Thực trạng thu hút và sử dụng vốn Fdi - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Thực trạng thu hút và sử dụng vốn Fdi - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Lời mở đầu
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây luôn ở mức cao so với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Đạt được thành tựu đó là nhờ những chính
sách, đường lối kinh tế đúng đắn của ĐảngNhà nước. Trong đó, chính sách thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã thực sự đem lại hiệu quả cao.
Hiện nay, nguồn vốn đầu nước ngoài vào Việt Nam đã có sự tăng trưởng
đáng kể, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của nước ta trong những
năm qua. FDI không ngừng tăng lên với sự đa dạng về nhà đầu cũng như số
lượng đầu vào Việt Nam. Tuy trong những năm gần đây, nước ta đã một
cấu vốn FDI tương đối lớn so với nhiều nước trên thế giới, nhưng tốc độ tăng
nguồn vốn FDI của nước ta vẫn còn thấp, nhất khối lượng vốn đầu chưa thật
sự cao. Khả năng thu hút vốn đầu của nước ta so với các nước trên thế giới vẫn
còn thấp, đặc biệt là so với các nước châu Á, Đông Nam Á.
Xuất phát từ thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI tại Việt Nam, có thể
thấy rằng việc tăng khả năng thu hút đầu tư nói chung và thu hút vốn FDI nói riêng
cần được Nhà nước chú trọng, phát triển. Cùng với đó, Chính phủ cũng cần xây
dựng một chiến lược sử dụng vốn FDI một cách hợp lí, đúng đắn với sự phát triển
và cơ cấu của nền kinh tế quốc dân.
1
I. TỔNG QUAN VỀ FDI
1. Quan niệm về FDI
Ưu điểm của FDI so với các nguồn vốn khác
FDI không để lại gánh nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu về chính
trị, kinh tế như hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hoặc các hình thức đầunước
ngoài như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài… Do vậy, FDI
hình thức thu hút sử dụng vốn đầu nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước
tiếp nhận đầu tư.
Nhà đầu không dễ dàng rút vốn khỏi nước sở tại như đầu gián tiếp.
Kinh nghiệm rút ra từ khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực 1997 đã cho thấy,
những nước chịu tác động nặng nề của khủng hoảng thường những nước nhận
nhiều vốn đầu gián tiếp nước ngoài. Nên FDI mang tính ổn định hơn so với
những khoản đầu tư khác.
2. Tác động của FDI đối với Việt Nam
a. Mặt tích cực
Khu vực kinh tế vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng
trong nền kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất.
Về mặt kinh tế
ĐTNN nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu đáp ứng nhu
cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế
Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu hội biến động lớn, từ tỷ
trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ
này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoảng
16% tổng vốn đầu hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16% (Theo Niên
giám Thống kêcấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực ĐTNN năm 200316%,
2
năm 2004 14,2%, năm 2005 14,9% và năm 200615,9%, ước năm 2007 đạt
trên 16%).
Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm
1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm
7,56%, trong đó: (i) 5 năm 1991-1995: tăng 8,18%; (ii) 5 năm 1996-2000: tăng
6,94%; (iii) 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5%; (iv) Năm 2006 đạt
8,17% và (iv) Năm 2007 đạt 8,48%, 2008 đạt 6,23%; 2009 đạt 5,3%.
ĐTNN góp phần chuyển dịch cấu kinh tế cấu lao động, nâng
cao năng lực sản xuất công nghiệp
Trong 20 năm qua ĐTNN đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng
của nền kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó từng bước
trở thành nguồn đầu quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành
công nghiệp tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhiều công trình lớn đã
hoàn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu tư, nhiều công trình trọng điểm
làm sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi công đẩy nhanh tiến độ,
nhất các công trình điện, dầu khí, công nghiệp nặng, công nghiệp phục vụ xuất
khẩu...
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn
mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng tỷ trọng của khu vực
kinh tế vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm
1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006).
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5 năm
qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Cụ thể tỷ
trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm 2004 2005. Đặc
biệt, một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc..) tỷ lệ này đạt đến
65-70% giá trị sản xuất công nghiệp của địa bàn.
3
ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới tăng cường năng lực của
nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy,
thép, điện tử điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da
giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công
nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33% hàng
điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi,
25% hàng may mặc.
ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem
lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ.
ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ
ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam,
phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm
khai thác dầu khí, hoá chất, khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy... Nhất
sau khi Tập đoàn Intel đầu 1 tỷ đô la Mỹ vào Việt Nam trong dự án sản xuất
linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu vào lĩnh vực công
nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech.v.v)
Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm
lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.
Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền
kinh tế
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng
các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy sản xuất. Đồng thời, tác
động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa
doanh nghiệp vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ năng
lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này có
thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang
4
giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN
cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng
trong bối cảnh toàn cầu hóa.
ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức
đóng góp của khu vực kinh tế vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời
kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách
đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách
trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm.
Riêng 2 năm 2006 2007 khu vực kinh tế vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt
trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005.
ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối
ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc
chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc
tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu...
ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế
quốc tế
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn
mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN
đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23%
kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả
dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 chiếm trên 55% trong các
năm 2005, 2006 và 2007.
ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu
khí, 84% hàng điện tử, máy tính linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng
5
may mặc… Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều
sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới.
Trong lĩnh vực khách sạn du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách sạn cao
cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng đáp ứng
nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ.
Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội
nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Về mặt xã hội:
• ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao
động, cải thiện nguồn nhân lực
Đến nay, khu vực vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao
động trực tiếp hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB
cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong
khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống
một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm.
Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp vốn
ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ
thuật có trình độ cao, tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật,
công nghệ cao tác phong công nghiệp hiên đại, kỷ luật lao động tốt, học
hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Hoạt động của các doanh nghiệp vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc
đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức
quản để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ trên
thị trường trong nước quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc
tại các doanh nghiệp vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài
trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình
công nghệ hiện đại.
