Thực trạng hành vi tự sát ở trẻ em và thanh thiếu niên hiện nay | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ đối với hành vi tự sát ở cấp độ cá nhân. Các yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ đối với hành vi tự tử ở cấp độ gia đình. Các yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ ở cấp độ trường học. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÃ HỘI HỌC VÀ PHÁT TRIỂN
------------------------- BÀI TẬP LỚN
MÔN: XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƢƠNG ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG HÀNH VI TỰ SÁT Ở TRẺ EM VÀ THANH
THIẾU NIÊN HIỆN NAY
Giảng viên hƣớng dẫn: BÙI THU HƢƠNG
Sinh viên: VÕ QUẾ ANH
Lớp tín chỉ: K41.1
Lớp hành chính: LỊCH SỬ ĐẢNG K41
Hà Nội, tháng 5 n m ă 2022 MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU .................................................................................................... .1
1. TÊN ĐỀ TÀI ....................................................................................... 1
2. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI ........................................................... .1
3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VÀ VẤN ĐỀ LỰA CHỌN NGHIÊN
CỨU ........................................................................................................ 2
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ................................... 3
5. ĐỐI TƢỢNG, KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .......... 3
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................... 3
7. CÂU HỎI THU THẬP THÔNG TIN ................................................ 4
B. NỘI DUNG ................................................................................................ 10
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HIỆN TẠI CỦA VẤN ĐỀ ...... 10
CHƢƠNG II. YẾU TỐ NGUY CƠ VÀ YẾU TỐ BẢO VỆ ĐỐI VỚI CÁC
CẤP ĐỘ KHÁC NHAU CỦA HÀNH VI TỰ SÁT .................................... 12
2.1. Yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ đối với hành vi tự sát ở cấp độ cá
nhân ....................................................................................................... 12
2.2. Các yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ đối với hành vi tự tử ở cấp độ
gia đình .................................................................................................. 12
2.3. Các yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ ở cấp độ trƣờng học ............ 13
CHƢƠNG III. CÁC NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN ĐẶC ĐIỂM CỦA
HÀNH VI TỰ TỬ .......................................................................................... 14
3.1. Đặc điểm của nạn nhân các vụ tự tử và tự tử không thành .......... .14
3.2. Nguyên nhân dẫn đến suy nghĩ và hành vi tự tử ........................... 15
3.3. Hạn chế của hệ thống dịch vụ y tế trong việc phòng chống tự tử . 16
3.4. Kết luận – Những nguyên nhân khác ........................................... .17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 19 A. MỞ ĐẦU 1. TÊN ĐỀ TÀI
Thực trạng hành vi tự sát ở trẻ em và thanh thiếu niên Việt Nam hiện nay
2. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
Tự sát hay hay tự tử là hành động của một ngƣời cố ý gây ra cái cái chết cho chính
mình. Có rất nhiều những lý do, quan niệm và phân loại hành vi tự sát, tuy nhiên,
trong bài nghiên cứu này, tác giả sẽ chỉ tập trung vào thực trạng tự sát của thanh –
thiếu niên Việt Nam hiện nay.
Thời gian gần đây, với điểm mốc vô cùng nhạy cảm là các kỳ thi chuyển cấp, xã hội
rúng động với các vụ tự sát của thanh thiếu niên – trẻ em, đều trong độ tuổi mới lớn
xảy ra liên tiếp. Mặc dù vấn đề tự sát trong giới trẻ mới chỉ đƣợc cập nhật liên tục
trong thời gian gần đây, khi những vụ tự tử xảy ra trong những thời điểm gần nhau
và đƣợc các sản phẩm nghệ thuật có sự tiếp cận với công chúng sử dụng nhƣ một
chất liệu sáng tác và truyền tải trong cộng đồng, nhƣng vấn đề này đã và đang xảy
ra trong một thời gian dài. Tự sát, đặc biệt là tự sát trong giới trẻ, chỉ dần đƣợc quan
tâm một cách đúng đắn khi xuất hiện những cộng đồng nổi tiếng của những ngƣời
trẻ (nhƣ Đài Tiếng Nói Gen Z, dàn Hội … Việt Nam, những fanpage/group/blog tập
trung nhiều ngƣời trẻ) công khai nói về vấn đề sức khỏe tâm thần (mental health)
hay thậm chí là hành vi tự hại, dƣới góc nhìn của ngƣời thật sự đã trải qua những
chấn thƣơng đó, bằng content (cách lên bài) hài hƣớc hoặc nghiêm túc. Có thể thấy
cộng đồng thế hệ cũ đã dần không coi việc tự sát là một hành vi đáng chỉ trích hay
dại dột của lớp trẻ, và những hành động thiết thực đƣợc nhiều cơ quan thông tin –
truyền thông kêu gọi để giúp ngƣời trẻ - đặc biệt là ngƣời trẻ là trẻ em, thanh – thiếu
niên đang trong độ tuổi nhạy cảm – cảm thấy an toàn, hạnh phúc và khỏe mạnh về
mặt sức khỏe tâm lý. Dựa theo những vụ việc tự sát xảy ra gần đây, với chung một
lý do là áp lực học tập, vấn đề bệnh thành tích và kỳ vọng ƣu việt của phụ huynh
học sinh đang dần đƣợc thay đổi. Tuy nhiên, áp lực học tập có phải là lý do duy
nhất dẫn đến những hành vi đau lòng này hay không? Ngoài sự kỳ vọng, phụ
huynh, xã hội còn cần phải điều tiết những gì? Hay có thể nói, thế hệ trẻ, thế hệ 1
thanh thiếu niên còn đang bƣớc đến bờ vực bởi những lý do nào nữa? Bài nghiên
cứu sau đây xin phép đƣợc nêu lên thực trạng tự sát của trẻ em và thanh thiếu niên
Việt Nam hiện nay, từ đó phần nào thay đổi nhận thức, thái độ của ngƣời thân và xã
hội đối với những ngƣời trẻ đã tự sát và có ý định tự sát, góp phần tạo ra một môi
trƣờng nơi thế hệ trẻ có thể lớn lên với một tâm lý khỏe mạnh hơn.
