tham gia phát hành... thì việc thiếu thông tin cũng khiến cho các nhà đầu tư "dè
dặt" hơn trong việc đầu tư vào loại hình này. Sau khi Nghị định 52/CP của Chính
phủ về việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp với yêu cầu bắt buộc minh bạch
thông tin, nhiều doanh nghiệp vừa muốn phát hành trái phiếu nhưng lại e ngại chuyện... minh bạch
- Phí giao dịch cao : Theo quy định, việc giao dịch trái phiếu Chính phủ phải thông
qua các công ty chứng khoán - là tổ chức trung gian thu phí cả người mua lẫn
người bán. Để một giao dịch trái phiếu Chính phủ 100 tỉ đồng được hoàn tất thì
nhà đầu tư phải mất đến cả 100 triệu đồng tiền phí, mà thông thường những giao
dịch mua bán trái phiếu Chính phủ là những giao dịch lớn, ít nhất có giá trị từ 100- 33
Thị trường trái phiếu Việt Nam
300 tỉ đồng. Chính điều này làm cho thị trường trái phiếu Chính phủ của Việt Nam
không thu hút được nhiều nhà đầu tư giao dịch, nhất là các ngân hàng nước ngoài.
- Không có tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp là rào cản lớn đối với doanh
nghiệp nhỏ khi phát hành trái phiếu. Theo thông lệ, tại các thị trường chứng khoán
phát triển, chỉ các doanh nghiệp được các tổ chức uy tín như Fitch, Standard &
Poor's, Moody’s… xếp hạng tín dụng tốt mới tìm được người mua trái phiếu. Trái
lại, tại Việt Nam, trái phiếu doanh nghiệp đang nổi lên như một kênh huy động
vốn ưa thích, nhưng chưa có xếp hạng tương tự. Vì vậy tồn tại nhiều rủi ro. Trong
các đợt phát hành trái phiếu, doanh nghiệp phải công khai sức khỏe tài chính để
người mua đánh giá đúng. doanh nghiệp ngấp nghé bờ vực phá sản vẫn có thể phát
hành trái phiếu thành công theo nguyên tắc rủi ro cao đi kèm lợi nhuận lớn.
- Khả năng chuyển đổi của trái phiếu hiện nay còn thấp. Cho nên chỉ có những nhà
đầu tư lớn, tập đoàn công ty, các tổ chức tín dụng… mới thực hiện mua trái phiếu,
chứ các nhà đầu tư nhỏ lẻ ít quan tâm tới trái phiếu. CH NG III: GI ƯƠ I PHÁP PHÁ T TRI N TH TR NG TRÁI ƯỜ PHIỀẾU VI T NA M HI N N AY
1. GII PHÁP CHUNG
- Đa dạng hóa trái phiếu: đa dạng hóa về kỳ hạn, lãi suất, loại hình và phương thức
thanh toán vốn gốc và lãi trái phiếu.
- Hoàn thiện hệ thống pháp lý và hệ thống quản lý: Để thị trường trái phiếu vận
hành tốt đòi hỏi một hệ thống pháp lý hoàn thiện mang lại một sân chơi công
bằng, luật sở hữu rõ ràng và thông tin minh bạch cũng như một cơ quan quản lý thị trường có năng lực.
- Phát triển các sản phẩm phái sinh liên quan tới trái phiếu như: quyền chọn, hợp
đồng giao sau, hợp đồng kỳ hạn…Hệ thống NHTM phải đóng vai trò chủ đạo 34
Thị trường trái phiếu Việt Nam
trong quá trình cung cấp các sản phẩm phái sinh này. Ngoài ra, nghiệp vụ repo trái
phiếu tạo tính thanh khoản rất cao cho thị trường trái phiếu.
- Thu hút và phát triển đội ngũ tạo lập thị trường: Ở các thị trường chứng khoán
phát triển, các nhà tạo lập thị trường là các trung gian tài chính. Họ niêm yết
giá mua, giá bán và sẵn sàng thực hiện giao dịch vớ i cá c m ứ c g i á đã ni ê m
yế t . Cá c h oạ t đ ộ n g c ủ a họ tạ o t ín h l in h ho ạ t ch o th ị trường trái
phiếu; tăng khả năng thực hiện giao dịch trái phiếu làm cho thị trường giao dịch
trái phiếu sôi động hơn thông qua cạnh tranh về giá cả đặt ra giữa các
nhà tạo lập thị trường khác nhau…Trong điều kiện thị trường trái phiếu còn sơ
khai, hình thành và phát triển đội ngũ các nhà tạo lập thị trường là điều cần thiết.
