Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế - Kinh tế chính trị | Trường Đại Học Duy Tân

Mặc dù các nền kinh tế trên thế giới đang gặp khó khăn do khủng hoảng, nhưng giai đoạn 2006-2010, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng ổn định,hợp tác để cùng phát triển tác động mạnh đến sự phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. 

2 Thực trạng hội nhập kinh tế
2.1 Hội nhập kinh tế quốc tế
Mặc dù các nền kinh tế trên thế giới đang gặp khó khăn do khủng hoảng, nhưng
giai đoạn 2006-2010, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng ổn định,
hợp tác để cùng phát triển tác động mạnh đến sự phát triển của mỗi quốc gia, đặc
biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Hơn hai năm Việt Nam đã gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là cơ hội tốt để Việt Nam hội nhập sâu hơn
vào nền kinh tế thế giới, được đối xử bình đẳng trên “sân chơi chung” của thế giới.
Hội nhập đem lại nhiều cơ hội việc làm, đặc biệt là việc làm theo hướng công
nghiệp với hàm lượng vốn, tri thức cao; các rào cản pháp lý về di chuyển pháp
nhân, thể nhân được nới lỏng, các quan hệ kinh tế, đối ngoại, lao động… được
thiết lập tạo điều kiện cho lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Gia nhập WTO đã đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho Việt Nam, đặc biệt đối với
lĩnh vực lao động và việc làm, cụ thể:
Gia nhập WTO tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam
và thúc đẩy thương mại phát triển. Việt Nam có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng
tiềm năng ra thế giới nhờ được hưởng những thành quả của các vòng đàm phán
giảm thuế và hàng rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt
trong các lĩnh vực hàng dệt may và nông sản. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng có
những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản
xuất sẽ được mở rộng và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Tạo ra cơ hội gia tăng các giá trị tài sản vô hình cho bản thân người lao động và
các doanh nghiệp thông qua các hoạt động hợp tác, chuyển giao công nghệ với các
nước có nền công nghiệp tiên tiến trên thế giới. Đó là các chuẩn mực, mô hình hệ
thống tổ chức quản lý hiện đại được áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất…
Tạo thêm cơ hội việc làm cho người lao động và nâng cao chất lượng nhân lực cho
lao động của Việt Nam, đặc biệt là lao động kỹ thuật trình độ cao. Việt Nam gia
nhập WTO sẽ đẩy nhanh hơn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, sẽ
có một lượng lớn lao động nông nghiệp, thanh niên nông thôn nhàn rỗi, thiếu việc
làm tham gia vào hoạt động kinh tế trong các doanh nghiệp, các hộ gia đình, đơn vị
kinh doanh cá thể… Điều này đồng nghĩa với mang lại nhiều cơ hội thay đổi công
việc và tăng thu nhập cho một bộ phận lớn lao động nông nghiệp hiện nay. Hơn
nữa, sự phát triển nhanh chóng về công nghệ và thiết bị sản xuất và các hoạt động
trao đổi chuyên gia giữa các nước với Việt Nam sẽ làm cho trình độ chuyên môn
kỹ thuật. Hợp tác quốc tế về lao động có cơ hội phát triển, từ đó góp phần nâng cao
chất lượng nhân lực, để có thể làm chủ các công nghệ và thiết bị tiên tiến trên thế
giới.
Tạo thêm nguồn lực vật chất cho phát triển nguồn nhân lực. Thông qua các dự án
hợp tác đầu tư của các tập đoàn lớn trên thế giới vào Việt Nam, sẽ tạo ra các nguồn
tài chính dồi dào hơn cho việc đổi mới công nghệ và thiết bị của các ngành kinh tế.
Việc hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện và thúc đẩy việc thiết lập cơ cấu lao động
theo định hướng thị trường. Đó là những lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao. Trong khi những lao động không có chuyên môn kỹ thuật phải được cắt giảm.
Tạo điều kiện cho nhân lực lao động của nước ta tham gia sâu rộng hơn vào phân
công và hợp tác lao động quốc tế. Đặt nền móng cho việc tạo việc làm một cách ổn
định và bền vững.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta trong những năm tới lên khoảng 6,5-8,5%,
đầu tư toàn xã hội năm 2009 ở mức khoảng 40% GDP, đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào nước ta vốn đăng ký khoảng trên 60 tỷ USD và vốn thực hiện khoảng 9 tỷ
USD thì nhu cầu lao động có đào tạo trong nước sẽ rất lớn. Đối với bên ngoài, việc
mở rộng hợp tác của chúng ta ngày một nhiều thì nhu cầu lao động được đào tạo
xuất khẩu sẽ đáng kể.
Trong quá trình hội nhập, do cơ cấu lại nguồn nhân lực cộng với lao động dôi dư từ
các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá, sẽ tạo ra các áp lực lớn về việc làm
cho người lao động. Một bộ phận người lao động trong các doanh nghiệp sẽ mất
việc làm do trình độ chuyên môn không đáp ứng được yêu cầu mới đặt ra. Điều
này gây tác động xấu về mặt xã hội, làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, người lao
động mất việc làm, giảm thu nhập…
Sự dịch chuyển về cơ cấu lao động và di chuyển lao động tự do tới các vùng đô thị
đang là vấn đề thu hút sự quan tâm đặc biệt của các cơ quan chức năng, nhiều địa
phương và các nhà nghiên cứu hoạch định chính sách. Khi Việt Nam gia nhập
WTO, thực trạng này còn diễn ra mạnh hơn và kéo theo nhiều tác động với mức độ
lớn hơn. Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn tới nguy cơ tăng khoảng
cách thu nhập của người lao động. Điều này góp phần làm tăng khoảng cách về
quyền lợi và địa vị xã hội giữa các nhóm lao động.