3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VÀ VẤN ĐỀ LỰA CHỌN NGHIÊN CỨU
Hành vi tự sát – đặc biệt là tự sát ở trẻ em và thanh thiếu niên – đã và đang là một
vấn đề đƣợc coi trọng đặc biệt ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đã có rất nhiều
nghiên cứu chi tiết và cụ thể, những báo cáo tỉ mỉ về tỉ lệ tự sát, thống kê tự sát,
nguyên nhân tự sát, hay những bài báo chi tiết tỉ mỉ từ nguyên nhân tới cung cách tự
sát của các nạn nhân cụ thể, có thể lấy ngay ví dụ trong ba vụ học sinh tự sát liên
tiếp gần đây. Những nghiên cứu, bài báo, thống kê trên đã góp phần không nhỏ
trong việc định hình cơ bản tâm lý của trẻ em, thanh thiếu niên Việt Nam khi đang
trong trạng thái bất ổn về mặt tâm lý; giúp ngƣời thân, xã hội có cái nhìn đúng đắn
hơn về các triệu chứng tâm lý nói chung và hành vi tự sát trong giới trẻ nói riêng,
bao dung và thấu hiểu hơn với những nạn nhân trẻ tuổi tự sát.
Những nghiên cứu trên đã gợi ý cho tác giả - với tƣ cách là một ngƣời trẻ từng có
hành vi tự hại (có thể coi là tập hợp mẹ của hành vi tự sát) – về việc viết nên một
bài thực trạng, bản chất của hành vi tự sát hiện nay của trẻ em và thanh thiếu niên
Việt Nam hiện nay. Những nghiên cứu có rất nhiều, nên tác giả xin phép chỉ trích
dẫn dƣới đây những bài viết tiêu biểu, phù hợp nhất với đề tài.
- GIỚI TRẺ NGÀY NAY ĐANG ĐỐI MẶT VỚI QUÁ NHIỀU SỰ CĂNG THẲNG? của Youth+
- Tổng Quan Về Hành Vi Tự Sát của InPsychOut
- S i u c a iều tra qu c gia về v thành ni n và thanh ni n Vi t Na n th
do Bộ Y tế T ng cục Thống ê WHO t chức
- Trung tâm phòng chống hủng hoảng tâm lý (PCP)
- Danh sách qu c gia theo tỷ tự sát, với dữ liệu của T chức Y tế Thế giới (WHO) 2
- Và các bài báo liên quan đến sự việc nhảy lầu liên tiếp của học sinh thời gian gần đây.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ thực trạng hành vi tự sát trong lớp trẻ: trẻ em và thanh thiếu niên tại Việt Nam hiện nay
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Chỉ rõ chi tiết những nguyên nhân chính dẫn đến hành vi tự sát trong trẻ em và
thanh thiếu niên Việt Nam hiện nay
- Cơ bản chỉ ra sự tác động của những nguyên nhân trên tới tâm lý giới trẻ
- Đƣa ra những biện pháp khái quát hạn chế những tác động tiêu cực ảnh hƣởng tới
sức khỏe tâm lý của giới trẻ
5. ĐỐI TƢỢNG KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1 Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng hành vi tự sát của trẻ em và thanh thiếu niên Việt Nam hiện nay
5.2. Khách thể nghiên cứu
- Giới trẻ Việt Nam hiện nay: gồm trẻ em và thanh thiếu niên
5.3. Phạm vi nghiên cứu
Trẻ em và thanh thiếu niên có độ tuổi dƣới 18 tuổi sinh sống và làm việc – học tập trên lãnh thổ Việt Nam
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp thu thập thông tin:
-Phƣơng pháp khảo sát, trƣng cầu ý kiến (Anket) -Phƣơng pháp phỏng vấn
-Phƣơng pháp thảo luận nhóm
-Phƣơng pháp sƣu tầm và nghiên cứu tài liệu -Phƣơng pháp quan sát
-Phƣơng pháp thực nghiệm xã hội
6.2. Phương pháp nghiên cứu:
-Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu
-Phƣơng pháp nghiên cứu đàm thoại 3
-Phƣơng pháp luận xã hội học
6.3. Số lượng mẫu và cách thức chọn mẫu:
- Chọn mẫu 150 thanh niên – thiếu niên có độ tuổi từ 14 – 18 tuổi, đang sinh sống
và làm việc/học tập tại lãnh thổ Việt Nam.
- Phỏng vấn trực tiếp từ 15 đến 20 trẻ em, có độ tuổi từ 7 – 16 tuổi, đang sinh sống tại lãnh thổ Việt Nam.
- Phỏng vấn trực tiếp từ 15 - 20 ngƣời giám hộ/cha mẹ của hai đối tƣợng chính đƣợc nêu trên.
- Thông tin sẽ đƣợc thu thập qua bảng câu hỏi trả lời qua mạng và hình thức phỏng vấn trực tiếp.
7. CÂU HỎI THU THẬP THÔNG TIN
7.1. Câu hỏi thu thập thông tin qua form Internet
Mục đích: Thu thập thông tin, số liệu phục vụ nghiên cứu
Số mẫu: 150 mẫu gồm các thanh – thiếu niên
Form sẽ có số thứ tự, tên, tuổi, địa chỉ/nơi làm việc, và không bắt buộc phải điền
chính xác hoặc điền đầy đủ.
