Thực trạng và giải pháp đổi mới nội dung và phương thức tuyên truyền của Đảng hiện nay | Tiểu luận hệ thống chính trị

Công tác tuyên truyền là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tường của Đảng ta. Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, những người cộng sản phải “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ,  đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
45 trang 3 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Thực trạng và giải pháp đổi mới nội dung và phương thức tuyên truyền của Đảng hiện nay | Tiểu luận hệ thống chính trị

Công tác tuyên truyền là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tường của Đảng ta. Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, những người cộng sản phải “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ,  đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

22 11 lượt tải Tải xuống
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác tuyên truyền một bộ phận quan trọng trong công tác tường của
Đảng ta. Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, những
người cộng sản phải “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn
kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. trong quá trình
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng tập trung làm tốt công tác
tuyên truyền. Thời kỳ tiến hành cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, công tác tuyên
truyền đã cổ toàn dân tộc đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, tạo dựng niềm tin
vững chắc vảo sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng chấp nhận hy sinh, gian khổ chiến đấu
vì mục tiêu độc lập thống nhất Tổ quốc. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, công
tác tuyên truyền luôn giữ vai trò đi đầu, đi cùng với mọi cuộc cách mạng của nhân dân
ta, góp phần làm nên những thành tựu to lớn vàý nghĩa lịch sử của nước ta. Thông
qua công tác tuyên truyền mà các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng vả Nhả
nước đến được với quẩn chúng, thúc đáy quần chúng hành động cách mạng, biến mọi
đường lối, chủ trương, chính sách đó thành hiện thực của cuộc sống.
Với nhiệm vụ vừa chỉ đạo, hướng dẫn vừa trực tiếp cùng sở thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước, đưa các chỉ thị, nghị quyết của cấp
trên vào cuộc sống, trong những năm qua công tác tuyên truyền của Đảng luôn được
coi trọng và tăng cường. Đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền của Đảng, của các
ban, ngành, đoàn thể chính trị - hội cán bộ, đảng viên trong toàn bộ hệ thống
chính trị bằng nhiều phương pháp, hình thức khác nhau đã tuyên truyền chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương đến đông đảo các tầng lóp nhân
dân. Bên cạnh đó, các lực lượng làm công tác tuyên truyền đã kịp thời phát hiện, cổ
những nhân tố mới, điển hình tiên tiến; đồng thời đấu tranh không khoan nhượng
với các luận điệu phản tuyên truyền, các tưởng lạc hậu, việc làm sai trái nhằm giữ
vững an ninh tư tưởng trên địa bàn.
Công tác tuyên truyền của Đảng được thực hiện tốt đã góp phần quan trọng tạo
nên sự đồng thuận trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quyết tâm vượt qua mọi khó
khăn, tận dụng thời cơ, tập trung phát triển kinh tế - hội, cải tạo xây dựng hạ
tầng kỹ thuật đô thị, phát triển đời sống văn hóa. Bên cạnh những kết quả đạt được,
công tác tuyên truyền của Đảng vẫn còn chậm đồi mới về nội dung, hình thức
phương pháp dẫn đến tính thuyết phục chưa cao; một số cấp ủy còn chưa quan tâm
đúng mức đến công tác lãnh, chỉ đạo hoạt động tuyên truyền; công tác tuyên truyền
trong các tầng lóp nhân dân còn chậm và đạt hiệu quả chưa cao; vẫn còn một bộ phận
cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chinh trị, đạo đức lối sống, bị xử
lý klý luật, làm giảm lòng tin của nhân dân, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng.
vậy, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra đánh giá đúng thực trạng, đề ra những giải
pháp nhằm đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền của Đảng, đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ mới. Đó là lý do tác giả chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp đổi mới nội
dung và phương thức tuyên truyền của Đảng hiện nay” làm đề tài tiểu luận.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đề tài nghiên cửu về công tác tuyên truyền với tư cách là một trong ba bộ phận
cấu thành của công tác tư tưởng của Đảng đã được đề cập trong nhiều công trình khoa
học với những quy mô và cấp độ khác nhau. Sau đây là một số công trình tiêu biểu:
- Học Hợi (chủ biên) (2002), Đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác tư tưởng, Nxb CTQG, H. Cuốn sách trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn việc
đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tưởng, dự báo tình hình tưởng
xã hội của nước ta đến năm 2020, đề xuất những giải pháp cơ bán và một số nhiệm vụ
trước mắt của công tác tư tưởng.
- Khoa Tuyên truyền, Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2003), Tập bài giảng
Nguyên tuyên truyền. Tài liệu khái quát những vấn đề chung về công tác tuyên
truyền, những quan điểm phương hướng bản đồi mới công tác tuyên truyền
trong điều kiện hiện nay.
- Hoàng Quốc Bảo (2006), Học tập phương pháp tuyên ừ'uyền cách mạng Hồ
Chí Minh, Nxb CTQG, H. Cuốn sách nêu lên những đặc trưng bản của phương
pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh, thực trạng những giải pháp bản nhằm nâng
cao, đồi mới phương pháp tuyên truyền của đội ngũ cán bộ tưởng theo phương
pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh.
- Hoàng Quốc Bảo (chủ biên) (2007), , Nxb LLCT, H. CuốnThông tin cổ động
sách giới thiệu về công tác thông tin cổ động trong hoạt động tư tưởng của Đảng; chức
năng, nhiệm vụ của công tác thông tin cồ động; cổ động miệng, cổ động trực quan...
- Lương Khắc Hiếu (chủ biên) (2008), (tập I và II),Nguyên lý công tác tư tưởng
Nxb CTQG, H. Cuốn sách giới thiệu những vấn đề chung nhất về đối tượng, bản chất,
hình thái, mục đích, chức năng, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp... của công tác
tưởng, trong đó có công tác tuyên truyền.
- Nguyễn Tất Thắng (chủ biên) (2010), Đổi mới công tác tưởng, luận phục
vụ sự nghiệp xảy dựng và hảo vệ Tổ quốc, Nxb CTQG, H. Cuốn sách trình bày những
vấn đề chung, phân tích thực trạng công tác tưởng, luận trong thời kỳ đổi mới;
phân tích, luận giải tình hình thế giới, trong nước trong thời gian tới, dự báo tình hình
tưởng hội những vấn đề đặt ra đối với đồi mới công tác tưởng, luận;
trình bày những quan điểm, phương hướng, giải pháp đổi mới công tác tưởng,
luận hiện nay.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đề cập đến công tác
tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam dưới những góc độ khác nhau, khái quát
những quan điểm bản về công tác tuyên truyền, vị trí, vai trò, nội dung, phương
pháp, những giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền. Tuy nhiên, thể nói chưa
đề tài khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về phương thức tuyên truyền của Đảng,
đặc biệt là vấn đề đồi mới nội dung và phương thức tuyên truyền của Đảng hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn đồi mới phương pháp cồng
tác tuyên truyền hiện nay, từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới
nội dung, phương thức tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
3.2. Nhiệm vu nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác tuyên truyền và đồi mới
nội dung, phương thức tuyên truyền của Đảng;
- Khảo sát, phân tích thực trạng đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền
của Đảng trong thời gian qua;
- Đề xuất giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền
của Đảng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới.
4. Đối tượng, phạm vi nghỉên cún
4.1. Đối tượng nghiên cửu
Đề tài tập trung nghiên cứu đổi mới nội dung, phương thức tun truyền của Đảng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung, phương thức tuyên truyền của Đảng từ năm 2012 đến 2017
5. Cơ sở lý luận và phuơng pháp nghỉên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng ta về công tác tư tưởng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của đề tài chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Các phương pháp cụ thể là: logic - lịch sử, quy nạp - diễn dịch, phân tích -
tổng hợp, so sánh, thống kê, nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực tế...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt luận: tìm hiểu những vấn đề luận chung về phương thức tuyên
truyền; từ đó rút ra những mặt được và hạn chế trong việc sử dụng phương thức tuyên
truyền của Đảng.
Về mặt thực tiễn: Đề ra những giải pháp đổi mới phương thức tuyên truyền của
Đảng, từ đó góp phần tăng cường công tác tư tưởng của Đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu đề ra.
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3
chương, 9 tiết.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC TUYÊN
TRUYỀN CỦA ĐẢNG
1.1. Khái niệm tuyên truyền
Công tác tuyên giáo của Đảng nói chung, công tác tưởng nói riêng luôn giữ
một vị trí quan trọng. Nhiệm vụ tuyên giáo được các cấp ủy Đảng xem như một vũ khí
sắc bén trong sự nghiệp xây dựng Đảng phát triển kinh tế hội, quốc phòng
an ninh. Vào những năm 1961-1964, đồng thời với việc đẩy mạnh toàn diện các hoạt
động tưởng, khoa giáo, Ban Tuyên giáo Trung ương đã chỉ đạo cụ thể hơn hoạt
động tuyên giáo các vùng, đặt biệt miền núi. Đồng bào các dân tộc miền núi
trước cách mạng tháng Tám cũng như trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống
Pháp rồi chống Mỹ, đã chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn, hi sinh để nuôi
dưỡng, đùm bọc, chở che cán bộ, bộ đội, cũng như xây dựng, bảo vệ căn cứ địa cách
mạng của cả nước.Tuyên truyền theo nghĩa rộng là hoạt động có mục đích của chủ thể
nhằm truyền những tri thức, giá trị tinh thần, tưởng đến đối tượng, biến những
kiến thức, giá trị tinh thần đó thành nhận thức, niềm tin, tình cảm của đối tượng, thôi
thúc đối tượng hành động theo những định hướng, những mục tiêu do chủ thể tuyên
truyền đặt ra. Chủ Tịch Hồ Chí Minh nói: “Tuyên truyền đem một việc đó nói
cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt mục đích đó, là tuyên truyền
thất bại”.
