









Preview text:
Thị phần/Độ tập Lĩnh vực
Các doanh nghiệp chính
Đặc điểm cạnh tranh trung
Cạnh tranh có giới hạn: Nhiều
ngân hàng (hơn 30), nhưng nhóm Vietcombank, BIDV, Top 4 nắm ~45% thị phần
"Big4" quốc doanh dẫn đầu thị
VietinBank, Agribank (đều là ngân tín dụng 4
trường về quy mô và lợi nhuận. Ngân hàng
hàng quốc doanh lớn) và các ngân 5 ; Top 10 chiếm tỷ
Nhà nước chi phối qua sở hữu và
hàng cổ phần lớn (Techcombank,
trọng lớn tài sản ngành chính sách tiền tệ. VPBank, MB...) ngân hàng 4 chuỗi lớn mỗi bên
Cạnh tranh cao trong kênh hiện ~19-20% thị phần bán
đại: Một vài chuỗi bán lẻ lớn cạnh Bán lẻ WinCommerce (WinMart/
tranh quyết liệt. Thị phần tương ( siêu thị,
lẻ thực phẩm hiện đại WinMart+), Bách Hóa Xanh, 6
đối phân tán giữa 4-5 doanh cửa hàng Central Retail (GO!/BigC), (BHX
nghiệp, chưa có độc quyền tuyệt thực phẩm) Saigon Co.op ~20%, các bên khác ~19% mỗi) đối. lOMoAR cPSD| 48641284
Duopoly (song quyền): Thị trường 2 hãng lớn nắm ~85%
nội địa do 2 hãng thống lĩnh sau khi thị phần nội địa 7
một hãng mới thu hẹp hoạt động.
Vietnam Airlines, Vietjet Air, Hàng không (Vietnam
Cạnh tranh chủ yếu giữa VNA (nhà (Bamboo Airways nhỏ hơn) Airlines ~42%, Vietjet
nước) và Vietjet (tư nhân). ~43%)
Ghi chú: Độc quyền ở đây để chỉ thị trường do một doanh nghiệp duy nhất nắm giữ; oligopoly (độc quyền nhóm/thiểu quyền)
chỉ thị trường do một nhóm ít doanh nghiệp lớn chi phối; duopoly là trường hợp oligopoly với đúng 2 doanh nghiệp chính.
Các con số thị phần mang tính ước lượng dựa trên dữ liệu cập nhật đến 2024.
Dưới đây là phân tích chi tiết từng lĩnh vực và vai trò của Nhà nước trong việc kiểm soát độc quyền, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh.
Thực trạng cạnh tranh theo ngành
Viễn thông (dịch vụ di động)
Thị trường viễn thông di động Việt Nam có mức độ tập trung rất cao. Ba nhà mạng lớn nhất – gồm Tập đoàn Viettel, VNPT
(mạng Vinaphone) và MobiFone – chiếm hơn 90% thị phần điện thoại di động 1 . Cụ thể, Viettel giữ vị trí dẫn đầu với khoảng
56,6% thị phần di động năm 2024 8 9 . VNPT (Vinaphone) đứng thứ hai và MobiFone thứ ba; tổng thị phần của ba “ông lớn”
quốc doanh này áp đảo thị trường. Phần còn lại chưa tới 10% thuộc về các hãng nhỏ như Vietnamobile, Gmobile và một số nhà mạng ảo (MVNO) 1 .
Nhìn chung, viễn thông di động tại Việt Nam là thị trường oligopoly do ba doanh nghiệp nhà nước thống lĩnh. Mặc dù Bộ
Thông tin & Truyền thông đã khuyến khích cạnh tranh bằng cách cấp phép cho mạng di động ảo (MVNO) và vài nhà mạng nhỏ,
hiệu quả cạnh tranh vẫn hạn chế. Các MVNO (như ITelecom,
Localme) thuê hạ tầng của nhà mạng lớn để cung cấp dịch vụ, giúp tận dụng cơ sở hạ tầng có sẵn 10 . Tuy nhiên, do dung lượng
thị trường đã bão hòa và rào cản gia nhập lớn (như vốn đầu tư hạ tầng, hạn chế tài nguyên tần số), các tân binh chỉ chiếm thị
phần rất nhỏ, chưa thể thách thức các doanh nghiệp dẫn đầu.
Cạnh tranh về giá và dịch vụ: Nhờ có một số nhà mạng cùng tồn tại, người tiêu dùng được hưởng lợi ở mức độ nhất định (giá
cước viễn thông Việt Nam thuộc nhóm thấp trên thế giới, nhiều khuyến mãi dữ liệu...). Tuy vậy, nguy cơ hành vi hạn chế cạnh
tranh vẫn được giám sát – chẳng hạn, cơ quan quản lý yêu cầu các nhà mạng duy trì chất lượng dịch vụ, không được móc nối
bắt tay để giữ giá cước cao. Việc quản lý khuyến mại, giá sàn cước data... do Bộ TT&TT ban hành cũng nhằm tránh việc nhà
mạng lớn dùng lợi thế vốn để “diệt” nhà mạng nhỏ. Nhìn chung, độc quyền nhóm trong viễn thông di động tại Việt Nam là
thực trạng có tính lịch sử (trước đây VNPT từng độc quyền, sau đó tách MobiFone và cấp phép Viettel để tạo cạnh tranh).
Hiện tại, ba doanh nghiệp này vừa cạnh tranh vừa đều thuộc sở hữu nhà nước, tạo nên tình huống Nhà nước vừa là người
chơi vừa là trọng tài trên thị trường.