6
ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh
tế với khu vực và thế giới
ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối
với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương
hóa đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực thế
giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại đầu tư. Đến nay, Việt Nam
thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng đã ký kết
51 Hiệp định khuyến khích bảo hộ đầu tư, trong đó Hiệp định thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với
Nhật Bản. Thông qua tiếng nói sự ủng hộ của các nhà đầu nước ngoài, hình
ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện.
b. Mặt hạn chế:
Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt động ĐTNN
tại Việt Nam còn những mặt hạn chế như sau:
• Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ
Mục đích cao nhất của các nhà đầu lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực,
ngành, dự án tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu quan tâm, còn
những dự án, lĩnh vực mặc rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi
nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài.
Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu
thường tập trung vào những nơikết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó
các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng
bằng nơi tập trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi,
vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế,
mặc chính phủ chính quyền địa phương những ưu đãi cao hơn nhưng
không được các nhà đầu tư quan tâm.
7
Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát
triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá
tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng trình độ
kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp.
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ
đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực
có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN.
Tranh chấp lao động trong khu vực vốn đầu nước ngoài chưa
được giải quyết kịp thời
Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh
nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất
kinh doanh. Nhìn chung người chủ thường trả công cho người lao động thấp hơn
cái họ đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động.
Điều đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động người lao động, dẫn đến
tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho doanh nghiệp.
ĐTNN ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn doanh nghiệp của các nước và
vũng lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở
Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hóa trong quan hệ
giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp ĐTNN.
• Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ
Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN thường
cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta.
Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật
Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã
nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị công nghệ lạc hậu thậm chí
những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị là
giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế
8
giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong
các liên doanh với Việt Nam.
Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện
thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ
chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp nhận
đầu nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó thể đánh giá chính xác giá trị thực
của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành
công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả
đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ.
II. THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG FDI Ở VIỆT NAM
1. Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ 1988-2009
Tính đến cuối năm 2009, cả nước hơn 10.960 dự án ĐTNN được cấp
phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 177,1 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm).
Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng
cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế - xã hội đất nước.
Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn
đăng cấp mới 18,3 tỷ USD) tác động tích cực đến tình hình KT-XH đất
nước.
Thời kỳ 1991-1996 được xem thời kỳ bùng nổ ĐTNN tại Việt Nam với
1.781 dự án được cấp phép tổng số vốn đăng (gồm cả vốn cấp mới tăng
vốn) 28,3 tỷ USD. Đây giai đoạn môi trường đầu kinh doanh tại Việt
Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư kinh doanh thấp so với một số
nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động nhân công giá rẻ, thị trường mới,
vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng. Năm 1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn
đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ
USD vốn đăng k, tăng 45% so với năm trước.
9
Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng
hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ
bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếucác dự án
có quyvốn vừanhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp
phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu
gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông).
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu
phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với
năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng giảm,
chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm
2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với
năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% năm 2007 đạt mức kỷ
lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi
so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng.
Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức
năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các
dự án quy vừa nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN
vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy
mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm
công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch
– dịch vụ cao cấp,...).
Bước vào năm 2008, những diễn biến không thuận của tình hình kinh tế thế
giới và những khó khăn trong nội tại nền kinh tế đã có những tác động tiêu cực đến
khả năng phát triển của đất nước. Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn thu hút được
lượng lớn nguồn vốn đầu trực tiếp nước ngoài (FDI). Tổng số dự án FDI được
cấp mới vào Việt Nam cả năm 2008 1.171 dự án với tổng số vốn đăng đạt
60,217 tỷ USD, tăng 222% so với năm 2007.
10
Trong năm 2009 cả nước có 839 dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn
đăng ký 16,34 tỷ USD. Tuy chỉ bằng 24,6 % so với năm 2008 nhưng đây là cũng là
con số khá cao trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay.
Theo các báo cáo nhận được, trong 3 tháng đầu năm 2010 cả nước 139
dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn đăng 1,9 tỷ USD. Tổng vốn đầu
cấp mới chỉ bằng 59,5 % so với cùng kỳ 2010 nhưng 1,9 tỷ USD đăng mới
cũng con số khá cao trong bối cảnh kinh tế hiện nay. 25 quốc gia vùng lãnh
thổ dự án đầu tại Việt Nam trong 3 tháng đầu 2010, các nhà đầu lớn nhất
lần lượt là Hoa Kỳ với tổng vốn đăng ký là 979,8 triệu USD chiếm 45,8% tổng vốn
đầu tư vào Việt Nam, Hàn Quốc đứng thứ 2 với tổng vốn đăng 584,8 triệu USD
chiếm 27,3%, đứng thứ 3 Singapore với tổng vốn đăng 146,7 triệu USD
chiếm 6,9% .
2. Tình hình tăng vốn đầu tư
Cùng với việc thu hút các dự án đầu mới, nhiều dự án sau khi hoạt
động có hiệu quả đã mở rộng quy sản xuất kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư,
nhất từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 gần 4.100 lượt dự án
tăng vốn đầu tư, đến hết năm 2009, tổng vốn tăng thêm gần 27,8 tỷ USD.
Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu hầu như chưa do số lượng
doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5
năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với 5 năm trước
(4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt
18% so dự kiến 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn
đầu tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 từ năm 2004 đến
2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%.
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất
công nghiệp xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7%
11
trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm
2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm.
Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh
tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam
chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000
71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 2007 tỷ lệ tương ứng
71% 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc tỷ lệ tương ứng 36,7%; 20,4%;
21,1%; 24% và 20%.
Năm 2008, số dự án tăng vốn cũng rất lớn với 311 dự án đăng ký tăng thêm
3,74 tỷ USD. Tính chung cả vốn đăng cấp mới vốn đăng tăng thêm, tổng
số vốn FDI năm 2008 đạt 64,011 tỷ USD, tăng gấp gần 3 lần so với năm 2007.
Trong năm 2009, 215 dự án đăng tăng vốn đầu với tổng vốn đăng
ký tăng thêm là 5,13 tỷ USD, bằng 98,3% so với năm 2008. Tính chung cả cấp mới
và tăng vốn, trong năm 2009, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt
Nam 21,48 tỷ USD, bằng 30% so với năm 2008.