Trên thực tế, tiêu chuẩn lao động của quốc tế mang tính nhân quyền cao như: qui
định các vấn đề liên quan đến lao động trẻ em; lao động cưỡng bức; chống phân
biệt đối xử tại nơi làm việc, tự do hiệp hội và thoả ước lao động tập thể… Điều này
đang đặt ra cho nguồn nhân lực các vấn đề mới cần giải quyết, như chi phí về nhân
công tăng lên, các điều kiện làm việc cần được đầu tư và cải thiện tốt hơn, thành
lập các hiệp hội tự do trong các ngành nghề…
Vấn đề việc làm ở Việt Nam
Việt Nam luôn chú trọng và ưu tiên phần vốn ngân sách nhà nước cho chương trình
mục tiêu quốc gia về việc làm. Kết quả đầu tư ngân sách nhà nước đối với chương
trình mục tiêu quốc gia về việc làm như sau: Năm 2006 ngân sách nhà nước đầu tư
cho chương trình là 265 tỷ đồng; năm 2007 là 300 tỷ đồng; năm 2008 là 327 tỷ
đồng; năm 2009 là 413 tỷ đồng.
Vốn ngân sách nhà nước cho chương trình việc làm tăng đều qua các năm, trong
đó bổ sung quỹ vốn vay giải quyết việc làm hàng năm tăng khá: năm 2006 bổ sung
quỹ vốn vay giải quyết việc làm là 235.000 triệu đồng; năm 2007: 250.000 triệu
đồng; năm 2008: 250.000 triệu đồng; năm 2009: 313.000 triệu đồng.
Năm 2006- 2007 tạo việc làm cho hơn 3,2 triệu lao động, ước tính năm 2008 tạo
việc làm cho 1,615 triệu lao động (đạt 95% kế hoạch). Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị
hàng năm đều giảm (năm 2006: 5,1%; năm 2007: 4,91%, năm 2008: ước đạt
4,9%). Tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn giảm dần (năm 2006: 5,86%; năm 2007:
5,79%, năm 2008: ước đạt 5,75%).
Nguồn nhân lực Việt Nam chưa đạt yêu cầu và còn yếu so với các nước trong khu
vực. Tỷ lệ lao động được đào tạo của nước ta tuy vẫn tăng đều qua các năm nhưng
đến nay vẫn chỉ đạt 24% tổng lao động (tỷ lệ tương ứng của các nước trong khu
vực là 50%). Tỷ lệ đào tạo lao động có bằng cấp còn thấp (tăng khoảng 7,3%/năm)
và chưa tương ứng với nhu cầu lao động có đào tạo cho phát triển kinh tế. Cơ cấu
đào tạo theo ngành nghề, theo trình độ còn nhiều bất cập. Chất lượng thấp làm lao
động Việt Nam mất thế cạnh tranh, ngay cả ở thị trường lao động nội địa. Với chất
lượng nguồn nhân lực như hiện tại, khi hội nhập với thị trường lao động quốc tế,
lao động Việt Nam sẽ mất lợi thế và phải chấp nhận nhiều thiệt thòi.
Năng suất lao động của Việt Nam hiện tại còn thấp, đóng góp vào tăng trưởng kinh
tế còn hạn chế. Trong các năm 2006- 2008, năng suất lao động chung của nền kinh
tế tăng từ 22,5 lên 26,5 triệu đồng/năm. Trong điều kiện tốc độ tăng trưởng kinh tế
trong 2 năm đầu của kế hoạch 2006- 2010 là tương đối khả quan nhưng năng suất
lao động của nền kinh tế vẫn không được cải thiện nhiều thì sự chững lại của tốc
độ tăng trưởng kinh tế năm 2008 và có thể cả trong một vài năm tiếp theo sẽ còn
làm chậm hơn nữa tốc độ tăng của năng suất lao động.
Về xuất khẩu lao động: Trong 10 tháng qua, cả nước đã đưa được khoảng 72.500
lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt khoảng 85,0% kế hoạch năm. Trong khi đó,
rất nhiều người chuyển nguyện vọng sang các nước châu Âu, úc, Canada, Mỹ, Hàn
Quốc… Chưa bao giờ hoạt động xuất khẩu lao động lại ở trong tình trạng phân hoá
thị trường và nguồn lao động mạnh mẽ như hiện nay…
Nguồn: Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 24 (440) tháng 12/2008
2.2 Hội nhập chính trị
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (chính trị,
kinh tế, văn hóa, giáo dục, an ninh - quốc phòng...) hoặc diễn ra trên cùng nhiều
lĩnh vực với tính chất, phạm vi, hình thức khác nhau. Chủ thể chính của hội nhập
quốc tế là các quốc gia có đủ năng lực và thẩm quyền đàm phán, ký kết và thực
hiện các cam kết quốc tế khi đã ký tham gia. Hội nhập quốc tế là một xu thế lớn,
tất yếu và là đặc trưng quan trọng của thế giới hiện nay. Hội nhập quốc tế đem tới
cho các quốc gia không chỉ những lợi ích về mọi mặt, mà còn đặt các quốc gia
trước những thách thức, bất lợi. Song, con đường phát triển không thể nào khác đối
với các nước trong thời đại toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế.