Năng lượng (điện lực và xăng dầu)
Điện lực: Ngành điện Việt Nam về cơ bản vẫn vận hành theo mô hình độc quyền tích hợp theo chiều dọc ở khâu truyền tải và
phân phối. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) – doanh nghiệp nhà nước – độc quyền về truyền tải và phân phối điện đến
người tiêu dùng 2 . EVN là đơn vị duy nhất mua điện từ các nhà máy và bán điện thương phẩm trên thị trường, dưới sự điều
tiết của Nhà nước. Mặc dù Việt Nam đã từng bước hình thành thị trường phát điện cạnh tranh (nhiều công ty, kể cả tư nhân,
tham gia đầu tư nhà máy điện), EVN vẫn chi phối lớn: EVN vừa sở hữu nhiều nhà máy (nhiệt điện, thủy điện thuộc các Tổng 2 lOMoAR cPSD| 48641284
công ty Phát điện), vừa là người mua duy nhất thông qua Công ty Mua bán điện. Theo số liệu năm 2023, EVN và các đơn vị
thành viên cung cấp khoảng 253 tỷ kWh điện thương phẩm 11 , và EVN sở hữu khoảng 38 % tổng công suất nguồn điện quốc
gia (phần còn lại thuộc PV Power, doanh nghiệp tư nhân, dự án BOT...) 12 . Điều này cho thấy vai trò chi phối của EVN vẫn rất lớn.
Doanh nghiệp tư nhân hiện chỉ có thể tham gia ở khâu phát điện (bán điện cho EVN) hoặc bán lẻ điện trực tiếp ở quy mô hạn
chế (thí điểm cho khách hàng lớn qua cơ chế DPPA – mua điện trực tiếp từ nhà máy năng lượng tái tạo). Thị trường bán lẻ
điện cạnh tranh cho người dân cuối cùng hiện chưa hình thành. Giá điện bán lẻ do Nhà nước quy định, áp dụng thống nhất,
nên cạnh tranh về giá không có. Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành Luật Điện lực sửa đổi (2022) và các nghị định hướng
đến thị trường bán buôn điện cạnh tranh trong tương lai, song EVN vẫn giữ vai trò trung tâm nhằm đảm bảo an ninh năng lượng.
Xăng dầu: Thị trường xăng dầu Việt Nam cũng có mức tập trung cao độ, với hai doanh nghiệp nhà nước đứng đầu: Tập đoàn
Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) và Tổng công ty Dầu Việt Nam (PVOIL). Petrolimex hiện chiếm khoảng 50% thị phần xăng
dầu nội địa, còn PVOIL chiếm khoảng 20% 3 . Như vậy hai “ông lớn” này nắm khoảng 70% thị trường phân phối xăng dầu, phần
còn lại thuộc về các công ty nhỏ hơn (Saigon Petro, Mipec, các doanh nghiệp quân đội, doanh nghiệp tư nhân địa phương...).
Tuy có nhiều đầu mối nhập khẩu và phân phối xăng dầu, cạnh tranh giá hầu như không có do giá bán lẻ xăng dầu được Nhà
nước quy định tập trung. Theo Nghị định 95/2021/NĐ-CP, giá xăng dầu do liên Bộ Công Thương - Tài chính điều hành, thường
điều chỉnh 10 ngày một lần dựa trên giá thế giới, thuế và quỹ bình ổn. Do đó, các hãng xăng dầu bán lẻ đều phải bán cùng một
mức giá trần, cạnh tranh chủ yếu bằng dịch vụ, mạng lưới cửa hàng. Cơ chế này nhằm bình ổn thị trường và tránh cạnh tranh
không lành mạnh, nhưng cũng khiến biên lợi nhuận của đại lý cố định, doanh nghiệp tư nhân nhỏ gặp khó khi giá thế giới
biến động (đã xảy ra hiện tượng một số cửa hàng ngừng bán cuối 2022 vì càng bán càng lỗ do chiết khấu thấp). Nhà nước đã
tăng cường giám sát và có biện pháp xử lý trường hợp doanh nghiệp ngừng cung ứng không lý do chính đáng nhằm đảm bảo nguồn cung.
Tóm lại, ngành năng lượng Việt Nam gồm hai lĩnh vực chính là điện lực và xăng dầu đều có tính độc quyền hoặc độc quyền
nhóm rất rõ. Đây đều là các lĩnh vực thiết yếu, nhạy cảm, nên Nhà nước vẫn giữ vai trò chi phối thông qua sở hữu doanh
nghiệp và quản lý giá. Mức độ cạnh tranh còn hạn chế, song Chính phủ đang thận trọng mở dần thị trường (thí dụ: cho tư
nhân tham gia phát điện, cổ phần hóa một phần PVOIL, cho phép thêm đầu mối xăng dầu nhập khẩu…) nhằm cải thiện hiệu
quả và giảm độc quyền.
Ngân hàng (dịch vụ tài chính ngân hàng)
Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam có số lượng tổ chức tín dụng tương đối nhiều (khoảng 50 ngân hàng, bao gồm ngân
hàng thương mại nhà nước, NHTM cổ phần, ngân hàng nước ngoài, liên doanh và quỹ tín dụng). Tuy nhiên, quy mô thị trường
tập trung chủ yếu vào nhóm ngân hàng lớn. Bốn ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất (thường gọi là nhóm "Big4":
Vietcombank, VietinBank, BIDV và Agribank) hiện đang dẫn đầu thị phần tín dụng với khoảng 45% thị phần cho vay 4 5 . Cụ
thể, tính đến giữa năm 2024, 4 ngân hàng này chiếm xấp xỉ gần một nửa dư nợ cho vay toàn hệ thống 4 . Mỗi ngân hàng Big4
đều có tổng tài sản vượt 2 triệu tỷ đồng, bỏ xa các ngân hàng cỡ trung bình 13 .
Nhóm ngân hàng cổ phần tư nhân lớn (như Techcombank, VPBank, MB, ACB, etc.) tuy số lượng nhiều nhưng thị phần đơn lẻ
nhỏ hơn so với Big4. Ví dụ, tổng dư nợ cho vay của ba ngân hàng tư nhân hàng đầu (MB, VPBank, Techcombank) cộng lại chỉ
xấp xỉ bằng dư nợ cho vay của một mình BIDV – một ngân hàng quốc doanh 14 . Điều này cho thấy mức độ tập trung vốn tín
dụng vào các "ông lớn" quốc doanh là rất cao. lOMoAR cPSD| 48641284
Tuy thị phần tín dụng tập trung, nhưng do lĩnh vực ngân hàng có yêu cầu an toàn hệ thống, Nhà nước không khuyến khích
cạnh tranh quá gay gắt về lãi suất hay rủi ro. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) kiểm soát trần lãi suất huy động, áp dụng
hạn mức tín dụng,... do đó các ngân hàng cạnh tranh chủ yếu ở mảng dịch vụ, tiện ích, mạng lưới thay vì chạy đua lãi suất.