Cần có đội ngũ chuyên gia có năng lực làm tư vấn cho Chính phủ để xây dựng
chính sách phối hợp đồng bộ giữa các kênh huy động vốn. Để xây dựng đội
ngũ các nhà tạo lập thị trường có tiềm năng tài chính đủ mạnh sẵn sàng mua -
bán một lượng trái phiếu nhất định khi có yêu cầu của nhà đầu tư, cần có chủ
trương khuyến khích các ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm có
tiềm năng tài chính lớn tham gia.
- Xây dựng thị trường trái phiếu chuyên biệt: Trái phiếu với những đặc điểm riêng
đòi hỏi phải có cơ chế phát hành và giao dịch riêng. Giao dịch trái phiếu trên thị
trường thứ cấp cần tách khỏi thị trường cổ phiếu, xây dựng một thị trường trái
phiếu chuyên biệt nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư có tổ chức trên
thị trường. Cần tìm ra một mô hình giao dịch phù hợp cho thị trường trái phiếu
chuyên biệt. Việc lựa chọn hệ thống giao dịch phù hợp cho thị trường thứ cấp phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó mức độ phát triển của thị trường trái phiếu là
quan trọng nhất, đặc biệt là thị trường trái phiếu Chính phủ đóng vai trò chủ
đạo. Trong điều kiện thị trường trái phiếu còn non trẻ, số lượng nhà đầu tư có
tổ chức còn hạn chế và mức giao dịch trái phiếu thấp thì hệ thống giao dịch
thỏa thuận là phù hợp để tăng tính thanh khoản. Tuy nhiên, khi thị trường trái
phiếu phát triển, quy mô thị trường lớn, đã có hệ thống các nhà kinh doanh trái
phiếu đủ lớn và chuyên nghiệp, việc ứng dụng công nghệ thông tin ở mức độ cao, 35
Thị trường trái phiếu Việt Nam
nhu cầu về tính hiệu quả và minh bạch của thị trường càng lớn, lúc này cần vận
dụng các mô hình hệ thống hiện đại hơn vào thị trường trái phiếu. Giao dịch trái
phiếu tập trung sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu trong
nước, là một kênh huy động vốn hiệu quả của nền kinh tế. Với sự ra đời của thị
trường trái phiếu chuyên biệt, nhà đầu tư, các quỹ đầu tư sẽ ngày càng quan tâm
hơn đến thị trường trái phiếu với niềm tin vào một thị trường trái phiếu sôi động
và minh bạch hơn, thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của thị trường trái phiếu sơ cấp
và tính thanh khoản của thị trường thứ cấp.
- Thực hiện công khai hóa thông tin: Việc công khai và minh bạch hoá thông tin là
một yếu tố quan trọng để thị trường trái phiếu hoạt động lành mạnh. Do đó,
Chính phủ và doanh nghiệp cần tích cực thực hiện công khai hóa thông tin,
khắc phục tình trạng bưng bít thông tin hoặc công khai mang tính hình thức.
Công bố thông tin một cách tùy tiện, không có hệ thống và chuẩn mực sẽ tạo
tâm lý e ngại đối với nhà đầu tư là nguyên nhân làm cho thị trường trái phiếu kém
phát triển. Độ tin cậy của thông tin là cơ sở để nhà đầu tư đưa ra các quyết định
đầu tư, giảm thiểu rủi ro.