Nội dung của hội nhập là mở rộng thị trường cho nhau, vì vậy khi Việt nam gia
nhập các tổ chức quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng
nhiều ưu đãi về thuế qua, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ
khác đã tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Chỉ
tính trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
sang các nước thành viên tăng đáng kể. Kim ngạch xuất nhập khẩu VN-ASEAN
tăng trung bình 15,3% hàng năm. Khi xuất khẩu tăng kéo theo số lượng việc làm
được tạo ra sẽ nhiều hơn. Như vậy sẽ có tác động tốt, tạo ra nhiều việc làm cũng
như tăng thu nhập của người lao động.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ
phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI): Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ
hội để thị trường nước ta mở rộng điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang
vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta
ra làm sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà
nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước
ngoài. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng
vốn có hiệu quả.
Viện trợ phát triển (ODA): Tiến hành bình thường hóa các quan hệ tài chính của
Việt Nam, các nước tài trợ và các chủ thể tài chính tiền tệ được tháo gỡ từ năm
1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ góp phần quan trọng trong việc nâng
cấp và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng…
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ của Việt Nam:
trong những năm vừa qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và
đa phương các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam trước đây được giải quyết thông
qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phám song phương. Điều đó góp phần ổn
định cán cân thu chi ngân sách tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển
kinh tế xã hội trong nước.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho chúng ta tiếp thu khoa
học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý. Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế
sẽ tranh thủ được kỹ thuật công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho
công cuộc xây dựng CNXH. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường khai thông thị
trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và
có hiệu quả.
Qua đó mà các kỹ thuật và công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta,
đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kỹ thuật công nghệ nước ngoài nhằm
phát triển kỹ thuật công nghệ quốc gia.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn là cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý,
các nhà kinh doanh được đào tạo trong và ngoài nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì ổn định hòa bình, tạo dựng môi
trường thuận lợi để phát triển kinh tế, các chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngày
càng minh bạch hơn, nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Trước đây
Việt Nam chủ yếu xây dựng mối quan hệ với Liên Xô và các nước Đông Âu.
Hiện nay Việt Nam thiết lập mối quan hệ ngoại giao hầu hết với các nước trên thế
giới, đồng thời cũng là thành viên của các tổ chức lớn trên thế giới như: ASEAN,
WTO, APEC…Chính vì thế mà hệ thống chính trị trong nước ngày càng được ổn
định, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Tiến trình
hội nhập của nước ta ngày càng sâu rộng thì càng đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống
pháp luật kinh theo thông lệ quốc tế, thực hiện công khai, minh bạch các thiết
chế quản lý làm cho môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện;
thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của nước ta
đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo ra động lực lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày càng vững mạnh.
Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho nguồn lực nước ta được
khai thông, tăng cường giao lưu với các nước, đúng theo đường lối đối ngoại của
Đảng đã xác định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế”. Thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động, sử dụng lao động
thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu, đồng thời tạo cơ hội để
nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, các công nghệ mới và các sáng chế mà nước ta
chưa có. Điều này cho thấy Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế không những mở
rộng thị trường, thu hút nguồn lực vốn, tăng năng lực cạnh tranh, mà còn tăng khả
năng tích lũy vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tạo đều kiện để nước ta trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
2.3 hội nhập quốc phòng an ninh
2.3.1 Hội nhập quốc tế và tác động đối với việc bảo đảm quốc phòng, an ninh
và phát triển nhanh, bền vững
Hội nhập quốc tế là quá trình quốc gia tham gia hợp tác, liên kết quốc tế trong lĩnh
vực kinh tế và những lĩnh vực khác, tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực
trong nước với nguồn lực quốc tế, mở rộng không gian và môi trường để phát triển,
chiếm lĩnh vị trí thích hợp trong quan hệ quốc tế. Quá trình hội nhập quốc tế diễn
ra ở nhiều cấp độ và nhiều phương thức khác nhau. Các cấp độ hội nhập được thể
hiện ở nhiều mức, từ thấp đến cao, từ song phương đến đa phương; có khi hội nhập
được thực hiện cùng một lúc trong nhiều lĩnh vực với nhiều cấp độ. Có thể nói, cả
thế giới đang trong cao trào hội nhập quốc tế với tốc độ ngày càng nhanh và lĩnh
vực ngày càng nhiều, dẫn tới sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng. Chính vì
thế, hội nhập quốc tế là quá trình phức tạp chứa ẩn nhiều yếu tố thuận, nghịch.
Xem xét trên hai lĩnh vực quan trọng hàng đầu trong mục tiêu hội nhập quốc tế ở
các quốc gia, trong đó có Việt Nam, là việc bảo đảm an ninh quốc phòng và phát
triển nhanh, bền vững, có thể thấy rõ hội nhập quốc tế tác động hai chiều thuận -
nghịch.
2.3.2 Tác động đối với việc bảo đảm an ninh, quốc phòng
Hội nhập quốc tế một cách chủ động, tích cực, sâu rộng, hiệu quả là phương thức
tốt nhất để chuyển hóa ngoại lực thành nội lực, sức mạnh quốc tế cộng hưởng với
sức mạnh quốc gia, qua đó càng tăng cường, tạo điều kiện cho việc bảo đảm an
ninh, quốc phòng và giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Điều này thể hiện trên mấy khía cạnh:
Thứ nhất, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế tạo ra cơ hội, môi trường hòa bình,
ổn định để phát triển đất nước; trên cơ sở đó, bảo đảm tốt về an ninh, quốc phòng.