Trong 3 tháng đầu năm 2010, có 41 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng
vốn đăng ký tăng thêm là 215 triệu USD, bằng 5,2% so với cùng kỳ năm trước Vốn
tăng thêm trong 3 tháng đầu năm 2010 thấp thể hiện khó khăn trong việc mở rộng
sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài.
Tính chung cả cấp mới tăng vốn, trong 3 tháng đầu năm 2010, các nhà
đầu tư nước ngoài đã đăng đầu tư vào Việt Nam 2,13 tỷ USD, bằng 29% so với
cùng kỳ năm trước.
12
3. Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài từ 1988-2007
a. Đầu tư nước ngoài phân theo ngành nghề
Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng
Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp xây dựng tỷ trọng lớn
nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8%
về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.
ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng tính đến năm 2007
STT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư (USD) Vốn thực hiện (USD)
1 CN dầu khí 38 3,861,511,815 5,148,473,303
2 CN nhẹ 2,542 13,268,720,908 3,639,419,314
3 CN nặng 2,404 23,976,819,332 7,049,365,865
4 CN thực phẩm 310 3,621,835,550 2,058,406,260
5 Xây dựng 451 5,301,060,927 2,146,923,027
Tổng số 5,745 50,029,948,532 20,042,587,769
Lĩnh vực dịch vụ
Một số ngành dịch vụ : bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản, tăng
trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu.
13
ĐTNN vào lĩnh vực dịch vụ tính đến năm 2007
STT Chuyên ngành Số dự án
Vốn đầu tư
(triệu USD)
Vốn thực hiện
(triệu USD)
1 Giao thông vận tải – Bưu điện 208 4.287 721
2 Du lịch - Khách sạn 223 5.883 2.401
3 Xây dựng văn phòng, căn hộ để
bán và cho thuê
153 9.262 1.892
4 Phát triển khu đô thị mới 9 3.477 283
5 Kinh doanh hạ tầng KCN-KCX 28 1.406 576
6 Tài chính – ngân hàng 66 897 714
7 Văn hoá - y tế – giáo dục 271 1.248 367
8 Dịch vụ khác (giám định, vấn,
trợ giúp pháp lý, nghiên cứu thị
trường...)
954 2.145 445
Tổng cộng 1.912 28.609 7.399
Trong năm 2007 tuy vốn đầu đăng tiếp tục tập trung vào lĩnh vực
công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực
dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006
(31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng
khu vui chơi, giải trí,...
Lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp
Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu
phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng của ngành, đồng
bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc khu vực
miền Trung, lượng vốn đầu còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng
lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
ĐTNN vào lĩnh v c nông-lâm-ng nghi p tnh đếến năm 2007 ư
STT Ngành Số dự án Vốn đầu tư Vốn thực hiện
14
(USD) (USD)
1 Nông – lâm nghiệp 803 4,014,833,499 1,856,710,521
2 Thủy sản 130 450,187,779 169,822,132
Tổng 933 4,465,021,278 2,026,532,653
b. Đầu tư nước ngoài phân theo vùng, lãnh thổ
Chia làm 3 vùng trọng điểm:
Vùng trọng điểm phía Bắc
Có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về
số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước; -
Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn
đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng.
Tiếp theo thứ tự là: (slide)
Vùng trọng điểm phía Nam
Thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu 44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng
vốn đăng ký.
Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước (2.398 dự án với tổng vốn đăng
ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký của vùng.
Tiếp theo thứ tự là: (slide)
Vùng trọng điểm miền Trung
Thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký 8,6 tỷ USD qua 20 năm thực
hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả nước.
Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng 1,9 tỷ USD) hiện đứng đầu các
tỉnh miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũngcó vốn đăng ký 1,7
tỷ USD.
Tiếp theo là: (slide)
Tính đến cuối 2009, địa phương thu hút được nhiều FDI nhất là TP. Hồ Chí
Minh, thứ hai là Bà Rịa – Vũng Tàu, thứ ba là Hà Nội.
c. Đầu tư nước ngoài phân theo hình thức đầu tư
15
Tính đến hết năm 2007, chủ yếu các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện theo
hình thức 100% vốn nước ngoài, có 6.685 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký 51,2
tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký.
Theo hình thức liên doanh 1.619 dự án với tổng vốn đăng 23,8 tỷ
USD, chiếm 18,8% về số dự án và 28,7% tổng vốn đăng ký.
Theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh 221 dự án với tổng vốn
đăng ký 4,5 tỷ USD chiếm 2,5% về số dự án và 5,5% tổng vốn đăng ký.
Số còn lại thuộc các hình thức khác như BOT, BT, BTO.
d. Đầu tư nước ngoài phân theo đối tác đầu tư
Cho tới cuối 2009, có 20 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng kí cam
kết trên 1 tỷ USD tại Việt Nam (trình bày theo slide, nêu tên 3 nước đứng đầu về số
vốn đăng kí, và về số vốn thực hiện).
2. Tình hình triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án
ĐTNN
a. Giải ngân vốn ĐTNN
Các dự án ĐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu phát triển
kinh tế-xã hội đất nước qua từng thời kỳ theo mục tiêu kế hoạch đề ra.