Mục điền bắt buộc của form bao gồm:
7.1.1. Thang đo hả năng tự sát
Thang đo mức độ trầm cảm gồm 9 điểm:
1. Mình vui quá trời luôn, mình sẽ vỡ òa nếu nhƣ niềm vui này cứ tiếp tục ấy!
2. Mình đang phấn khởi, thỉnh thoảng nghĩ về những chuyện không vui nhƣng nỗi
buồn đó dƣờng nhƣ bay biến hết rồi. Mọi chuyện đang dần tốt lên.
3. Đây không phải ngày tuyệt nhất cuộc đời mình. Mình có một số chuyện lặt vặt
nhƣng mình không nghĩ đến tự tử đâu. Trừ lúc mà thằng bạn ẩm ƣơng bỗng dƣng
đƣa ra những giả thuyết ngu ngốc. 4
4. Việc tự sát không xuất hiện trong tâm trí mình trừ những lúc bị stress hoặc lo
lắng tột độ. Nó giống nhƣ một lối thoát mà não mình tạo ra để thoát ra khỏi những
cơn stress, nhƣng không nghiêm trọng, chỉ đùa thôi!
5. Cái joke này nhạt rồi, ý nghĩ về tự sát và mấy cái linh tinh cứ hiện lên ấy. Nhƣng
mình đang muốn làm chuyện khác cơ, tự tử hơi xâm chiếm mình rồi.
6. Mình nghĩ về tự tử rất nhiều, việc này cản trở cuộc sống của mình. Mình sẽ cố để
không bận tâm đến nó. Cơ mà, nhỡ có tai nạn xảy đến với mình thì mình sẽ không
tránh đâu. Mình tự tử một cách thụ động.
7. Mình không thể ngƣng nghĩ về tự tử và cũng không thể phân tán nó ra khỏi tâm
trí. Mình có thể sẽ làm chuyện dại dột nhƣ uống rƣợu lái xe. Mình đã chuyển từ tự
tử thụ động sang muốn chết. Mình cần có sự giúp đỡ.
8. Mình không cố chống lại những ý nghĩa quẩn đó nữa mà cứ để nó thoải mái lấn
chiếm tâm hồn. Mình thậm chí còn muốn lên kế hoạch để tự tử nhƣng mình cũng
đang cố ngăn cản bản thân.
Mình đang cố để không hành động. Mình ở một mình nên thật không an toàn, mình
sẽ giết bản thân mất. Mình cần gọi cho ai đó!
9. Mình đang lên kế hoạch kết liễu cuộc đời. Mình chào vĩnh biệt mọi ngƣời, xóa
các tài khoản và viết thƣ giã biệt. Mình rất muốn tự tử, mình cần nói chuyện với ai
Từ 1 - 5: Bạn vẫn ổn, dù những điểm số cao bạn vẫn đôi khi lo lắng, stress.
Từ 6 - 9: Bạn luôn nghĩ tới tự tử và tuyệt vọng tới mức muốn tự giết mình. Hãy tìm sự trợ giúp ngay nhé! đó. 5
7.1.2. Bảng câu hỏi đánh giá mức độ trầm cảm và rối loạn lo âu 6
7.1.3. Xác định nguyên nhân chính cho vấn đề tâm lý
Xác định nguyên nhân cơ bản tạo thành suy nghĩ/hành vi tự sát trong giới trẻ, đặc
biệt là trẻ em và thế hệ thanh – thiếu niên Việt Nam ngày nay tại mục B.NỘI
DUNG. Tạo thành một bảng câu hỏi lựa chọn đa đáp án (có thể lựa chọn nhiều hơn
1 nguyên nhân và bổ sung nguyên nhân khác) và lựa chọn mức độ ảnh hƣởng của
nguyên nhân hình thành suy nghĩ/hành vi tự sát của bản thân (nếu có).
STT Câu hỏi liên quan đến nguyên nhân chủ yếu tạo nên suy nghĩ/hành vi tự sát 1
Bạn đã bao giờ có suy nghĩ/hành vi tự sát chƣa? 2
Nếu có, điều đó cấu thành từ nguyên nhân nào trong ba nguyên nhân dƣới đây 3
(Những) nguyên nhân đó chiếm bao nhiêu % trong việc hình thành suy
nghĩ/hành vi tự sát của bạn? 4
Bạn có lý do nào khác cấu thành suy nghĩ/hành vi tự sát của mình không?
7.2. Bộ câu hỏi phỏng vấn tiêu chuẩn hóa:
Mục đích: nhằm thu thập có thông tin mang tính cá thể hóa phục vụ nghiên cứu
Tiến hành: do phỏng vấn đối tƣợng là trẻ em và phụ huynh/ngƣời giám hộ, câu hỏi
sẽ đƣợc tinh giản hóa và tập trung vào các vấn đề: - Nỗi buồn
- Sự không thoải mái trong một/một vài môi trƣờng có dấu hiệu đặc thù
- Suy nghĩ nhƣ thế nào về vấn đề tự hại?
- Đã bao giờ cảm thấy ngƣời thân/bản thân có suy nghĩ/hành vi tự hại/tự sát chƣa?
7.2.1. Bộ câu hỏi phỏng vấn tiêu chuẩn hóa dành cho đối tƣợng là trẻ em
Xin chào em, em có thể vui lòng trả lời một số câu hỏi của anh/chị không? 7 1
Em đã bao giờ cảm thấy đặc biệt buồn chƣa? 2
Điều gì đã khiến em buồn nhƣ vậy? 3
Điều đó có đƣợc giải quyết một cách thỏa đáng với em hay không? Em có
còn cảm thấy buồn bã khi nhớ lại điều đó hay không? Em có đang phải trải
qua điều đó lần nữa không? 4
(đối với đối tƣợng phỏng vấn 14 – 16 tuổi) Em có biết đến những bạn nhỏ
cùng tuổi phản ứng với nỗi buồn bằng cách tự tử không? Em có suy nghĩ
nhƣ thế nào về suy nghĩ/hành vi của các bạn đó?