Hội nhập quốc tế sâu rộng sẽ mở ra cơ chế phối hợp chặt chẽ và thống nhất giữa
các nước và các khu vực để hạn chế và đẩy lùi các nguy cơ khủng bố, xung đột sắc
tộc, chủ nghĩa ly khai.
Thứ hai, hội nhập quốc tế giúp cho việc tận dụng và phát huy các nguồn lực bên
ngoài bổ sung cho các nguồn lực trong nước. Đó là những điều kiện về kỹ thuật,
trang thiết bị cho quốc phòng, an ninh, là những kinh nghiệm quý của quốc tế.
Thứ ba, thông qua quá trình hội nhập quốc tế, có thể thấy rõ những lợi ích cùng
chiều trong quan hệ với nước khác để thúc đẩy hợp tác; đồng thời thấy rõ những
khía cạnh lợi ích khác chiều để càng nhận rõ hơn quan hệ đối tác, đối tượng và có
đối sách thích hợp.
Thứ tư, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những quan hệ có lợi cho đất nước, góp phần
tham gia các định chế chung, tạo sự cân bằng đan xen lợi ích và cân bằng với các
nước lớn; tập hợp được các lực lượng tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới để
góp phần ngăn chặn những ý đồ và hành vi xâm phạm chủ quyền của đất nước.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng có những tác động không thuận đến việc bảo
đảm quốc phòng, an ninh của đất nước... Thế giới đã chứng kiến sự tùy thuộc lẫn
nhau giữa các nước có thể chuyển hóa thành sự lệ thuộc vào một đối tác cụ thể.
Đối với những nước nghèo, kém phát triển, tham gia hội nhập quốc tế rất dễ bị lệ
thuộc vào bên ngoài. Hội nhập dễ dẫn đến tình trạng bị chi phối về văn hóa, làm
xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc, làm mất đi chỗ dựa tinh thần cho việc bảo đảm
quốc phòng, an ninh, làm gia tăng nguy cơ bất ổn về an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội. Cũng cần chú ý đến những thỏa hiệp về lợi ích giữa các nước lớn với
nhau tác động tiêu cực đến an ninh, quốc phòng ở các nước khác.
2.3.3 Tác động đối với phát triển nhanh, bền vững
Hội nhập quốc tế tạo thuận lợi cho Việt Nam thu hút nguồn lực để phát triển, tăng
cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, phát triển đất nước nhanh, bền vững. Điều đó
thể hiện trên những khía cạnh: , hội nhập quốc tế giúp cho việc tham gia Thứ nhất
đầy đủ, sâu rộng hơn vào các thể chế kinh tế quốc tế, như Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB)... Sự tham gia các thể chế kinh tế - tài chính này tạo điều
kiê ˆn cho Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm, cách thức và chiến lược phát triển, góp
phần giảm thiểu rủi ro. , hội nhập quốc tế giúp cho việc thu hút vốn đầu tư, Thứ hai
kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, đặc biệt là kỹ năng quản lý đất nước, điều chỉnh vai
trò của Nhà nước phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Nhà nước tập trung quản lý,
điều hành vĩ mô, kiến tạo phát triển và phát huy dân chủ trong đời sống xã hội.
Việc huy động và phân bổ các nguồn lực gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, góp phần cải cách hành chính. Thông qua hội nhập quốc
tế, năng lực và kinh nghiệm quản lý kinh tế thị trường được nâng lên và hiệu quả
hơn. Từ đó, Nhà nước định hướng phát triển và đưa ra các giải pháp khả thi để “đi
trước, đón đầu”, tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội. , hội nhập quốc tế tạo Thứ ba
động lực thúc đẩy cho các nhà quản lý, doanh nhân, doanh nghiệp trong nước nâng
cao năng lực cạnh tranh thông qua tăng cường quản trị, đổi mới công nghệ và
phương thức kinh doanh. Việc thực hiện các cam kết hội nhập giúp các doanh
nghiệp giảm chi phí đầu vào, đơn giản hóa quy trình, thủ tục, tiếp cận vốn, công
nghệ và phương thức quản lý, kinh doanh để tăng khả năng cạnh tranh.
Bên cạnh những tác động tích cực, hội nhập quốc tế cũng tác động tiêu cực đến
việc phát triển nhanh, bền vững. Đó là việc nền kinh tế còn yếu kém nhiều mặt dễ
bị tổn thương và dễ bị phụ thuộc nhiều hơn vào bên ngoài. Trong môi trường hội
nhập sâu rộng, những biến động kinh tế bất lợi từ thế giới và khu vực sẽ tác động
tiêu cực đến nền kinh tế trong nước. Việc mở cửa thị trường trong điều kiện sức
cạnh tranh yếu kém sẽ tiềm ẩn rủi ro là nhiều lĩnh vực kinh tế bị bên ngoài thâu
tóm, nhiều doanh nghiệp bị thua ngay trên sân nhà. Ngay việc thu hút đầu tư trực
tiếp từ nước ngoài, nếu không được cân nhắc và kiểm soát kỹ thì dễ bị tiếp nhận
những công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến phát
triển nhanh, bền vững.