Tuyên truyền một bộ phận cấu thành của công tác tưởng. Khi xem xét
công táctưởng như một quá trình liên tục, V.I. Lênin khẳng định công tác tư tưởng
có ba hình thái: công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động (có nhiều
người gọi ba bộ phận). Ba hình thái đó tương ứng với các quá trình tưởng gồm:
sản xuất ra hệ tư tưởng; phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng; cổ vũ, động viên quần chúng
thực hiện. Công tác tuyên truyền hoạt động tiếp nối công tác luận, nhằm phổ
biến, truyền các nguyên luận, đường lối, chủ trương, chính sách vào quần
chúng. Mục đích cao nhất của tuyên truyền là làm cho hệ tư tưởng chiếm địa vị thống
trị trong xã hội. Tuyên truyền một trong những bộ phận quan trọng của công tác
tưởng, có nhiệm vụ phổ biến, truyền hệ tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến quần chúng nhân dân. Tuyên truyền gắn liền
với cổ động, nên tuyên truyền còn sự cổ vũ, động viên, thúc đẩy quần chúng hăng
hái tham gia các phong trào, biến nhận thức, niềm tin thành nhiệt huyết của quảng đại
quần chúng, thành hành động cách mạng. Công tác tuyên truyền uốn nắn những nhận
thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm, hành động sai trái, bảo vệ nền tảng
tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần
xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Tuyên truyền góp phần quan trọng vào việc
nâng cao nhận thức, hình thành củng cố niềm tin, giáo dục luận, đạo đức, lối
sống, lẽ sống; bồi dưỡng phương pháp, kỹ năng hành động cho cán bộ, đảng viên
quần chúng nhân dân.
Cùng với việc thực hiện các nguyên tắc của công tác tưởng, trong công tác
tuyên truyền cần tuân theo các nguyên tắc sau:
- Tính đảng, tính giai cấp Tuyên truyền sản phải phục vụ lợi ích của giai:
cấp công nhân nhân dân lao động. Tính đảng, tính giai cấp đòi hỏi khi trình bày,
giải thích mọi hiện tượng sự việc xảy ra trong thực tiễn đều phải đứng trên lập
trường của giai cấp công nhân, trên lợi ích của giai cấp và của dân tộc.
- Tính khoa học thực tiễn Tính khoa học, thực tiễn yêu cầu khi tuyên truyền:
phải dựa trên những luận cứ khoa học thực tiễn để nhìn nhận, phân tích sự việc,
hiện tượng, từ đó mà thuyết phục, cảm hoá đối tượng tuyên truyền
- Tính khoa học và thực tiễn: T ính khoa học, thực tiễn yêu cầu khi tuyên
truyền phải dựa trên những luận cứ khoa học thực tiễn để nhìn nhận, phân tích sự
việc, hiện tượng, từ đó thuyết phục, cảm hoá đối tượng tuyên truyền- Phản ánh
đúng đắn tâm tư, nguyện vọng của quần chúng trong quá trình thực hiện đường lối,
chính sách, pháp luật, từ đó kiến nghị những biện pháp bổ sung, sửa đổi, hoàn chỉnh
đường lối, chính sách, pháp luật.
- Tính chiến đấu: Tính chiến đấu là bản chất của công tác tuyên truyền chính trị,
thể hiện sự nhạy bén bản lĩnh chính trị. Trong mỗi sự việc hiện tượng cần phân
biệt đúng sai, phải trái, xác định nhanh được cái tốt cần biểu dương, cái xấu cần kịp
thời phê phán
- Tính phổ thông, đại chúng Nội dung tuyên truyền phải gắn chặt với cuộc:
sống thực tiễn phong phú của đại đa số quần chúng nhân dân, giải đáp những vấn đề
nóng hổi mà cuộc sống đang đặt ra và quần chúng nhân dân đang đòi hỏi.
1.2. Nội dung và phương thức tuyên truyền của Đảng
Tuyên truyền chính trị: tuyên truyền chính trị nội dung chủ yếu của công tác
tuyên truyền. Tuyên truyền chính trị tập trung vào việc phổ biến, truyền hệ
tưởng của Đảng, bao gồm:
+ Tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Tuyên truyền về quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
+ Tuyên truyền về truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc, của Đảng qua các
hoạt động klý niệm, các đợt vận động chính trị lớn của đất nước và địa phương.
Tuyên truyền kinh tế tuyên truyền kinh tế nhằm thực hiện đường lối phát triển:
kinh tế nhiệm vụ trung tâm trong giai đoạn hiện nay. Nội dung chủ yếu của tuyên
truyền kinh tế là:
+ Tuyên truyền về đường lối phát triển kinh tế của Đảng, các chính sách, kế
hoạch, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước.
+ Tuyên truyền về những thành tựu kinh tế - xã hội, tiềm năng phát triển của đất
nước, địa phương, những thuận lợi khó khăn, những bài học kinh nghiệm trong
việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của địa phương trong từng thời kỳ.
Tuyên truyền văn hóa tuyên truyền về văn hóa nhằm xây dựng nền văn hóa:
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm nền tảng tinh thần của hội, gắn
chặt với nhiệm vụ phát triển kinh tế và xây dựng đảng
Tuyên truyền quốc phòng, an ninh: tuyên truyền quốc phòng, an ninh trực
tiếp tham gia thực hiện nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân an ninh
nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân Công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, góp phần thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Nội dung chủ yếu
là:
+ Tuyên truyền về đường lối, quan điểm xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân
và thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
+ Tuyên truyền về những truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc, tự hào
về những chiến công hiển hách trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập.
+ Tuyên truyền về những chủ trương, giải pháp lớn xây dựng Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
+ Tuyên truyền các văn bản pháp luật của Nhà nước về các nghĩa vụ của công
dân tham gia quân đội, dân quân tự vệ, giáo dục quốc phòng…
Tuyên truyền đối ngoại: trong thời đại toàn cầu hóa, thực hiện đường lối đối
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tuyên
truyền đối ngoại có vai trò quan trọng.
Đấu tranh chống các quan điểm sai trái trong điều kiện phong trào cách mạng:
thế giới tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào, tuyên truyền để bảo vệ nền tảng
tưởng của Đảng càng trở nên quan trọng và cần thiết.
*Nguyên tắc tuyên truyền
- Nguyên tắc tính đảng
Tính đảng nguyên tắc bản nhất của côngc tư tưởng. Công tác tưởng
phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, bảo vệ phát triển ch
nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính ch của Đảng; chủ
động đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng thù địch, phản khoa học, đi
ngược lại với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc.
- Nguyên tắc tính khoa học
Công tác tưởng được tiến hành trên sở khoa học, tuân theo các quy luật
vận động, biến đổi của lĩnh vực tưởng. Nguyên tắc tính khoa học yêu cầu công tác
tưởng được tiến hành kế hoạch, nội dung hình thức phù hợp với từng đối
tượng, đáp ứng nhu cầu giải đáp vướng mắc định hướng tưởng cho mọi đối
tượng. Công tác tư tưởng phải sử dụng các phương tiện tác động ngày càng hiện đại.
- Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn
Công tác ởng phải xuất phát tthực tiễn phục vthực tiễn; đồng thời
phải được soi sáng, định ớng bằng luận, được chỉ đạo, t chức thực hiện một
cách khoa học. Tổng kết thực tiễn nhiệm vụ và phương thức căn bản để thực hiện
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công c tư tưởng, khắc phục chủ
nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm.
Thực hiện đúng đắn đầy đủ những nguyên tắc trên yêu cầu chung của
công tác tưởng của Đảng. ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng nói chung và ở cơ sở nói riêng.
*Phương châm tuyên truyền
Phương châm công tác tư tưởng của Đảng những định hướng có tính chỉ đạo
trong hoạt động công tác tưởng các cấp, các ngành. Phương châm công tác
tưởng bao gồm:
- Công tác tưởng phải gắn chặt với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, với
phong trào cách mạng của quần chúng, với từng đối tượng.
- Kết hợp chặt chẽ ba nội dung giáo dục: chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến
thức khoa học, phẩm chất đạo đức cách mạng; kết hợp giáo dục luận với giáo
dục tình hình và nhiệm vụ trước mắt.
- Kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức và các mặt công tác khác.
- Kết hợp giáo dục tưởng trong học tập với việc rèn luyện trong thực tiễn
cách mạng.
- Kết hợp giáo dục tư tưởng trong nội dung sinh hoạt của tất cả các tổ chức, kết
hợp công tác tư tưởng trong Đảng với công tác tư tưởng trong xã hội.
- Kết hợp bồi dưỡng tưởng, tình cảm cách mạng với phê phán mạnh mẽ
những biểu hiện tưởng sai trái; biểu dương những ưu điểm đi đôi với phê bình
nghiêm khắc những khuyết điểm.
*Nhiệm vụ tuyên truyền
Công tác tư tưởng có sáu nhiệm vụ cơ bản:
Một là, giáo dục mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội, chủ
nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, làm cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhận thức đúng đắn, kiên định, vững vàng trước mọi
khó khăn, thách thức. Kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch;
ngăn ngừa ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc.
Hai là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn góp phần phát triển, hoàn thiện đường lối và
con đường đi lên chủ nghĩa hội của Việt Nam. Tiến hành phổ biến, quán triệt sâu
rộng các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Ba là, ng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức năng lực
thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân dân, khắc phục những biểu hiện của ch
nghĩa thực dụng, suy thoái vềtưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thực hiện có hiệu
quả việc "Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".
Bốn là, giữ gìn phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, góp phần xây dựng
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
m , y dựng pt huy nhân t con ni qua thực hin tt các nh
vực khoa go sở. Ch đo, hướng dn, c thúc đy phong to thi đua
u c c phong trào xã hi khác, coi trọng việc bồi dưỡng, nn rộng c
đin nh, nhân t mi, góp phn hoàn thành thắng lợi nhim vụ cnh tr trong
từng giai đoạn.
Sáu là, giáo dục ý thức cảnh giác, chống các hoạt động “diễn biến hòa bình”, cơ
hội chính trị, lôi kéo, chia rẽ sự đoàn kết toàn. Kịp thời giải quyết các mâu thuẫn nội
bộ nhân dân, không để xảy ra khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện tập thể, không điểm
nóng.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC
TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG HIỆN NAY
2.1. Thành tựu
Sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng trong gần 30 năm qua
đạt được những thành tựu to lớn ý nghĩa lịch sử. Đó nguồn động viên, cổ
lớn lao đối với toàn Đảng, toàn dân ta. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên nhân dân ta
phấn khởi, tin tưởng quyết tâm thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng các
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội của đất nước.
trong nước, với sự nhất trí đồng thuận cao trong Đảng trong nhân dân,
vượt qua những khó khăn mới xuất hiện, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực
phấn đấu đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng trong việc thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4, lần thứ 5, lần thứ 6; các kết luận của Bộ Chính
trị, các Nghị quyết Quốc hội, Chính phủ để thực hiện mục tiêu: kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế mô, bảo đảm an sinh hội, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý.
Nền kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao (khoảng 6,23%), xuất khẩu
vốn huy động cho đầu phát triển, nhất vốn đầu nước ngoài tiếp tục tăng…
Đồng thời, vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao; tình hình
chính trị – xã hội ổn định đã tác động tích cực, tạo niềm tin của cán bộ, đảng viên vào
sự lãnh đạo của Đảng và sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, từ cuối năm 2007 đến nay,
một số chỉ tiêubản kinh tế vĩ mô những biểu hiện xấu, lạm phát tăng cao, nhập
siêu lớn, thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra, để lại hậu quả cho nhiều vùng trong cả
nước, tác động tiêu cực đến sản xuất đời sống nhân dân, tình trạng đình công của
công nhân khiếu kiện của nông dân về đất đai tăng lên. Tham nhũng, lãng phí, suy
thoái về chính trị, tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Các thế lực thù địch gia tăng sức ép can
thiệp vào công việc nội bộ nước ta dưới các chiêu bài: dân chủ, nhân quyền, dân tộc,
tôn giáo, kích động bạo lực, lật đổ đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc
đẩy “tự diễn biến” trong nội bộ ta… Tất cả những vấn đề trên đã làm nảy sinh những
vấn đề mới, gay gắt, nhiều luồng tưởng khác nhau trong hội, gây nhiều khó
khăn, thách thức đối với công tác tư tưởng - văn hoá.
Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, với
quyết tâm tìm tòi, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của ngành, tận dụng tốt
thời thuận lợi, nỗ lực vượt qua những khó khăn thách thức trên, , công tác
tuyên truyền đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào. Điểm nổi bật công tác
tuyên truyền đã tăng tính chủ động, tính nhạy bén, tính thuyết phục tính hiệu quả
trong khi triển khai các nhiệm vụ bám sát yêu cầu thực tiễn của đất nước. Các nghị
quyết Trung ương (khóa X) về “Công tác tưởng, luận báo chí trước yêu cầu
mới”, Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục xây dựng phát triển
văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, các Kết luận số 41-TB/TW, 68-TB/TW của
Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí đã những tác
dụng chỉ đạo kịp thời và trực tiếp đối với các lĩnh vực này. Một cố gắng nổi bật trong
công tác tuyên truyền là việc tuyên truyền quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước được đẩy mạnh. Nếu các năm trước đây, công tác tưởng
thường tập trung vào tuyên truyền các sự kiện chính trị hội, các ngày lễ lớn của
đất nước thì hiện nay trước tình hình kinh tế thế giới và trong nước diễn biến phức tạp,
công tác tưởng đã chuyển mạnh sang hướng chủ động của toàn ngành trong việc
chú trọng, tuyên truyền những vấn đề kinh tế hội cấp bách, bức xúc, như: hướng
dẫn thực hiện tuyên truyền các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, tập
trung tuyên truyền các giải pháp trong Kết luận 22, 25 của Bộ Chính trị, Nghị quyết
các kỳ họp Quốc hội khóa XII, các Nghị quyết của Chính phủ để thực hiện 4 mục tiêu:
Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, bảo đảm
an sinh xã hội. Công tác tuyên truyền miệng đạt nhiều kết quả và tác dụng tốt, đặc biệt
là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn. Năm qua đã tổ chức tốt 26 kỳ hội
nghị báo cáo viên ở 3 khu vực với hơn 20.000 lượt người tham dự. Công tác thông tin
đối ngoại hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, như tuyên truyền về chủ quyền toàn
vẹn lãnh thổ, về phân giới cắm mốc biên giới đất liền, về biển Đông Hải đảo; triển
khai hai công trình biên soạn lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào lịch sử 10
năm chuyên gia Việt Nam giúp cách mạng Campuchia. Thực hiện Thông báo 169-
TB/TW của Bộ Chính trị, việc hướng dẫn, biên soạn tài liệu, tổ chức học tập, quán
triệt các Nghị quyết Trung ương 6, Trung ương 7 (khóa X) bước đầu một số cải
tiến, đổi mới được đa số cán bộ, đảng viên đồng tình và ủng hộ. Việc đổi mới và nâng
cao chất lượng giáo dục luận chính trị trong hệ thống các nhà trường được quan
tâm. Báo chí, xuất bản trong năm qua nhiều chuyển biến tích cực, tăng cường giới
thiệu những nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống hội, khắc phục bước đầu những biểu hiện lệch lạc. Các hoạt
động sáng tạo văn hóa, nghệ thuật được đẩy mạnh, tạo được một số sản phẩm giá
trị, tổ chức nhiều hình thức phong phú, giảm bớt những biểu hiện trong sáng tác, biểu
diễn, xuất bản, truyềnchạy theo thị hiếu thấp kém. Cuộc đấu tranh chống âm mưu,
hoạt động “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vựctưởng văn
hóa nói chung đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc, vu cáo, chống phá
Đảng, Nhà nước nói riêng được tập trung chỉ đạo hiệu quả hơn. Đặc biệt, cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với nội dung cụ thể
thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí; hội thi “Kể chuyện về tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” được tổ chức từ sở đến vòng chung khảo ở Trung ương, đã thu
hút đông đảo cán bộ, đảng viên nhân dân tham gia quan tâm theo dõi, khơi dậy
những tình cảm tốt đẹp, lòng thành kính đối với Bác, qua đó làm cho toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân nhận thức sâu sắc hơn về những nội dung bản giá trị to lớn của
tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tạo được những chuyển biến bước đầu
về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đặc biệt, Ban Tuyên giáo đã tham mưu giúp Bộ
Chính trị, Ban Bí thư các giải pháp xử lý những vấn đề tư tưởng bức xúc, góp phần ổn
định tình hình tưởng trong Đảng trong các tầng lớp nhân dân, như định hướng
thông tin, tuyên truyền một số vấn đề như: Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc tại Việt
Nam; nội dung các kỳ họp của Quốc hội khóa XII, đặc biệt vấn đề xây dựng Nhà
Quốc hội, mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Nội…Các hoạt động trên đã góp
phần củng cố niềm tin của đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo bầu không khí
phấn khởi, tin tưởng vào triển vọng phát triển tốt đẹp của đất nước. Năm qua, lòng
yêu nước, ý thức tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, tính năng
động, chủ động sáng tạo của con người Việt Nam tiếp tục được phát huy, tư tưởng tích
cực vẫn là xu hướng chủ đạo, tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của dân tộc trong thời
kỳ mới.
