Tiền công trong Chủ nghĩa tư bản - Môn Kinh tế chính trị Mác Lê-nin

Tiền công đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong chủ nghĩa tư bản, là cơ sở để thuê và sử dụng lao động của công nhân.Tiền công giúp tạo ra cơ chế kinh tế và tình thế quyền lực cho nhà tư bản. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
10 trang 2 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tiền công trong Chủ nghĩa tư bản - Môn Kinh tế chính trị Mác Lê-nin

Tiền công đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong chủ nghĩa tư bản, là cơ sở để thuê và sử dụng lao động của công nhân.Tiền công giúp tạo ra cơ chế kinh tế và tình thế quyền lực cho nhà tư bản. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

209 105 lượt tải Tải xuống
DÀN Ý CHI TIT CA CH ĐỀ NHÓM : "Tin công trong ch nghĩa tư bản
Gii thiệu đề tài
• Sơ lƣợc chung nhất về sự quan trọng của tiền công CNTB & mục tiêu nghiên cứu
a. Tầm quan trọng:
- Tiền công đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong chủ nghĩa tư bản, là cơ sở để thuê và sử dụng lao
động của công nhân.
- Tiền công giúp tạo ra cơ chế kinh tế và tình thế quyền lực cho nhà tư bản.
-Nó cũng là cách để công nhân có thu nhập và sự tiếp cận với các sản phẩm và dịch vụ trong xã hội.
b. Mục tiêu nghiên cứu của nhóm:
Tìm hiểu cơ bản về tiền công trong chủ nghĩa tư bản và những yếu tố ảnh hưởng đến tiền công.
Tiền công là giá trị hay là giá cả của lao dộng hay là hàng hóa giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao
động.
- Lao động để được coi một hàng hóa, trước hết phải tồn tại trước đó được vật hóa, gắn với một
hình thức cụ thể nào đó.
- i theo cách khác, nếu người lao động liệu để sản xuất, thứ được bán ra những hàng hóa
người lao động đã sản xuất ra được, chứ không phải là “lao động” của họ.
Việc vô tình thừa nhận lao động là hàng hóa sẽ dẫn tới những mâu thuẫn trong lý luận nhƣ sau:
- Thứ nhất, giả định lao động và hàng hóa và được bán ngang giá, thì nhà tư bản không thu được lợi
nhuận(giá trị thặng dư), điềuy phủ nhận sự tồn tại thực tế của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa
tư bản
- Thứ hai, ngược lại, nếu lao động được trao đổi không ngang giá nhằm đạt được giá trị thặng dư cho nhà
tư bản, thì lại phủ nhận quy luật giá trị.
Kết luận:
Đi sâu hơn, nếu lao động được xem như là hàng hóa, thì lao động phải có giá trị của nó. Nhưng theo định
nghĩa, lao động lại là thực thể và là thước đo nội tại của giá trị, còn chủ thể sở hữu-lao động lại không hề
có bất kỳ giá trị nào. Thứ mà lao động thật sự bán cho các nhà tư bản chính là sức lao động của họ. Từ đó,
ta có thể lý giải tiền công chính là số lƣợng tiền mà tƣ bản trả cho sức lao động của ngƣời lao động.
MÔN HC:
KINH TÊ CHÍNH TR MÁC -
LÊNIN
GING VIÊN:
NGUYN VĂN BNG
nghĩa tư bn
NHÓM 07
II
Bn cht tin công
Vậy câu hỏi đƣợc đặt ra:
+ Rõ ràng mang tính chất hàng hóa với đặc điểm không thể tách rời chủ thể sỡ hữu - người bán và người bán chỉ có thể
nhận được giá cả sau khi cung cấp giá trị cho người sử dụng, có nghĩa là sau khi lao động, hoàn thành công việc, nhiệm
vụ đã được giao. Vậy tại sao lại phủ định "Tiền công CNTB" không phải là hàng hóa?
+ Hiện tượng dù đảm nhiệm cùng một công việc, cùng một chức vụ, cùng một thời gian lao động nhưng mà lại có
lượng tiền công khác nhau ?
+ Vậy cách nhìn tiền công đối với người lao động và nhà tư bản có khác nhau hay họ đều cho rằng đó chỉ là hoạt dộng
buôn bán sức lao dộng ?
=> Biểu hiện bề ngoài của tiền công đã hoàn toàn che dấu đi, ngụy trang hoàn hảo cho bản chất thật sự của tƣ bản
chủ nghĩa là bóc lột tận cùng ngƣời lao động. Với bề ngoài như vậy, nó đã gây lầm tưởng cho mọi người về một mối
quan hệ tự do, bình đẳng, thuận mua vừa bán giữa tư bản và lao động. Nhưng sự thật thì nó đã che đậy, xóa mờ đi ranh
giới thời gian lao động giữa lao động tất yếu và lao động thặng dư, thành lao động có công và lao động không công.
Chức năng đối vi tin công.
Thứ nhất: Chức năng thƣớc đo giá trị
+ Biểu hiện bên ngoài bằng tiền của giá trị sức lao động, và được thể hiện ở bề ngoài là giá cả sức lao động.
+ Tiền công hay tiền lương chính là thước đo giá trị của sức lao động, thể hiện qua những công việc, nhiệm vụ được
yêu cầu thực hiện để được trả công
+ Tiền công chính là sự phản ánh giá trị, mức độ quan trọng của việc làm. Điều này dẫn đến việc giá trị việc làm càng
cao, càng ảnh hưởng thì tiền công sẽ càng lớn.