Nguồn
Nguồn truongchinhtri.kontum.gov.vn
Nguồn: Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 24 (440) tháng 12/2008
| 1/10

Preview text:

2 Thực trạng hội nhập kinh tế
2.1 Hội nhập kinh tế quốc tế
Mặc dù các nền kinh tế trên thế giới đang gặp khó khăn do khủng hoảng, nhưng
giai đoạn 2006-2010, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng ổn định,
hợp tác để cùng phát triển tác động mạnh đến sự phát triển của mỗi quốc gia, đặc
biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Hơn hai năm Việt Nam đã gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là cơ hội tốt để Việt Nam hội nhập sâu hơn
vào nền kinh tế thế giới, được đối xử bình đẳng trên “sân chơi chung” của thế giới.
Hội nhập đem lại nhiều cơ hội việc làm, đặc biệt là việc làm theo hướng công
nghiệp với hàm lượng vốn, tri thức cao; các rào cản pháp lý về di chuyển pháp
nhân, thể nhân được nới lỏng, các quan hệ kinh tế, đối ngoại, lao động… được
thiết lập tạo điều kiện cho lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Gia nhập WTO đã đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho Việt Nam, đặc biệt đối với
lĩnh vực lao động và việc làm, cụ thể:
Gia nhập WTO tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam
và thúc đẩy thương mại phát triển. Việt Nam có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng
tiềm năng ra thế giới nhờ được hưởng những thành quả của các vòng đàm phán
giảm thuế và hàng rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt
trong các lĩnh vực hàng dệt may và nông sản. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng có
những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản
xuất sẽ được mở rộng và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Tạo ra cơ hội gia tăng các giá trị tài sản vô hình cho bản thân người lao động và
các doanh nghiệp thông qua các hoạt động hợp tác, chuyển giao công nghệ với các
nước có nền công nghiệp tiên tiến trên thế giới. Đó là các chuẩn mực, mô hình hệ
thống tổ chức quản lý hiện đại được áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất…
Tạo thêm cơ hội việc làm cho người lao động và nâng cao chất lượng nhân lực cho
lao động của Việt Nam, đặc biệt là lao động kỹ thuật trình độ cao. Việt Nam gia
nhập WTO sẽ đẩy nhanh hơn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, sẽ
có một lượng lớn lao động nông nghiệp, thanh niên nông thôn nhàn rỗi, thiếu việc
làm tham gia vào hoạt động kinh tế trong các doanh nghiệp, các hộ gia đình, đơn vị
kinh doanh cá thể… Điều này đồng nghĩa với mang lại nhiều cơ hội thay đổi công
việc và tăng thu nhập cho một bộ phận lớn lao động nông nghiệp hiện nay. Hơn
nữa, sự phát triển nhanh chóng về công nghệ và thiết bị sản xuất và các hoạt động
trao đổi chuyên gia giữa các nước với Việt Nam sẽ làm cho trình độ chuyên môn
kỹ thuật. Hợp tác quốc tế về lao động có cơ hội phát triển, từ đó góp phần nâng cao
chất lượng nhân lực, để có thể làm chủ các công nghệ và thiết bị tiên tiến trên thế giới.
Tạo thêm nguồn lực vật chất cho phát triển nguồn nhân lực. Thông qua các dự án
hợp tác đầu tư của các tập đoàn lớn trên thế giới vào Việt Nam, sẽ tạo ra các nguồn
tài chính dồi dào hơn cho việc đổi mới công nghệ và thiết bị của các ngành kinh tế.
Việc hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện và thúc đẩy việc thiết lập cơ cấu lao động
theo định hướng thị trường. Đó là những lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao. Trong khi những lao động không có chuyên môn kỹ thuật phải được cắt giảm.
Tạo điều kiện cho nhân lực lao động của nước ta tham gia sâu rộng hơn vào phân
công và hợp tác lao động quốc tế. Đặt nền móng cho việc tạo việc làm một cách ổn định và bền vững.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta trong những năm tới lên khoảng 6,5-8,5%,
đầu tư toàn xã hội năm 2009 ở mức khoảng 40% GDP, đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào nước ta vốn đăng ký khoảng trên 60 tỷ USD và vốn thực hiện khoảng 9 tỷ
USD thì nhu cầu lao động có đào tạo trong nước sẽ rất lớn. Đối với bên ngoài, việc
mở rộng hợp tác của chúng ta ngày một nhiều thì nhu cầu lao động được đào tạo
xuất khẩu sẽ đáng kể.
Trong quá trình hội nhập, do cơ cấu lại nguồn nhân lực cộng với lao động dôi dư từ
các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá, sẽ tạo ra các áp lực lớn về việc làm
cho người lao động. Một bộ phận người lao động trong các doanh nghiệp sẽ mất
việc làm do trình độ chuyên môn không đáp ứng được yêu cầu mới đặt ra. Điều
này gây tác động xấu về mặt xã hội, làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, người lao
động mất việc làm, giảm thu nhập…
Sự dịch chuyển về cơ cấu lao động và di chuyển lao động tự do tới các vùng đô thị
đang là vấn đề thu hút sự quan tâm đặc biệt của các cơ quan chức năng, nhiều địa
phương và các nhà nghiên cứu hoạch định chính sách. Khi Việt Nam gia nhập
WTO, thực trạng này còn diễn ra mạnh hơn và kéo theo nhiều tác động với mức độ
lớn hơn. Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn tới nguy cơ tăng khoảng
cách thu nhập của người lao động. Điều này góp phần làm tăng khoảng cách về
quyền lợi và địa vị xã hội giữa các nhóm lao động.