- Nâng cao nhận thức về chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng cho các
doanh nghiệp và công chúng đầu tư: Doanh nghiệp và công chúng đầu tư là bộ
phận không thể thiếu và góp phần quan trọng tạo nên sự phát triển của thị trường
trái phiếu. Chú trọng hơn nữa trong công tác tuyên truyền, đào tạo kiến thức về
chứng khoán cho các doanh nghiệp và công chúng. Trong thời gian qua, tuy các
doanh nghiệp và công chúng có quan tâm tìm hiểu về thị trường chứng khoán
nhưng hầu như chỉ tập trung vào cổ phiếu. Thông qua các phương tiện đại chúng,
hệ thống thông tin trực tuyến internet để tuyên truyền cho doanh nghiệp và công
chúng một sự hiểu biết toàn diện về thị trường chứng khoán trong đó có thị trường
trái phiếu. Giúp các doanh nghiệp nhận thức được vai trò, lợi ích của việc huy
động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Nâng cao nhận thức trong công chúng về
vai trò, rủi ro và tính hữu ích của việc đầu tư trái phiếu. 36
Thị trường trái phiếu Việt Nam
2. GII PHÁP RIẾNG 2.1 Đôếi v i th tr ng trái phiế ườ ếu chính phủ
- Hoàn thiện phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ: Đẩy mạnh phương thức
phát hành qua đấu thầu và đấu giá qua Sở giao dịch chứng khoán vì đây là phương
thức tiên tiến và tạo khả năng tạo thị trường giao dịch sôi động và phát triển các
nhà tạo lập thị trường trái phiếu Chính phủ, đồng thời đây cũng là phương thức
phát hành mà lãi suất trái phiếu được xác định theo cơ chế thị trường. Việc phát
hành qua Sở giao dịch chứng khoán cần theo các bước sau:
+ Chỉ phát hành trái phiếu kì hạn năm trở lên, đảm bảo nâng dần tỉ trọng nguồn
vốn trung và dài hạn huy động cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát
triển, đồng thời bổ sung hàng hóa cho thị trường chứng khoán;
+ Tiếp tục áp dụng hình thức đấu thầu cạnh tranh và không cạnh tranh, nâng cao
tỉ lệ đấu thầu không cạnh tranh, tạo điều kiện cho các thành viên chưa có kinh
nghiệm tham gia thị trường;
+ Cần kế hoạch hóa hoạt động đấu thầu theo định kì phát hành với các loại kì hạn
đa dạng để tạo khung lãi suất chuẩn cho thị trường tài chính. Phát triển hình
thức bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ, đồng thời có biện pháp thích hợp
nhằm thúc đẩy các tổ chức bảo lãnh phát hành nhằm phân phối chứng khoán ra công chúng;
+ Đối với hình thức bán lẻ qua Kho bạc Nhà nước, do chi phí phát hành lớn, khó
tạo thị trường giao dịch thứ cấp nên cần hạn chế phát hành. Bên cạnh huy động
vốn trong nước nên tiếp tục đẩy mạnh phát hành trái phiếu chính phủ ra nước
ngoài nhằm thu hút vốn cho đầu tư phát triển, giảm sự phụ thuộc các điều kiện khi vay vốn nước ngoài.
- Nên áp dụng lãi suất thả nổi đối với hành trái phiếu chính phủ: Để tăng tính hấp
dẫn của trái phiếu chính phủ nên áp dụng lãi suất điều chỉnh theo lạm phát và áp
dụng phương thức trả lãi linh hoạt như trả lãi trước, trả lãi định kỳ…để nhà đầu tư
có thể giảm thiểu rủi ro và đa dạng hoá danh mục đầu tư. Xây dựng một cơ chế lãi
suất thực sự hấp dẫn nhà đầu tư kể cả trong điều kiện lạm phát hay thiểu phát 37
Thị trường trái phiếu Việt Nam
nhằm tối đa lợi nhuận của nhà đầu tư trên cơ sở dung hòa với lợi ích của Chính phủ. 2.2 Đôếi v i th tr ng trái phiế ườ ếu đô thị
Là một phương thức vay nợ của chính quyền địa phương, phát hành trái phiếu đô thị
được thực hiện trên cơ sở các điều kiện về môi trường pháp lý, cơ chế tài chính thích hợp.