+ Ví d v ni dung trên d hiu c th có th là:
Ví dụ, trong một xưởng sản xuất giày dép, có hai công việc khác nhau: may giày và đóng gói giày. Cả hai công việc
này đều có chức năng và đóng góp vào quá trình sản xuất giày. Tuy nhiên, công việc may giày yêu cầu kỹ năng cao và
kiến thức chuyên môn, trong khi công việc đóng gói giày đơn giản hơn và không đòi hỏi kỹ năng đặc biệt.
Do khả năng và kỹ năng cao hơn, công việc may giày được xem là có giá trị cao hơn công việc đóng gói giày. Vì vậy,
tiền công cho công nhân may giày sẽ cao hơn tiền công cho công nhân đóng gói giày. Điều này thể hiện sự phản ánh
giá trị và mức độ quan trọng của công việc, và mức tiền công cao hơn cũng góp phần tạo động lực cho người lao động
nỗ lực hơn trong công việc của mình.
Tóm lại, ví dụ trên minh họa cách giá trị công việc được thể hiện thông qua mức tiền công và mức độ quan trọng của
công việc.
Thứ hai: Duy trì và phát triển lao động
+ Cơ sở của tiền công chính là giá trị sức lao động
+ Giá trị hàng hóa sức lao động được ước tính dựa trên thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất
sức lao động.
+ Giá trị hàng hóa sức lao động được đo bằng giá trị của các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức
lao động.
+ Tái sản xuất bao gồm việc duy trì sự sống và sức khỏe vật chất và tinh thần của người lao động, cũng như sinh con và
nuôi dưỡng lực lượng lao động mới.
+ Ví d v ni dung trên d hiu c th có th là:
Giả sử bạn là một công nhân xây dựng. Thời gian cần thiết để bạn xây dựng một căn nhà là 10 ngày. Trong suốt thời
gian làm việc hàng ngày, bạn cần sử dụng nguyên liệu xây dựng và sức lực của mình để hoàn thành công việc. Giờ làm
việc của bạn được tính từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều.
III
Theo lý thuyết giá trị sức lao động, giá trị của công việc xây dựng căn nhà của bạn được xác định dựa trên thời gian lao
động xã hội cần thiết để hoàn thành công việc. Với trường hợp này, thời gian làm việc của bạn là 8 giờ mỗi ngày x 10
ngày, tổng cộng là 80 giờ.
Giá trị hàng hóa sức lao động được xem xét dựa trên tư liệu sinh hoạt và năng lực của bạn. Bạt, xi măng, cát và sức lực là
các tư liệu sinh hoạt và năng lực cần thiết để hoàn thành công việc. Giá trị của những tư liệu sinh hoạt này cũng được tính
toán để xác định giá trị hàng hóa sức lao động. Ngoài ra, tiền công được trả cho bạn như là sự đềncho sự lao động và
nỗ lực đóng góp vào quá trình xây dựng căn nhà. Tiền công cũng bao gồm việc duy trì và phát triển năng lực lao động của
bạn, bao gồm cả việc trang bị k năng và kiến thức mới, và duy trì sức khỏe và sinh lực.
Tóm lại, giá trị hàng hóa sức lao động - trong trường hợp này là công việc xây dựng căn nhà - phản ánh vào giá trị thời
gian và tư liệu sinh hoạt cần thiết để hoàn thành công việc, trong khi tiền công đại diện cho công lao và sự đóng góp của
người lao động, bao gồm cả việc duy trì và phát triển lao động.
Thứba: Kích thích lao động và phát triển nguồn nhân lực.
+ Tiền công hay tiền lương, đều là một phần mục đích của người lao động khi bán sức lao động cho các nhà tư bản.
+ Kiểm soát và điều chỉnh mức tiền lương sẽ đóng vai trò kinh tế then chốt trong việc định hướng sức quan tâm và mục
đích làm việc của người lao động.
+ Một khi được trả cho một khoản tiền công tương xứng với những gì đã bỏ ra sức lao động, người lao động sẽ không
ngừng nâng cao năng suất và chất lượng công việc.
+ Ví d v ni dung trên d hiu c th có th là:
Ví dụ, trong một công ty xây dựng, có hai công nhân làm cùng một công việc đó là xây móng nhà.
Cả hai công nhân này có cùng đội ngũ và cùng mức độ kỹ năng.
Tuy nhiên, công nhân A là người làm việc cần cù, chăm chỉ và luôn hoàn thành công việc đúng hẹn. Trong khi đó, công
nhân B là người làm việc lười biếng, thường xuyên chậm trễ và không làm việc
đủ thời gian.
Vì công nhân A có hiệu suất làm việc tốt hơn, công ty sẽ trả cho công nhân A mức tiền công cao hơn so với công nhân B.
Điều này tạo động lực cho công nhân A để tiếp tục làm việc chăm chỉ và nâng cao chất lượng công việc của mình.
Trong trường hợp này, tiền công làm vai trò kích thích công nhân A phát triển năng lực và nâng cao hiệu suất làm việc.
Đồng thời, tiền lương cũng đóng vai trò điều chỉnh hành vi làm việc của công nhân B, khuyến khích anh ta cải thiện và
đạt được kết quả tốt hơn.
Tóm lại, ví dụ trên minh họa cách tiền công/lương có vai trò quan trọng trong việc kích thích lao động và phát triển nguồn
nhân lực, thông qua việc điều chỉnh và định hướng hành vi làm việc của
người lao động.
• Thứ tƣ Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển.
+ cầu về lao động là cầu dẫn xuất, bị phụ thuộc và ảnh hưởng bởi khả năng tiêu thụ sản phẩm mà mỗi lao động có thể sản
xuất và giá cả của sức lao động.
+ Vì vậy nên tăng năng suất lao động chính là cơ sở cốt lõi của tiền lương.