Trên thực tế, tiêu chuẩn lao động của quốc tế mang tính nhân quyền cao như: qui
định các vấn đề liên quan đến lao động trẻ em; lao động cưỡng bức; chống phân
biệt đối xử tại nơi làm việc, tự do hiệp hội và thoả ước lao động tập thể… Điều này
đang đặt ra cho nguồn nhân lực các vấn đề mới cần giải quyết, như chi phí về nhân
công tăng lên, các điều kiện làm việc cần được đầu tư và cải thiện tốt hơn, thành
lập các hiệp hội tự do trong các ngành nghề…
Vấn đề việc làm ở Việt Nam
Việt Nam luôn chú trọng và ưu tiên phần vốn ngân sách nhà nước cho chương trình
mục tiêu quốc gia về việc làm. Kết quả đầu tư ngân sách nhà nước đối với chương
trình mục tiêu quốc gia về việc làm như sau: Năm 2006 ngân sách nhà nước đầu tư
cho chương trình là 265 tỷ đồng; năm 2007 là 300 tỷ đồng; năm 2008 là 327 tỷ
đồng; năm 2009 là 413 tỷ đồng.
Vốn ngân sách nhà nước cho chương trình việc làm tăng đều qua các năm, trong
đó bổ sung quỹ vốn vay giải quyết việc làm hàng năm tăng khá: năm 2006 bổ sung
quỹ vốn vay giải quyết việc làm là 235.000 triệu đồng; năm 2007: 250.000 triệu
đồng; năm 2008: 250.000 triệu đồng; năm 2009: 313.000 triệu đồng.
Năm 2006- 2007 tạo việc làm cho hơn 3,2 triệu lao động, ước tính năm 2008 tạo
việc làm cho 1,615 triệu lao động (đạt 95% kế hoạch). Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị
hàng năm đều giảm (năm 2006: 5,1%; năm 2007: 4,91%, năm 2008: ước đạt
4,9%). Tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn giảm dần (năm 2006: 5,86%; năm 2007:
5,79%, năm 2008: ước đạt 5,75%).
Nguồn nhân lực Việt Nam chưa đạt yêu cầu và còn yếu so với các nước trong khu
vực. Tỷ lệ lao động được đào tạo của nước ta tuy vẫn tăng đều qua các năm nhưng
đến nay vẫn chỉ đạt 24% tổng lao động (tỷ lệ tương ứng của các nước trong khu
vực là 50%). Tỷ lệ đào tạo lao động có bằng cấp còn thấp (tăng khoảng 7,3%/năm)
và chưa tương ứng với nhu cầu lao động có đào tạo cho phát triển kinh tế. Cơ cấu
đào tạo theo ngành nghề, theo trình độ còn nhiều bất cập. Chất lượng thấp làm lao
động Việt Nam mất thế cạnh tranh, ngay cả ở thị trường lao động nội địa. Với chất
lượng nguồn nhân lực như hiện tại, khi hội nhập với thị trường lao động quốc tế,
lao động Việt Nam sẽ mất lợi thế và phải chấp nhận nhiều thiệt thòi.
Năng suất lao động của Việt Nam hiện tại còn thấp, đóng góp vào tăng trưởng kinh
tế còn hạn chế. Trong các năm 2006- 2008, năng suất lao động chung của nền kinh
tế tăng từ 22,5 lên 26,5 triệu đồng/năm. Trong điều kiện tốc độ tăng trưởng kinh tế
trong 2 năm đầu của kế hoạch 2006- 2010 là tương đối khả quan nhưng năng suất
lao động của nền kinh tế vẫn không được cải thiện nhiều thì sự chững lại của tốc
độ tăng trưởng kinh tế năm 2008 và có thể cả trong một vài năm tiếp theo sẽ còn
làm chậm hơn nữa tốc độ tăng của năng suất lao động.
Về xuất khẩu lao động: Trong 10 tháng qua, cả nước đã đưa được khoảng 72.500
lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt khoảng 85,0% kế hoạch năm. Trong khi đó,
rất nhiều người chuyển nguyện vọng sang các nước châu Âu, úc, Canada, Mỹ, Hàn
Quốc… Chưa bao giờ hoạt động xuất khẩu lao động lại ở trong tình trạng phân hoá
thị trường và nguồn lao động mạnh mẽ như hiện nay…
Nguồn: Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 24 (440) tháng 12/2008
2.2 Hội nhập chính trị
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (chính trị,
kinh tế, văn hóa, giáo dục, an ninh - quốc phòng...) hoặc diễn ra trên cùng nhiều
lĩnh vực với tính chất, phạm vi, hình thức khác nhau. Chủ thể chính của hội nhập
quốc tế là các quốc gia có đủ năng lực và thẩm quyền đàm phán, ký kết và thực
hiện các cam kết quốc tế khi đã ký tham gia. Hội nhập quốc tế là một xu thế lớn,
tất yếu và là đặc trưng quan trọng của thế giới hiện nay. Hội nhập quốc tế đem tới
cho các quốc gia không chỉ những lợi ích về mọi mặt, mà còn đặt các quốc gia
trước những thách thức, bất lợi. Song, con đường phát triển không thể nào khác đối
với các nước trong thời đại toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế.