Cạnh tranh trong ngân hàng thể hiện ở việc thu hút tiền gửi và khách hàng cho vay, phát triển ngân hàng số, nhưng hợp tác
cũng nhiều (ví dụ đồng thuận lãi suất, phí).
Đáng chú ý, Nhà nước sở hữu chi phối tại các ngân hàng lớn nên có ảnh hưởng trực tiếp đến cạnh tranh. Khi cần thiết, NHNN
có thể chỉ đạo sáp nhập ngân hàng yếu vào ngân hàng mạnh (như sáp nhập MHB vào BIDV năm 2015, hay gần đây yêu cầu
tìm đối tác cho SCB...), qua đó giảm số lượng và tăng tập trung nhằm ổn định hệ thống. Việc này có lợi cho an toàn tài chính
nhưng cũng có thể làm giảm tính cạnh tranh thị trường ngân hàng. Hiện nay, top 10 ngân hàng lớn nhất nắm phần lớn thị
phần tiền gửi và tín dụng, trong khi các ngân hàng nhỏ hơn thị phần rất thấp, hoạt động ngách. Do đó, có thể nói thị trường
ngân hàng có tính oligopoly tương đối: không phải một vài ngân hàng kiểm soát hoàn toàn, nhưng nhóm dẫn đầu thì vượt
trội so với phần còn lại.
Bán lẻ (chuỗi siêu thị, cửa hàng tiện lợi)
Ngành bán lẻ Việt Nam truyền thống rất phân mảnh (chợ, cửa hàng tạp hóa nhỏ lẻ chiếm tỷ trọng lớn). Tuy nhiên, trong kênh
bán lẻ hiện đại (siêu thị, cửa hàng tiện lợi, siêu thị mini...), những năm gần đây đã hình thành một số tập đoàn lớn chiếm lĩnh
thị phần đáng kể. Các chuỗi bán lẻ thực phẩm, hàng tiêu dùng nhanh hàng đầu hiện gồm: WinCommerce (vận hành
WinMart/WinMart+, thuộc Tập đoàn Masan), Bách Hóa Xanh (chuỗi siêu thị mini thuộc Thế Giới Di Động), Central Retail
Vietnam (doanh nghiệp Thái Lan sở hữu hệ thống GO!/BigC), và Saigon Co.op (hệ thống Co.opmart, Co.opXtra...).
Theo báo cáo của Chứng khoán VietCap, đến cuối năm 2023 Bách Hóa Xanh dẫn đầu với ~20% thị phần kênh bán lẻ tạp hóa
hiện đại, các vị trí tiếp theo lần lượt thuộc về WinCommerce, Central Retail và Saigon Co.op với xấp xỉ 19% thị phần mỗi đơn
vị 6 . Như vậy, chỉ riêng 4 nhà bán lẻ lớn này đã chiếm khoảng 77-80 % thị phần kênh bán lẻ hiện đại ngành hàng tiêu dùng
nhanh. Đây là mức độ tập trung cao, phản ánh xu hướng hợp nhất thị trường bán lẻ hiện đại thông qua mở rộng chuỗi và
mua bán sáp nhập (ví dụ: Masan thâu tóm WinMart từ Vingroup năm 2019, TGDĐ mở rộng nhanh chuỗi Bách Hóa Xanh từ 2015).
Mặc dù vậy, cần lưu ý là tổng thị trường bán lẻ còn bao gồm kênh truyền thống (chợ, tiệm tạp hóa nhỏ), do đó tính trên toàn
bộ bán lẻ hàng tiêu dùng thì chưa có doanh nghiệp nào độc quyền. Thị phần của chuỗi lớn chỉ nổi trội trong phân khúc hiện
đại đô thị. Tại nhiều địa phương, chợ truyền thống vẫn là kênh chính, giữ cho cấu trúc ngành bán lẻ nhìn chung phân tán.
Cạnh tranh trong ngành bán lẻ hiện đại rất quyết liệt: các doanh nghiệp không ngừng mở rộng số lượng cửa hàng và cải thiện
dịch vụ để giành thị phần. Ví dụ, tính đến giữa 2024, WinCommerce có trên 3.670 điểm bán WinMart/WinMart+ toàn quốc,
còn Bách Hóa Xanh có 1.701 cửa hàng 15 . Các chuỗi cũng cạnh tranh qua giá cả khuyến mãi, chương trình khách hàng thân
thiết, và mở rộng vùng miền (BHX chủ yếu phía Nam, WinMart vươn ra Bắc). Nhìn chung, thị trường bán lẻ đang chuyển dịch
từ truyền thống sang hiện đại, mức độ tập trung sẽ tăng nhưng với 4-5 tay chơi lớn chia sẻ thị phần thì khó có độc quyền
tuyệt đối trong ngắn hạn.
Các ngành tập trung cao khác (hàng không, v.v.)
Hàng không: Thị trường vận tải hàng không nội địa Việt Nam từng có 3-4 hãng cạnh tranh, nhưng gần đây xu hướng tập trung
mạnh trở lại vào hai hãng chính. Hai “ông lớn” là Vietnam Airlines (VNA) và Vietjet Air hiện chia nhau phần lớn “chiếc bánh”
thị phần. Trong 5 tháng đầu năm 2024, Vietnam Airlines chiếm khoảng 42,2% còn Vietjet Air chiếm 42,8% thị phần vận
chuyển hành khách nội địa 7 . Tức là tổng cộng hai hãng này nắm gần 85% thị phần 7 , tạo thành cục diện song quyền (duopoly). 4 lOMoAR cPSD| 48641284
Phần còn lại thị trường khá nhỏ thuộc về Bamboo Airways (~7% năm 2024) và hãng nhỏ như Pacific Airlines (~2-3%) 16 . Sự
thay đổi này một phần do Bamboo Airways thời gian qua sa sút thị phần vì tái cơ cấu mạnh mẽ, “nhường” thị phần lại cho VNA và Vietjet 17 .