Vốn thực hiện xu hướng tăng qua các năm nhưng với tốc độ chậm trong
khi vốn đăng ký và số lượng dự án cấp mới biến động tăng mạnh. Nếu như cả giai
đoạn 1991-1995 vốn thực hiện mới đạt 7,1 tỷ USD, chiếm 44% tổng vốn đăng
mới (bao gồm phần vốn góp của bên Việt Nam trên 1 tỷ USD - chủ yếu giá trị
quyền sử dụng đất và vốn nước ngoài đưa vào khoảng 6,1 tỷ USD) thì trong thời kỳ
1996-2000, mặc ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực, vốn
thực hiện đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng 89% so với 5 năm trước, chiếm 64,8% tổng vốn
đăng mới (trong đó, vốn góp của bên Việt Nam 1,4 tỷ USD vốn từ nước
ngoài đạt 12 tỷ USD) và tăng 90% so với 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005 vốn
thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, chiếm 64,8% tổng vốn đăng mới, tăng 6% so với 5
16
năm trước vượt 30% dự báo ban đầu (11 tỷ USD) nêu tại Nghị quyết
09/2001/NQ-CP, trong đó, vốn góp của bên Việt Nam đạt trên 1,1 tỷ USD và vốn từ
nước ngoài đạt 12,6 tỷ USD. Riêng hai năm 2006 2007 tổng vốn thực hiện đạt
8,7 tỷ USD (trong đó, vốn góp của bên Việt Nam đạt gần 1 tỷ USDvốn từ nước
ngoài đạt 7,7 tỷ USD), tuy chỉ bằng 27% tổng vốn đăng mới, nhưng vốn thực
hiện năm 2007 tăng 12% so với năm 2006. Tổng số vốn thực hiện từ khoảng 4 tỉ
trong năm 2006 lên 12 tỉ USD vào cuối năm 2008.
Trong năm 2009, ước tính các dự án đầu trực tiếp nước ngoài đã giải
ngân được 10 tỷ USD, bằng 87% so với năm 2008.
b. Triển khai hoạt động sản xuất - kinh doanh của dự án ĐTNN
Hơn 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã góp phần đáng kể trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị doanh thu
đáng kể, trong đó giá trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực vào ngân sách
và tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng thời, tiếp tục khẳng
định vai trò trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước thực sự trở thành bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế. Từ mức đóng góp trung bình 6,3% của GDP trong giai
đoạn 1991-1995, khu vực doanh nghiệp ĐTNN đã tăng lên 10,3% GDP của 5 năm
1996-2000. Trong thời kỳ 2001-2005, tỷ trọng trên đạt trung bình 14,6%. Riêng
năm 2005, khu vực ĐTNN đóng góp khoảng 15,5% GDP, cao hơn mục tiêu đề ra
tại Nghị quyết 09 (15%). Trong hai năm 2006 2007 khu vực kinh tế vốn
ĐTNN đóng góp trên 17% GDP.
17
III. THUẬN LỢI KHÓ KHĂN TRONG THU HÚT SỬ DỤNG FDI
TẠI VIỆT NAM
1. Thuận lợi
Việt Nam đã ký các cam kết liên quan đến đầu tư nước ngoài
Việt Nam đã các hiệp định song phương đa phương về đầu nước
ngoài như: Hiệp định về các biện pháp đầu liên quan đến thương mại (TRIMS),
hiệp định đầu tư Việt Nam - Nhật Bản, hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN,
hiệp định giữa Việt Nam Bulgaria về khuyến khích bảo hộ đầu tư, hiệp định
khung về quan hệ Việt Nam - Uỷ ban Châu Âu (EC), hiệp định về chương trình ưu
đãi thuế quan (CEPT), Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GAT), hiệp định
thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ… Trong những cam kết đó đặc biệt phải kể đến
hiệp định thương mại tự do của WTO.
Các hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư được dựa trên các nguyên
tắc:
- Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích đầu của bên kết bằng việc
chấp nhận đầu đó trên nguyên tắc công bằng, thoả đáng, không gây phương hại
bằng biện pháp bất hợp lý và phân biệt đối xử.
- Không trưng thu, trưng dụng tài sản của nhà đầu bằng các biện pháp
hành chính, trừ trường hợp vì mục đích công cộng thì tuân thủ phương châm không
phân biệt đối xử bồi thường nhanh chóng, đầy đủ theo đúng giá thị trường, phù
hợp với thủ tục luật định.
- Đảm bảo quyền chuyển vốn, lợi nhuận các khoản thu nhập hợp pháp
khác của nhà đầu tư về nước theo nguyên tắc “không chậm trễ và bằng đồng tiền tự
do chuyển đổi”
- Công nhận quyền của nhà đầu tư trong việc đưa vụ tranh chấp với cơ quan
nhà nước ra toà hành chính, trọng tài hoặc bất kỳ chế giải quyết tranh chấp nào
do nhà đầu tư lựa chọn.
18
Môi trường xã hội và chính trị ổn định
Nước ta duy trì được ổn định chính trị hội, an ninh được đảm bảo, được
đánh giá địa bàn đầu an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới,
đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Nền kinh tế tăng trưởng cao,
thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, nhất là về khả năng mở rộng dung
lượng thị trường trong nước của trên 80 triệu dân.
Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành chính
quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn (đẩy nhanh lộ trình áp dụng chế
một giá, hỗ trợ nhà đầu giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách
hành chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ khó khăn cho việc triển khai dự án).
Đường lối đối ngoại mở rộng và tích cực
Cùng với sự ổn đinh về chính trị-xã hội , Việt Nam đường lối đối ngoại
mở rộng, đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược mở cửa hướng về xuất khẩu, mở rộng
quan hệ hợp tác đầu tư nước ngoài.
Với phương châm “Việt nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế” nước ta đã chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình
thích hợp thực hiện đúng các cam kết quốc tế trong quan hệ đa phương song
phương.
Hiện nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước, quan
hệ buôn bán với hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ và tiếp nhận đầu tư của gần 80
quốc gia. Chính việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước đã
tạo điều kiện cần thiết thuận lợi để thu hút đầu nước ngoài của các công ty
xuyên quốc gia (TNCs).
Công tác vận động xúc tiến đầu ngày càng được cải tiến, tiến hành
nhiều ngành, nhiều cấp, trong nước nước ngoài dưới hình thức đa dạng, kết
hợp với các chuyến thăm, làm việc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gắn với
19
việc quảng bá rộng rãi hình ảnh Việt Nam và vận động đầu tư - xúc tiến thương mại
và du lịch.