Nội dung của hội nhập là mở rộng thị trường cho nhau, vì vậy khi Việt nam gia
nhập các tổ chức quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng
nhiều ưu đãi về thuế qua, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ
khác đã tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Chỉ
tính trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
sang các nước thành viên tăng đáng kể. Kim ngạch xuất nhập khẩu VN-ASEAN
tăng trung bình 15,3% hàng năm. Khi xuất khẩu tăng kéo theo số lượng việc làm
được tạo ra sẽ nhiều hơn. Như vậy sẽ có tác động tốt, tạo ra nhiều việc làm cũng
như tăng thu nhập của người lao động.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ
phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI): Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ
hội để thị trường nước ta mở rộng điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang
vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta
ra làm sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà
nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước
ngoài. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
Viện trợ phát triển (ODA): Tiến hành bình thường hóa các quan hệ tài chính của
Việt Nam, các nước tài trợ và các chủ thể tài chính tiền tệ được tháo gỡ từ năm
1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ góp phần quan trọng trong việc nâng
cấp và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng…
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ của Việt Nam:
trong những năm vừa qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và
đa phương các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam trước đây được giải quyết thông
qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phám song phương. Điều đó góp phần ổn
định cán cân thu chi ngân sách tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển
kinh tế xã hội trong nước.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho chúng ta tiếp thu khoa
học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý. Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế
sẽ tranh thủ được kỹ thuật công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho
công cuộc xây dựng CNXH. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường khai thông thị
trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả.
Qua đó mà các kỹ thuật và công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta,
đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kỹ thuật công nghệ nước ngoài nhằm
phát triển kỹ thuật công nghệ quốc gia.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn là cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý,
các nhà kinh doanh được đào tạo trong và ngoài nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì ổn định hòa bình, tạo dựng môi
trường thuận lợi để phát triển kinh tế, các chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngày
càng minh bạch hơn, nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Trước đây
Việt Nam chủ yếu xây dựng mối quan hệ với Liên Xô và các nước Đông Âu.
Hiện nay Việt Nam thiết lập mối quan hệ ngoại giao hầu hết với các nước trên thế
giới, đồng thời cũng là thành viên của các tổ chức lớn trên thế giới như: ASEAN,
WTO, APEC…Chính vì thế mà hệ thống chính trị trong nước ngày càng được ổn
định, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Tiến trình
hội nhập của nước ta ngày càng sâu rộng thì càng đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống
pháp luật kinh theo thông lệ quốc tế, thực hiện công khai, minh bạch các thiết
chế quản lý làm cho môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện;
thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của nước ta
đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo ra động lực lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày càng vững mạnh.
Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho nguồn lực nước ta được
khai thông, tăng cường giao lưu với các nước, đúng theo đường lối đối ngoại của
Đảng đã xác định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế”. Thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động, sử dụng lao động
thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu, đồng thời tạo cơ hội để
nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, các công nghệ mới và các sáng chế mà nước ta
chưa có. Điều này cho thấy Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế không những mở
rộng thị trường, thu hút nguồn lực vốn, tăng năng lực cạnh tranh, mà còn tăng khả
năng tích lũy vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tạo đều kiện để nước ta trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
2.3 hội nhập quốc phòng an ninh
2.3.1 Hội nhập quốc tế và tác động đối với việc bảo đảm quốc phòng, an ninh
và phát triển nhanh, bền vững

Hội nhập quốc tế là quá trình quốc gia tham gia hợp tác, liên kết quốc tế trong lĩnh
vực kinh tế và những lĩnh vực khác, tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực
trong nước với nguồn lực quốc tế, mở rộng không gian và môi trường để phát triển,
chiếm lĩnh vị trí thích hợp trong quan hệ quốc tế. Quá trình hội nhập quốc tế diễn
ra ở nhiều cấp độ và nhiều phương thức khác nhau. Các cấp độ hội nhập được thể
hiện ở nhiều mức, từ thấp đến cao, từ song phương đến đa phương; có khi hội nhập
được thực hiện cùng một lúc trong nhiều lĩnh vực với nhiều cấp độ. Có thể nói, cả
thế giới đang trong cao trào hội nhập quốc tế với tốc độ ngày càng nhanh và lĩnh
vực ngày càng nhiều, dẫn tới sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng. Chính vì
thế, hội nhập quốc tế là quá trình phức tạp chứa ẩn nhiều yếu tố thuận, nghịch.
Xem xét trên hai lĩnh vực quan trọng hàng đầu trong mục tiêu hội nhập quốc tế ở
các quốc gia, trong đó có Việt Nam, là việc bảo đảm an ninh quốc phòng và phát
triển nhanh, bền vững, có thể thấy rõ hội nhập quốc tế tác động hai chiều thuận - nghịch.
2.3.2 Tác động đối với việc bảo đảm an ninh, quốc phòng
Hội nhập quốc tế một cách chủ động, tích cực, sâu rộng, hiệu quả là phương thức
tốt nhất để chuyển hóa ngoại lực thành nội lực, sức mạnh quốc tế cộng hưởng với
sức mạnh quốc gia, qua đó càng tăng cường, tạo điều kiện cho việc bảo đảm an
ninh, quốc phòng và giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Điều này thể hiện trên mấy khía cạnh:
Thứ nhất, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế tạo ra cơ hội, môi trường hòa bình,
ổn định để phát triển đất nước; trên cơ sở đó, bảo đảm tốt về an ninh, quốc phòng.