Xin cảm ơn em đã đồng ý tham gia phỏng vấn!
7.2.2. Bộ câu hỏi phỏng vấn tiêu chuẩn hóa dành cho đối tƣợng là phụ
huynh/ngƣời giám hộ
Chào anh/chị, được biết anh/chị là phụ huynh/người giám hộ của trẻ em – thanh
thiếu niên có độ tuổi từ 7 – 16 tuổi. Đây là một độ tuổi nhạy cảm về tâm – sinh lý.
Anh/chị có thể vui lòng trả lời một số câu hỏi phỏng vấn này không? 1
Anh/chị cảm thấy bé nhà mình nhƣ thế nào? Có những thay đổi gì của bé
trƣớc và sau khi bƣớc vào tuổi dậy thì? 2
Anh/chị đã bao giờ thấy bé có biểu hiện đặc biệt tiêu cực hay chƣa? Điều đó
xảy ra vào lúc nào? Điều đó có diễn ra them lần nào nữa không? 3
Anh/chị cảm thấy đâu là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến biểu hiện tiêu cực đó
của bé? Anh/chị nghĩ nguyên nhân diễn ra điều đó xuất phát từ bé, từ
anh/chị hay môi trƣờng xung quanh? 4
Thời gian gần đây rộ lên những tin tức về trẻ em – thanh thiếu niên có suy
nghĩ/hành vi tự sát, anh/chị nghĩ sao về điều này? 5
Anh/chị nghĩ điều đó có thể xảy ra với ngƣời thân của mình không? 6
Anh/chị có nghĩ mình nên thay đổi/có thể thay đổi điều gì để có thể giúp
ngƣời thân của mình hình thành sức khỏe tâm lý lành mạnh hay không? 8
Cảm ơn anh/chị đã tham gia buổi phỏng vấn này!
7.3. Tiến hành phỏng vấn các chuyên gia nhà nghiên cứu liên quan đến đề tài STT
Bộ câu hỏi tiến hành phỏng vấn chuyên gia về vấn đề tự sát trong giới trẻ 1
Anh/chị hãy cho biết bản chất của suy nghĩ/hành vi tự sát trong giới trẻ hiện
nay? Đặc biệt là sự trẻ hóa của nạn nhân, khi những nạn nhân gần đây có độ
tuổi dao động từ 12 – 16 tuổi? 2
Anh/chị hãy cho biết những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến suy nghĩ/hành vi
tự sát gia tăng trong giới trẻ hiện nay? Trong bối cảnh trƣớc và sau giãn cách
xã hội, những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến suy nghĩ/hành vi tự sát có sự
thay đổi nhƣ thế nào? Trong bối cảnh sống thành thị và nông thôn, có sự
khác biệt nào trong những nguyên nhân dẫn đến suy nghĩ/hành vi tự sát trong
trẻ em và thanh thiếu niên hay không? 3
Sự lãng mạn hóa hành vi tự sát trong sản phẩm nghệ thuật đại chúng và
những sự việc tự sát đƣợc đƣa tin rầm rộ có khả năng trở thành một trong
những nguyên nhân gây ra sự gia tăng tỉ lệ tự sát hay không? Có hay không
nên việc siết chặt quản lý không gian mạng và những thông tin đăng tải trên
mạng và điều đó có thể giảm thiểu tỉ lệ tự sát trong trẻ em và thanh thiếu niên hay không?
Cảm ơn anh/chị đã tham gia cuộc phỏng vấn này! 9 B. NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HIỆN TẠI CỦA VẤN ĐỀ
“Hàng năm, trên thế giới có trên 800.000 ngƣời chết vì tự tử, và con số dự định tự
tử còn cao hơn thế. Các nƣớc thu nhập thấp và trung bình (LMICS) đặc biệt có
nguy cơ về tự tử chiếm 75% số vụ tự tử trên toàn cầu năm 2012, trong đó các nƣớc
thu nhập thấp và trung bình ở khu vực Đông Nam Á chiếm t lệ cao nhất, gần 40%
tổng số vụ tự tử (WHO, 2016). Mặc dù xảy ra ở tất cả độ tuổi, tự tử là nguyên nhân
gây tử vong thứ hai đối với nhóm tuổi từ 15 đến 29 trên thế giới trong năm 2012
(sau tai nạn giao thông). Khi so sánh với khu vực Đông Nam Á cũng nhƣ Tây Thái
Bình Dƣơng, t lệ tự tử ở Việt Nam là t lệ thấp (5 vụ trên 100.000 ngƣời, số liệu
năm 2012), và giảm so với năm 2000 (5,7 vụ). T lệ trẻ vị thành niên tự tử ở Việt
Nam cũng tƣơng đối thấp so với các nƣớc trong khu vực. Vào năm 2012, Blum et al
đã tiến hành nghiên cứu trên 17.000 trẻ vị thành niên và thanh thiếu niên; kết quả
cho thấy t lệ có ý định tự tử trong vòng 12 tháng so với thời điểm nghiên cứu là
2,3% tại Hà Nội, thấp nhất trong mẫu nghiên cứu (so với 8,1% tại Thƣợng Hải và
17% tại Đài Bắc). Tƣơng tự, ít hơn 1% thanh thiếu niên Việt Nam có hành vi tự sát,
trong khi con số này ở Thƣợng Hải là 1,3% và Đài Bắc là 6,9%. Báo cáo SAVY I
cũng đƣa ra t lệ tự tử nói chung ở mức thấp - khoảng 3,4% số ngƣời đƣợc hỏi cho
biết có ý định tự tử trong năm 2003 (BYT, 2005). T lệ này có tăng lên trong điều
tra SAVY II – 4,1% số ngƣời trong độ tuổi 14–25 cho biết họ có ý định tự tử (BYT
và ồng tác giả, 2010).”