Có những lợi thế so sánh
Việt Nam có điều kiện tự nhiên và trí địa đặc biệt thuận lợi. Nằm ở vị trí
trung tâm của vùng Đông Nam Á. Các tuyến đường hàng không hàng hải trên
thế giới đều rất gần Việt Nam, tạo điều kiện cho giao thương buôn bán với các
nước trong khu vực trên thế giới. Mặt khác, Việt Nam nguồn tài nguyên
cùng đa dạng đứng thứ 7 trong số 15 quốc gia giầu tài nguyên nhất thế giới.
Người lao động Việt Nam rất sáng tạo trong công việc.
Tóm lại, những lợi thế của Việt Nam sẽ điều kiện để các TNCs đầu
khai thác, mở rộng thị trường, tìm kiếm lợi nhuận cao. Vấn đề là chúng ta phải biết
lựa chọn các nhà đầu thực sự tiềm lực, muốn làm ăn lâu dài. Đồng thời Việt
Nam cần chính sách mềm dẻo khôn khéo để vừa thu hút các TNCs vừa đảm
bảo khai thác hiệu quả nhữg lợi thế của mình theo nguyên tắc giữ vững độc lập
chủ quyền và hai bên cùng có lợi.
2. Khó khăn
duy kinh tế chậm đổi mới. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường
theo nguyên tắc thị trường. Thực tế xử các vấn đề cụ thể nhiều Bộ, ngành
địa phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa đầu tư trong nước và ĐTNN, chưa
thực sự coi ĐTNN thành phần kinh tế của Việt Nam. Điều đó thể hiện ngay từ
khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế (lao động, đất
đai, vốn…) cũng chưa thực sự cho phép ĐTNN tham gia. Việc xử tranh chấp
kinh tế giữa các bên cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt Nam. Trong
những thời điểm khó khăn, ta tranh thủ vốn ĐTNN nhưng khi điều kiện thuận lợi
lại xu hướng không khuyến khích ĐTNN để trong nước tự làm; những biểu
hiện này có tác động làm nản lòng nhà ĐTNN.
20
| 1/28

Preview text:

Lời mở đầu
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây luôn ở mức cao so với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Đạt được thành tựu đó là nhờ những chính
sách, đường lối kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Trong đó, chính sách thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã thực sự đem lại hiệu quả cao.
Hiện nay, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã có sự tăng trưởng
đáng kể, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của nước ta trong những
năm qua. FDI không ngừng tăng lên với sự đa dạng về nhà đầu tư cũng như số
lượng đầu tư vào Việt Nam. Tuy trong những năm gần đây, nước ta đã có một cơ
cấu vốn FDI tương đối lớn so với nhiều nước trên thế giới, nhưng tốc độ tăng
nguồn vốn FDI của nước ta vẫn còn thấp, nhất là khối lượng vốn đầu tư chưa thật
sự cao. Khả năng thu hút vốn đầu tư của nước ta so với các nước trên thế giới vẫn
còn thấp, đặc biệt là so với các nước châu Á, Đông Nam Á.
Xuất phát từ thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI tại Việt Nam, có thể
thấy rằng việc tăng khả năng thu hút đầu tư nói chung và thu hút vốn FDI nói riêng
cần được Nhà nước chú trọng, phát triển. Cùng với đó, Chính phủ cũng cần xây
dựng một chiến lược sử dụng vốn FDI một cách hợp lí, đúng đắn với sự phát triển
và cơ cấu của nền kinh tế quốc dân. 1 I. TỔNG QUAN VỀ FDI
1. Quan niệm về FDI
Ưu điểm của FDI so với các nguồn vốn khác
 FDI không để lại gánh nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư về chính
trị, kinh tế như hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hoặc các hình thức đầu tư nước
ngoài như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài… Do vậy, FDI là
hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước tiếp nhận đầu tư.
 Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn khỏi nước sở tại như đầu tư gián tiếp.
Kinh nghiệm rút ra từ khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực 1997 đã cho thấy,
những nước chịu tác động nặng nề của khủng hoảng thường là những nước nhận
nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Nên FDI mang tính ổn định hơn so với
những khoản đầu tư khác.
2. Tác động của FDI đối với Việt Nam
a. Mặt tích cực
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng
trong nền kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất.
Về mặt kinh tế
ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu
cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế
Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ
trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ
này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoảng
16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16% (Theo Niên
giám Thống kê cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực ĐTNN năm 2003 là 16%, 2
năm 2004 là 14,2%, năm 2005 là 14,9% và năm 2006 là 15,9%, ước năm 2007 đạt trên 16%).
Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm
1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm
7,56%, trong đó: (i) 5 năm 1991-1995: tăng 8,18%; (ii) 5 năm 1996-2000: tăng
6,94%; (iii) 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5%; (iv) Năm 2006 đạt
8,17% và (iv) Năm 2007 đạt 8,48%, 2008 đạt 6,23%; 2009 đạt 5,3%.
ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng
cao năng lực sản xuất công nghiệp
Trong 20 năm qua ĐTNN đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng
của nền kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó từng bước
trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành
công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhiều công trình lớn đã
hoàn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu tư, nhiều công trình trọng điểm
làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi công và đẩy nhanh tiến độ,
nhất là các công trình điện, dầu khí, công nghiệp nặng, công nghiệp phục vụ xuất khẩu...
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn
mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng tỷ trọng của khu vực
kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm
1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006).
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5 năm
qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Cụ thể tỷ
trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm 2004 và 2005. Đặc
biệt, một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc..) tỷ lệ này đạt đến
65-70% giá trị sản xuất công nghiệp của địa bàn. 3
ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của
nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy,
thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da
giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công
nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33% hàng
điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi, 25% hàng may mặc.
ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem
lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ.
ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ
ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam,
phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm dò
và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy... Nhất
là sau khi Tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ đô la Mỹ vào Việt Nam trong dự án sản xuất
linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh vực công
nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech.v.v)
Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm
lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.
Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng
các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác
động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa
doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng
lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này có
thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang 4
giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN
cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng
trong bối cảnh toàn cầu hóa.
ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức
đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời
kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách
đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách
trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm.
Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt
trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005.
ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối
ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc
chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc
tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu...
ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn
mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN
đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23%
kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả
dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007.
ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu
khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng 5
may mặc… Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều
sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới.
Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách sạn cao
cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng đáp ứng
nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ.
Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội
nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Về mặt xã hội:
• ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao
động, cải thiện nguồn nhân lực
Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao
động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB
cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong
khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống
một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm.
Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ
thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật,
công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học
hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc
đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức
quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên
thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc
tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài
trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại. 6
• ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh
tế với khu vực và thế giới
ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối
với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương
hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt Nam là
thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng đã ký kết
51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với
Nhật Bản. Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài, hình
ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện.
b. Mặt hạn chế:
Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt động ĐTNN
tại Việt Nam còn những mặt hạn chế như sau:
• Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ
Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực,
ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn
những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi
nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài.
Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư
thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó
các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng
bằng là nơi tập trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi,
vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế,
mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng
không được các nhà đầu tư quan tâm. 7
Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát
triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá
tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ
kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp.
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ
đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực
có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN.
• Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa
được giải quyết kịp thời
Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh
nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất
kinh doanh. Nhìn chung người chủ thường trả công cho người lao động thấp hơn
cái mà họ đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động.
Điều đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến
tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho doanh nghiệp.
ĐTNN ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn doanh nghiệp của các nước và
vũng lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở
Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hóa trong quan hệ
giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp ĐTNN.
• Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ
Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN thường
cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta.
Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật
Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã
nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là
những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị là
giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế 8
giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong
các liên doanh với Việt Nam.
Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện
thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ
chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp nhận
đầu tư nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực
của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành
công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả
đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ.
II. THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG FDI Ở VIỆT NAM
1. Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ 1988-2009
Tính đến cuối năm 2009, cả nước có hơn 10.960 dự án ĐTNN được cấp
phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 177,1 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm).
Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký
cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế - xã hội đất nước.
Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn
đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình KT-XH đất nước.
Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ bùng nổ ĐTNN tại Việt Nam với
1.781 dự án được cấp phép có tổng số vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng
vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư – kinh doanh tại Việt
Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư kinh doanh thấp so với một số
nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động nhân công giá rẻ, thị trường mới, vì
vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng. Năm 1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn
đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ
USD vốn đăng k, tăng 45% so với năm trước. 9
Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký
hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ
bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án
có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp
phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư
gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông).
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu
phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với
năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm,
chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm
2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với
năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ
lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi
so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng.
Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức
năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các
dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN
vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy
mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm
công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch
– dịch vụ cao cấp,...).
Bước vào năm 2008, những diễn biến không thuận của tình hình kinh tế thế
giới và những khó khăn trong nội tại nền kinh tế đã có những tác động tiêu cực đến
khả năng phát triển của đất nước. Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn thu hút được
lượng lớn nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tổng số dự án FDI được
cấp mới vào Việt Nam cả năm 2008 là 1.171 dự án với tổng số vốn đăng ký đạt
60,217 tỷ USD, tăng 222% so với năm 2007. 10
Trong năm 2009 cả nước có 839 dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn
đăng ký 16,34 tỷ USD. Tuy chỉ bằng 24,6 % so với năm 2008 nhưng đây là cũng là
con số khá cao trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay.
Theo các báo cáo nhận được, trong 3 tháng đầu năm 2010 cả nước có 139
dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD. Tổng vốn đầu tư
cấp mới chỉ bằng 59,5 % so với cùng kỳ 2010 nhưng 1,9 tỷ USD đăng ký mới
cũng là con số khá cao trong bối cảnh kinh tế hiện nay. 25 quốc gia và vùng lãnh
thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam trong 3 tháng đầu 2010, các nhà đầu tư lớn nhất
lần lượt là Hoa Kỳ với tổng vốn đăng ký là 979,8 triệu USD chiếm 45,8% tổng vốn
đầu tư vào Việt Nam, Hàn Quốc đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký 584,8 triệu USD
chiếm 27,3%, đứng thứ 3 là Singapore với tổng vốn đăng ký 146,7 triệu USD chiếm 6,9% .
2. Tình hình tăng vốn đầu tư
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt
động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư,
nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án
tăng vốn đầu tư, đến hết năm 2009, tổng vốn tăng thêm gần 27,8 tỷ USD.
Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng
doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5
năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với 5 năm trước
(4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt
18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn
đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến
2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%.
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất
công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% 11
trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm
2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm.
Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh
tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam
chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và
71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là
71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4%; 21,1%; 24% và 20%.
Năm 2008, số dự án tăng vốn cũng rất lớn với 311 dự án đăng ký tăng thêm
3,74 tỷ USD. Tính chung cả vốn đăng ký cấp mới và vốn đăng ký tăng thêm, tổng
số vốn FDI năm 2008 đạt 64,011 tỷ USD, tăng gấp gần 3 lần so với năm 2007.
Trong năm 2009, có 215 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng
ký tăng thêm là 5,13 tỷ USD, bằng 98,3% so với năm 2008. Tính chung cả cấp mới
và tăng vốn, trong năm 2009, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt
Nam 21,48 tỷ USD, bằng 30% so với năm 2008.
Trong 3 tháng đầu năm 2010, có 41 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng
vốn đăng ký tăng thêm là 215 triệu USD, bằng 5,2% so với cùng kỳ năm trước Vốn
tăng thêm trong 3 tháng đầu năm 2010 thấp thể hiện khó khăn trong việc mở rộng
sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài.
Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong 3 tháng đầu năm 2010, các nhà
đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 2,13 tỷ USD, bằng 29% so với cùng kỳ năm trước. 12
3. Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài từ 1988-2007
a. Đầu tư nước ngoài phân theo ngành nghề
Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng
Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn
nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8%
về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.
ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng tính đến năm 2007 STT Chuyên ngành Số dự án
Vốn đầu tư (USD)
Vốn thực hiện (USD) 1 CN dầu khí 38 3,861,511,815 5,148,473,303 2 CN nhẹ 2,542 13,268,720,908 3,639,419,314 3 CN nặng 2,404 23,976,819,332 7,049,365,865 4 CN thực phẩm 310 3,621,835,550 2,058,406,260 5 Xây dựng 451 5,301,060,927 2,146,923,027 Tổng số 5,745 50,029,948,532 20,042,587,769
Lĩnh vực dịch vụ
Một số ngành dịch vụ : bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản, tăng
trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. 13
ĐTNN vào lĩnh vực dịch vụ tính đến năm 2007 Vốn đầu tư
Vốn thực hiện STT Chuyên ngành Số dự án (triệu USD) (triệu USD) 1
Giao thông vận tải – Bưu điện 208 4.287 721 2 Du lịch - Khách sạn 223 5.883 2.401 3
Xây dựng văn phòng, căn hộ để 153 9.262 1.892 bán và cho thuê 4
Phát triển khu đô thị mới 9 3.477 283 5 Kinh doanh hạ tầng KCN-KCX 28 1.406 576 6 Tài chính – ngân hàng 66 897 714 7
Văn hoá - y tế – giáo dục 271 1.248 367 8
Dịch vụ khác (giám định, tư vấn,
trợ giúp pháp lý, nghiên cứu thị 954 2.145 445 trường...) Tổng cộng 1.912 28.609 7.399
Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực
công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực
dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006
(31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí,...
Lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp
Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở
phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng
bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực
miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng
lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
ĐTNN vào lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệ p tnh đếến năm 2007 STT Ngành Số dự án Vốn đầu tư
Vốn thực hiện 14 (USD) (USD) 1 Nông – lâm nghiệp 803 4,014,833,499 1,856,710,521 2 Thủy sản 130 450,187,779 169,822,132 Tổng 933 4,465,021,278 2,026,532,653
b. Đầu tư nước ngoài phân theo vùng, lãnh thổ
Chia làm 3 vùng trọng điểm:
Vùng trọng điểm phía Bắc
Có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về
số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước; -
Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn
đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng.
Tiếp theo thứ tự là: (slide)
Vùng trọng điểm phía Nam
Thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký.
Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước (2.398 dự án với tổng vốn đăng
ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký của vùng.
Tiếp theo thứ tự là: (slide)
Vùng trọng điểm miền Trung
Thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký 8,6 tỷ USD qua 20 năm thực
hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả nước.
Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD) hiện đứng đầu các
tỉnh miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô có vốn đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiếp theo là: (slide)
Tính đến cuối 2009, địa phương thu hút được nhiều FDI nhất là TP. Hồ Chí
Minh, thứ hai là Bà Rịa – Vũng Tàu, thứ ba là Hà Nội.
c. Đầu tư nước ngoài phân theo hình thức đầu tư 15
Tính đến hết năm 2007, chủ yếu các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện theo
hình thức 100% vốn nước ngoài, có 6.685 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký 51,2
tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký.
Theo hình thức liên doanh có 1.619 dự án với tổng vốn đăng ký 23,8 tỷ
USD, chiếm 18,8% về số dự án và 28,7% tổng vốn đăng ký.
Theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh có 221 dự án với tổng vốn
đăng ký 4,5 tỷ USD chiếm 2,5% về số dự án và 5,5% tổng vốn đăng ký.
Số còn lại thuộc các hình thức khác như BOT, BT, BTO.
d. Đầu tư nước ngoài phân theo đối tác đầu tư
Cho tới cuối 2009, có 20 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng kí cam
kết trên 1 tỷ USD tại Việt Nam (trình bày theo slide, nêu tên 3 nước đứng đầu về số
vốn đăng kí, và về số vốn thực hiện).
2. Tình hình triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án ĐTNN
a. Giải ngân vốn ĐTNN
Các dự án ĐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển
kinh tế-xã hội đất nước qua từng thời kỳ theo mục tiêu kế hoạch đề ra.
Vốn thực hiện có xu hướng tăng qua các năm nhưng với tốc độ chậm trong
khi vốn đăng ký và số lượng dự án cấp mới biến động tăng mạnh. Nếu như cả giai
đoạn 1991-1995 vốn thực hiện mới đạt 7,1 tỷ USD, chiếm 44% tổng vốn đăng ký
mới (bao gồm phần vốn góp của bên Việt Nam trên 1 tỷ USD - chủ yếu là giá trị
quyền sử dụng đất và vốn nước ngoài đưa vào khoảng 6,1 tỷ USD) thì trong thời kỳ
1996-2000, mặc dù có ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực, vốn
thực hiện đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng 89% so với 5 năm trước, chiếm 64,8% tổng vốn
đăng ký mới (trong đó, vốn góp của bên Việt Nam là 1,4 tỷ USD và vốn từ nước
ngoài đạt 12 tỷ USD) và tăng 90% so với 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005 vốn
thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới, tăng 6% so với 5 16
năm trước và vượt 30% dự báo ban đầu (11 tỷ USD) nêu tại Nghị quyết
09/2001/NQ-CP, trong đó, vốn góp của bên Việt Nam đạt trên 1,1 tỷ USD và vốn từ
nước ngoài đạt 12,6 tỷ USD. Riêng hai năm 2006 và 2007 tổng vốn thực hiện đạt
8,7 tỷ USD (trong đó, vốn góp của bên Việt Nam đạt gần 1 tỷ USD và vốn từ nước
ngoài đạt 7,7 tỷ USD), tuy chỉ bằng 27% tổng vốn đăng ký mới, nhưng vốn thực
hiện năm 2007 tăng 12% so với năm 2006. Tổng số vốn thực hiện từ khoảng 4 tỉ
trong năm 2006 lên 12 tỉ USD vào cuối năm 2008.