Trong điều kiện ở Việt Nam, để thị trường trái phiếu đô thị trở thành một kênh huy động
vốn thực hiện các dự án đầu tư mở rộng và chỉnh trang các đô thị lớn, thời gian tới cần
thiết phải thực hiện các giải pháp sau:
* Các giải pháp tạo cơ sở tiền đề phát triển thị trường trái phiếu chính quyền địa phương
- Đẩy mạnh phân cấp ngân sách nhà nước nhằm tạo ra cơ chế tài chính linh hoạt cho
chính quyền các tỉnh, thành phố chủ động mở rộng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
đô thị. Đồng thời, tăng cường nguồn thu cho ngân sách nhà nước địa phương đảm
bảo nguồn vốn trả nợ khi đến hạn. Mặc dù, những năm gần đây Nhà nước đã đẩy
mạnh đổi mới cơ chế quản lý tài chính theo hướng phi tập trung hóa, trao nhiều
quyền hơn cho chính quyền địa phương trong lĩnh vực thu chi ngân sách nhà nước,
để kinh tế đất nước tăng trưởng mạnh và bền vững phải dựa trên cơ sở phát triển
thực và bền vững của từng địa phương, những đổi mới trên vẫn chưa đủ mà cần
phải thực hiện mạnh mẽ hơn với các nội dung sau:
+ Tăng cường nguồn thu cho địa phương: Điều chỉnh tăng thu ngân sách địa
phương đảm bảo nguyên tắc sau: cân đối hợp lý nguồn thu giữa ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương, tăng cường hơn nữa năng lực tự chủ sáng
tạo của địa phương nhưng không phát vỡ sự cân bằng tổng thể trên cả nước.
Điều chỉnh phân định lại nguồn thu lớn cho ngân sách địa phương. Nhà
nước đẩy mạnh phân định tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương, các
nguồn thu thuế, hoặc phí lệ phí có nguồn gốc của nó xác định rõ, khi địa
phương khai thác các nguồn thu này mà không ảnh hưởng đến các địa
phương khác. Cụ thể là các loại phí, thuế thu nhập phát sinh từ hoạt động 38
Thị trường trái phiếu Việt Nam
kinh doanh chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản trên đất do được
hưởng lợi từ các công trình đầu tư công. Đồng thời, cho phép địa phương
có quyền chủ động trong việc xác định mức thu. Tuy nhiên, để tính ổn định
chung và hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa
phương Nhà nước nên xây dựng mức thuế suất và định mức phí trần để giới
hạn sự khai thác quá mức của các địa phương.
Xây dựng chế độ hợp lý đối với các loại phí dịch vụ thuộc hạ tầng cơ sở do
chính quyền địa phương đầu tư cung cấp mà có tính cạnh tranh với khu vực
tư theo nguyên tắc “người hưởng lợi phải trả tiền”. Hiện nay, theo pháp
lệnh phí và lệ phí liên quan đến các dịch vụ thuộc hạ tầng cơ sở cung cấp,
gồm các loại phí như: phí giao thông qua xăng dầu; phí sử dụng đường bộ;
phí qua cầu, qua đò, qua phà; lệ phí trước bạ xe ô tô, xe máy; phí vệ sinh;
phí bến bãi, hè đường; phí thoát nước. Vì vậy, nên bổ sung thêm loại phí
giao thông đô thị đối với các phương tiện cơ giới đường bộ trong các đô thị,
để chi trả các khoản chi phí bảo trì đường bộ và một phần chi phí đầu tư.
Mặt khác, việc áp dụng loại phí này, còn có tác dụng hạn chế dân đô thị sử
dụng các loại phương tiện vận chuyển cá nhân, góp phần chống ách tắc
giao thông tại các đô thị lớn.
+ Phân cấp về vay nợ cho chính quyền địa phương: Xây dựng mức giới hạn vay
nợ riêng cho từng địa phương. Xác định mức giới hạn này trên cơ sở các điều
kiện kinh tế xã hội và năng lực quản lý phù hợp. Giai đoạn đầu, khi chưa có tổ
chức xếp hạng tín nhiệm, xếp hạng tín nhiệm chính quyền địa phương để xây
dựng hạn mức vay nợ có thể dựa trên các thông số về đánh giá hiệu quả quản
lý, phát triển kinh tế xã hội như:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP địa phương qua các năm, triển vọng phát triển trong tương lai.
Tốc độ tăng dân số, mức thu nhập bình quân đầu người của địa phương.