+ Bên cạnh đó, việc tăng năng suất lao động sẽ đồng thời dẫn tới sự phân bố lao động. Theo quy luật thị trường, lao động
sẽ phân bố chủ yếu tại những nơi có năng suất làm việc cao để đổi lấy lượng tiền công nhiều hơn.
+ Ví d v ni dung trên d hiu c th có th là:
ví dụ minh họa về nội dung trên là trong một ngành công nghiệp sản xuất giày dép. Giả sử có hai công ty sản xuất giày A
và B. Cả hai công ty đều sử dụng lao động để sản xuất giày, nhưng công ty A có công nghệ hiện đại hơn và năng suất lao
động cao hơn so với công ty B.
Do đó, công ty A có thể sản xuất nhiều giày hơn trong cùng một khoảng thời gian so với công ty B. Nh đó, công ty A có
th làm giảm giá sản phẩm giày của mình để cạnh tranh trên th trường. Khi giá thành giày của công ty A giảm, khả năng tiêu
thụ sản phẩm này cũng tăng lên. Đồng thời, công ty A sẽ cần nhiều lao động hơn để đáp ứng nhu cầu sản xuất giày tăng cao.
Do đó, công ty A có khả năng tuyển dụng nhiều lao động hơn và tạo ra nhiều việc làm mới. Ngược lại, công ty B có năng
suất lao động thấp hơn, giá thành sản phẩm cao và không có năng lực cạnh tranh trên thị trường. Do đó, công ty B sẽ có ít
nhu cầu tuyển dụng lao động và có thể gặp khó khăn trong việc duy trì việc làm cho nhân viên hiện tại.
Từ ví dụ trên, ta thấy việc tăng năng suất lao động của công ty A đã dẫn đến sự phân bố lao động trong ngành công
nghiệp sản xuất giày. Công ty A thu hút nhiều lao động để đáp ứng nhu cầu sản xuất, trong khi công ty B gặp khó khăn và
có ít lao động. Điều này cho thấy tăng năng suất lao động không chỉ làm tăng sức mạnh cạnh tranh của một công ty mà
còn ảnh hưởng đến phân bố lao động xã hội.
Thứ năm: Chức năng xã hội của tiền công
+ Tiền công còn có chức tổng hòa và hoàn thiện các mối quan hệ lao động.
+ Việc duy trì mức tiền lương cao và tăng không ngừng dựa trên kết quả làm việc của lao động không chỉ dựa trên cơ sở
tăng năng suất lao động, mà còn hòa hợp các mối quan hệ giữa lao động và tư bản.
+ Việc tiền lương được xây dựng dựa trên hiệu quả làm việc của người lao động và các thành phần kinh tế sẽ khuyến
khích tinh thần cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau, hai bên bình đẳng và cùng có lợi, nâng cao tính cạnh tranh trong nội bộ công
ty. Mặt khác, chức năng này của tiền công còn tạo bản lề cho sự hoàn thiện và nâng cao chất lượng lao động, thúc đẩy xã
hội theo định hướng văn minh và dân chủ.
+ Ví d v ni dung trên d hiu c th có th là:
Một ví dụ minh họa về nội dung trên là trong một công ty công nghệ thông tin. Công ty này có một chính sách tiền lương
linh hoạt, được xây dựng dựa trên hiệu quả làm việc của từng nhân viên và đánh giá công bằng về đóng góp cá nhân.
Công ty này đã tạo ra một môi trường làm việc cạnh tranh, nơi mỗi nhân viên được khuyến khích để đạt được hiệu suất
làm việc cao nhất và đóng góp tích cực cho sự phát triển của công ty. Nhân viên có thể được thưởng lương cao hơn nếu
họ đạt được các mục tiêu và kết quả công việc cao. Điều này tạo ra một tinh thần cộng tác giữa nhân viên, khi họ sẽ giúp
đỡ lẫn nhau và chia sẻ kiến thức và kỹ năng để đạt được thành công cá nhân và cùng với đó là sự phát triển của công ty.
Hơn nữa, việc công ty đánh giá công bằng về đóng góp cá nhân và đưa ra mức lương thích hợp sẽ giúp tạo ra sự công
bằng và bình đẳng giữa nhân viên.
Thêm vào đó, chính sách tiền lương linh hoạt của công ty còn thúc đẩy nhân viên nỗ lực và cải thiện chất lượng làm việc
của họ để có thể nhận được mức lương tương xứng. Điều này dẫn đến việc nâng cao chất lượng lao động trong công ty
thúc đẩy công ty theo hướng văn minh và dân chủ.
Từ ví dụ trên, ta thấy chức năng xã hội của tiền công trong công ty công nghệ thông tin đã hòa hợp quan hệ lao động,
khuyến khích tinh thần cộng tác và đóng góp tích cực của nhân viên. Nó cũng đã tạo ra một môi trường làm việc công
bằng và định hướng công ty theo hướng văn minh và dân chủ.
Các hình thc ca tiền lƣơng
Tiền công theo thời gian:
Khái niệm: hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay nhiều tu theo thời gian lao động của công nhân
(giờ, ngày, tháng) dài hay ngắn. Việc xem xét mức tiền công theo thời gian không chỉ phụ thuộc vào tổng số
tiền tích lũy được mà còn cả độ dài ngắn của thời gian lao động, cũng như mức độ của cường độ lao động.