“Cho dù t lệ thấp nhƣ thế, quan ngại ngày càng tăng rằng tự tử ở Việt Nam bắt đầu
có chiều hƣớng gia tăng và cần phải có những hành động thích hợp để đối phó với
vấn đề này. Tƣơng tự, thời gian qua xuất hiện bằng chứng về t lệ tự tử trong nhóm
thanh thiếu niên có thể gia tang, đơn cử nhƣ sự việc học sinh nhảy lầu liên hoàn vào
cuối tháng 3 – đầu tháng 4 năm 2022, do đó tìm hiểu thấu đáo nguyên nhân và
những yếu tố thúc đẩy hành vi này là cần thiết. Báo cáo tóm lƣợc này dựa trên một
nghiên cứu quy mô rộng hơn về tình trạng sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội của
trẻ em và thanh thiếu niên Việt Nam. Mục đích của báo cáo tóm tắt này nhằm nêu 10
bật những kết quả nghiên cứu liên quan đến tự tử. Trƣớc hết, dựa trên các dữ liệu
thứ cấp, tác giả phân tích các yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ ở những cấp độ khác
nhau. Sau đó, từ các dữ liệu sơ cấp đã thu thập đƣợc thực hiện tại hai trung tâm
thành thị là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh, và một số khu vực ngoại thành
và nông thôn của tỉnh Điện Biên và An Giang , báo cáo sẽ phân tích đặc điểm của
các nạn nhân các vụ tự tử và tự tử không thành, cũng nhƣ nhận định về nguyên nhân
đằng sau hành vi này. Cuối cùng, kết thúc bản báo cáo là một số khuyến nghị về
chƣơng trình và chính sách đối với vấn đề này.” 11
CHƢƠNG II. YẾU TỐ NGUY CƠ VÀ YẾU TỐ BẢO VỆ
ĐỐI VỚI CÁC CẤP ĐỘ KHÁC NHAU CỦA HÀNH VI TỰ SÁT
2.1. Yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ đối với hành vi tự sát ở cấp độ cá nhân
Là nữ giới, sống ở đô thị, người nhập cư, và trẻ tuổi đều là những yếu tố nguy cơ
đối với hành vi tự tử.
Trong một số nghiên cứu, nữ giới có ý định tự tử cao gần nhƣ gấp đôi nam giới (Blum et al. Hương Thanh et al , 2012; , 2009;
., 2005; BYT, 2005; BYT và các tổ
ch c khác, 2010). Chẳng hạn, theo kết quả điều tra SAVY II (BYT, 2010), t lệ
thanh thiếu niên có ý nghĩ tự tử ở thành thị cao hơn so với khu vực nông thôn (5,4%
so với 3,6%), và cũng cao hơn trong các nhóm tuổi trẻ hơn. Ngoài ra, nhóm tuổi 18-
21 báo cáo có ý nghĩ tự tử cao nhất (4,4% trong tổng số thanh niên tuổi từ 18-21),
tiếp đó là nhóm tuổi trẻ nhất (4,1% trong tổng số trẻ 14-17 tuổi), rồi đến nhóm tuổi
lớn nhất (3,8% số thanh niên tuổi từ 22-25) (BYT, 2010). Liên quan đến nhóm
ngƣời nhập cƣ, một nghiên cứu chỉ ra rằng ngƣời nhập cƣ tại Hà Nội có nguy cơ
đặc biệt về ý nghĩ tự tử; những ngƣời di cƣ từ nông thôn lên thành thị có ý nghĩ tự
tử cao gần gấp đôi so với ngƣời thành thị gốc, và nguy cơ này ở nhóm ngƣời di cƣ
từ thành thị đến thành thị cao gấp 6,45 lần so với ngƣời thành thị gốc.
Ý nghĩ về tự tử cũng liên quan đến các rối loạn cảm xúc và lạm dụng chất kích
thích. Các nghiên cứu đã chỉ ra cách thức trầm cảm, lo âu, các cảm xúc buồn bã và
vô vọng, cũng trong nhóm trẻ em và thanh thiếu niên, liên quan đến ý định tự tử và
thực hiện hành vi tự tử. T
ƣơng tự, các nghiên cứu cho thấy việc sử dụng rƣợu bia và
thuốc lá cũng là các yếu tố nguy cơ dẫn đến tự tử; những ngƣời nói có sử dụng các
chất này cũng có khả năng nghĩ đến tự tử nhiều hơn.
2.2. Các yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ đối với hành vi tự tử ở cấp độ gia đình
Mô hình gia đình, tiền sử về tự tử trong gia đình (những cá nhân trong gia đình có
ngƣời từng tìm cách tự tử, có ý định tự tử cao gấp 2,41 lần so với những ngƣời
thuộc gia đình không có tiền sử này), địa vị kinh tế-xã hội của gia đình và mức độ
gắn kết giữa các thành viên trong gia đình đƣợc xác định là các yếu tố nguy cơ đối
với thanh thiếu niên tại Việt Nam. Nhiều nghiên cứu cho thấy việc con cái sống 12
tách riêng cha mẹ đƣợc xem là có tính bảo vệ trƣớc hành vi tự tử, nghĩa là phần lớn
các đối tƣợng tìm cách tự tử có sống chung với thành viên gia đình hoặc với ngƣời
khác. Đây là một phát hiện thú vị và ngƣợc với cảm nhận thông thƣờng là cha mẹ
thƣờng đƣợc xem là chỗ dựa cho con cái. Điều này có thể là kết quả của việc cha
mẹ kỳ vọng quá nhiều vào con trong việc học tập, dẫn đến nhiều mâu thuẫn hơn
giữa con cái và cha mẹ. Trình độ học vấn và nghề nghiệp của cha mẹ cũng đƣợc
xem là có liên quan đến hành vi tự tử của con cái. Các nghiên cứu chỉ ra rằng phần
lớn thanh thiếu niên có ý nghĩ tự tử sống trong các gia đình mà cha mẹ có trình độ
học vấn thấp và làm các công việc lao động thủ công. S
ự gắn bó giữa các thành viên
trong gia đình cũng là một yếu tố bảo vệ trƣớc hành động tự tử. Gắn bó giữa cha và
con có tác dụng bảo vệ giúp hạn chế khả năng nghĩ đến tự tử của thanh thiếu niên
(Phƣơng et al., 2013); tƣơng tự, khi điểm số về chất lƣợng mối quan hệ giữa cha và
mẹ cao, khả năng nghĩ đến chuyện tự tử cũng giảm 5%. Ngƣợc lại, phần lớn số
thanh thiếu niên đã từng tìm cách tự tử đề cập đến những nguyên nhân nhƣ mâu
thuẫn trong gia đình và thiếu hòa hợp với cha mẹ.
