Thời kí quá độ lên CNXH và Thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

Thời kí quá độ lên CNXH và Thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần. Mời bạn đọc đón xem!

THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I. THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là gì ?
Thời quá độ từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa hội về phương diện chính trị
việc thiết lập, tăng cường chuyên chính sản thực chất của việc giai cấp
công nhân nắm sdụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp sản, tiến hành xây
dựng một xã hội không giai cấp.
Về măt luận thực tiễn, thời kỳ quá độ từ c nghĩa bản lên chủ nghĩa hội
được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa bản
phát triển, cần thiết phải thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa bản lên chủ
nghĩa xã hội; thứ hai, đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, giữa
chủ nghĩa bản chủ nghĩa cộng sản một thời kỳ quá độ nhất định - quá độ
chính trị, thời kỳ cải biến cách mạng từ hội này sang hội kia, thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
2. Tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lí giải từ các căn cứ sau
đây:
- Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một hội này lên một hội khác đều
nhất định phải trải qua một hời kỳ gọi thời kỳ quá độ. Đó thời kỹ còn sự
đan xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Có thể
nói đây thời kỳ của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cái cái mới nói
chung theo tính tất yếu phát triển lịch sử thì cái mới thường chiến thắng cái cũ, cái
lạc hậu. Từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa hội không ngoại lệ lịch sử. Hơn
nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về
chất so với các quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra trong
lịch sử thì thời kỳ quá độ lại càng một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài. Nhất
đối với những nước còn trình độ tiền bản thực hiện thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa hội thì “những cơn đau đẻ” này còn thể rất dài với nhiều bước quanh
co.
- Hai là, sự ra đời của một hội mới bao giờ cũng những sự kế thừa nhất định
từ những nhân tố dohội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa
đối với chủ nghĩa bản, đặc biệt trên phương diện kế thừa sở vật chất kỹ
thuật đã được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, sở vật chất của chủ nghĩa hội mặc cũng nền sản xuất đại
công nghiệp nhưng đó nền sản xuất đại công nghiệp hội chủ nghĩa chứ
không phải nền đại công nghiệp bản chủ nghĩa. Do đó cũng cần phải
thời kỳ quá độ của bước cải tạo, kế thừa tái cấu trúc nền công nghiệp bản
chủ nghĩa.
Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên chủ
nghĩa hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng sở vật chất, kỹ thuật cho chủ
nghĩa hội càng thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của là tiến hành công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vô cùng to lớn và đầy khó khăn,
không thể “đốt cháy giai đoạn” được.
- Ba là, các quan hệ hội của chủ nghĩa hội không tự phát nảy sinh trong lòng
chủ nghĩa bản, chúng kết quả của quá trình xây dựng cải tạo hội chủ
nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo
ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ hội mới hội chủ
nghĩa, đo vậy cũng cần phải thời gian nhất định để xây dựng phát triển
những quan hệ đó.
- Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa hộimột công việc mới mẻ, khó khăn
phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân
dân lao động không thể ngay lập tức có thể đảm đương được công việc ấy, nó cần
phải có thời gian nhất dịnh.
3. Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự
tồn tại những yếu tố của xã hộin cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa
hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội.
3.1. Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong
một hệ thống kinh tế quốc dân thông nhất. Đây bước quá độ trung gian tất yếu
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết
cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất đối với những nước còn trình độ
chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội được xác
lập trên sở khách quan của stồn tại nhiều loại hình sở hữu về liệu sản xuất
với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó
những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao
động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải sắp xếp, bố trí lại lực lượng sản
xuất hiện có của xã hội, cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới
theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu của nhân dân.
3.2. Trên lĩnh vực chính trị:
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội đa dạng, phức tạp, nên
kết cấu giai cấp của hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung,
thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những
người sản xuất nhỏ, tầng lớp sản một số tầng lớp hội khác tuỳ theo từng
điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu
tranh với nhau.