+ Vì vậy nên cần phân biệt giữa tiền công giờ, tiền công ngày, tiền công tuần, tiền công tháng. Từ đó, ta
đơn vị tiền công tính theo thời gian trung bình được tính bằng công thức: Tiền công theo giờ = (Giá trị
hàng ngày của sức lao động)/(Ngày lao động với một số giờ nhất định)
Tuy thực hiện chế độ tiền công theo thời gian, các nhà tư bản không thế thay đổi được lương theo ngày, theo
tháng... của người lao động, nhưng mà có thể’ khiến cho giá trị của sức lao động mà người lao động bỏ ra
bằng cách kéo dài thời gian lao động hoặc tăng cường độ làm việc. Bên cạnh đó còn có tiền công kéo dài
thời gian, hay là khoản tiền công mà người lao động có được khi làm việc ngoài thời gian đã quy định. Điều
này là một bước đi mang tính chiến lược của các công ty, doanh nghiệp khi thị trường thuận lợi, lượng hàng
hóa được nhanh chóng tiêu thụ. Còn khi có sự tắc nghẽn trong thị trường, yêu cầu có sự thu hẹp, giảm quy
mô sản xuất, tư bản sẽ thực hiện chế độ tiền công theo thời gian, làm cho tiền công của người công nhân
giảm đi rất nhiều do giảm thời gian làm việc quy định. Điều này cho thấy người lao động không phi ch
đối mt vi vic thi gian làm vic b kéo dài quá gii hn, mà c vic b ct xén gi làm.
+ Ví d v ni dung trên d hiu c th có th là:
Một ví dụ minh họa về tình trạng tiền công theo giờ là khi một công ty muốn tiết kiệm chi phí lao động
trong một thời gian kinh tế khó khăn. Thay vì trả lương theo ngày làm việc, công ty quyết định chuyển sang
chế độ tiền công theo giờ làm việc.
Ví dụ, trước đây công ty A trả lương cho nhân viên là 200.000 đồng/ngày làm việc 8 giờ. Tuy nhiên, trong
thời gian khó khăn kinh tế, công ty quyết định chuyển sang tiền công theo giờ làm việc. Họ giảm lương mỗi
giờ làm việc xuống còn 25.000 đồng/giờ.
Với việc điều chỉnh này, nếu nhân viên làm việc 8 giờ/ngày như trước, tiền công mà nhân viên A nhận được
sẽ là 8 giờ x 25.000 đồng/giờ = 200.000 đồng/ngày, không có thay đổi. Tuy nhiên, công ty có thể yêu cầu
nhân viên làm thêm giờ để tăng năng suất và tiết kiệm chi phí. Nếu nhân viên làm thêm 2 giờ/ngày, tổng số
tiền công mà nhân viên A nhận được sẽ là 10 giờ x 25.000 đồng/giờ = 250.000 đồng/ngày. Tuy có tăng
thêm 2 giờ làm việc, nhưng tiền công vẫn không đổi so với trước đây.
Đây một dvề tình trạng tiền công theo giờ khi công ty sử dụng để ưu tiên tiết kiệm chi phí tăng
năng suất lao động trong một thời gian kinh tế khó khăn.
Tiền lƣơng tính theo sản phẩm
Khái niệm: hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm hay số lượng những
bộ phận của sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra hoặc là số lượng công việc đã hoàn thành trong một
khoảng thời gian xác định. Tiền công tính theo sản phẩm là một hình thức chuyển hóa của của tiền công tính
theo thời gian.
Đơn giá tiền công = (Tiền công trung bình trong một ngày của lao động)/(Số lƣợng sản phẩm mà
lao động tạo ra trong một ngày lao động bình thƣờng)
+ Ví d v ni dung trên d hiu c th có th là:
Một ví dụ về hình thức tiền công tính theo sản phẩm có thể là trong sản xuất bánh mì. Giả sử một công nhân
làm trong một nhà máy sản xuất bánh mì, và được trả lương theo hình thức tiền công tính theo sản phẩm.
Nếu công nhân đó sản xuất được 100 chiếc bánh mì trong một ngày, và đơn giá tiền công của nhà máy
1000 đồng cho mỗi chiếc bánh mì, thì công nhân đó sẽ nhận được 1000 đồng x 100 chiếc bánh mì =
100,000 đồng trong một ngày.
Nếu công nhân đó làm việc chăm chỉ hơn và sản xuất được 120 chiếc bánh mì trong một ngày, thì công
nhân đó sẽ nhận được 1000 đồng x 120 chiếc bánh mì = 120,000 đồng trong một ngày. Tuy nhiên, nếu công
nhân đó sản xuất ít hơn và chỉ sản xuất được 80 chiếc bánh mì trong một ngày, thì công nhân đó sẽ chỉ nhận
được 1000 đồng x 80 chiếc bánh mì = 80,000 đồng trong một ngày.
This document is available free of charge on
Như vậy, với hình thức tiền công tính theo sản phẩm, công nhân sẽ nhận được số tiền lương phụ thuộc vào
số lượng sản phẩm mà họ sản xuất được trong một khoảng thời gian xác định.
So sánh giữa hai hình thức tiền công theo thời gian, tiền công theo sản phẩm:
+ càng che đậy và làm lệch đi bản chát của tiền
lương.
Q studocu
+ Ví dụ điển hình cho hình thức tiền công theo sản phẩm được triển khai bởi nhiều công ty, doanh nghiệp
và cả các ngân hàng khác nhau, đó là KPI (KEY OBJECTIVE INDICATOR).
Bằng cách sử dụng những công cụ đo lường, đánh giá hiệu quả công việc được thể hiện qua số liệu, t lệ,
chỉ tiêu định lượng, nhằm phản ánh hiệu quả hoạt động của các tổ chức hoặc bộ phận chức năng của công ty
hay doanh nghiệp cá nhân, các nhà tư bản sẽ đặt ra những yêu cầu, mục tiêu về doanh số, về hiệu quả
đưa ra những chế tài khen thưởng, xử phạt cho từng bộ phận, phòng
ban và cá nhân nhân sự.
KPI nói riêng và hình thức tiền công theo sản phẩm nói chung sản sinh môi trường cạnh tranh giữa các lao
động với nhau, kích thích sự tích cực của người lao động trong công việc, nâng cao cường độ làm việc.