Trong năm 2009, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải
ngân được 10 tỷ USD, bằng 87% so với năm 2008.
b. Triển khai hoạt động sản xuất - kinh doanh của dự án ĐTNN
Hơn 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã góp phần đáng kể trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị doanh thu
đáng kể, trong đó có giá trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực vào ngân sách
và tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng thời, tiếp tục khẳng
định vai trò trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước và thực sự trở thành bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế. Từ mức đóng góp trung bình 6,3% của GDP trong giai
đoạn 1991-1995, khu vực doanh nghiệp ĐTNN đã tăng lên 10,3% GDP của 5 năm
1996-2000. Trong thời kỳ 2001-2005, tỷ trọng trên đạt trung bình là 14,6%. Riêng
năm 2005, khu vực ĐTNN đóng góp khoảng 15,5% GDP, cao hơn mục tiêu đề ra
tại Nghị quyết 09 (15%). Trong hai năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn
ĐTNN đóng góp trên 17% GDP. 17
III. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG FDI TẠI VIỆT NAM 1. Thuận lợi
Việt Nam đã ký các cam kết liên quan đến đầu tư nước ngoài
Việt Nam đã ký các hiệp định song phương và đa phương về đầu tư nước
ngoài như: Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS),
hiệp định đầu tư Việt Nam - Nhật Bản, hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN,
hiệp định giữa Việt Nam và Bulgaria về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định
khung về quan hệ Việt Nam - Uỷ ban Châu Âu (EC), hiệp định về chương trình ưu
đãi thuế quan (CEPT), Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GAT), hiệp định
thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ… Trong những cam kết đó đặc biệt phải kể đến là
hiệp định thương mại tự do của WTO.
Các hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư được dựa trên các nguyên tắc:
- Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích đầu tư của bên ký kết bằng việc
chấp nhận đầu tư đó trên nguyên tắc công bằng, thoả đáng, không gây phương hại
bằng biện pháp bất hợp lý và phân biệt đối xử.
- Không trưng thu, trưng dụng tài sản của nhà đầu tư bằng các biện pháp
hành chính, trừ trường hợp vì mục đích công cộng thì tuân thủ phương châm không
phân biệt đối xử và bồi thường nhanh chóng, đầy đủ theo đúng giá thị trường, phù
hợp với thủ tục luật định.
- Đảm bảo quyền chuyển vốn, lợi nhuận và các khoản thu nhập hợp pháp
khác của nhà đầu tư về nước theo nguyên tắc “không chậm trễ và bằng đồng tiền tự do chuyển đổi”
- Công nhận quyền của nhà đầu tư trong việc đưa vụ tranh chấp với cơ quan
nhà nước ra toà hành chính, trọng tài hoặc bất kỳ cơ chế giải quyết tranh chấp nào
do nhà đầu tư lựa chọn. 18
Môi trường xã hội và chính trị ổn định
Nước ta duy trì được ổn định chính trị xã hội, an ninh được đảm bảo, được
đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới,
đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Nền kinh tế tăng trưởng cao,
thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, nhất là về khả năng mở rộng dung
lượng thị trường trong nước của trên 80 triệu dân.
Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và chính
quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn (đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế
một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách
hành chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ khó khăn cho việc triển khai dự án).
Đường lối đối ngoại mở rộng và tích cực
Cùng với sự ổn đinh về chính trị-xã hội , Việt Nam có đường lối đối ngoại
mở rộng, đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược mở cửa hướng về xuất khẩu, mở rộng
quan hệ hợp tác đầu tư nước ngoài.
Với phương châm “Việt nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế” nước ta đã chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình
thích hợp và thực hiện đúng các cam kết quốc tế trong quan hệ đa phương và song phương.
Hiện nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước, quan
hệ buôn bán với hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ và tiếp nhận đầu tư của gần 80
quốc gia. Chính việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước đã
tạo điều kiện cần thiết và thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia (TNCs).
Công tác vận động xúc tiến đầu tư ngày càng được cải tiến, tiến hành ở
nhiều ngành, nhiều cấp, ở trong nước và nước ngoài dưới hình thức đa dạng, kết
hợp với các chuyến thăm, làm việc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gắn với 19
việc quảng bá rộng rãi hình ảnh Việt Nam và vận động đầu tư - xúc tiến thương mại và du lịch.
Có những lợi thế so sánh
Việt Nam có điều kiện tự nhiên và trí địa lý đặc biệt thuận lợi. Nằm ở vị trí
trung tâm của vùng Đông Nam Á. Các tuyến đường hàng không và hàng hải trên
thế giới đều rất gần Việt Nam, tạo điều kiện cho giao thương buôn bán với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Mặt khác, Việt Nam có nguồn tài nguyên vô
cùng đa dạng và đứng thứ 7 trong số 15 quốc gia giầu tài nguyên nhất thế giới.
Người lao động Việt Nam rất sáng tạo trong công việc.
Tóm lại, những lợi thế của Việt Nam sẽ là điều kiện để các TNCs đầu tư
khai thác, mở rộng thị trường, tìm kiếm lợi nhuận cao. Vấn đề là chúng ta phải biết
lựa chọn các nhà đầu tư thực sự có tiềm lực, muốn làm ăn lâu dài. Đồng thời Việt
Nam cần có chính sách mềm dẻo và khôn khéo để vừa thu hút các TNCs vừa đảm
bảo khai thác có hiệu quả nhữg lợi thế của mình theo nguyên tắc giữ vững độc lập
chủ quyền và hai bên cùng có lợi. 2. Khó khăn
• Tư duy kinh tế chậm đổi mới. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường
theo nguyên tắc thị trường. Thực tế xử lý các vấn đề cụ thể ở nhiều Bộ, ngành và
địa phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa đầu tư trong nước và ĐTNN, chưa
thực sự coi ĐTNN là thành phần kinh tế của Việt Nam. Điều đó thể hiện ngay từ
khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế (lao động, đất
đai, vốn…) cũng chưa thực sự cho phép ĐTNN tham gia. Việc xử lý tranh chấp
kinh tế giữa các bên cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt Nam. Trong
những thời điểm khó khăn, ta tranh thủ vốn ĐTNN nhưng khi điều kiện thuận lợi
lại có xu hướng không khuyến khích ĐTNN mà để trong nước tự làm; những biểu
hiện này có tác động làm nản lòng nhà ĐTNN. 20