3.3. Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tưởng văn
hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu
sản, tâm tiểu nông, V.V.. Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu sản “kẻ thù
giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng công
khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá mới, chúng
thường xuyên đấu tranh với nhau. Do đó cần phải từng bước khắc phục những tệ
nạn do xã hội cũ để lại, từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng
miền, các tầng lớp dân trong hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng hội.
Đồng thời xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu
tưởng là tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác.
Như vậy, thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời
kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại không còn là giai
cấp thống trị những thế lực chống phá chủ nghĩa hội với giai cấp công nhân
quần chúng nhân dân lao động. Theo quan điểm của Mác-Lenin, hội nào rồi cũng
trải qua thời này, sự hiện diện của chúng trong lịch sử tương lai của mỗi hội
có thể được xem là tất yếu. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là giai
cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong
lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu,
bằng hành chính và luật pháp.
II. THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
1. Tính tất yếu khách quan của thười kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội Việt
Nam
Từ khi hòa bình lập lại năm 1954, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1975, sau khi nước ta hoàn thành độc lập thống nhất, cách mạng dân tộc-
dân chủ đã hoàn thành thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách
mạng hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa hội. “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trng thười kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội” của Đảng ta đã xác định: “Nước ta
quá độ lên chủ ngĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Ĩ
của Đảng tiếp tục khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta sự phát triển quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản”.
Thời kỳ quá độ một thời kỳ lịch sử, thời kỳ chuyển biển của cách mạng bất cứ
quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua. Nước ta đi lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử vì:
- Thời kì chúng ta đang sống là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi thế giới. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định chủ nghĩa tư bảnchế
độ xã hội đã lỗi thười về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải thay đổi bằng hình
thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa giai đoạn đầu giai đoạn hội chủ
nghĩa. Cho hiện nay, chủ ngĩa bản hiện đại đang nắm vững ưu thế về vốn,
khoa học công nghệ, thị trường… nên tiềm năng phát triển, song chủ
nghĩa bản không thể khắc phục nổi mà chỉ làm sâu sắc them mâu thuẫn vốn
của mâu thuẫn giữa tính chất hôi hóa cao của lực lượng sản xuất với chế
độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
- Phát triển theo con đường CNXH không chỉ phù hợp với xu thế của thời đại
còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân trước hết là để giải phóng dân tộc, giành độc lập tư do dân chủ đồng thời
tiền đề làm cho “nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người
công ăn việc làm, được ấm no cuộc sống hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, hội công bằng, dân chủ, văn minh” vậy, cuộc
cách mạng XHCN sự tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc. dân chủ làm cho cách
mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện triệt để.
2. Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đặc điểm bản của quá độ lên chủ nghĩa hội nước ta bỏ qua chế độ
bản chủ nghĩa.
Việt Nam tiến lên CNXH hội trong điều kiện vừa thuận lợi vừa khó khăn đan
xen, có những đặc trưng cơ bản:
- Xuất phát từ một hội vốn thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất
rất thấp. Đất nước trải qua chiến tranh ác liệt, kéo dài nhiều thập kỉ, hậu quả
để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực
thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ hội chủ nghĩa nền độc
lập dân tộc của nhân dân ta.
- Cuộc cách mạng khao học công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn
hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống
hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát
triển lịch sử cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời phát
triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt.
- Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
hội, cho dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Các nước
với chế độ hội trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác
vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh
của nhân dân các nước vì hòa bình độc lập dân tọc, dân chủ, phát triển và tiến
bộ hội gặp nhiều khó khăn, thách thức, song theo quy luật tiến hóa của
lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Quá độ lên chủ ngĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy
nhất đúng, khoa học, phản ánh đúng quy luật phát triển khách quan của cách
mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay. Cương lĩnh năm 1930 của Đảng đã
chỉ rõ: Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, đan chủ nhân dân, sẽ tiến lên
chủ nghĩa hội. Đây sự lựa chọn dứt khoát đúng đắn của Đảng, đáp
ứng nguyện vọng thiết tha của dân tộc, nhân dân, phản ánh xu thế phát triển
của thời đại, phù hợp với quan điểm khoa học, cách mạng và sáng tạo của chủ
nghĩa Mác-Lenin.
Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa, như Đại hội IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam (2001) xác định: con đường đi lên của nước ta sphát
triển quá độ lên chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa, tức bỏ
qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
bản chủ nghĩa, đắc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Đây là tư tưởng mới, phản ánh nhận thức mới, tư duy mới của Đảng ta về con
đường đi lên chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa. tưởng này
cần được hiểu đầy đủ với những nội dung sau đây:
Thứ nhất, quá độ lên CNXH nỏ qua chế độ bản chủ nghĩa con đường
cách mạng tất yếu khách quan, con đường xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ len chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ hai, quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất kiến trúc thượng tầng bản
chủ nghĩa. Điều đó nghĩa trong thời kỳ quá độ còn nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, song sở hữu nhân abnr chủ nghĩa không
chiếm vai trò chủ đạo; thời kỳ quá độ còn nhiều hình thức phân phối, ngoài
phân phối theo lao động vẫn chủ đạo còn phân phối theo mức độ đóng góp
quỹ phúc lợi hội; thời kỳ quá độ vẫn còn quan hệ bóc lột bị bóc lọt,
song quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa không giữ vai trò thống trị.
Thứ ba, quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa
bản, đặc biệt những thành tựu về khoa học công nghệ, thành về quản để
phát triển hội, quản phát triển hội, đặc biệt phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nèn kinh tế hiện đại.
Thứ tư, quá độ lên chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa tạo ra
sự biến đổi về chất của hội trên tất cả các lĩnh vực, sự nghiệp rất khó
khăn, phức tạp, lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, hội tính chất quá độ đòi hỏi phải quyết tâm chính trị cao khát
vọng lớn của toàn Đảng, toàn dân.
3. Liên hệ thực tiễn quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội con đường đi lên chủ nghĩa hội ở nước
ta đã trải qua một quá trình lâu dài không đơn giản. Trong quá trình đó
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tưởng Hồ Chí Minh, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ thực tiễn
đất nước, nhiều tìm tòi, sáng tạo trong nhận thức luận, nhất trong
thời kỳ đổi mới. Công cuộc đổi mới Việt Nam đã diễn ra gần 30 năm, đạt
được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Một là, nhận thức về mục tiêu bản chất của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ngày càng đầy đủ hơn ở Việt Nam.
Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn
nghiên cứu luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày
càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa hội, phù hợp thực tế quy luật khách quan; từng bước khắc
phục một số quan niệm đơn giản trước đây.
Đại hội VI đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong duy luận của
Đảng, mở đầu quá trình đổi mới sự hình thành nhận thức mới của Đảng
về chủ nghĩa hội, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội cũng như con
đường đi lên chủ nghĩa hội nước ta thông qua đổi mới, như một cuộc
cải biến cách mạng lâu dài, toàn diện, sâu sắc triệt để, kế thừa
phát triển.
Đại hội VII, trên s tổng kết thực tiễn 5 năm đầu của đổi mới đã thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội. Văn kiện quan trọng này đã lần đầu tiên đề cập tới một cách có hệ thống
dưới hình thức luận đề, xác định 6 đặc trưng của hội hội chủ nghĩa
bảy phương pháp xây dựng chủ nghĩa hội nước ta. Những đặc trưng đó
vừa thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩahội,
vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến đặc điểm của thời đại.