Trong cơ chế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng
năng động, tích cực, thích ứng phát huy tài năng, trí tuệ vươn lên, vượt qua đói
nghèo, chiến thắng lạc hậu. Nhiều tấm gương tiêu biểu có mặt trên khắp mọi miền của
Tổ quốc, mọi cấp, mọi ngành đã sức động viên lôi cuốn đông đảo quần chúng
vươn lên. Sự ổn định về tư tưởng, chính trị ở cơ sở ngày càng vững chắc.
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Tuyên giáo, trong 84 năm qua, công
tác tuyên truyền đã những đóng góp tích cực vào việc truyền chủ nghĩa Mác-
Lênin, tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, đấu tranh
chống quan điểm sai trái, chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch, góp phần quan trọng xây dựng Đảng, chính quyền, xây dựng nền văn hoá mới,
con người mới, phục vụ sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ
nghĩa. Công tác tuyên truyền đã thể hiện vai trò quan trọng, vị trí tiên phong trong
việc cung cấp định hướng thông tin trước những diễn biến phức tạp, khó lường từ
tình hình trong nước và quốc tế, tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã
hội, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.
Trong những năm qua, nhất từ khi Ngh quyết Trung ương 5, khoá IX
về “nhiệm vụ chủ yếu của công tác tưởng, luận trong tình nh mới và gần
đây là Nghquyết Trung ương 5 khóa X về "Công tác tưởng, luận o c
trước yêu cầu mới", ng với c văn kiện của Đại hội, c hội nghị TW 4, 5, 6, 7
của Đảng khóa XI, công c tuyên giáo đã được các cấp ulý đảng, ban tuyên giáo
các cấp quan tâm, chỉ đạo u t hơn, đầu lực lượng cán bộ, s vật chất,…
ngày càng tốt hơn.
Công tác tuyên giáo đã góp phần đưa đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đến với cán bộ, đảng viênnhân dân, tạo nên sự nhất
trí trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân. Nhiều chủ trương, chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước đã nhanh chóng đến với nhân dân, được nhân dân hào hứng, phấn
khởi đón nhận và tự giác thực hiện, đạt kết quả tốt.
Công tác tuyên giáo đã động viên các tầng lớp nhân dân phát huy tài năng, sáng
kiến, mạnh dạn đầu cho sản xuất, quyết tâm chiến thắng nghèo nàn lạc hậu,
vươn lên làm giàu, xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh. Những gương điển hình
về phát triển sản xuất, khôi phục phát triển làng nghề, giải quyết việc làm cho
người lao động… ngày càng nhiều được cổ kịp thời, tạo nên sức sống mới
nhiều địa phương, cơ sở.
Công tác tuyên giáo đã động viên cổ tinh thần yêu nước, ý thức tự lực, tự
cường, góp phần giải quyết tốt các yêu cầu, nhiệm vụ bức xúc của sản xuất, đời sống.
Nhiều địa phương đã làm tốt công tác tưởng cho nhân dân trong giải toả đất đai,
nhà cửa, giải phóng mặt bằng, để xây dựng các công trình kinh tế, văn hoá, động viên
nhân dân góp công, góp của xây dựng các công trình làm đẹp cho quê hương.
Công tác tuyên giáo còn góp phần tích cực vào việc tham mưu, đề xuất vận
động nhân dân đóng góp tài năng, sáng kiến cho các cấp lãnh đạo, quản để giải
quyết những vấn đề bức xúc trên địa bàn như phòng, chống tệ nạn hội, hội hoá
văn hoá ở địa phương v.v..
2.2. Hạn chế
Tham mưu trên một số lĩnh vực công tác tuyên giáo còn chưa kịp thời, nhạy
bén, chưa chú trọng đúng mức nghiên cứu, đề xuất những vấn đề tính chiến lược.
Một số vấn đề tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa tích cực góp phần làm rõ, nên
chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức, như mối quan hệ giữa tốc độ tăng
trưởng chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế thực hiện công bằng
hội; giữa đổi mới kinh tế đổi mới hệ thống chính trị; giữa đổi mới với ổn định
phát triển; giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế…
Công tác tuyên giáo còn thiếu sắc bén, sức thuyết phục chưa cao, tính chiến đấu
còn hạn chế, chưa sát với thực tiễn. Chưa triển khai tốt công tác giáo dục lý luận chính
trị, tư tưởng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, những quan điểm
mơ hồ, sai trái. Chưa quan tâm đúng mức tới việc giáo dục lý tưởng, văn hóa sâu rộng.
Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch lúc còn bị động, hiệu
quả thấp. Chưa huy động được đầy đủ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị làm
công tác tưởng, văn hóa. Nội dung, phương pháp công tác tuyên giáo còn chậm
được đổi mới, hoạt động còn chưa đồng đều, chưa sự phối hợp chặt chẽ giữa các
ngành, các cấp, các bộ phận.
Công tác nghiên cứu lý luận còn trong tình trạng lạc hậu trên một số mặt, chưa
đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đang vận động nhanh chóng, phong phú và
phức tạp. Nhiều vấn đề lớn, bức xúc đặt ra từ thực tiễn trong nước, quốc tế chưa tìm ra
hướng giải quyết hoặc giải đáp chưa sức thuyết phục. Kết quả các công trình
nghiên cứu khoa học luận chính trị, khoa học hội nhân văn chất lượng
chưa cao, ít kết quả được ứng dụng, vận dụng vào thực tiễn. Hiệu quả nghiên cứu
chưa tương xứng với sự đầu tư của Đảng và Nhà nước.
Ở nhiều nơi, do sản xuất chậm phát triển, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều
khó khăn, thiếu thốn, dân trí thấp, công tác giáo dục tưởng quản hội còn
thiếu sót, khuyết điểm, nên tình hình tư tưởng ở một số nơi còn có diễn biến phức tạp.
Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa dân của một số cán bộ, đảng viên, công chức,
các tiêu cực và tệ nạn xã hội đang có chiều hướng phát triển đã tác động đến niềm tin
của nhân dân vào Đảng chế độ, đặc biệt tại sở. Tại một số vùng trọng yếu, các
thế lực thù địch đang tập trung chống phá quyết liệt, tạo nên sự mất ổn định về
tưởng, gây mơ hồ về chính trị, ảo tưởng về chủ nghĩa tư bản, thiếu sự nhất trí và đồng
thuận với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong
một bộ phận nhân dân. Tệ nạn hội, sự xuống cấp, suy thoái về tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân vẫn là vấn nạn
rất bức xúc hiện nay. Hiện tượng phai nhạt tưởng trong một bộ phận thanh niên,
tưởng thực dụng, sùng ngoại trong nhân dân có chiều hướng gia tăng…
Công tác tuyên truyền lúc chưa thật chủ động, chưa dự báo kịp thời những
tình huống phức tạp xảy ra, lý giải những vấn đề phức tạp mới nảy sinh trong đời sống
còn thiếu thuyết phục. Việc phối hợp với các cơ quan chức năng để giải quyết các vấn
đề bức xúc trong hội chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ gây nên sự hoài nghi trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Còn các mặt lạc hậu của công tác lý luận chưa
được tập trung khắc phục, chưa giải quyết căn cứ khoa học, sức thuyết phục,
nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra, ảnh hưởng tới sự thống nhất tưởng trong Đảng, sự
đồng thuận trong xã hội. Công tác giáo dục chính trị, lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối
sống còn một số hạn chế. Việc khắc phục những hạn chế, yếu kém trong chỉ đạo,
quản lý báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ còn chậm, kéo dài, dẫn đến nhiều vấn đề
phải xử lý trong hoạt động của các lĩnh vực này. Cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được triển khai tích cực, nhưng chủ yếu tuyên
truyền, học tập về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, những chuyển biến thực sự trong
việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên nhân dân
chưa trở thành phong trào tự giác sâu rộng. Việc phát hiện nhân rộng các điển
hình tiên tiến làm theo tấm gương đạo đức của Bác còn ít.
2.3. Một số vấn đề đặt ra
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ, trong thập niên tới, hòa bình, hợp tác
vẫn là xu thế lớn của sự phát triển. Chiến tranh thế giới khó có khả năng xẩy ra nhưng
các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ, nạn khủng bố, tranh giành tài nguyên...
thể sẽ gia tăng, cùng với những thách thức như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí
hậu và các thảm họa thiên nhiên khác, buộc các quốc gia phải tích cực phối hợp hành
động để giải quyết các vấn đề này. Toàn cầu hóa tiếp tục phát triển cả về quy mô, mức
độ hình thức biểu hiện với những tác động tích cực tiêu cực, hội thách
thức đan xen rất phức tạp; nhiều liên kết mới xuất hiện. Sau khủng hoảng tài chính -
kinh tế toàn cầu, thế giới sẽ bước vào một giai đoạn phát triển mới; một trật tự kinh tế
quốc tế mới công bằng hơn sẽ được thiết lập.
Cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới dân sinh, dân chủ, tiến bộ hội tiếp
tục phát triển. Phong trào cánh tả được mở rộng. Phong trào cộng sản công nhân
quốc tế mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức nhưng đang có dấu hiệu hồi phục. Châu
Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động đang hình thành nhiều hình
thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn. Tuy vậy, khu vực này vẫn tiềm ẫn những nhân tố
gây mất ổn định như: tranh giành ảnh hướng quyển lực, tranh chấp lãnh thổ, biển,
đảo, tài nguyên, giành quyển kiểm soát đường vận chuyển hàng hoá quan trọng nhất
trong thương mại quốc tế...
Các nước ASEAN bước vào thời kỳ hợp tác mới theo Hiến chương ASEAN
xây dựng Cộng đồng dựa trên ba trụ cột: chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Hợp tác giữa ASEAN với các đối tác tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu. Mặt khác,
| 1/45

Preview text:

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác tuyên truyền là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tường của
Đảng ta. Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, những
người cộng sản phải “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn
kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Và trong quá trình
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng và tập trung làm tốt công tác
tuyên truyền. Thời kỳ tiến hành cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, công tác tuyên
truyền đã cổ vũ toàn dân tộc đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, tạo dựng niềm tin
vững chắc vảo sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng chấp nhận hy sinh, gian khổ chiến đấu
vì mục tiêu độc lập và thống nhất Tổ quốc. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, công
tác tuyên truyền luôn giữ vai trò đi đầu, đi cùng với mọi cuộc cách mạng của nhân dân
ta, góp phần làm nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của nước ta. Thông
qua công tác tuyên truyền mà các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng vả Nhả
nước đến được với quẩn chúng, thúc đáy quần chúng hành động cách mạng, biến mọi
đường lối, chủ trương, chính sách đó thành hiện thực của cuộc sống.
Với nhiệm vụ vừa chỉ đạo, hướng dẫn vừa trực tiếp cùng cơ sở thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đưa các chỉ thị, nghị quyết của cấp
trên vào cuộc sống, trong những năm qua công tác tuyên truyền của Đảng luôn được
coi trọng và tăng cường. Đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền của Đảng, của các
ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội và cán bộ, đảng viên trong toàn bộ hệ thống
chính trị bằng nhiều phương pháp, hình thức khác nhau đã tuyên truyền chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương đến đông đảo các tầng lóp nhân
dân. Bên cạnh đó, các lực lượng làm công tác tuyên truyền đã kịp thời phát hiện, cổ
vũ những nhân tố mới, điển hình tiên tiến; đồng thời đấu tranh không khoan nhượng
với các luận điệu phản tuyên truyền, các tư tưởng lạc hậu, việc làm sai trái nhằm giữ
vững an ninh tư tưởng trên địa bàn.
Công tác tuyên truyền của Đảng được thực hiện tốt đã góp phần quan trọng tạo
nên sự đồng thuận trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quyết tâm vượt qua mọi khó
khăn, tận dụng thời cơ, tập trung phát triển kinh tế - xã hội, cải tạo và xây dựng hạ
tầng kỹ thuật đô thị, phát triển đời sống văn hóa. Bên cạnh những kết quả đạt được,
công tác tuyên truyền của Đảng vẫn còn chậm đồi mới về nội dung, hình thức và
phương pháp dẫn đến tính thuyết phục chưa cao; một số cấp ủy còn chưa quan tâm
đúng mức đến công tác lãnh, chỉ đạo hoạt động tuyên truyền; công tác tuyên truyền
trong các tầng lóp nhân dân còn chậm và đạt hiệu quả chưa cao; vẫn còn một bộ phận
cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chinh trị, đạo đức lối sống, bị xử
lý klý luật, làm giảm lòng tin của nhân dân, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng.
Vì vậy, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra là đánh giá đúng thực trạng, đề ra những giải
pháp nhằm đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền của Đảng, đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ mới. Đó là lý do tác giả chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp đổi mới nội
dung và phương thức tuyên truyền của Đảng hiện nay” làm đề tài tiểu luận.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đề tài nghiên cửu về công tác tuyên truyền với tư cách là một trong ba bộ phận
cấu thành của công tác tư tưởng của Đảng đã được đề cập trong nhiều công trình khoa
học với những quy mô và cấp độ khác nhau. Sau đây là một số công trình tiêu biểu:
- Hà Học Hợi (chủ biên) (2002), Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác tư tưởng, Nxb CTQG, H. Cuốn sách trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn việc
đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, dự báo tình hình tư tưởng
xã hội của nước ta đến năm 2020, đề xuất những giải pháp cơ bán và một số nhiệm vụ
trước mắt của công tác tư tưởng.
- Khoa Tuyên truyền, Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2003), Tập bài giảng
Nguyên lý tuyên truyền. Tài liệu khái quát những vấn đề chung về công tác tuyên
truyền, những quan điểm và phương hướng cơ bản đồi mới công tác tuyên truyền
trong điều kiện hiện nay.
- Hoàng Quốc Bảo (2006), Học tập phương pháp tuyên ừ'uyền cách mạng Hồ
Chí Minh, Nxb CTQG, H. Cuốn sách nêu lên những đặc trưng cơ bản của phương
pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh, thực trạng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao, đồi mới phương pháp tuyên truyền của đội ngũ cán bộ tư tưởng theo phương
pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh.
- Hoàng Quốc Bảo (chủ biên) (2007), Thông tin cổ ,
động Nxb LLCT, H. Cuốn
sách giới thiệu về công tác thông tin cổ động trong hoạt động tư tưởng của Đảng; chức
năng, nhiệm vụ của công tác thông tin cồ động; cổ động miệng, cổ động trực quan...
- Lương Khắc Hiếu (chủ biên) (2008), Nguyên lý công tác tư tưởng (tập I và II),
Nxb CTQG, H. Cuốn sách giới thiệu những vấn đề chung nhất về đối tượng, bản chất,
hình thái, mục đích, chức năng, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp... của công tác tư
tưởng, trong đó có công tác tuyên truyền. -
Nguyễn Tất Thắng (chủ biên) (2010), Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận phục
vụ sự nghiệp xảy dựng và hảo vệ Tổ quốc, Nxb CTQG, H. Cuốn sách trình bày những
vấn đề chung, phân tích thực trạng công tác tư tưởng, lý luận trong thời kỳ đổi mới;
phân tích, luận giải tình hình thế giới, trong nước trong thời gian tới, dự báo tình hình
tư tưởng xã hội và những vấn đề đặt ra đối với đồi mới công tác tư tưởng, lý luận;
trình bày những quan điểm, phương hướng, giải pháp đổi mới công tác tư tưởng, lý luận hiện nay.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đề cập đến công tác
tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam dưới những góc độ khác nhau, khái quát
những quan điểm cơ bản về công tác tuyên truyền, vị trí, vai trò, nội dung, phương
pháp, những giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền. Tuy nhiên, có thể nói chưa có
đề tài khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về phương thức tuyên truyền của Đảng,
đặc biệt là vấn đề đồi mới nội dung và phương thức tuyên truyền của Đảng hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn đồi mới phương pháp cồng
tác tuyên truyền hiện nay, từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới
nội dung, phương thức tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
3.2. Nhiệm vu nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác tuyên truyền và đồi mới
nội dung, phương thức tuyên truyền của Đảng;
- Khảo sát, phân tích thực trạng đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền
của Đảng trong thời gian qua;
- Đề xuất giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền
của Đảng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới.
4. Đối tượng, phạm vi nghỉên cún
4.1. Đối tượng nghiên cửu
Đề tài tập trung nghiên cứu đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền của Đảng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung, phương thức tuyên truyền của Đảng từ năm 2012 đến 2017
5. Cơ sở lý luận và phuơng pháp nghỉên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng ta về công tác tư tưởng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Các phương pháp cụ thể là: logic - lịch sử, quy nạp - diễn dịch, phân tích -
tổng hợp, so sánh, thống kê, nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực tế...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận: tìm hiểu những vấn đề lý luận chung về phương thức tuyên
truyền; từ đó rút ra những mặt được và hạn chế trong việc sử dụng phương thức tuyên truyền của Đảng.
Về mặt thực tiễn: Đề ra những giải pháp đổi mới phương thức tuyên truyền của
Đảng, từ đó góp phần tăng cường công tác tư tưởng của Đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu đề ra.