=> Từ đó nhà tư bản có được những sản phẩm đạt về cả hai phương diện là chất lượng và số lượng, còn
người lao động có thể tăng thêm thu nhập của bản thân. Nhưng chính vì sự gia tăng áp lực trong việc theo
đuổi yêu cầu mà nhà tư bản đặt ra nên xuất hiện tình trạng người lao động bị kéo thời gian làm việc quá độ,
môi trường làm việc luôn ở trạng thái căng thẳng, khẩn trương và đốc thúc quá mức, dẫn đến lao động bị
suy kiệt về sức khỏe và tinh thần.
V
Tiền lƣơng danh nghĩa, tiền lƣơng thực tế và xu hƣng vn đng ca
tiền công trong tƣ bn ch nghĩa
Tiền lƣơng danh nghĩa, tiền lƣơng thực tế
o Tiền lƣơng danh nghĩa: là số tiền mà người lao động được công bố trên hợp đồng lao động hoặc trên
giấy khai thuế. Đây là số tiền mà nhà tuyển dụng và người lao động thỏa thuận trước khi bắt đầu làm
việc.
o Tiền lƣơng thực tế: số tiền mà người lao động thực sự được trả sau khi trừ đi các khoản phí, thuế và các
khoản khấu trừ khác. Tiền lương thực tế bao gồm cả tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp như trợ
cấp ăn trưa, trợ cấp đi lại, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, và các khoản phí khác.
Ví dụ, nếu một nhân viên được công bố mức lương danh nghĩa là 10 triệu đồng mỗi tháng, nhưng sau khi trừ các
khoản phí và thuế, thực tế anh ta chỉ nhận được 8 triệu đồng mỗi tháng, thì tiền lương thực tế của anh ta là 8 triệu
đồng.
=> Có thể thấy rằng tiền lương thực tế luôn thấp hơn tiền lương danh nghĩa do các khoản khấu trừ.
Xu hƣớng vận động của tiền công dƣới chủ nghĩa tƣ bản o
Nhận định:
Các Mác đã chỉ ra xu hướng chung trong nền sản xuất của tư bản chủ nghĩa không phải là nâng cao
mức tiền lương trung bình, mà cố gắng hạ thấp tiền công xuống. Trong xu thế phát triển của tư bản chủ
nghĩa, tiền công danh nghĩa đúng ra có khuynh hướng tăng lên, nhưng tốc độ và mức tăng của nó vẫn
chưa tương ứng với mức tăng của giá cả sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng. Chính vì lẽ ấy mà tiền công
thực tế có xu hướng hạ thấp đi.
Downloaded by ha le (Vj8@gmail.com)
o Tại sao việc tiền công bị hạ thấp lại mang tính xu hƣớng:
Q Trong điều kiện của thời đại khoa học, kỹ thuật, quá trình sản xuất đang không ngừng thay đổi, bớt
giản lược, đơn sơ, trở nên tinh vi và phức tạp hơn để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ đảm bảo hai
phương diện là chất và lượng. Vì thế yêu cầu phải tăng trình độ chuyên môn kỹ thuật, gia tăng
cường độ làm việc với bản thân lao động. Cũng vì vậy mà các nhà tư bản cũng phải trả thêm
nhiều chi phí cho việc đào tạo nhân công, cải thiện môi trường làm việc, hay nói chung là tái sản
xuất lao động, thế nên làm tăng giá trị của tiền công.
Q Còn yếu tố làm giảm giá trị tiền công là tăng năng suất lao động, Bởi khi tăng năng suất lao động,
giá cả tư liệu sinh hoạt cũng có khả năng rẻ đi, tiền công thực tế cũng sẽ tăng lên. Nhưng sự thật
thì tiền lương thực tế vẫn chưa thỏa mãn tất cả các nhu cầu thực sự của người lao động. Thế nên
không chỉ sự chênh lệch giữa chúng không được rút ngắn mà còn bị kéo dài ra.
o Sự hạ thấp tiền công dƣới giá trị sức lao động còn do sự ảnh hƣởng của các yếu tố sau
+Nhận thấy được việc bất kỳ lao động nào cũng cần phải bán sức lao động của mình bằng mọi cách
để có chi phí thỏa mãn các nhu cầu và trang trải cho cuộc sống, các nhà tư bản đã giảm mức lương
trung bình xuống, dẫn đến tình trạng nhiều lao động không nhận được lương.
+ Lạm phát cũng đóng vai trò làm giảm mức tiền lương trong bối cảnh hiện nay khi đã làm giảm sức
mua.
+ các yếu tố địa lý, văn hóa, xã hội quyết định xu hướng hạ thấp tiền lương của lao động. Tại các
nước phát triển, dù tiền lương cao hơn bởi trình độ chuyên môn đã qua đào tạo của lao động đi kèm
với sự áp dụng của khoa học k thuật hiện đại vào quá trình sản xuất, nhưng lại thể hiện rõ nét hơn sự
bóc lột của tư bản chủ nghĩa. Còn ở các nước đang phát triển, giá cả sức lao động thấp do lao động
thiếu kiến thức chuyên môn hay sự lạc hậu trong công nghệ, nhưng cũng chính vì giá thành lao động
thấp nên đã thu hút sự chú ý của các nhà tư bản nước ngoài.
Downloaded by ha le (Vj8@gmail.com)
Kết
lu
n
Muốn đánh giá chính xác mức tiền công không chỉ căn cứ vào tiền công ngày mà phải căn cứ vào độ dài của
ngày lao động và cường độ lao động. Theo đó, cần tiếp tục mở rộng quan hệ tiền
This document is available free of charge on studocu
Một số phƣơng hƣớng cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả cải cách chính sách tiền công ở
nƣớc ta hiện nay:
Q Cải cách tiền công, trả lƣơng theo thời gian làm việc.