Cấu trúc duopoly khiến cạnh tranh hàng không nội địa có phần giảm so với giai đoạn 2018-2019 (khi Bamboo mới tham gia,
thị phần VNA và Vietjet đều dưới 40%). Mặc dù vậy, cạnh tranh giữa hai hãng lớn vẫn gay gắt: VNA tập trung dịch vụ truyền
thống, Vietjet theo mô hình giá rẻ, cả hai đều phải giữ chất lượng và giá vé hấp dẫn để thu hút khách. Nhà nước sở hữu phần
lớn Vietnam Airlines, đồng thời khuyến khích các hãng tư nhân tham gia (cho phép thành lập Bamboo Airways năm 2017, gần
đây có hãng mới Vietravel Airlines năm 2021 với thị phần nhỏ). Việc mở cửa bầu trời nội địa từ 2007 đã phá thế độc quyền
của Vietnam Airlines, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng (nhiều lựa chọn chuyến bay, giá vé cạnh tranh hơn). Tuy nhiên, thị
trường hạn chế về “room” (slot cất hạ cánh, nhân lực phi công...), nên số lượng hãng bay không thể nhiều, dẫn đến dễ hình
thành thế chân vạc hoặc song mã. Cơ quan quản lý (Cục Hàng không Việt Nam) vẫn kiểm soát chặt giá trần vé máy bay nội địa
và phân bổ slot bay, nhằm ngăn chặn hành vi độc quyền và đảm bảo an toàn bay.
Xăng dầu: (Đã phân tích trong mục Năng lượng ở trên – xin tóm tắt lại) Thị trường xăng dầu bán lẻ cũng là một ví dụ điển hình
về tập trung cao. Hai doanh nghiệp nhà nước Petrolimex và PVOIL chi phối khoảng 70% thị trường 3 , phần còn lại thuộc hàng
trăm doanh nghiệp tư nhân nhỏ nhưng sức ảnh hưởng hạn chế. Đặc thù xăng dầu là Nhà nước quy định giá, do đó mức độ
cạnh tranh bị giới hạn. Các doanh nghiệp đầu mối ngoài cạnh tranh về thị phần thông qua mở rộng mạng lưới đại lý, gần như
không thể cạnh tranh về giá bán. Mặc dù vậy, sự tham gia của nhiều đầu mối nhập khẩu (hiện ~40 đơn vị được cấp phép) cũng
giúp tránh phụ thuộc hoàn toàn vào một nguồn cung, giảm độc quyền tuyệt đối so với thời bao cấp (khi chỉ có Petrolimex).
Các ngành khác: Ngoài những lĩnh vực trên, một số ngành tại Việt Nam cũng có dấu hiệu tập trung thị trường đáng kể hoặc độc quyền cục bộ, ví dụ:
• Viễn thông cố định & Internet băng rộng: Tương tự di động, thị trường internet cáp quang do vài nhà mạng lớn
(VNPT, Viettel, FPT) nắm phần lớn thuê bao. Địa phương thường chỉ 1-2 nhà mạng phủ hạ tầng, tạo thế gần độc quyền tại khu vực đó.
• Sản xuất sữa: Vinamilk là hãng sữa hàng đầu với thị phần sữa nước khoảng 54% (2022) và sữa bột lớn nhất, bỏ xa đối
thủ. Thị trường sữa có tính tập trung cao, dù vẫn có các công ty khác (TH True Milk, Nutifood...).
• Bia & nước giải khát: Sabeco dẫn đầu bia với ~40% thị phần bia cả nước, Habeco giữ thị phần lớn miền Bắc. CocaCola
và Pepsi gần như song quyền nước giải khát có ga. Những ngành này có một vài doanh nghiệp thống lĩnh nhưng không
phải độc quyền tuyệt đối.
• Giao thông vận tải khác: Đường sắt do Tổng công ty Đường sắt VN (VNR) độc quyền quản lý hạ tầng và chạy tàu thống
nhất. Một vài lĩnh vực logistics cảng biển, dịch vụ công ích... cũng có doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chi phối do
tính chất lịch sử và vốn đầu tư lớn.
Tóm lại, nhiều lĩnh vực tại Việt Nam vẫn trong tình trạng tập trung cao vào số ít doanh nghiệp, nhất là các lĩnh vực hạ tầng,
thiết yếu hoặc đòi hỏi vốn lớn. Điều này đặt ra yêu cầu Nhà nước phải có cơ chế quản lý phù hợp nhằm ngăn chặn lạm dụng
độc quyền, đồng thời thúc đẩy cạnh tranh để bảo vệ người tiêu dùng.
Vai trò của Nhà nước trong kiểm soát độc quyền và thúc đẩy cạnh tranh
Nhận thức được tác động tiêu cực của độc quyền đến nền kinh tế thị trường, Nhà nước Việt Nam đã và đang thực hiện nhiều
biện pháp nhằm kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh, xử lý lạm dụng vị trí thống lĩnh, cũng như tạo dựng môi trường
pháp lý khuyến khích cạnh tranh công bằng. Vai trò của Nhà nước thể hiện trên một số khía cạnh chính sau: lOMoAR cPSD| 48641284
1. Hoàn thiện khung pháp luật về cạnh tranh
Việt Nam đã ban hành và liên tục cập nhật Luật Cạnh tranh để điều chỉnh các hành vi độc quyền và chống cạnh tranh. Luật
Cạnh tranh 2004 lần đầu đặt nền móng pháp lý, đến Luật Cạnh tranh năm 2018 (có hiệu lực từ 1/7/2019) đã sửa đổi toàn
diện để phù hợp kinh tế thị trường hiện đại. Luật 2018 mở rộng phạm vi điều chỉnh (kể cả hành vi cạnh tranh nước ngoài gây
tác động tới thị trường Việt Nam), và nhấn mạnh khái niệm “sức mạnh thị trường đáng kể” bên cạnh tiêu chí thị phần khi xác
định doanh nghiệp thống lĩnh. Cụ thể, theo Luật Cạnh tranh 2018:
• Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh được xác định nếu chiếm 30 % thị phần trên thị trường liên quan, hoặc có sức mạnh
thị trường đáng kể (xem xét thêm các yếu tố như rào cản, công nghệ...) 18 .