2.3. Các yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ ở cấp độ trƣờng học
Áp lực học hành, quan hệ tình cảm, bạo lực học đƣờng, sự gắn bó với trƣờng và vị
trí trƣờng học đều là những yếu tố nguy cơ đối với việc hình thành ý nghĩ tự tử ở
trẻ. Do môi trƣờng học tập ganh đua căng thẳng, trẻ em chịu nhiều áp lực về thành
tích từ phía thầy cô, cha mẹ và bạn đồng lứa. Hơn nữa, với mong muốn con cái tập
trung vào thành tích học tập, nhiều bậc cha mẹ cấm đoán con về chuyện tình cảm;
điều này càng khiến trẻ thêm phần ức chế. Trong khi việc bị bắt nạt ở trƣờng học
đƣợc xem là có liên quan đến ý nghĩ tự tử, sự gắn bó với trƣờng học là yếu tố có tác
dụng bảo vệ trẻ trƣớc nguy cơ này. Cuối cùng, kết quả từ một số nghiên cứu cho
thấy những trƣờng học nằm trong khu vực nội thị thƣờng có t lệ học sinh có ý định
tự tử cao hơn, ở cả nhóm trẻ em trai và gái; điều này đƣợc phát hiện thấy ở cả Việt
Nam và các môi trƣờng khác ở Châu Á, chẳng hạn nhƣ Trung Quốc và Malaysia. 13
CHƢƠNG III. CÁC NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN
ĐẶC ĐIỂM CỦA HÀNH VI TỰ TỬ
3.1. Đặc điểm của nạn nhân các vụ tự tử và tự tử hông thành
Trong phần này, nội dung sẽ đƣợc tập trung vào việc phân tích những đặc điểm
chung nhất của các nạn nhân trong những vụ việc tự tử và tự tử không thành.
Theo quan niệm đa số, thƣờng gặp ở cả các em trai và em gái cũng nhƣ những
ngƣời cung cấp thông tin chính là, những ngƣời tự tử hoặc từng tìm cách tự tử chủ
yếu là những ngƣời trẻ tuổi, đặc biệt là các em gái, do tâm lý các em gái thƣờng
nhạy cảm hơn, còn các em trai sẽ dễ bình tĩnh hơn.
Tƣơng tự, một ngƣời cung cấp thông tin chính tại Điện Biên cho rằng “các cháu
thanh ni n chiế tỷ nhiều hơn vì có thể chúng dễ âu thuẫn bạn bè ồng a.
Và tập trung nữ nhiều hơn”. Các em trai khác cũng bổ sung thêm rằng các em gái
thƣờng có khả năng tìm đến tự tử hơn “do suy nghĩ nông cạn, do vùng sâu n n ít
khi tiếp xúc xã hội”. Cũng tƣơng tự nhƣ kết quả phân tích tài liệu có sẵn, những
ngƣời tham gia nghiên cứu cũng cho rằng khó khăn về kinh tế-xã hội có liên quan
đến việc trẻ em tự tử. Một em trai vị thành niên ở An Giang cho rằng “Đa s những
bạn tự tử và nghi n chất thì ại tập trung những bạn gia ình nghèo”. Tuy nhiên,
khác với kết quả phân tích tài liệu thứ cấp, một số ngƣời lại quan niệm rằng những
ngƣời sống ở đô thị “hiểu biết hơn” những ngƣời sống ở nông thôn, do vậy họ
thƣờng ít tìm cách tự tử hơn.
Nói nhƣ vậy không có nghĩa là ngƣời sống ở đô thị có khả năng tự sát ít hơn ngƣời
ở nông thôn, đặc biệt là trong thời gian gần đây, 2/3 vụ học sinh nhảy lầu đều sinh
sống và học tập tại Hà Nội. Có thể coi nhƣ thông tin về ngƣời tự sát ở đô thị phổ
biến hơn do vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng và điều kiện tiếp nhận thông tin tại
địa phƣơng, nhƣng giới trẻ đô thị cũng có những nguyên nhân nảy sinh ý nghĩ tự sát
tƣơng đồng với cùng thế hệ ở nông thôn, chƣa kể còn những áp lực đặc trƣng của vùng đô thị. 14
3.2. Nguyên nhân dẫn đến suy nghĩ và hành vi tự tử
“Theo những bài phỏng vấn trƣớc đó, nguyên nhân của việc hình thành ý nghĩ tự tử
và hành vi tự tử, chủ yếu ảnh hƣởng đến các em gái, bao gồm: thất bại trong
chuyện tình cảm, chẳng hạn nhƣ bị bỏ rơi – thƣờng là bị bạn trai bỏ rơi; các vấn
đề ở trƣờng từ việc bị bắt nạt, trêu chọc đến việc bị điểm kém – những vấn đề này
ảnh hƣởng đến cả các em trai và gái; các vấn đề trong gia đình bao gồm bị cha mẹ
mắng, thiếu sự giao tiếp giữa con cái và cha mẹ, cha mẹ không đồng tình (chủ yếu)
với các em gái về lựa chọn ngƣời chồng tƣơng lai, mâu thuẫn giữa cha và mẹ, ngƣời
cha có hành vi bạo lực, áp lực về kinh tế, cha mẹ nghiện ngập; tảo hôn đối với các
em gái, dẫn đến việc các em phải nghỉ học và mâu thuẫn trong cuộc sống vợ chồng;
và việc hông thể hoặc ngại chia sẻ cảm xúc. Đối với các em trai, nguyên nhân
cũng gồm thất bại trong việc đáp ứng những ỳ vọng của xã hội về vai trò và
hành vi chuẩn mực của một ngƣời nam giới, trong đó có khả năng làm ngƣời trụ
cột trong hộ gia đình. Tất cả những điều này dẫn đến cảm xúc buồn bã, chán nản,
thất vọng ở những ngƣời trẻ tuổi, từ đó khiến họ tìm đến cái chết và có những ngƣời
đã thực sự kết thúc cuộc sống của mình.