Downloaded by ha le (Vj8@gmail.com)
lương tối thiểu-trung bình-tối đa nhằm khắc phục hiện tượng bình quân trong chi trả lương, động viên khuyến
khích người có tài, có trình độ yên tâm công tác trong khu vực công nói chung, đặc biệt là khắc phục triệt để
tính bình quân, cào bằng trong chi trả lương hiện nay, phát huy khả năng, trí tuệ của mọi người trong sản xuất.
Q Cải cách tiền công, trả lƣơng theo sản phẩm
Để đạt được cần có các quy định rõ ràng về vấn đề này, “ làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít” tránh
tình trạng “ làm nhiều, làm ít cũng hưởng lương như nhau” dẫn đến tiền lương chưa phù hợp với mức độ
cống hiến, chưa phản ánh đúng năng lực, kết quả lao động. Gắn cải cách tiền tiền lương với cải cách
hành chính. Việc này cũng đồng nghĩa với việc tiền công sẽ được trả theo chức vụ, chức danh nghiệp vụ
chuyên môn, công tác. Hệ số lương khởi điểm các gạch cần nâng cao hơn phù hợp với lượng sản phẩm,
công việc của họ làm ra và đạt được trong công việc.
Q Cải cách tiền công theo thực tế:
Mức lương tối thiểu hiện nay chưa phù hợp với cơ chế thị trường, việc điều chỉnh mức lương tối thiểu
tăng không kịp so với mức tăng của giá cả sinh hoạt hằng ngày và mức tăng trưởng kinh tế. Do đó, thay
bằng tăng tiền lương theo thời kỳ dài ta tăng theo thời gian, theo sự tăng lên hay giảm xuống của giá cả
sinh hoạt hằng ngày và theo mức tăng trưởng của nền kinh tế theo thời gian. Khuyến khích các cơ quan
nhà nước, doanh nghiệp trả lương cho người lao động cao hơn mức lương tối thiểu vùng, trả lương theo
hình thức khen thưởng và khuyến khích.
Q Cải cách tiền công trên danh nghĩa:
Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tiền lương theo cơ chế thị trường đảm bảo tiền
lương được trả đúng cho người lao động theo cơ chế thị trường, theo sức lao động công nhân đã bán đi.
Cần có quan điểm đầu tư vào tiền lương là đầu tư cho phát triển, từ đó điều chỉnh mạnh chi tiêu công, cơ
cấu lại chi ngân sách nhà nước; trong đó, tăng huy động các nguồn ngoài ngân sách nhà nước như vốn
đầu tư của doanh nghiệp, trong nhân dân... cho đầu tư toàn xã hội, dành nguồn cho trả tiền lương cho
công chức, viên chức đảm bảo cho họ có mức tiền lương bình quân trên trung bình của lao động khu vực
thị trường.
Tóm tắt những điểm chính:
Tiền lương của Mác là sự tiếp tục phát triển lý luận về tiền lương của các nhà kinh tế cổ điển trước đó. Lý
luận tiền lương của Mác đã vạch rõ bản chất của tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản đã bị che đậy - tiền lương
là giá cả của lao động, bác bỏ quan niệm của các nhà kinh tế tư bản trước đó (Ricardo).Những luận điểm của
Mác về tiền lương vẫn còn giá trị đến ngày nay. Mặc dù ở nước ta chính sách tiền lương đã được cải cách.
Nhận định nhóm và một số định tiếp theo:
Tuy nhiên, nhiu vấn đề ct lõi vẫn chưa được gii quyết mt cách tho đáng. Cho đến nay, thu nhp ca
người được hưởng lương tăng, mức sống, tiêu dùng tăng, về bản không do chính sách tiền lương đem lại
mà do tăng thu nhập ngoài lương, nhờ kinh tế tăng trưởng Vic hiu và vn dụng đúng những nguyên lý v
tiền lương của Mác trong điều kin nn kinh tế th trường nước ta hiện nay có ý nghĩa rất lớn. Đây là vấn
đề đã thu hút được s quan tâm của đông đảo người lao động và chuyên gia nghiên cu. Xut phát t ý
nghĩa lý lun và thc tiễn nêu trên mà người viết la chọn đề tài này nhm hiểu rõ hơn v h thng chính
sách tiền lương ở Vit Nam, nhằm đưa ra các kiến ngh hoàn thin h thng chính sách tiền lương ở Vit
Nam trong giai đoạn hin nay.
TÊN CÁC THÀNH VIÊN THAM GIA ĐÓNG GÓP:
Q PHỤ TRÁCH PHẦN CANVA MINDMAP, PHẦN V
g NỘI DUNG PHẦN I và II
g PHẦN III, IV
g PHẦN VI, LÊN DÀN Ý CHI TIẾT, BỔ SUNG THÊM CÁC VÍ DỤ MINH HỌA
Cảm ơn Thầy và các bạn đã đọc và đóng góp để nhóm có th hoàn thiện hơn!
1. LƢU THỊ ÁNH TUYẾT
2.
BÙI THỊ KIM NGỌC
3.
TRƢƠNG SỬ BẢO
NGỌC
4. LÊ YẾN NHI
This document is available free of charge on Q studocu
Downloaded by ha le (Vj8@gmail.com)
| 1/10

Preview text:

MÔN HỌC:
KINH TÊ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN GIẢNG VIÊN: NGUYỄN VĂN BỪNG nghĩa tư bản NHÓM 07
DÀN Ý CHI TIẾT CỦA CHỦ ĐỀ NHÓM : "Tiền công trong chủ nghĩa tư bản
Giới thiệu đề tài
• Sơ lƣợc chung nhất về sự quan trọng của tiền công CNTB & mục tiêu nghiên cứu a. Tầm quan trọng:
- Tiền công đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong chủ nghĩa tư bản, là cơ sở để thuê và sử dụng lao động của công nhân.