• Nhóm doanh nghiệp thống lĩnh nếu cùng hành động hạn chế cạnh tranh và có tổng thị phần từ mức: 2 doanh nghiệp
50%, 3 doanh nghiệp 65%, 4 doanh nghiệp 75%, 5 doanh nghiệp 85 %
19 . (Nhóm này không tính những doanh nghiệp có <10% thị phần để loại trừ doanh nghiệp quá nhỏ 20 ).
• Doanh nghiệp độc quyền được định nghĩa khi chỉ có duy nhất một doanh nghiệp cung ứng trên thị trường, không có
đối thủ cạnh tranh trực tiếp 21 . Ví dụ: EVN trong truyền tải điện là độc quyền tự nhiên theo luật định.
Luật Cạnh tranh cấm các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền như: bán dưới giá thành nhằm loại bỏ đối thủ, áp
đặt giá mua bán bất hợp lý, hạn chế sản xuất hoặc phân phối gây thiệt hại cho khách hàng, phân biệt đối xử giữa các đối tác,
áp đặt điều kiện bất lợi hoặc ràng buộc đi kèm khi giao dịch, cản trở thị trường của đối thủ, v.v... 22 23 . Các thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh (liên minh độc quyền, ấn định giá, phân chia thị trường...) cũng bị cấm tùy mức độ thị phần. Đối với tập trung kinh
tế (mua bán, sáp nhập doanh nghiệp), luật quy định ngưỡng kết hợp thị phần >30% phải thông báo trước, và cấm thực hiện
nếu hậu quả là tạo vị trí thống lĩnh mới hoặc gây tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể.
Bên cạnh Luật Cạnh tranh, Nhà nước còn ban hành các luật chuyên ngành và quy định quản lý kinh doanh để ngăn ngừa độc
quyền và bảo vệ người tiêu dùng. Ví dụ: Luật Viễn thông quy định doanh nghiệp thống lĩnh thị trường viễn thông (thị phần
>30%) phải thực hiện các nghĩa vụ như: cung cấp dịch vụ cho mọi đối tượng, không được phân biệt giá cước, phải định giá
cước theo khung của Bộ, interconnection mở...; Luật Điện lực quy định Nhà nước độc quyền ở khâu truyền tải, nhưng khuyến
khích mọi thành phần kinh tế tham gia phát điện; Luật Giá (và các Nghị định về xăng dầu, điện, hàng không) trao quyền cho
Chính phủ kiểm soát giá những mặt hàng độc quyền, ngăn doanh nghiệp tự ý tăng giá độc quyền. Những văn bản này, cùng
với Luật Cạnh tranh, tạo nên hành lang pháp lý khá đầy đủ để điều tiết các thị trường có mức tập trung cao.
2. Giám sát, kiểm soát và xử lý hành vi độc quyền
Chính phủ Việt Nam thiết lập các cơ quan quản lý chuyên ngành để giám sát những lĩnh vực dễ phát sinh độc quyền, đồng
thời trao quyền cho cơ quan cạnh tranh xử lý chung các vụ việc vi phạm luật cạnh tranh. Vai trò giám sát và can thiệp thể hiện qua:
• Cơ quan quản lý ngành: Mỗi ngành kinh tế trọng yếu đều có một cơ quan nhà nước giám sát việc tuân thủ pháp luật
và hành vi cạnh tranh. Ví dụ: Bộ Thông tin & Truyền thông quản lý viễn thông ( Cục Viễn thông theo dõi giá cước, chất
lượng, yêu cầu các nhà mạng duy trì cạnh tranh lành mạnh); Bộ Công Thương quản lý xăng dầu, điện lực (Cục Điều
tiết Điện lực giám sát EVN, Vụ Thị trường trong nước giám sát phân phối xăng dầu...); Ngân hàng Nhà nước giám sát
hoạt động cạnh tranh giữa các ngân hàng (thông qua công cụ lãi suất, room tín dụng để tránh cạnh tranh vượt kiểm
soát); Cục Hàng không (Bộ GTVT) giám sát các hãng bay về giá vé, tần suất, phối slot công bằng. Các cơ quan này có
quyền điều tra, thanh tra chuyên ngành và đề xuất xử phạt hành chính nếu phát hiện doanh nghiệp vi phạm quy
định (thí dụ: hành vi bắt tay tăng giá cước vận tải bị phạt, doanh nghiệp xăng dầu găm hàng bị rút giấy phép...). 6 lOMoAR cPSD| 48641284
• Cơ quan thực thi Luật Cạnh tranh: Việt Nam đã thành lập Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia (UBCTQG) – cơ quan chuyên
trách trực thuộc Bộ Công Thương – vào cuối năm 2022, trên cơ sở tổ chức lại Cục Cạnh tranh & Bảo vệ người tiêu
dùng và Hội đồng Cạnh tranh 24 . UBCTQG chính thức hoạt động từ 1 /12/2022 với chức năng tiến hành tố tụng cạnh
tranh, điều tra và xử lý các vụ việc vi phạm luật cạnh tranh trên toàn quốc 24 25 . Ủy ban này có tối đa 15 thành viên
(Chủ tịch và các Ủy viên gồm đại diện bộ ngành, chuyên gia) do Thủ tướng bổ nhiệm 26 . UBCTQG có quyền chủ động
điều tra hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc xem xét hồ sơ khiếu nại từ doanh nghiệp, người tiêu dùng. Kết thúc điều
tra, Ủy ban sẽ tổ chức Hội đồng cạnh tranh xử lý vụ việc, ra quyết định xử phạt hoặc kiến nghị biện pháp.