Từ đó, có thể phân loại các nguyên nhân chủ yếu của tự sát nhƣ sau:
- Do các vấn đề ở trƣờng học, đặc biệt là bạo lực học đƣờng.
- Sự áp đặt của xã hội về chuẩn mực giới tính/địa vị.
- Do các vấn đề liên quan đến tình cảm.
Ý nghĩ tự tử hoặc hành vi tự tử dƣờng nhƣ đƣợc nhắc đến nhiều nhất ở Điện Biên,
liên quan đến áp lực phải bỏ học và kết hôn sớm, đặc biệt đối với các em gái. Lá
ngón, một loại cây có độc tính cao, mọc phổ biến trong rừng và các khu vực xung
quanh trên địa bàn tỉnh khiến việc tìm đến cái chết bằng lá ngón trở nên khá dễ
dàng. Một nhận định đáng chú ý qua các buổi thảo luận nhóm ở Điện Biên là các
em gái bị buộc phải nghỉ học và kết hôn ngoài ý muốn thƣờng có xu hƣớng tìm đến
phƣơng cách tự tử: “Ở địa phƣơng con có gia đình bắt con gái mình lấy một ngƣời
nhƣng ngƣời con gái ấy không thƣơng ngƣời kia. Nên tìm đến cái chết, bạn ấy ăn lá
ngón nhƣng không chết vì phát hiện đƣợc rồi mang đi cấp cứu”. Một em cũng đề 15
cập đến nỗi sợ đối với tục lệ “bắt vợ” ở địa phƣơng, và kể lại câu chuyện về một em
gái 16 tuổi bị “bắt” về làm vợ rồi sau đó đã tự tử vì cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc.
Theo quan niệm chủ yếu từ những ngƣời cung cấp thông tin chính, yếu tố dân tộc
cũng có thể tác động đến xu hƣớng tự tử, đặc biệt dân tộc Hmong đƣợc xem là có
“tính tự ái và lòng tự trọng cao” và do đó dễ nghĩ đến những hành động tự tử. Việc
lá ngón mọc phổ biến tại địa phƣơng, đặc biệt ở khu vực sinh sống của ngƣời
Hmong ở Điện Biên, khiến việc tự tử càng trở nên dễ dàng. Nhận định sau đây của
một ngƣời cung cấp thông tin chính ở Điện Biên phản ánh quan niệm cho rằng
ngƣời Hmong dễ có xu hƣớng tự tử hơn so với các nhóm dân tộc khác, cũng nhƣ đề
cập đến tình trạng phổ biến của lá ngón ở địa phƣơng.
“Không phải dân tộc nào cũng thế à chỉ có dân tộc Mông, các dân tộc khác chưa
thấy báo cáo. Trong dân tộc Mông có tập quán xấu à ăn á ngón, nó xảy ra nhiều
a bàn Đi n Bi n Đông. Nguy n nhân nó dẫn ến hay à tính tự tôn c a người dân
tộc Mông, tính tự ái, òng tự trọng c a họ rất cao. Một cháu khi có b c xúc với bạn
bè cùng ớp, hoặc à bất ồng với quan iể b ẹ à các cháu dễ dẫn ến tự tử.
Và iều ki n tự nhi n thuận ợi à á ngón có rất nhiều vùng ó, chỉ 1, á à chết.
Có cháu nào ay ra phát hi n k p thời i rửa ruột còn ỡ. Đi n Bi n Đông ã vài
n ra chiến d ch nhổ trừ cây á ngón nhưng không hết””
3.3. Hạn chế của hệ thống dịch vụ y tế trong việc phòng chống tự tử
Nhìn chung, các nguồn tài liệu thứ cấp cũng nhƣ nguồn dữ liệu sơ cấp mà nhóm
nghiên cứu thu thập đều cho thấy một thực trạng là hệ thống dịch vụ dành cho các
vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm thần và tâm lý – xã hội, trong đó có phòng chống
tự tử, vẫn còn rất hạn chế. Những dịch vụ hiện có chỉ tập trung chủ yếu vào các vấn
đề sức khỏe tâm thần nặng, trong khi các dịch vụ phòng chống tự tử do các yếu tố
không liên quan đến các rối loạn tâm thần nặng là không đầy đủ. Ngay cả ở những
nơi có dịch vụ, ngƣời dân có thể ngại tìm đến vì nhiều lý do khác nhau, trong đó có
nguyên nhân sợ kỳ thị, thiếu hiểu biết, và hạn chế về kinh tế. Và nếu nhƣ họ có tìm
đến những dịch vụ này thì chất lƣợng dịch vụ cũng rất không đồng đều, và có thể
không tính đến tính nhạy cảm về tuổi và giới; tất cả những điều này đều có thể dẫn 16
đến t lệ sử dụng dịch vụ thấp, bao gồm cả các dịch vụ liên quan đến theo dõi và chuyển tuyến.