Trình độ và hiệu quả quản lý điều hành kinh tế xã hội của bộ máy chính
quyền nhà nước địa phương. 39
Thị trường trái phiếu Việt Nam
Tình hình điều hành ngân sách địa phương qua các năm, những triển vọng
về tăng nguồn thu ngân sách trong tương lai.
Mức độ phụ thuộc giữa NSĐP vào NSTW.
Hiệu quả trong việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Mức chi đầu tư phát triển, nhu cầu vay mượn và các giải pháp cân đối ngân
sách của địa phương qua các năm cũng như trong thời giai tới.
Hạn mức tín dụng này sẽ được ổn định trong khoảng thời gian từ 3-5 năm,
nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện kế hoạch đầu tư trung hạn của NSNN, sau
đó sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với các kế hoạch ngân sách giai đoạn tiếp theo.
- Công khai hóa thông tin về tình hình tài chính địa phương, hiệu quả của các dự án
đầu tư sử dụng nguồn vốn ngân sách, để nhà đầu tư có thể phân tích đánh giá khi
mua trái phiếu, cũng như góp phần gia tăng tính thanh khoản của trái phiếu trong các giao dịch thứ cấp.
+ Nhà nước cần sớm điều chỉnh ban hành các chuẩn mực kế toán ngân sách địa
phương rõ ràng, thống nhất. Chế độ cập nhật báo cáo thông tin phải được chấp
hành nghiêm chỉnh ở các cấp chính quyền địa phương.
+ Quy định về chế độ công khai hóa thông tin cho các đợt phát hành trái phiếu.
Đặc biệt là các thông tin về dự án và hiệu quả của dự án được tài trợ bằng nguồn vốn phát hành.
* Các giải pháp phát triển thị trường trái phiếu đô thị
- Đẩy mạnh các hoạt động trên thị trường thứ cấp, thực hiện phát triển mô hình ngân
hàng đa năng theo hướng mở rộng các hoạt động đầu tư tài chính. Mặt khác, khi
NHNN thực hiện nghiệp vụ lưu ký trái phiếu đô thị địa phương và đưa trái phiếu
này vào danh mục hàng hóa giao dịch trên thị trường tiền tệ, cũng như công cụ tái
chiết khấu, tái cấp vốn sẽ khuyến khích các NHTM mở rộng các họat động chiết
khấu mua bán loại trái phiếu này.
- Bảo hiểm trái phiếu đô thị địa phương (đối với trái phiếu lợi tức): Với tình hình thị
trường trái phiếu đô thị nước ta, cần thiết thực hiện các giải pháp sau: 40
Thị trường trái phiếu Việt Nam
+ Giai đoạn đầu có thể triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trái phiếu chính quyền địa
phương bằng công ty bảo hiểm tiền gửi hiện đang hiện hữu.
+ Tiến tới Bộ Tài chính bổ sung danh mục về sản phẩm bảo hiểm phát hành trái
phiếu trong đó có trái phiếu chính quyền địa phương, trong các văn bản pháp lý
về lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
+ Từng bước hoàn thiện những quy định tạo khung pháp lý thống nhất cho việc
triển khai bảo hiểm trái phiếu nói chung và trái phiếu đô thị nói riêng. 2.3 Đôếi v i th tr ng trái phiếế ườ u công ty
- Xây dựng và phát triển hệ thống định mức tín nhiệm:
+ Thông tin về doanh nghiệp phát hành trái phiếu trên thị trường đối với nhà đầu
tư còn rất ít. Nhiều doanh nghiệp phát hành còn không công bố những thông
tin bất lợi của mình cho nhà đầu tư biết trước khi phát hành. Điều này, làm cho
nhà đầu tư không an tâm trong việc đầu tư trái phiếu công ty. Do vậy, việc
thành lập công ty định mức tín nhiệm cho thị trường trái phiếu là đòi hỏi tất yếu và cấp bách.