• Xử lý vi phạm: Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp vi phạm pháp luật cạnh tranh có thể bị phạt tiền rất nặng (tối
đa đến 10% doanh thu năm tài chính trước đó đối với hành vi hạn chế cạnh tranh), hoặc tới 5% doanh thu đối với
hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Ngoài ra có thể áp dụng biện pháp bổ sung: thu hồi khoản lợi bất chính, hủy bỏ
thỏa thuận vi phạm, cơ cấu lại doanh nghiệp, thậm chí thu hồi giấy phép kinh doanh trong trường hợp nghiêm trọng.
Chẳng hạn, năm 2018, cơ quan cạnh tranh từng điều tra vụ Grab mua Uber vì nghi ngờ tập trung kinh tế gây hạn chế
cạnh tranh (thị phần kết hợp >50%). Tuy kết luận sau cùng của Hội đồng Cạnh tranh là không đủ căn cứ xử phạt 27 ,
nhưng vụ việc đã cho thấy Nhà nước sẵn sàng can thiệp để thẩm định các thương vụ M&A có nguy cơ độc quyền.
• Kết quả thực thi: Trong những năm gần đây, cơ quan cạnh tranh đã xử lý nhiều vụ việc về "cạnh tranh không lành
mạnh", tập trung vào các hành vi quảng cáo sai lệch, xâm phạm bí mật kinh doanh, lôi kéo khách hàng bất chính, v.v.
Chẳng hạn năm 2023, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia tiếp nhận và xử lý 25 trường hợp có dấu hiệu cạnh tranh không
lành mạnh ở các lĩnh vực như sữa công thức, giáo dục, vật liệu xây dựng, bảo hiểm... 28 . Nhiều doanh nghiệp bị nêu
tên và chấn chỉnh vì quảng cáo tự nhận “số 1 Việt Nam” hoặc đưa thông tin gây nhầm lẫn cho khách hàng 29 . Điều
này thể hiện Nhà nước đang tích cực giám sát và răn đe các vi phạm cạnh tranh, dù phần lớn vụ việc là về hành vi
thương mại không lành mạnh hơn là những vụ lạm dụng độc quyền lớn.
• Kiểm soát độc quyền nhà nước: Đối với các lĩnh vực mà pháp luật cho phép độc quyền nhà nước ( như phát hành
tiền, truyền tải điện, xổ số kiến thiết, khai thác khoáng sản chiến lược...), Nhà nước thực hiện giám sát đặc biệt. Hoạt
động độc quyền nhà nước phải công khai, minh bạch chi phí và chịu kiểm toán, thanh tra định kỳ để tránh lạm dụng.
Chẳng hạn, giá điện do EVN độc quyền bán phải qua kiểm tra chi phí hàng năm bởi Bộ Công Thương 30 , sau đó báo
cáo Chính phủ và công bố công khai. Các lĩnh vực độc quyền nhà nước khác (như in tiền, an ninh quốc phòng) được
giám sát bởi cơ quan chủ quản tương ứng, tuy không thuộc cạnh tranh thương mại nhưng vẫn đảm bảo không lạm quyền.
Nhìn chung, Nhà nước đóng vai trò “trọng tài” và “người gác cổng” trên thị trường, sẵn sàng can thiệp khi có dấu hiệu vi
phạm luật chơi cạnh tranh. Mặc dù việc xử lý những hành vi độc quyền lớn còn ít được công bố rộng rãi (một phần do đa số
doanh nghiệp thống lĩnh là doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước thường dùng biện pháp hành chính nội bộ hơn là xử phạt công
khai), nhưng khung pháp lý và bộ máy thực thi đã hình thành để bảo vệ môi trường kinh doanh công bằng.
3. Chính sách thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và giảm độc quyền
Bên cạnh việc kiểm soát, trừng phạt độc quyền, Nhà nước Việt Nam cũng chú trọng các chính sách cơ cấu nhằm giảm dần sự
tập trung quá mức và tạo sân chơi cho nhiều thành phần kinh tế:
• Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN): Từ thập niên 1990 đến nay, Chính phủ thực hiện cổ phần hóa nhiều
DNNN độc quyền hoặc thống lĩnh nhằm đa dạng hóa sở hữu, tăng tính minh bạch và kỷ luật thị trường. Ví dụ: ngành
viễn thông tách MobiFone khỏi VNPT, dự kiến cổ phần hóa MobiFone; ngành hàng không thì Vietnam Airlines đã cổ
phần hóa năm 2014 (dù Nhà nước vẫn giữ ~86% cổ phần, việc có cổ đông ngoài giúp hãng chịu áp lực cạnh tranh hơn).
Tương tự, Petrolimex, PV Gas, các cảng biển, viễn thông (VNPT, MobiFone) đều nằm trong lộ trình cổ phần hóa. Mục lOMoAR cPSD| 48641284
tiêu là giảm đặc quyền bao cấp, buộc các doanh nghiệp lớn hoạt động hiệu quả và bình đẳng hơn trên thị trường chứng khoán.
• Tách bạch khâu độc quyền tự nhiên và cạnh tranh: Trong các ngành hạ tầng như điện, viễn thông, hàng không, Nhà
nước áp dụng nguyên tắc tách bạch: giữ độc quyền nhà nước ở những khâu kết cấu hạ tầng cốt lõi, đồng thời mở cửa
cạnh tranh ở các khâu dịch vụ. Chẳng hạn, truyền tải điện, điều độ hệ thống do công ty nhà nước nắm, nhưng phát
điện khuyến khích tư nhân; cơ sở hạ tầng cảng hàng không do nhà nước quản lý, nhưng dịch vụ hàng không (hãng
bay) cho tư nhân tham gia; mạng viễn thông (tần số, cột anten) nhà nước quản lý còn dịch vụ viễn thông có nhiều
doanh nghiệp tham gia. Chính sự tách bạch này giúp giảm độc quyền trọn gói, tạo cơ hội cho doanh nghiệp ngoài nhà
nước cạnh tranh ở những phần thị trường có thể cạnh tranh.
• Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân và FDI tham gia thị trường: Nhà nước những năm qua đã gỡ bỏ nhiều rào cản
gia nhập trong các ngành bán lẻ, viễn thông, hàng không... tạo điều kiện cho đối thủ mới tham gia. Ví dụ: cấp phép
cho Vietjet Air, Bamboo Airways trong hàng không; cho phép 100 % vốn nước ngoài trong bán lẻ (Ministop, 7-Eleven
vào VN, Central Group mua BigC...); khuyến khích doanh nghiệp tư nhân mở nhà máy điện (nhiệt điện BOT, điện gió
mặt trời tư nhân). Sự tham gia của các thành phần này đã tăng mức độ cạnh tranh đáng kể so với trước kia vốn chỉ
có DNNN. Trong viễn thông, dù 3 doanh nghiệp lớn đều của nhà nước, nhưng chính sách mở cửa viễn thông ( từ 2003
Viettel vào thị trường, cho phép Vietnamobile (liên doanh) năm 2008...) đã phá thế độc quyền VNPT trước đó. Khu
vực bán lẻ, cho phép FDI và tư nhân bùng nổ khiến thị trường sôi động, không còn cảnh một Tổng công ty nhà nước bao sân.
• Hội nhập quốc tế và cải cách thể chế: Tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA, RCEP) đòi
hỏi Việt Nam tuân thủ các cam kết về cạnh tranh công bằng. Điều này tạo áp lực tích cực để Nhà nước hoàn thiện
luật pháp, loại bỏ dần bao cấp và độc quyền nhà nước không cần thiết. Ví dụ: cam kết minh bạch trợ cấp DNNN,
không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp các thành phần. Nhà nước cũng thúc đẩy cải cách thủ tục kinh doanh để
giảm độc quyền xin-cho, qua đó giúp doanh nghiệp nhỏ dễ gia nhập thị trường hơn (tăng cạnh tranh).
• Tuyên truyền và bảo vệ người tiêu dùng: Chính phủ thông qua Cục Cạnh tranh & Bảo vệ người tiêu dùng (nay thuộc
UBCTQG) đẩy mạnh tuyên truyền kiến thức cạnh tranh, đường dây nóng tố cáo hành vi vi phạm. Người tiêu dùng và
doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi độc quyền có kênh phản ánh, giúp nhà quản lý sớm phát hiện vấn đề. Đồng thời, hình
thành văn hóa cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh (ví dụ hiệp hội ngành nghề tự nguyện cam kết không cartel,
doanh nghiệp lớn làm gương tuân thủ luật).
4. Những thách thức và hướng đi tới
Mặc dù khung pháp lý và nỗ lực quản lý đã có, việc kiểm soát độc quyền ở Việt Nam vẫn đối mặt thách thức. Nhiều lĩnh vực
độc quyền gắn với lợi ích kinh tế lớn, cải cách có thể diễn ra chậm do vấp phải lực cản. Chẳng hạn, việc tách bạch các tổng
công ty con của EVN để tạo cạnh tranh gặp khó khăn do lo ngại an ninh năng lượng; hay thị trường xăng dầu rất khó thả nổi
giá hoàn toàn vì ảnh hưởng ổn định vĩ mô. Hơn nữa, vai trò chủ quản của Nhà nước đối với DNNN vừa là ưu thế (dễ chỉ đạo
bình ổn giá) vừa tiềm ẩn xung đột (vừa kinh doanh vừa điều tiết). Do đó, Chính phủ cần tiếp tục cân bằng giữa mục tiêu hiệu
quả kinh tế và công bằng cạnh tranh.
Xu hướng tới năm 2025 và sau đó, Nhà nước được dự báo sẽ tiếp tục:
• Hoàn thiện văn bản hướng dẫn Luật Cạnh tranh 2018, tăng cường tiêu chí đánh giá sức mạnh thị trường, đặc biệt với
lĩnh vực kinh tế số (độc quyền nền tảng số, thương mại điện tử). 8 lOMoAR cPSD| 48641284
• Nâng cao năng lực cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, đào tạo điều tra viên và thẩm phán cạnh tranh, học hỏi thông lệ
quốc tế để xử lý các vụ việc phức tạp.
• Đẩy nhanh cải cách DNNN trong ngành độc quyền: ví dụ, tìm đối tác chiến lược cho MobiFone, cổ phần hóa VNPT; tách
bạch khâu vận hành thị trường điện độc lập hơn khỏi EVN; xem xét lại độc quyền nhập khẩu xăng dầu nếu cần thiết.
• Bảo vệ doanh nghiệp nhỏ và mới gia nhập: qua quỹ hỗ trợ, ưu đãi thuế hoặc chống phá giá nhằm giúp họ đứng vững
trước doanh nghiệp lớn, tạo môi trường cạnh tranh lâu dài.
• Chủ động phối hợp quốc tế: chia sẻ thông tin với cơ quan cạnh tranh các nước về các vụ việc xuyên biên giới (ví dụ vụ
Grab-Uber vừa qua có hợp tác ASEAN), đảm bảo không để Việt Nam thành “mảnh đất” cho hành vi độc quyền của các tập đoàn đa quốc gia. Kết luận
Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam hiện nay cho thấy bức tranh đa chiều: nhiều thị trường vẫn tập trung cao độ
vào một số ít doanh nghiệp lớn, đặc biệt trong các lĩnh vực thiết yếu như viễn thông, năng lượng, tài chính, vận tải. Điều này
phần nào phản ánh giai đoạn chuyển đổi của nền kinh tế – từ chỗ DNNN chi phối mọi ngành sang nền kinh tế thị trường với
nhiều thành phần – và quá trình đó chưa hoàn tất. Nhà nước vừa là “nhạc trưởng” định hướng cạnh tranh, vừa là “cầu thủ”
khi nắm giữ các doanh nghiệp lớn, nên việc dung hòa lợi ích và thúc đẩy cạnh tranh là bài toán không dễ.