Từ sau Đại hội IX, Đảng ta đã hình thành nhận thức, coi phát triển kinh tế là
trọng tâm, xây dựng Đảng then chốt coi văn hóa nền tảng tinh thần
của hội. Đổi mới nhận thức về chủ nghĩa hội, Đảng ta đã đặc biệt chú
trọng tới sự phát triển dân tộc, phát huy động lực quan trọng mạnh mẽ
nhất sự đoàn kết dân tộc, chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, giúp
đỡ, tương trợ lẫn nhau trong phát triển ở một quốc gia đa tộc như người Việt
Nam. Một trong những nét mới trong duy đổi mới là, Đảng khẳng định
đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Phát triểntưởng đó, từ sau Đại hội VII, Đảng ta nhất quán với chủ trương
đoàn kết, hợp tác, hữu nghịhòa bình để phát triển, Việt Nam mong muốn
là bạn của tất cả các nước, sẵn sàng hợp tác song phương và đa phương…
Từ đại hội VI đến Đại hội XI, vấn đề bản chất, mục tiêu của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội được Đảng ta bổ sung, hoàn thiện đầy đủ hơn các tiêu
chí: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mục tiêu tổng quát
khi kết thúc thời kỳ quá độ nước ta “xây dựng được về bản nền tảng
kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng,
văn hóa phù hợp, tạo sở để nước ta trở thành một nước hội chủ nghĩa
ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng,
toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công
nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Hai là, nhận thức về nền tảng tưởng kim chỉ nam của Đảng Cộng
sản Việt Nam
Đại hội lần thứ II (năm 1951), Đảng ta xác định chủ nghĩa Mác - Lênin
nền tảng tư tưởng của Đảng. Tiếp theo, Đại hội lần thứ III (năm 1960), Đảng
khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin nền tảng tưởng kim chỉ nam cho
mọi hành động cách mạng. Đặc biệt đến Đại hội lần thứ VII (năm 1991),
Đảng ta chính thức khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin tưởng Hồ Chí
Minh nền tảng tưởng kim chỉ nam cho mọi hành động. Việc chính
thức bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh cho nền tảng tư tưởng của Đảng là đánh
dấu một bước tiến mới, một bước phát triển quan trọng trongduy lý luận.
Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vai trò, vị trí của tư tưởng Hồ
Chí Minh, hệ thống các quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề
bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn của nước ta, đồng thời là sự kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân
tộc ta.
Ba là, nhận thức về động lực của sự phát triển con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một hệ động lực, bao gồm các
loại động lực vật chất tinh thần, các động lực bên trong các động lực
bên ngoài. Trong hệ thống động lực phát triển chủ nghĩa hội nước ta
hiện nay, trước hết là ba động lực quan trọng sau:
Thứ nhất, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo.
Thứ hai, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của công cuộc đổi mới nhằm khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của
con người, tính tích cực, chủ động, năng động của nhân dân được tăng lên.
Thứ ba, kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể, cá nhân, quan tâm lợi ích thiết
thân của con người.
Bốn là, nhận thức về thời kỳ quá độ những đặc điểm của con đường
quá độ, bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa hội Việt
Nam
Lãnh đạo công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta có những đổi mới sâu sắc:
- Nhận thức hơn về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa hội, từ đó xác định mục tiêu tổng quát mục tiêu
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Đó là, trong thời kỳ quá độ sẽ tồn tại
nhiều hình thức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ.
- Nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cái gì bỏ qua, cái gì cần tiếp thu…
Năm là, nhận thức hơn về hình phương hướng áp dụng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta
Lần đầu tiên, tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng thông qua (6 – 1991) đã đề cập những
nội dung cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, gồm 6 đặc trưng.
Tổng kết 25 năm đổi mới20 năm thục hiện Cương lĩnh 1991, Đại hội lần
thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội (bổ sung, phát triển năm
2011) đã bổ sung tám đặc trưng của hội hội chủ nghĩa nhân dân ta
xây dựng.
Tóm lại, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa hội Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến nay,
cho thấy những câu trả lời cho hiện tại - tương lai - triển vọng của chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, của nhân dân và dân tộc ta là: Chủ nghĩa xã hội là sợ chỉ đỏ
xuyên suốt trong đường lối cách mạng Việt Nam. Mục tiêu, bản chất của chủ
nghĩa xã hội, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội nhằm tạo lập
sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của chủ nghĩa hội. Chủ nghĩa Mác -
Lênin tường Hồ Chí Minh nền tảng tưởng, kim chỉ nam hành
động của cách mạng Việt Nam, xây dựng chủ nghĩa hội Việt Nam
xây dựng một “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tang, tinh thần
ngày càng tốt...” .
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới đã khẳng định
sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và Bác Hồ về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển của xã hội trong
thời đại ngày nay.
III. LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM SINH VIÊN
“Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa phải có tinh thần xã hội chủ nghĩa, muốn
tinh thần hội chủ nghĩa phải đánh bại chủ nghĩa nhân”. Đó lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện với sinh viên đại học
ngày 26-6-1959. Lời dạy của Bác ý nghĩa to lớn với nhân dân Việt Nam
nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng. Như vậy để có thể đóng góp vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội của đất nước thì trước hết, sinh viên
chúng ta cần có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về bản chất của chủ nghĩa xã
hội. Đồng thời phải nêu cao ý thức tinh thần hội chủ nghĩa, phấn
đấu hết mình sự nghiệp đại của dân tộc. Kiên quyết đấu tranh bài trừ
chủ nghĩa nhân ra khỏi đời sống hội bởi chủ nghĩa nhân một
trong những cản trở lớn trên con đường đi lên xây dựng CNXH ở nước ta.
Thực hiện lời dạy của Bác, sinh viên Việt Nam cần phải đoàn kết chặt chẽ,
ra sức học tập, rèn luyện; chăm chỉ lao động, vượt mọi khó khăn, kiên quyết
đấu tranh loại bỏ chủ nghĩa cá nhân để trở thành những chủ nhân tương lai
của đất nước, phấn đấu hết mình chi sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Phát
huy tối đa tinh thần năng động, sáng tạo, ham học hỏi.
Bản thân tôi đang một sinh viên. Tôi cũng luôn tự ý thức được rằng phải
luôn tích cực học tập, rèn luyện tốt để trở thành một công dân có ích cho xã
hội. Luôn lập trường tưởng chính trị vững vàng, kiên định với con
đường độc lập dân tộc gắn với CNXH Đảng Bác Hồ đã lựa chọn.
Luôn ra sức học tập, ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, tiếp thu những tinh hóa dân tộc và nhân loại, nâng cao khả năng,
trình độ bản thân để góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước. Đồng thời
cũng phải thường xuyên cập nhật, nhanh nhạy với những biến động của thời
cuộc, năm bắt thời khi nước ta đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng.
| 1/10

Preview text:

THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I. THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là gì ?

Thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội về phương diện chính trị là
việc thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản mà thực chất của nó là việc giai cấp
công nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, tiến hành xây
dựng một xã hội không giai cấp.
Về măt lí luận và thực tiễn, thời kỳ quá độ từ củ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản
phát triển, cần thiết phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội; thứ hai, đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, giữa
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất định - quá độ
chính trị, thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia, thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
2. Tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lí giải từ các căn cứ sau đây: -
Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều
nhất định phải trải qua một hời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời kỹ còn có sự
đan xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Có thể
nói đây là thời kỳ của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cái cũ và cái mới mà nói
chung theo tính tất yếu phát triển lịch sử thì cái mới thường chiến thắng cái cũ, cái
lạc hậu. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không là ngoại lệ lịch sử. Hơn
nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về
chất so với các quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra trong
lịch sử thì thời kỳ quá độ lại càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài. Nhất là
đối với những nước còn ở trình độ tiền tư bản thực hiện thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội thì “những cơn đau đẻ” này còn có thể rất dài với nhiều bước quanh co. -
Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định
từ những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa
đối với chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất kỹ
thuật đã được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội mặc dù cũng là nền sản xuất đại
công nghiệp nhưng đó là nền sản xuất đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa chứ
không phải là nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó nó cũng cần phải có
thời kỳ quá độ của bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên chủ
nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vô cùng to lớn và đầy khó khăn,
không thể “đốt cháy giai đoạn” được. -
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng
chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ
nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo
ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ
nghĩa, đo vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó. -
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn
và phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân
dân lao động không thể ngay lập tức có thể đảm đương được công việc ấy, nó cần
phải có thời gian nhất dịnh.
3. Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự
tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã
hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội.
3.1. Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong
một hệ thống kinh tế quốc dân thông nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết
cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình độ
chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác
lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất
với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó
là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao
động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải sắp xếp, bố trí lại lực lượng sản
xuất hiện có của xã hội, cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới
theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân.