Hội nhập quốc tế sâu rộng sẽ mở ra cơ chế phối hợp chặt chẽ và thống nhất giữa
các nước và các khu vực để hạn chế và đẩy lùi các nguy cơ khủng bố, xung đột sắc tộc, chủ nghĩa ly khai.
Thứ hai, hội nhập quốc tế giúp cho việc tận dụng và phát huy các nguồn lực bên
ngoài bổ sung cho các nguồn lực trong nước. Đó là những điều kiện về kỹ thuật,
trang thiết bị cho quốc phòng, an ninh, là những kinh nghiệm quý của quốc tế.
Thứ ba, thông qua quá trình hội nhập quốc tế, có thể thấy rõ những lợi ích cùng
chiều trong quan hệ với nước khác để thúc đẩy hợp tác; đồng thời thấy rõ những
khía cạnh lợi ích khác chiều để càng nhận rõ hơn quan hệ đối tác, đối tượng và có đối sách thích hợp.
Thứ tư, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những quan hệ có lợi cho đất nước, góp phần
tham gia các định chế chung, tạo sự cân bằng đan xen lợi ích và cân bằng với các
nước lớn; tập hợp được các lực lượng tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới để
góp phần ngăn chặn những ý đồ và hành vi xâm phạm chủ quyền của đất nước.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng có những tác động không thuận đến việc bảo
đảm quốc phòng, an ninh của đất nước... Thế giới đã chứng kiến sự tùy thuộc lẫn
nhau giữa các nước có thể chuyển hóa thành sự lệ thuộc vào một đối tác cụ thể.
Đối với những nước nghèo, kém phát triển, tham gia hội nhập quốc tế rất dễ bị lệ
thuộc vào bên ngoài. Hội nhập dễ dẫn đến tình trạng bị chi phối về văn hóa, làm
xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc, làm mất đi chỗ dựa tinh thần cho việc bảo đảm
quốc phòng, an ninh, làm gia tăng nguy cơ bất ổn về an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội. Cũng cần chú ý đến những thỏa hiệp về lợi ích giữa các nước lớn với
nhau tác động tiêu cực đến an ninh, quốc phòng ở các nước khác.
2.3.3 Tác động đối với phát triển nhanh, bền vững
Hội nhập quốc tế tạo thuận lợi cho Việt Nam thu hút nguồn lực để phát triển, tăng
cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, phát triển đất nước nhanh, bền vững. Điều đó
thể hiện trên những khía cạnh: Thứ nhất, hội nhập quốc tế giúp cho việc tham gia
đầy đủ, sâu rộng hơn vào các thể chế kinh tế quốc tế, như Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB)... Sự tham gia các thể chế kinh tế - tài chính này tạo điều
kiê ˆn cho Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm, cách thức và chiến lược phát triển, góp
phần giảm thiểu rủi ro. Thứ hai, hội nhập quốc tế giúp cho việc thu hút vốn đầu tư,
kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, đặc biệt là kỹ năng quản lý đất nước, điều chỉnh vai
trò của Nhà nước phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Nhà nước tập trung quản lý,
điều hành vĩ mô, kiến tạo phát triển và phát huy dân chủ trong đời sống xã hội.
Việc huy động và phân bổ các nguồn lực gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, góp phần cải cách hành chính. Thông qua hội nhập quốc
tế, năng lực và kinh nghiệm quản lý kinh tế thị trường được nâng lên và hiệu quả
hơn. Từ đó, Nhà nước định hướng phát triển và đưa ra các giải pháp khả thi để “đi
trước, đón đầu”, tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội.
, hội nhập quốc tế tạo Thứ ba
động lực thúc đẩy cho các nhà quản lý, doanh nhân, doanh nghiệp trong nước nâng
cao năng lực cạnh tranh thông qua tăng cường quản trị, đổi mới công nghệ và
phương thức kinh doanh. Việc thực hiện các cam kết hội nhập giúp các doanh
nghiệp giảm chi phí đầu vào, đơn giản hóa quy trình, thủ tục, tiếp cận vốn, công
nghệ và phương thức quản lý, kinh doanh để tăng khả năng cạnh tranh.
Bên cạnh những tác động tích cực, hội nhập quốc tế cũng tác động tiêu cực đến
việc phát triển nhanh, bền vững. Đó là việc nền kinh tế còn yếu kém nhiều mặt dễ
bị tổn thương và dễ bị phụ thuộc nhiều hơn vào bên ngoài. Trong môi trường hội
nhập sâu rộng, những biến động kinh tế bất lợi từ thế giới và khu vực sẽ tác động
tiêu cực đến nền kinh tế trong nước. Việc mở cửa thị trường trong điều kiện sức
cạnh tranh yếu kém sẽ tiềm ẩn rủi ro là nhiều lĩnh vực kinh tế bị bên ngoài thâu
tóm, nhiều doanh nghiệp bị thua ngay trên sân nhà. Ngay việc thu hút đầu tư trực
tiếp từ nước ngoài, nếu không được cân nhắc và kiểm soát kỹ thì dễ bị tiếp nhận
những công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển nhanh, bền vững. Nguồn
Nguồn truongchinhtri.kontum.gov .vn
Nguồn: Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 24 (440) tháng 12/2008