3.4. Kết luận – Những nguyên nhân hác
“Không nghi ngờ gì khi ý nghĩ tự tử và toan tự tử là một vấn đề cần quan tâm ở Việt
Nam, đặc biệt trong nhóm trẻ em và thanh thiếu niên và nữ giới. T hống kê của Sở Y
tế cho rằng các em nữ dễ có xu hƣớng tự tử hơn so với các em nam. Thêm vào đó,
tại những vùng miền núi Tây Bắc nhƣ Điện Biên, sự phổ biến của cây lá ngón
dƣờng nhƣ khiến cho việc tìm đến cái chết trở nên dễ dàng hơn, đặc biệt đối với các
em gái ngƣời Hmong vì địa bàn sống của các em ngay gần nơi cây lá ngón mọc.
Mặc dù đã có một số tiến triển trong thời gian vừa qua, môi trƣờng dịch vụ và khả
năng ứng phó nói chung của Việt Nam vẫn còn nhiều thiếu hụt trong việc phòng
chống ý định tự tử, đặc biệt liên quan đến các rối loạn tâm thần dƣới mức nặng,
thƣờng là trọng tâm của những ý định và nỗ lực tìm cách tự tử.
Các nguồn dữ liệu sơ cấp về tình trạng tự tử cho thấy – mặc dù số liệu thống kê cần
đƣợc cập nhật thêm và phân loại sâu hơn (bao gồm phân chia theo giới, độ tuổi, tỉnh
và huyện) – t lệ tự tử ở Việt Nam vẫn nằm ở mức thấp so với các nƣớc trong khu
vực. Tuy nhiên, chúng ta không thể chỉ ngồi yên hài lòng với kết quả này, vì các
phát hiện từ nghiên cứu quy mô lớn hơn của chúng tôi cho thấy, theo ý kiến của
những ngƣời tham gia nghiên cứu, các vấn đề sức khỏe tâm thần và tâm lý – xã hội
trong nhóm trẻ em và thanh thiếu niên dƣờng nhƣ có xu hƣớng gia tăng; điều này có
thể góp phần làm tăng t lệ tự tử. Hơn nữa, cũng nhƣ các nghiên cứu khác gần đây
đang chỉ ra, trên thế giới t lệ tự tử thƣờng bị ƣớc tính thấp hơn so với thực tế và
điều này có thể đúng với Việt Nam. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều này, từ
việc ngại khai báo tự tử là nguyên nhân tử vong do sợ kỳ thị, cho đến việc chẩn
đoán sai, phƣơng pháp thu thập và báo cáo số liệu không phù hợp, dẫn tới sự khác
biệt và giải thích khác nhau về các t lệ này.
Hiện nay cũng có khá nhiều tài liệu nghiên cứu có sẵn về hiệu ứng lan truyền xã hội
của hành vi tự tử, khi hành vi tự tử ở một ngƣời có thể bị bắt chƣớc bởi những
ngƣời khác trong cùng mạng lƣới xã hội, hoặc khi những hành vi bắt chƣớc đƣợc
biết đến. Sự việc tự tử liên hoàn tại Hà Nội gần đây, hay những thử thách “tự sát 17
nhóm” nổi tiếng một thời nhƣ Thử thách Cá voi xanh (Blue Whale Challenge) là
một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, cùng lúc đó, trong một chừng mực nhất định, các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng khi đƣa tin về các sự việc trên, đã thổi phồng
nhằm gây tin giật gân và cƣờng điệu hóa hiện tƣợng này, và do đó có thể càng đổ
thêm dầu vào lửa. Việc đƣa tin giật gân không chỉ có khả năng dẫn tới nhiều ca tự
tử hơn, mà còn làm trầm trọng hơn sự gạt ra ngoài lề và kỳ thị đối với những ngƣời
có xu hƣớng tự hại – xu hƣớng tự sát hay mang vấn đề về tâm lý, vốn đã là một
trong những nhóm bị gạt ra ngoài lề và dễ bị tổn thƣơng nhất trong xã hội. Hơn nữa,
các em gái và phụ nữ trẻ, vốn đã phải đối mặt với một hệ thống chuẩn mực xã hội
bất bình đẳng giới khắc nghiệt trong chính cộng đồng của mình, lại còn phải chịu
thêm một tầng kỳ thị và phân biệt nữa. Quá trình thổi phồng tin tức và làm tăng sự
bị gạt ra ngoài lề và kỳ thị đối với những ngƣời có vấn đề tâm lý và xu hƣớng tự
hủy hoại cũng góp phần che đậy những nguyên nhân thực sự và nội tại của tình
trạng tự tử, đó là các vấn đề về sức khỏe tâm thần và tâm lý – xã hội. Những vấn đề
về sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội không chỉ là những nguyên nhân chính thúc
đẩy ý định và hành vi tự tử, mà chúng đang ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội
Việt Nam. Do đó, không chỉ các em gái, phụ nữ, hay ngƣời dân tộc thiểu số, mà cả
các em trai, nam giới và ngƣời lớn nói chung ở nhiều địa bàn khác nhau, cả nông
thôn lẫn thành thị cũng đang đối mặt với nhiều loại áp lực khác nhau vì nhiều lý do
nhƣ đã nêu trên. Vì vậy, việc xây dựng một giải pháp phù hợp là vô cùng quan
trọng, để một mặt không trầm trọng thêm sự phân biệt đối với các cộng đồng và
nhóm dễ bị tổn thƣơng, mặt khác vẫn đáp ứng đƣợc những nhu cầu khác nhau theo
giới, độ tuổi và khu vực sống.” 18