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3 chương, 9 tiết.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG
1.1. Khái niệm tuyên truyền
Công tác tuyên giáo của Đảng nói chung, công tác tư tưởng nói riêng luôn giữ
một vị trí quan trọng. Nhiệm vụ tuyên giáo được các cấp ủy Đảng xem như một vũ khí
sắc bén trong sự nghiệp xây dựng Đảng và phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng –
an ninh. Vào những năm 1961-1964, đồng thời với việc đẩy mạnh toàn diện các hoạt
động tư tưởng, khoa giáo, Ban Tuyên giáo Trung ương đã chỉ đạo cụ thể hơn hoạt
động tuyên giáo ở các vùng, đặt biệt là ở miền núi. Đồng bào các dân tộc ở miền núi
trước cách mạng tháng Tám cũng như trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống
Pháp rồi chống Mỹ, đã chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn, hi sinh để nuôi
dưỡng, đùm bọc, chở che cán bộ, bộ đội, cũng như xây dựng, bảo vệ căn cứ địa cách
mạng của cả nước.Tuyên truyền theo nghĩa rộng là hoạt động có mục đích của chủ thể
nhằm truyền bá những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đến đối tượng, biến những
kiến thức, giá trị tinh thần đó thành nhận thức, niềm tin, tình cảm của đối tượng, thôi
thúc đối tượng hành động theo những định hướng, những mục tiêu do chủ thể tuyên
truyền đặt ra. Chủ Tịch Hồ Chí Minh nói: “Tuyên truyền là đem một việc gì đó nói
cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt mục đích đó, là tuyên truyền thất bại”.
Tuyên truyền là một bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng. Khi xem xét
công tác tư tưởng như một quá trình liên tục, V.I. Lênin khẳng định công tác tư tưởng
có ba hình thái: công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động (có nhiều
người gọi là ba bộ phận). Ba hình thái đó tương ứng với các quá trình tư tưởng gồm:
sản xuất ra hệ tư tưởng; phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng; cổ vũ, động viên quần chúng
thực hiện. Công tác tuyên truyền là hoạt động tiếp nối công tác lý luận, nhằm phổ
biến, truyền bá các nguyên lý lý luận, đường lối, chủ trương, chính sách vào quần
chúng. Mục đích cao nhất của tuyên truyền là làm cho hệ tư tưởng chiếm địa vị thống
trị trong xã hội. Tuyên truyền là một trong những bộ phận quan trọng của công tác tư
tưởng, có nhiệm vụ phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến quần chúng nhân dân. Tuyên truyền gắn liền
với cổ động, nên tuyên truyền còn là sự cổ vũ, động viên, thúc đẩy quần chúng hăng
hái tham gia các phong trào, biến nhận thức, niềm tin thành nhiệt huyết của quảng đại
quần chúng, thành hành động cách mạng. Công tác tuyên truyền uốn nắn những nhận
thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm, hành động sai trái, bảo vệ nền tảng tư
tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần
xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Tuyên truyền góp phần quan trọng vào việc
nâng cao nhận thức, hình thành và củng cố niềm tin, giáo dục lý luận, đạo đức, lối
sống, lẽ sống; bồi dưỡng phương pháp, kỹ năng hành động cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Cùng với việc thực hiện các nguyên tắc của công tác tư tưởng, trong công tác
tuyên truyền cần tuân theo các nguyên tắc sau:
- Tính đảng, tính giai cấp: Tuyên truyền vô sản phải phục vụ lợi ích của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Tính đảng, tính giai cấp đòi hỏi khi trình bày,
giải thích mọi hiện tượng và sự việc xảy ra trong thực tiễn đều phải đứng trên lập
trường của giai cấp công nhân, trên lợi ích của giai cấp và của dân tộc.
- Tính khoa học và thực tiễn: Tính khoa học, thực tiễn yêu cầu khi tuyên truyền
phải dựa trên những luận cứ khoa học và thực tiễn để nhìn nhận, phân tích sự việc,
hiện tượng, từ đó mà thuyết phục, cảm hoá đối tượng tuyên truyền
- Tính khoa học và thực tiễn: T
ính khoa học, thực tiễn yêu cầu khi tuyên
truyền phải dựa trên những luận cứ khoa học và thực tiễn để nhìn nhận, phân tích sự
việc, hiện tượng, từ đó mà thuyết phục, cảm hoá đối tượng tuyên truyền- Phản ánh
đúng đắn tâm tư, nguyện vọng của quần chúng trong quá trình thực hiện đường lối,
chính sách, pháp luật, từ đó kiến nghị những biện pháp bổ sung, sửa đổi, hoàn chỉnh
đường lối, chính sách, pháp luật.
- Tính chiến đấu: Tính chiến đấu là bản chất của công tác tuyên truyền chính trị,
thể hiện sự nhạy bén và bản lĩnh chính trị. Trong mỗi sự việc và hiện tượng cần phân
biệt đúng sai, phải trái, xác định nhanh được cái tốt cần biểu dương, cái xấu cần kịp thời phê phán
- Tính phổ thông, đại chúng: Nội dung tuyên truyền phải gắn chặt với cuộc
sống thực tiễn phong phú của đại đa số quần chúng nhân dân, giải đáp những vấn đề
nóng hổi mà cuộc sống đang đặt ra và quần chúng nhân dân đang đòi hỏi.
1.2. Nội dung và phương thức tuyên truyền của Đảng
Tuyên truyền chính trị: tuyên truyền chính trị là nội dung chủ yếu của công tác
tuyên truyền. Tuyên truyền chính trị tập trung vào việc phổ biến, truyền bá hệ tư
tưởng của Đảng, bao gồm:
+ Tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Tuyên truyền về quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
+ Tuyên truyền về truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc, của Đảng qua các
hoạt động klý niệm, các đợt vận động chính trị lớn của đất nước và địa phương.
Tuyên truyền kinh tế: tuyên truyền kinh tế nhằm thực hiện đường lối phát triển
kinh tế là nhiệm vụ trung tâm trong giai đoạn hiện nay. Nội dung chủ yếu của tuyên truyền kinh tế là:
+ Tuyên truyền về đường lối phát triển kinh tế của Đảng, các chính sách, kế
hoạch, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước.
+ Tuyên truyền về những thành tựu kinh tế - xã hội, tiềm năng phát triển của đất
nước, địa phương, những thuận lợi và khó khăn, những bài học kinh nghiệm trong
việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của địa phương trong từng thời kỳ.
Tuyên truyền văn hóa: tuyên truyền về văn hóa nhằm xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm nền tảng tinh thần của xã hội, gắn
chặt với nhiệm vụ phát triển kinh tế và xây dựng đảng
Tuyên truyền quốc phòng, an ninh: tuyên truyền quốc phòng, an ninh là trực
tiếp tham gia thực hiện nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, góp phần thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Nội dung chủ yếu là:
+ Tuyên truyền về đường lối, quan điểm xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân
và thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
+ Tuyên truyền về những truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc, tự hào
về những chiến công hiển hách trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập.
+ Tuyên truyền về những chủ trương, giải pháp lớn xây dựng Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
+ Tuyên truyền các văn bản pháp luật của Nhà nước về các nghĩa vụ của công
dân tham gia quân đội, dân quân tự vệ, giáo dục quốc phòng…
Tuyên truyền đối ngoại: trong
thời đại toàn cầu hóa, thực hiện đường lối đối
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tuyên
truyền đối ngoại có vai trò quan trọng.
Đấu tranh chống các quan điểm sai trái: trong điều kiện phong trào cách mạng
thế giới tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào, tuyên truyền để bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng càng trở nên quan trọng và cần thiết.
*Nguyên tắc tuyên truyền - Nguyên tắc tính đảng
Tính đảng là nguyên tắc cơ bản nhất của công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng
phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng; chủ
động đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng thù địch, phản khoa học, đi
ngược lại với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc.
- Nguyên tắc tính khoa học
Công tác tư tưởng được tiến hành trên cơ sở khoa học, tuân theo các quy luật
vận động, biến đổi của lĩnh vực tư tưởng. Nguyên tắc tính khoa học yêu cầu công tác
tư tưởng được tiến hành có kế hoạch, nội dung và hình thức phù hợp với từng đối
tượng, đáp ứng nhu cầu giải đáp vướng mắc và định hướng tư tưởng cho mọi đối
tượng. Công tác tư tưởng phải sử dụng các phương tiện tác động ngày càng hiện đại.
- Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn
Công tác tư tưởng phải xuất phát từ thực tiễn và phục vụ thực tiễn; đồng thời
phải được soi sáng, định hướng bằng lý luận, được chỉ đạo, tổ chức thực hiện một
cách khoa học. Tổng kết thực tiễn là nhiệm vụ và phương thức căn bản để thực hiện
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công tác tư tưởng, khắc phục chủ
nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm.
Thực hiện đúng đắn và đầy đủ những nguyên tắc trên là yêu cầu chung của
công tác tư tưởng của Đảng. Nó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng nói chung và ở cơ sở nói riêng.
*Phương châm tuyên truyền
Phương châm công tác tư tưởng của Đảng là những định hướng có tính chỉ đạo
trong hoạt động công tác tư tưởng ở các cấp, các ngành. Phương châm công tác tư tưởng bao gồm:
- Công tác tư tưởng phải gắn chặt với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, với
phong trào cách mạng của quần chúng, với từng đối tượng.
- Kết hợp chặt chẽ ba nội dung giáo dục: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến
thức khoa học, phẩm chất và đạo đức cách mạng; kết hợp giáo dục lý luận với giáo
dục tình hình và nhiệm vụ trước mắt.
- Kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức và các mặt công tác khác.
- Kết hợp giáo dục tư tưởng trong học tập với việc rèn luyện trong thực tiễn cách mạng.
- Kết hợp giáo dục tư tưởng trong nội dung sinh hoạt của tất cả các tổ chức, kết
hợp công tác tư tưởng trong Đảng với công tác tư tưởng trong xã hội.
- Kết hợp bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách mạng với phê phán mạnh mẽ
những biểu hiện tư tưởng sai trái; biểu dương những ưu điểm đi đôi với phê bình
nghiêm khắc những khuyết điểm. *Nhiệm vụ tuyên truyền
Công tác tư tưởng có sáu nhiệm vụ cơ bản:
Một là, giáo dục mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, làm cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhận thức đúng đắn, kiên định, vững vàng trước mọi
khó khăn, thách thức. Kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch;
ngăn ngừa ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc.
Hai là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn góp phần phát triển, hoàn thiện đường lối và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Tiến hành phổ biến, quán triệt sâu
rộng các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Ba là, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức và năng lực
thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân dân, khắc phục những biểu hiện của chủ
nghĩa thực dụng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thực hiện có hiệu
quả việc "Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".
Bốn là, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, góp phần xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, xây dựng và phát huy nhân tố con người qua thực hiện tốt các lĩnh
vực khoa giáo ở cơ sở. Chỉ đạo, hướng dẫn, cổ vũ thúc đẩy phong trào thi đua
yêu nước và các phong trào xã hội khác, coi trọng việc bồi dưỡng, nhân rộng các
điển hình, nhân tố mới, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn.
Sáu là, giáo dục ý thức cảnh giác, chống các hoạt động “diễn biến hòa bình”, cơ
hội chính trị, lôi kéo, chia rẽ sự đoàn kết toàn. Kịp thời giải quyết các mâu thuẫn nội
bộ nhân dân, không để xảy ra khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện tập thể, không có điểm nóng.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC
TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG HIỆN NAY 2.1. Thành tựu
Sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng trong gần 30 năm qua
đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đó là nguồn động viên, cổ vũ
lớn lao đối với toàn Đảng, toàn dân ta. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ta
phấn khởi, tin tưởng và quyết tâm thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng và các
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội của đất nước.
Ở trong nước, với sự nhất trí và đồng thuận cao trong Đảng và trong nhân dân,
vượt qua những khó khăn mới xuất hiện, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực
phấn đấu đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng trong việc thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4, lần thứ 5, lần thứ 6; các kết luận của Bộ Chính
trị, các Nghị quyết Quốc hội, Chính phủ để thực hiện mục tiêu: kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý.
Nền kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao (khoảng 6,23%), xuất khẩu và
vốn huy động cho đầu tư phát triển, nhất là vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng…
Đồng thời, vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao; tình hình
chính trị – xã hội ổn định đã tác động tích cực, tạo niềm tin của cán bộ, đảng viên vào
sự lãnh đạo của Đảng và sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, từ cuối năm 2007 đến nay,
một số chỉ tiêu cơ bản kinh tế vĩ mô có những biểu hiện xấu, lạm phát tăng cao, nhập
siêu lớn, thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra, để lại hậu quả cho nhiều vùng trong cả
nước, tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống nhân dân, tình trạng đình công của
công nhân và khiếu kiện của nông dân về đất đai tăng lên. Tham nhũng, lãng phí, suy
thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Các thế lực thù địch gia tăng sức ép và can
thiệp vào công việc nội bộ nước ta dưới các chiêu bài: dân chủ, nhân quyền, dân tộc,
tôn giáo, kích động bạo lực, lật đổ và đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc
đẩy “tự diễn biến” trong nội bộ ta… Tất cả những vấn đề trên đã làm nảy sinh những
vấn đề mới, gay gắt, nhiều luồng tư tưởng khác nhau trong xã hội, gây nhiều khó
khăn, thách thức đối với công tác tư tưởng - văn hoá.
Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, với
quyết tâm tìm tòi, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của ngành, tận dụng tốt
thời cơ và thuận lợi, nỗ lực vượt qua những khó khăn và thách thức trên, , công tác
tuyên truyền đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào. Điểm nổi bật là công tác
tuyên truyền đã tăng tính chủ động, tính nhạy bén, tính thuyết phục và tính hiệu quả
trong khi triển khai các nhiệm vụ bám sát yêu cầu thực tiễn của đất nước. Các nghị
quyết Trung ương (khóa X) về “Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu
mới”, Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục xây dựng và phát triển
văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, các Kết luận số 41-TB/TW, 68-TB/TW của
Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí đã có những tác
dụng chỉ đạo kịp thời và trực tiếp đối với các lĩnh vực này. Một cố gắng nổi bật trong
công tác tuyên truyền là việc tuyên truyền quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước được đẩy mạnh. Nếu các năm trước đây, công tác tư tưởng
thường tập trung vào tuyên truyền các sự kiện chính trị – xã hội, các ngày lễ lớn của
đất nước thì hiện nay trước tình hình kinh tế thế giới và trong nước diễn biến phức tạp,
công tác tư tưởng đã chuyển mạnh sang hướng chủ động của toàn ngành trong việc
chú trọng, tuyên truyền những vấn đề kinh tế – xã hội cấp bách, bức xúc, như: hướng
dẫn thực hiện tuyên truyền các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, tập
trung tuyên truyền các giải pháp trong Kết luận 22, 25 của Bộ Chính trị, Nghị quyết
các kỳ họp Quốc hội khóa XII, các Nghị quyết của Chính phủ để thực hiện 4 mục tiêu:
Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, bảo đảm
an sinh xã hội. Công tác tuyên truyền miệng đạt nhiều kết quả và tác dụng tốt, đặc biệt
là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn. Năm qua đã tổ chức tốt 26 kỳ hội
nghị báo cáo viên ở 3 khu vực với hơn 20.000 lượt người tham dự. Công tác thông tin
đối ngoại và hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, như tuyên truyền về chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, về phân giới cắm mốc biên giới đất liền, về biển Đông – Hải đảo; triển
khai hai công trình biên soạn lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào và lịch sử 10
năm chuyên gia Việt Nam giúp cách mạng Campuchia. Thực hiện Thông báo 169-
TB/TW của Bộ Chính trị, việc hướng dẫn, biên soạn tài liệu, tổ chức học tập, quán
triệt các Nghị quyết Trung ương 6, Trung ương 7 (khóa X) bước đầu có một số cải
tiến, đổi mới được đa số cán bộ, đảng viên đồng tình và ủng hộ. Việc đổi mới và nâng
cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống các nhà trường được quan
tâm. Báo chí, xuất bản trong năm qua có nhiều chuyển biến tích cực, tăng cường giới
thiệu những nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục bước đầu những biểu hiện lệch lạc. Các hoạt
động sáng tạo văn hóa, nghệ thuật được đẩy mạnh, tạo được một số sản phẩm có giá
trị, tổ chức nhiều hình thức phong phú, giảm bớt những biểu hiện trong sáng tác, biểu
diễn, xuất bản, truyền bá chạy theo thị hiếu thấp kém. Cuộc đấu tranh chống âm mưu,
hoạt động “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng – văn
hóa nói chung và đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc, vu cáo, chống phá
Đảng, Nhà nước nói riêng được tập trung chỉ đạo và có hiệu quả hơn. Đặc biệt, cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với nội dung cụ thể
là thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí; hội thi “Kể chuyện về tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” được tổ chức từ cơ sở đến vòng chung khảo ở Trung ương, đã thu
hút đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia và quan tâm theo dõi, khơi dậy
những tình cảm tốt đẹp, lòng thành kính đối với Bác, qua đó làm cho toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân nhận thức sâu sắc hơn về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của
tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tạo được những chuyển biến bước đầu
về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đặc biệt, Ban Tuyên giáo đã tham mưu giúp Bộ
Chính trị, Ban Bí thư các giải pháp xử lý những vấn đề tư tưởng bức xúc, góp phần ổn
định tình hình tư tưởng trong Đảng và trong các tầng lớp nhân dân, như định hướng
thông tin, tuyên truyền một số vấn đề như: Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc tại Việt
Nam; nội dung các kỳ họp của Quốc hội khóa XII, đặc biệt vấn đề xây dựng Nhà
Quốc hội, mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội…Các hoạt động trên đã góp
phần củng cố niềm tin của đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo bầu không khí
phấn khởi, tin tưởng vào triển vọng phát triển tốt đẹp của đất nước. Năm qua, lòng
yêu nước, ý thức tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, tính năng
động, chủ động sáng tạo của con người Việt Nam tiếp tục được phát huy, tư tưởng tích
cực vẫn là xu hướng chủ đạo, tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của dân tộc trong thời kỳ mới.