+ Công ty định mức tín nhiệm (CRA) giảm thiểu rủi ro cho nền kinh tế. CRA sẽ
đánh giá các ngành kinh tế, phân tích tiền tệ, phân tích đánh giá các chương
trình đầu tư của Chính phủ, chẳng hạn như chương trình phát triển mía đường,
chương trình xây dựng các nhà máy xi măng,…giúp minh bạch hoá thông tin
của doanh nghiệp, tổ chức phát hành trái phiếu. Từ đây, nhà đầu tư có thể biết
được mức độ rủi ro khi đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu địa
phương và trái phiếu chính phủ. Từ đó, họ có cơ sở để ra quyết định có đầu tư
hay không, và đầu tư thì với lãi suất mong đợi của họ là bao nhiêu? Điều này
cũng giúp cho những doanh nghiệp, địa phương và Chính phủ có mức độ tín
nhiệm cao sẽ được huy động vốn với chi phí thấp, chứ không cào bằng lãi suất
trái phiếu như trước đây. CRA tập trung đánh giá các tổ chức tài chính, ngân
hang, bảo hiểm, định chế tài chính phi ngân hàng, doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh lớn, có niêm yết trên thị trường chứng khoán, doanh nghiệp phát hành 41
Thị trường trái phiếu Việt Nam
chứng khoán ra công chúng, các tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp lớn của
nhà nước. CRA cũng đánh giá cả Chính phủ, các địa phương, các bộ trong việc
phát hành trái phiếu dài hạn. CRA với vai trò là một tổ chức đánh giá trung
gian, độc lập, chuyên nghiệp, sẽ là phương thức tốt nhất để quảng bá hình ảnh
của những doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả đầu tư, cơ cấu tài chính để phòng
tránh rủi ro về khả năng thanh toán. Thông qua đánh giá các doanh nghiệp,
ngân hàng, CRA sẽ giúp Chính phủ có những điều chỉnh chính sách kịp thời,
có đối sách để quản lý chương trình xử lý nợ khó đòi.
+ Ngoài CRA trong nước, thì cần cho phép một số tổ chức định mức tín nhiệm có
uy tín của nước ngoài thực hiện hoạt động định mức tín nhiệm ở Việt Nam.
Như vậy, với CRA trongnước và nước ngoài sẽ gọi vốn đầu tư vào Việt Nam:
Một trong những lý do khiến các nhà đầu tư chưa dám đầu tư mạnh mẽ vào thị
trường Việt Nam như chúng ta mong đợi, cũng là vì thiếumột công ty định mức
tín nhiệm trên thị trường vốn Việt Nam. Dựa trên các kết quả CRAmang lại,
các nhà đầu tư mới có công cụ để thẩm định, lựa chọn danh mục đầu tư, dự báo
tìnhhình phát triển doanh nghiệp và đưa ra quyết định đầu tư. Thông qua bảng
xếp hạng tín dụng, nhà đầu tư sẽ hiểu rõ hơn về sức mạnh tài chính của các
công ty, dễ dàng đánh giá các tổ chứctài chính có quan hệ kinh doanh hoặc
quan tâm tới việc mua trái phiếu của các công ty này.
- Các doanh nghiệp cần nâng cao, đổi mới tư duy quản lý doanh nghiệp và sử dụng
vốn có hiệu quả để tạo niềm tin cho nhà đầu tư; bảo đảm an toàn tài chính;
yêu cầu các doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải tuân thủ theo chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam và Quốc tế; đầu tư đổi mới công nghệ, các số liệu phải được
hạch toán kịp thời, chính xác với thực trạng. Xây dựng và thẩm định dự án thật kỹ
trước khi quyết định đầu tư; phải nhân diện được rủi ro trong hoạt động kinh
doanh và có biện pháp hạn chế rủi ro; đảm bảo tỷ lệ lợi nhuận phải cao hơn lãi
suất tiền gửi tiết kiệm
- Đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế: Với thành công của đợt
phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế đầu tiênvào tháng 10/2005, 42
Thị trường trái phiếu Việt Nam
thì việc đẩy mạnh phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế là cần thiếtnhằm đầu
tư một số dự án trọng điểm phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước. Cần khuyến
khích những doanh nghiệp lớn trong nước phát hành trái phiếu ra thị trường vốn
để phát triển doanh nghiệp. Để đảm bảo cho việc huy động vốn ở thị trường quốc
tế với chi phí rẻ, Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với thông lệ
Quốc tế và minh bạch hoá thông tin; khi đó mới được các tổ chức xếp hạng tín
nhiệm đánh giá cao. Ngoài ra, cần có kế hoạch sử dụng nguồn vốn huy động ngay nhằm tránh lãng phí, mà
chúng ta còn phải vừa trả lãi. Vì vậy, phải xem xét
những dự án có hiệu quả, sử dụng vốn được ngay, giải ngân được ngay thì mới
tính đến phương án phát hành. 43
Thị trường trái phiếu Việt Nam KỀẾT LU N
Báo cáo của em cho thấy, Việt Nam vẫn là một trong những thị trường trái phiếu phát
triển nhanh nhất châu Á. Sức bật của thị trường trái phiếu Việt Nam chủ yếu trên cơ sở sự
tăng trưởng mạnh của thị trường trái phiếu chính phủ.