3.2. Trên lĩnh vực chính trị:
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên
kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung,
thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những
người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tuỳ theo từng
điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.
3.3. Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn
hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu
tư sản, tâm lý tiểu nông, V.V.. Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù
giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng công
khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới, chúng
thường xuyên đấu tranh với nhau. Do đó cần phải từng bước khắc phục những tệ
nạn do xã hội cũ để lại, từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng
miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội.
Đồng thời xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý
tưởng là tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác.
Như vậy, thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời
kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại không còn là giai
cấp thống trị và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động. Theo quan điểm của Mác-Lenin, xã hội nào rồi cũng
trải qua thời kì này, sự hiện diện của chúng trong lịch sử và tương lai của mỗi xã hội
có thể được xem là tất yếu. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là giai
cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong
lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu,
bằng hành chính và luật pháp.
II. THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
1. Tính tất yếu khách quan của thười kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Từ khi hòa bình lập lại năm 1954, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1975, sau khi nước ta hoàn thành độc lập và thống nhất, cách mạng dân tộc-
dân chủ đã hoàn thành thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trng thười kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” của Đảng ta đã xác định: “Nước ta
quá độ lên chủ ngĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Ĩ
của Đảng tiếp tục khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản”.
Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử, thời kỳ chuyển biển của cách mạng mà bất cứ
quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua. Nước ta đi lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử vì: -
Thời kì chúng ta đang sống là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi thế giới. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định chủ nghĩa tư bản là chế
độ xã hội đã lỗi thười về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải thay đổi bằng hình
thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội chủ
nghĩa. Cho dù hiện nay, chủ ngĩa tư bản hiện đại đang nắm vững ưu thế về vốn,
khoa học và công nghệ, thị trường… nên nó có tiềm năng phát triển, song chủ
nghĩa tư bản không thể khắc phục nổi mà chỉ làm sâu sắc them mâu thuẫn vốn có
của nó là mâu thuẫn giữa tính chất xã hôi hóa cao của lực lượng sản xuất với chế
độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. -
Phát triển theo con đường CNXH không chỉ phù hợp với xu thế của thời đại mà
còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân trước hết là để giải phóng dân tộc, giành độc lập tư do dân chủ đồng thời
nó là tiền đề làm cho “nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người
có công ăn việc làm, được ấm no và cuộc sống hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” Vì vậy, cuộc
cách mạng XHCN là sự tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc. dân chủ làm cho cách
mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện triệt để.
2. Đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đặc điểm cơ bản của quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Việt Nam tiến lên CNXH xã hội trong điều kiện vừa thuận lợi vừa khó khăn đan
xen, có những đặc trưng cơ bản: -
Xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất
rất thấp. Đất nước trải qua chiến tranh ác liệt, kéo dài nhiều thập kỉ, hậu quả
để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực
thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc
lập dân tộc của nhân dân ta. -
Cuộc cách mạng khao học công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn
hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã
hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát
triển lịch sử và cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát
triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt. -
Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội, cho dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Các nước
với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác
vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh
của nhân dân các nước vì hòa bình độc lập dân tọc, dân chủ, phát triển và tiến
bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, song theo quy luật tiến hóa của
lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Quá độ lên chủ ngĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy
nhất đúng, khoa học, phản ánh đúng quy luật phát triển khách quan của cách
mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay. Cương lĩnh năm 1930 của Đảng đã
chỉ rõ: Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, đan chủ nhân dân, sẽ tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn dứt khoát và đúng đắn của Đảng, đáp
ứng nguyện vọng thiết tha của dân tộc, nhân dân, phản ánh xu thế phát triển
của thời đại, phù hợp với quan điểm khoa học, cách mạng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lenin.
Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, như Đại hội IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam (2001) xác định: con đường đi lên của nước ta là sự phát
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ
qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tư bản chủ nghĩa, đắc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Đây là tư tưởng mới, phản ánh nhận thức mới, tư duy mới của Đảng ta về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng này
cần được hiểu đầy đủ với những nội dung sau đây:
Thứ nhất, quá độ lên CNXH nỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường
cách mạng tất yếu khách quan, con đường xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ len chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ hai, quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là trong thời kỳ quá độ còn nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, song sở hữu tư nhân tư abnr chủ nghĩa không
chiếm vai trò chủ đạo; thời kỳ quá độ còn nhiều hình thức phân phối, ngoài
phân phối theo lao động vẫn là chủ đạo còn phân phối theo mức độ đóng góp
và quỹ phúc lợi xã hội; thời kỳ quá độ vẫn còn quan hệ bóc lột và bị bóc lọt,
song quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa không giữ vai trò thống trị.
Thứ ba, quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư
bản, đặc biệt là những thành tựu về khoa học công nghệ, thành về quản lý để
phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội, đặc biệt là phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nèn kinh tế hiện đại.
Thứ tư, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là tạo ra
sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực, là sự nghiệp rất khó
khăn, phức tạp, lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội có tính chất quá độ đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị cao và khát
vọng lớn của toàn Đảng, toàn dân.
3. Liên hệ thực tiễn quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta đã trải qua một quá trình lâu dài và không đơn giản. Trong quá trình đó
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ thực tiễn
đất nước, có nhiều tìm tòi, sáng tạo trong nhận thức lý luận, nhất là trong
thời kỳ đổi mới. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã diễn ra gần 30 năm, đạt
được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Một là, nhận thức về mục tiêu và bản chất của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ngày càng đầy đủ hơn ở Việt Nam.

Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày
càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội, phù hợp thực tế và quy luật khách quan; từng bước khắc
phục một số quan niệm đơn giản trước đây.
Đại hội VI đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong tư duy lý luận của
Đảng, mở đầu quá trình đổi mới và sự hình thành nhận thức mới của Đảng
về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thông qua đổi mới, như một cuộc
cải biến cách mạng lâu dài, toàn diện, sâu sắc và triệt để, có kế thừa và có phát triển.
Đại hội VII, trên cơ sở tổng kết thực tiễn 5 năm đầu của đổi mới đã thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Văn kiện quan trọng này đã lần đầu tiên đề cập tới một cách có hệ thống
dưới hình thức luận đề, xác định 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa và
bảy phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những đặc trưng đó
vừa thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội,
vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến đặc điểm của thời đại.
Từ sau Đại hội IX, Đảng ta đã hình thành nhận thức, coi phát triển kinh tế là
trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt và coi văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội. Đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đặc biệt chú
trọng tới sự phát triển dân tộc, phát huy động lực quan trọng và mạnh mẽ
nhất là sự đoàn kết dân tộc, có chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, giúp
đỡ, tương trợ lẫn nhau trong phát triển ở một quốc gia đa tộc như người Việt
Nam. Một trong những nét mới trong tư duy đổi mới là, Đảng khẳng định
đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Phát triển tư tưởng đó, từ sau Đại hội VII, Đảng ta nhất quán với chủ trương
đoàn kết, hợp tác, hữu nghị và hòa bình để phát triển, Việt Nam mong muốn
là bạn của tất cả các nước, sẵn sàng hợp tác song phương và đa phương…
Từ đại hội VI đến Đại hội XI, vấn đề bản chất, mục tiêu của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội được Đảng ta bổ sung, hoàn thiện đầy đủ hơn các tiêu
chí: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mục tiêu tổng quát
khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là “xây dựng được về cơ bản nền tảng
kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng,
văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa
ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng,
toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công
nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Hai là, nhận thức về nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đại hội lần thứ II (năm 1951), Đảng ta xác định chủ nghĩa Mác - Lênin là
nền tảng tư tưởng của Đảng. Tiếp theo, Đại hội lần thứ III (năm 1960), Đảng
khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
mọi hành động cách mạng. Đặc biệt đến Đại hội lần thứ VII (năm 1991),
Đảng ta chính thức khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Việc chính
thức bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh cho nền tảng tư tưởng của Đảng là đánh
dấu một bước tiến mới, một bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận.
Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vai trò, vị trí của tư tưởng Hồ
Chí Minh, là hệ thống các quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn của nước ta, đồng thời là sự kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta.
Ba là, nhận thức về động lực của sự phát triển con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam

Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một hệ động lực, bao gồm các
loại động lực vật chất và tinh thần, các động lực bên trong và các động lực
bên ngoài. Trong hệ thống động lực phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay, trước hết là ba động lực quan trọng sau:
Thứ nhất, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Thứ hai, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của công cuộc đổi mới nhằm khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của
con người, tính tích cực, chủ động, năng động của nhân dân được tăng lên.
Thứ ba, kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể, cá nhân, quan tâm lợi ích thiết thân của con người.
Bốn là, nhận thức về thời kỳ quá độ và những đặc điểm của con đường
quá độ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Lãnh đạo công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta có những đổi mới sâu sắc:
- Nhận thức rõ hơn về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, từ đó xác định rõ mục tiêu tổng quát và mục tiêu
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Đó là, trong thời kỳ quá độ sẽ tồn tại
nhiều hình thức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ.
- Nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cái gì bỏ qua, cái gì cần tiếp thu…
Năm là, nhận thức rõ hơn về mô hình và phương hướng áp dụng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta

Lần đầu tiên, tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng thông qua (6 – 1991) đã đề cập những
nội dung cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, gồm 6 đặc trưng.
Tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm thục hiện Cương lĩnh 1991, Đại hội lần
thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) đã bổ sung tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.
Tóm lại, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến nay,
cho thấy những câu trả lời cho hiện tại - tương lai - triển vọng của chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, của nhân dân và dân tộc ta là: Chủ nghĩa xã hội là sợ chỉ đỏ
xuyên suốt trong đường lối cách mạng Việt Nam. Mục tiêu, bản chất của chủ
nghĩa xã hội, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm tạo lập
cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tường Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam hành
động của cách mạng Việt Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
xây dựng một “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tang, tinh thần ngày càng tốt...” .
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới đã khẳng định
sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và Bác Hồ về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển của xã hội trong thời đại ngày nay. III.
LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM SINH VIÊN
“Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa phải có tinh thần xã hội chủ nghĩa, muốn
có tinh thần xã hội chủ nghĩa phải đánh bại chủ nghĩa cá nhân”. Đó là lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện với sinh viên đại học
ngày 26-6-1959. Lời dạy của Bác có ý nghĩa to lớn với nhân dân Việt Nam
nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng. Như vậy để có thể đóng góp vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước thì trước hết, sinh viên
chúng ta cần có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về bản chất của chủ nghĩa xã
hội. Đồng thời phải nêu cao ý thức và có tinh thần xã hội chủ nghĩa, phấn
đấu hết mình vì sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Kiên quyết đấu tranh bài trừ
chủ nghĩa cá nhân ra khỏi đời sống xã hội bởi chủ nghĩa cá nhân là một
trong những cản trở lớn trên con đường đi lên xây dựng CNXH ở nước ta.
Thực hiện lời dạy của Bác, sinh viên Việt Nam cần phải đoàn kết chặt chẽ,
ra sức học tập, rèn luyện; chăm chỉ lao động, vượt mọi khó khăn, kiên quyết
đấu tranh loại bỏ chủ nghĩa cá nhân để trở thành những chủ nhân tương lai
của đất nước, phấn đấu hết mình chi sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Phát
huy tối đa tinh thần năng động, sáng tạo, ham học hỏi.
Bản thân tôi đang là một sinh viên. Tôi cũng luôn tự ý thức được rằng phải
luôn tích cực học tập, rèn luyện tốt để trở thành một công dân có ích cho xã
hội. Luôn có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, kiên định với con
đường độc lập dân tộc gắn với CNXH mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Luôn ra sức học tập, ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, tiếp thu những tinh hóa dân tộc và nhân loại, nâng cao khả năng,
trình độ bản thân để góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước. Đồng thời
cũng phải thường xuyên cập nhật, nhanh nhạy với những biến động của thời
cuộc, năm bắt thời cơ khi nước ta đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.