- Tiền công giúp tạo ra cơ chế kinh tế và tình thế quyền lực cho nhà tư bản.
-Nó cũng là cách để công nhân có thu nhập và sự tiếp cận với các sản phẩm và dịch vụ trong xã hội.
b. Mục tiêu nghiên cứu của nhóm: II
Bản chất tiền công
Tìm hiểu cơ bản về tiền công trong chủ nghĩa tư bản và những yếu tố ảnh hưởng đến tiền công.
Tiền công là giá trị hay là giá cả của lao dộng hay là hàng hóa giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động.
- Lao động để được coi là một hàng hóa, trước hết nó phải tồn tại trước đó và được vật hóa, gắn với một
hình thức cụ thể nào đó.
- Nói theo cách khác, nếu người lao động có tư liệu để sản xuất, thứ được bán ra là những hàng hóa mà
người lao động đã sản xuất ra được, chứ không phải là “lao động” của họ.
Việc vô tình thừa nhận lao động là hàng hóa sẽ dẫn tới những mâu thuẫn trong lý luận nhƣ sau:
- Thứ nhất, giả định lao động và hàng hóa và được bán ngang giá, thì nhà tư bản không thu được lợi
nhuận(giá trị thặng dư), điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản
- Thứ hai, ngược lại, nếu lao động được trao đổi không ngang giá nhằm đạt được giá trị thặng dư cho nhà
tư bản, thì lại phủ nhận quy luật giá trị. Kết luận:
Đi sâu hơn, nếu lao động được xem như là hàng hóa, thì lao động phải có giá trị của nó. Nhưng theo định
nghĩa, lao động lại là thực thể và là thước đo nội tại của giá trị, còn chủ thể sở hữu-lao động lại không hề
có bất kỳ giá trị nào. Thứ mà lao động thật sự bán cho các nhà tư bản chính là sức lao động của họ. Từ đó,
ta có thể lý giải tiền công chính là số lƣợng tiền mà tƣ bản trả cho sức lao động của ngƣời lao động.
Vậy câu hỏi đƣợc đặt ra:
+ Rõ ràng mang tính chất hàng hóa với đặc điểm không thể tách rời chủ thể sỡ hữu - người bán và người bán chỉ có thể
nhận được giá cả sau khi cung cấp giá trị cho người sử dụng, có nghĩa là sau khi lao động, hoàn thành công việc, nhiệm
vụ đã được giao. Vậy tại sao lại phủ định "Tiền công CNTB" không phải là hàng hóa?
+ Hiện tượng dù đảm nhiệm cùng một công việc, cùng một chức vụ, cùng một thời gian lao động nhưng mà lại có
lượng tiền công khác nhau ?
+ Vậy cách nhìn tiền công đối với người lao động và nhà tư bản có khác nhau hay họ đều cho rằng đó chỉ là hoạt dộng buôn bán sức lao dộng ?
=> Biểu hiện bề ngoài của tiền công đã hoàn toàn che dấu đi, ngụy trang hoàn hảo cho bản chất thật sự của tƣ bản
chủ nghĩa là bóc lột tận cùng ngƣời lao động
. Với bề ngoài như vậy, nó đã gây lầm tưởng cho mọi người về một mối
quan hệ tự do, bình đẳng, thuận mua vừa bán giữa tư bản và lao động. Nhưng sự thật thì nó đã che đậy, xóa mờ đi ranh
giới thời gian lao động giữa lao động tất yếu và lao động thặng dư, thành lao động có công và lao động không công. III
Chức năng đối với tiền công.
• Thứ nhất: Chức năng thƣớc đo giá trị
+ Biểu hiện bên ngoài bằng tiền của giá trị sức lao động, và được thể hiện ở bề ngoài là giá cả sức lao động.
+ Tiền công hay tiền lương chính là thước đo giá trị của sức lao động, thể hiện qua những công việc, nhiệm vụ được
yêu cầu thực hiện để được trả công
+ Tiền công chính là sự phản ánh giá trị, mức độ quan trọng của việc làm. Điều này dẫn đến việc giá trị việc làm càng
cao, càng ảnh hưởng thì tiền công sẽ càng lớn.
+ Ví dụ về nội dung trên dễ hiểu cụ thể có thể là:
Ví dụ, trong một xưởng sản xuất giày dép, có hai công việc khác nhau: may giày và đóng gói giày. Cả hai công việc
này đều có chức năng và đóng góp vào quá trình sản xuất giày. Tuy nhiên, công việc may giày yêu cầu kỹ năng cao và
kiến thức chuyên môn, trong khi công việc đóng gói giày đơn giản hơn và không đòi hỏi kỹ năng đặc biệt.
Do khả năng và kỹ năng cao hơn, công việc may giày được xem là có giá trị cao hơn công việc đóng gói giày. Vì vậy,
tiền công cho công nhân may giày sẽ cao hơn tiền công cho công nhân đóng gói giày. Điều này thể hiện sự phản ánh
giá trị và mức độ quan trọng của công việc, và mức tiền công cao hơn cũng góp phần tạo động lực cho người lao động
nỗ lực hơn trong công việc của mình.
Tóm lại, ví dụ trên minh họa cách giá trị công việc được thể hiện thông qua mức tiền công và mức độ quan trọng của công việc.
• Thứ hai: Duy trì và phát triển lao động
+ Cơ sở của tiền công chính là giá trị sức lao động
+ Giá trị hàng hóa sức lao động được ước tính dựa trên thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động.
+ Giá trị hàng hóa sức lao động được đo bằng giá trị của các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động.