Trong cơ chế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng
năng động, tích cực, thích ứng và phát huy tài năng, trí tuệ vươn lên, vượt qua đói
nghèo, chiến thắng lạc hậu. Nhiều tấm gương tiêu biểu có mặt trên khắp mọi miền của
Tổ quốc, ở mọi cấp, mọi ngành đã có sức động viên lôi cuốn đông đảo quần chúng
vươn lên. Sự ổn định về tư tưởng, chính trị ở cơ sở ngày càng vững chắc.
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Tuyên giáo, trong 84 năm qua, công
tác tuyên truyền đã có những đóng góp tích cực vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, đấu tranh
chống quan điểm sai trái, chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch, góp phần quan trọng xây dựng Đảng, chính quyền, xây dựng nền văn hoá mới,
con người mới, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Công tác tuyên truyền đã thể hiện vai trò quan trọng, vị trí tiên phong trong
việc cung cấp và định hướng thông tin trước những diễn biến phức tạp, khó lường từ
tình hình trong nước và quốc tế, tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã
hội, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.
Trong những năm qua, nhất là từ khi có Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX
về “nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới” và gần
đây là Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về "Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí
trước yêu cầu mới", cùng với các văn kiện của Đại hội, các hội nghị TW 4, 5, 6, 7
của Đảng khóa XI, công tác tuyên giáo đã được các cấp ulý đảng, ban tuyên giáo
các cấp quan tâm, chỉ đạo sâu sát hơn, đầu tư lực lượng cán bộ, cơ sở vật chất,… ngày càng tốt hơn.
Công tác tuyên giáo đã góp phần đưa đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đến với cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo nên sự nhất
trí trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân. Nhiều chủ trương, chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước đã nhanh chóng đến với nhân dân, được nhân dân hào hứng, phấn
khởi đón nhận và tự giác thực hiện, đạt kết quả tốt.
Công tác tuyên giáo đã động viên các tầng lớp nhân dân phát huy tài năng, sáng
kiến, mạnh dạn đầu tư cho sản xuất, quyết tâm chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu,
vươn lên làm giàu, xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh. Những gương điển hình
về phát triển sản xuất, khôi phục và phát triển làng nghề, giải quyết việc làm cho
người lao động… ngày càng nhiều và được cổ vũ kịp thời, tạo nên sức sống mới ở
nhiều địa phương, cơ sở.
Công tác tuyên giáo đã động viên cổ vũ tinh thần yêu nước, ý thức tự lực, tự
cường, góp phần giải quyết tốt các yêu cầu, nhiệm vụ bức xúc của sản xuất, đời sống.
Nhiều địa phương đã làm tốt công tác tư tưởng cho nhân dân trong giải toả đất đai,
nhà cửa, giải phóng mặt bằng, để xây dựng các công trình kinh tế, văn hoá, động viên
nhân dân góp công, góp của xây dựng các công trình làm đẹp cho quê hương.
Công tác tuyên giáo còn góp phần tích cực vào việc tham mưu, đề xuất và vận
động nhân dân đóng góp tài năng, sáng kiến cho các cấp lãnh đạo, quản lý để giải
quyết những vấn đề bức xúc trên địa bàn như phòng, chống tệ nạn xã hội, xã hội hoá
văn hoá ở địa phương v.v.. 2.2. Hạn chế
Tham mưu trên một số lĩnh vực công tác tuyên giáo còn chưa kịp thời, nhạy
bén, chưa chú trọng đúng mức nghiên cứu, đề xuất những vấn đề có tính chiến lược.
Một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa tích cực góp phần làm rõ, nên
chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức, như mối quan hệ giữa tốc độ tăng
trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã
hội; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị; giữa đổi mới với ổn định và
phát triển; giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế…
Công tác tuyên giáo còn thiếu sắc bén, sức thuyết phục chưa cao, tính chiến đấu
còn hạn chế, chưa sát với thực tiễn. Chưa triển khai tốt công tác giáo dục lý luận chính
trị, tư tưởng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, những quan điểm
mơ hồ, sai trái. Chưa quan tâm đúng mức tới việc giáo dục lý tưởng, văn hóa sâu rộng.
Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc còn bị động, hiệu
quả thấp. Chưa huy động được đầy đủ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị làm
công tác tư tưởng, văn hóa. Nội dung, phương pháp công tác tuyên giáo còn chậm
được đổi mới, hoạt động còn chưa đồng đều, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các
ngành, các cấp, các bộ phận.
Công tác nghiên cứu lý luận còn trong tình trạng lạc hậu trên một số mặt, chưa
đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đang vận động nhanh chóng, phong phú và
phức tạp. Nhiều vấn đề lớn, bức xúc đặt ra từ thực tiễn trong nước, quốc tế chưa tìm ra
hướng giải quyết hoặc giải đáp chưa có sức thuyết phục. Kết quả các công trình
nghiên cứu khoa học lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn có chất lượng
chưa cao, ít có kết quả được ứng dụng, vận dụng vào thực tiễn. Hiệu quả nghiên cứu
chưa tương xứng với sự đầu tư của Đảng và Nhà nước.
Ở nhiều nơi, do sản xuất chậm phát triển, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều
khó khăn, thiếu thốn, dân trí thấp, công tác giáo dục tư tưởng và quản lý xã hội còn
thiếu sót, khuyết điểm, nên tình hình tư tưởng ở một số nơi còn có diễn biến phức tạp.
Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa dân của một số cán bộ, đảng viên, công chức,
các tiêu cực và tệ nạn xã hội đang có chiều hướng phát triển đã tác động đến niềm tin
của nhân dân vào Đảng và chế độ, đặc biệt tại cơ sở. Tại một số vùng trọng yếu, các
thế lực thù địch đang tập trung chống phá quyết liệt, tạo nên sự mất ổn định về tư
tưởng, gây mơ hồ về chính trị, ảo tưởng về chủ nghĩa tư bản, thiếu sự nhất trí và đồng
thuận với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong
một bộ phận nhân dân. Tệ nạn xã hội, sự xuống cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân vẫn là vấn nạn và
rất bức xúc hiện nay. Hiện tượng phai nhạt lý tưởng trong một bộ phận thanh niên, tư
tưởng thực dụng, sùng ngoại trong nhân dân có chiều hướng gia tăng…
Công tác tuyên truyền có lúc chưa thật chủ động, chưa dự báo kịp thời những
tình huống phức tạp xảy ra, lý giải những vấn đề phức tạp mới nảy sinh trong đời sống
còn thiếu thuyết phục. Việc phối hợp với các cơ quan chức năng để giải quyết các vấn
đề bức xúc trong xã hội chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ gây nên sự hoài nghi trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Còn các mặt lạc hậu của công tác lý luận chưa
được tập trung khắc phục, chưa giải quyết có căn cứ khoa học, có sức thuyết phục,
nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra, ảnh hưởng tới sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự
đồng thuận trong xã hội. Công tác giáo dục chính trị, lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối
sống còn có một số hạn chế. Việc khắc phục những hạn chế, yếu kém trong chỉ đạo,
quản lý báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ còn chậm, kéo dài, dẫn đến nhiều vấn đề
phải xử lý trong hoạt động của các lĩnh vực này. Cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được triển khai tích cực, nhưng chủ yếu là tuyên
truyền, học tập về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, những chuyển biến thực sự trong
việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên và nhân dân
chưa trở thành phong trào tự giác và sâu rộng. Việc phát hiện và nhân rộng các điển
hình tiên tiến làm theo tấm gương đạo đức của Bác còn ít.
2.3. Một số vấn đề đặt ra
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ, trong thập niên tới, hòa bình, hợp tác
vẫn là xu thế lớn của sự phát triển. Chiến tranh thế giới khó có khả năng xẩy ra nhưng
các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ, nạn khủng bố, tranh giành tài nguyên...
có thể sẽ gia tăng, cùng với những thách thức như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí
hậu và các thảm họa thiên nhiên khác, buộc các quốc gia phải tích cực phối hợp hành
động để giải quyết các vấn đề này. Toàn cầu hóa tiếp tục phát triển cả về quy mô, mức
độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách
thức đan xen rất phức tạp; nhiều liên kết mới xuất hiện. Sau khủng hoảng tài chính -
kinh tế toàn cầu, thế giới sẽ bước vào một giai đoạn phát triển mới; một trật tự kinh tế
quốc tế mới công bằng hơn sẽ được thiết lập.
Cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội tiếp
tục phát triển. Phong trào cánh tả được mở rộng. Phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức nhưng đang có dấu hiệu hồi phục. Châu
Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động và đang hình thành nhiều hình
thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn. Tuy vậy, khu vực này vẫn tiềm ẫn những nhân tố
gây mất ổn định như: tranh giành ảnh hướng và quyển lực, tranh chấp lãnh thổ, biển,
đảo, tài nguyên, giành quyển kiểm soát đường vận chuyển hàng hoá quan trọng nhất
trong thương mại quốc tế...
Các nước ASEAN bước vào thời kỳ hợp tác mới theo Hiến chương ASEAN và
xây dựng Cộng đồng dựa trên ba trụ cột: chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Hợp tác giữa ASEAN với các đối tác tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu. Mặt khác,