Nhằm xây dựng định hướng phát triển mới, đặc biệt là triển khai kế hoạch phát triển
hệ thống sản phẩm trong năm 2014, HNX đang dự kiến cho ra đời chỉ số trái phiếu (Bond
index). Trước mắt, trái phiếu Chính phủ được lựa chọn để hình thành hệ thống Bond
index đầu tiên vì đây là loại hàng hóa có độ rủi ro thấp nhất. Chỉ số trái phiếu Chính phủ
cũng sẽ là loại hàng hóa cơ sở để nhà đầu tư tham chiếu khi tiến hành định giá các loại
trái phiếu khác trên thị trường. Sau khi triển khai thành công bộ chỉ số trái phiếu Chính
phủ, HNX sẽ tiếp tục phát triển các bộ chỉ số trái phiếu khác như trái phiếu được Chính
phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, chỉ số trái phiếu chuẩn, chỉ số trái phiếu
thanh khoản…Sau khi thành công với những bước đi vững chắc và căn bản như xây dựng
đường cong lợi suất chuẩn cho thị trường, HNX cũng cải tiến phương thức và hình thức
phát hành trái phiếu với các kỳ hạn và thời gian đáo hạn hợp lý. Sở hiện đã xây dựng lịch
biểu phát hành trái phiếu Chính phủ theo lô lớn phù hợp với yêu cầu sử dụng vốn của
Chính phủ; xây dựng được cơ sở dữ liệu tập trung, qua đó thông tin được cập nhật nhanh,
thuận tiện cho các nhà đầu tư khi tham gia thị trường. Và với việc sản phẩm Bond index
ra đời trong tương lai, kỳ vọng sản phẩm mới này sẽ giúp tạo “đòn bẩy” cho thị trường,
giúp thị trường trái phiếu có bước phát triển bền vững và mạnh mẽ hơn, đóng góp hiệu
quả hơn cho sự ổn định và lành mạnh của thị trường tài chính Việt Nam, nâng tầm kênh
huy động vốn quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội.
Rõ ràng, trái phiếu được xem là một trong những công cụ hút tiền từ lưu thông hiệu
quả, là kênh huy động vốn giá rẻ, an toàn, dài hạn với khối lượng lớn và là công cụ hữu
hiệu trong chính sách tiền tệ. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cho Chính phủ và
Ngân hàng Nhà nước trong vấn đề chính sách cả về vi mô lẫn vĩ mô để đưa trái phiếu trở
thành một công cụ huy động vốn hiệu quả trên thị trường. 44
Thị trường trái phiếu Việt Nam TÀI LIỆU THAM KH O
1. Thị trường chứng khoán – GS.TS Lê Văn Tư, TS. Thân Thị Thu Thủy, NXB Tài chính (2006)
2. Thị trường tài chính chứng khoán – PGS. TS Bùi Kim Yến - NXB Thống kê (2008)
3. Sử Đình Thành (2002), “Phát triển thị trường trái phiếu đô thị ở VN”, tham luận
tại hội thảo: “Trái phiếu đô thị ở VN: Triển vọng và phương thức phát hành”.
4. Tạp chí phát triển kinh tế số 215, tháng 09/2008
5. Phân tích chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư – PGS.TS Bùi Kim Yến –
NXB Lao động xã hội (2011)
6. Thời báo Kinh tế Sài gòn
7. Website của Bộ Tài chính, Ủy ban CK Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, các NHTM…
8. Các báo điện tử: VnEconomy, tintuconline, infoTV… 45