Tuy nhiên, với khung pháp luật cạnh tranh ngày càng hoàn thiện, với việc thành lập Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia và các chính
sách mở cửa thị trường, Việt Nam đang thể hiện quyết tâm tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, hạn chế các mặt trái
của độc quyền. Vai trò của Nhà nước trong giai đoạn tới vẫn rất quan trọng: không chỉ kiểm soát, trừng phạt hành vi hạn chế
cạnh tranh, mà còn kiến tạo thị trường, hoàn thiện thể chế để cạnh tranh thực sự trở thành động lực cho phát triển kinh tế
và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Nguồn tài liệu tham khảo:
1. Dân Trí, "Bức tranh thị trường viễn thông di động tại Việt Nam", 17/03/2025 31 1 .
2. Tuổi Trẻ Online, "Nhờ đâu 4 'ông lớn' ngân hàng lãi khủng, tới gần 5 tỉ USD?", 15/01/2025 4 5 .
3. Zing News, "Vietnam Airlines và Vietjet Air nắm 85% thị phần hàng không Việt", 07/07/2024 7 17 .
4. Tuổi Trẻ Online, "Petrolimex 6 tháng lãi vượt chỉ tiêu cả năm, PV Oil lãi 'khiêm tốn' hơn", 02/09/2024 3 .
5. Tạp chí Thương Gia (baomoi.com), "Cuộc so găng trên thị trường bán lẻ", 2023 6 .
6. Thư viện Pháp luật, "Doanh nghiệp nào được xem là có vị trí độc quyền, thống lĩnh thị trường?", 2022 18 19 .
7. Báo Pháp luật VN, "Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia chính thức hoạt động từ 1/12", 30/11/2022 24 .
8. Tạp chí Công Thương, "Hàng loạt doanh nghiệp bị nêu tên vì có dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh", 30/09/2024 28 .
9. Trade.gov (Bộ Thương mại Hoa Kỳ), "Vietnam - Power Generation, Transmission, and Distribution", 30/01/2024 2 . 1 8
9 10 31 Bức tranh thị trường viễn thông di động tại Việt Nam | Báo Dân trí
https://dantri.com.vn/cong-nghe/buc-tranh-thi-truong-vien-thong-di-dong-tai-viet-nam-20250317190620637.htm 2
Vietnam - Power Generation, Transmission, and Distribution https://www.trade.gov/country-commercial-guides/vietnam-power-
generation-transmission-and-distribution 3
Petrolimex 6 tháng lãi vượt chỉ tiêu cả năm, PV Oil lãi 'khiêm tốn' hơn - Tuổi Trẻ Online https://tuoitre.vn/petrolimex-6-
thang-lai-vuot-chi-tieu-ca-nam-pv-oil-lai-khiem-ton-hon-20240902100633258.htm lOMoAR cPSD| 48641284 4
5 14 Nhờ đâu 4 'ông lớn' ngân hàng lãi khủng, tới gần 5 tỉ USD? - Tuổi Trẻ Online https://tuoitre.vn/nho-dau-4-ong-lon-ngan-
hang-lai-khung-toi-gan-5-ti-usd-20250115185524366.htm 6
Cuộc 'so găng' trên thị trường bán lẻ - Tạp chí Thương Gia https://baomoi.com/cuoc-so-gang-tren-thi-truong-ban-le- c51238549.epi 7
16 17 Vietnam Airlines và Vietjet Air nắm 85% thị phần hàng không Việt - Hàng không - ZNEWS.VN
https://znews.vn/vietnam-airlines-va-vietjet-air-nam-85-thi-phan-hang-khong-viet-post1484935.html 11
EVN báo lỗ hơn 21.800 tỷ đồng trong năm 2023 - Thị trường tài chính https://thitruongtaichinh.kinhtedothi.vn/tai-chinh/evn-
bao-lo-hon-21800-ty-dong-trong-nam-2023-127989.html 12
Lawmakers discuss anti-monopoly aspects of Electricity Law
https://vir.com.vn/lawmakers-discuss-anti-monopoly-aspects-of-electricity-law-114094.html 13
'Các ngân hàng tư nhân đang được nhóm Big4 nhường thị phần tín ... https://stockbiz.vn/tin-tuc/cac-ngan-hang-tu-nhan-dang-
duoc-nhom-big4-nhuong-thi-phan-tin-dung/25502230
15 Bắc có Winmart, Nam có Bách Hoá Xanh, cuộc đấu ngành bán lẻ ... https://cafef.vn/bac-co-winmart-nam-co-bach-hoa-xanh-cuoc-dau-
nganh-ban-le-ngay-cang-gay-can-188241015111421804.chn
18 19 20 21 22 23 Doanh nghiệp nào được xem là có vị trí độc quyền, thống lĩnh thị trường?
https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-moi/vn/ho-tro-phap-luat/tu-van-phap-luat/43379/doanh-nghiep-nao-duoc-xemla-co-vi-tri-doc- quyen-thong-linh-thi-truong
24 25 26 Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia chính thức hoạt động từ 1/12 | Báo Pháp luật Việt Nam điện tử
https://baophapluat.vn/uy-ban-canh-tranh-quoc-gia-chinh-thuc-hoat-dong-tu-112-post460114.html 27
Vụ Grab mua Uber: Không vi phạm Luật Cạnh tranh - Báo Nhân Dân
https://nhandan.vn/vu-grab-mua-uber-khong-vi-pham-luat-canh-tranh-post362174.html 28
29 Hàng loạt doanh nghiệp bị nêu tên vì có dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh https://tapchicongthuong.vn/hang-loat-
doanh-nghiep-bi-neu-ten-vi-co-dau-hieu-canh-tranh-khong-lanh-manh-127402.htm
30 Kết quả kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2023 của ...
https://moit.gov.vn/tin-tuc/thong-bao/ket-qua-kiem-tra-chi-phi-san-xuat-kinh-doanh-dien-nam-2023-cua-tap-doan-dien-luc-vietnam2.html 10