+ Tái sản xuất bao gồm việc duy trì sự sống và sức khỏe vật chất và tinh thần của người lao động, cũng như sinh con và
nuôi dưỡng lực lượng lao động mới.
+ Ví dụ về nội dung trên dễ hiểu cụ thể có thể là:
Giả sử bạn là một công nhân xây dựng. Thời gian cần thiết để bạn xây dựng một căn nhà là 10 ngày. Trong suốt thời
gian làm việc hàng ngày, bạn cần sử dụng nguyên liệu xây dựng và sức lực của mình để hoàn thành công việc. Giờ làm
việc của bạn được tính từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều.
Theo lý thuyết giá trị sức lao động, giá trị của công việc xây dựng căn nhà của bạn được xác định dựa trên thời gian lao
động xã hội cần thiết để hoàn thành công việc. Với trường hợp này, thời gian làm việc của bạn là 8 giờ mỗi ngày x 10
ngày, tổng cộng là 80 giờ.
Giá trị hàng hóa sức lao động được xem xét dựa trên tư liệu sinh hoạt và năng lực của bạn. Bạt, xi măng, cát và sức lực là
các tư liệu sinh hoạt và năng lực cần thiết để hoàn thành công việc. Giá trị của những tư liệu sinh hoạt này cũng được tính
toán để xác định giá trị hàng hóa sức lao động. Ngoài ra, tiền công được trả cho bạn như là sự đền bù cho sự lao động và
nỗ lực đóng góp vào quá trình xây dựng căn nhà. Tiền công cũng bao gồm việc duy trì và phát triển năng lực lao động của
bạn, bao gồm cả việc trang bị kỹ năng và kiến thức mới, và duy trì sức khỏe và sinh lực.
Tóm lại, giá trị hàng hóa sức lao động - trong trường hợp này là công việc xây dựng căn nhà - phản ánh vào giá trị thời
gian và tư liệu sinh hoạt cần thiết để hoàn thành công việc, trong khi tiền công đại diện cho công lao và sự đóng góp của
người lao động, bao gồm cả việc duy trì và phát triển lao động.
• Thứba: Kích thích lao động và phát triển nguồn nhân lực.
+ Tiền công hay tiền lương, đều là một phần mục đích của người lao động khi bán sức lao động cho các nhà tư bản.
+ Kiểm soát và điều chỉnh mức tiền lương sẽ đóng vai trò kinh tế then chốt trong việc định hướng sức quan tâm và mục
đích làm việc của người lao động.
+ Một khi được trả cho một khoản tiền công tương xứng với những gì đã bỏ ra sức lao động, người lao động sẽ không
ngừng nâng cao năng suất và chất lượng công việc.
+ Ví dụ về nội dung trên dễ hiểu cụ thể có thể là:
Ví dụ, trong một công ty xây dựng, có hai công nhân làm cùng một công việc đó là xây móng nhà.
Cả hai công nhân này có cùng đội ngũ và cùng mức độ kỹ năng.
Tuy nhiên, công nhân A là người làm việc cần cù, chăm chỉ và luôn hoàn thành công việc đúng hẹn. Trong khi đó, công
nhân B là người làm việc lười biếng, thường xuyên chậm trễ và không làm việc đủ thời gian.
Vì công nhân A có hiệu suất làm việc tốt hơn, công ty sẽ trả cho công nhân A mức tiền công cao hơn so với công nhân B.
Điều này tạo động lực cho công nhân A để tiếp tục làm việc chăm chỉ và nâng cao chất lượng công việc của mình.
Trong trường hợp này, tiền công làm vai trò kích thích công nhân A phát triển năng lực và nâng cao hiệu suất làm việc.
Đồng thời, tiền lương cũng đóng vai trò điều chỉnh hành vi làm việc của công nhân B, khuyến khích anh ta cải thiện và
đạt được kết quả tốt hơn.
Tóm lại, ví dụ trên minh họa cách tiền công/lương có vai trò quan trọng trong việc kích thích lao động và phát triển nguồn
nhân lực, thông qua việc điều chỉnh và định hướng hành vi làm việc của người lao động.
• Thứ tƣ Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển.
+ cầu về lao động là cầu dẫn xuất, bị phụ thuộc và ảnh hưởng bởi khả năng tiêu thụ sản phẩm mà mỗi lao động có thể sản
xuất và giá cả của sức lao động.
+ Vì vậy nên tăng năng suất lao động chính là cơ sở cốt lõi của tiền lương.
+ Bên cạnh đó, việc tăng năng suất lao động sẽ đồng thời dẫn tới sự phân bố lao động. Theo quy luật thị trường, lao động
sẽ phân bố chủ yếu tại những nơi có năng suất làm việc cao để đổi lấy lượng tiền công nhiều hơn.
+ Ví dụ về nội dung trên dễ hiểu cụ thể có thể là:
ví dụ minh họa về nội dung trên là trong một ngành công nghiệp sản xuất giày dép. Giả sử có hai công ty sản xuất giày A
và B. Cả hai công ty đều sử dụng lao động để sản xuất giày, nhưng công ty A có công nghệ hiện đại hơn và năng suất lao
động cao hơn so với công ty B.
Do đó, công ty A có thể sản xuất nhiều giày hơn trong cùng một khoảng thời gian so với công ty B. Nhờ đó, công ty A có
thể làm giảm giá sản phẩm giày của mình để cạnh tranh trên thị trường. Khi giá thành giày của công ty A giảm, khả năng tiêu
thụ sản phẩm này cũng tăng lên. Đồng thời, công ty A sẽ cần nhiều lao động hơn để đáp ứng nhu cầu sản xuất giày tăng cao.
Do đó, công ty A có khả năng tuyển dụng nhiều lao động hơn và tạo ra nhiều việc làm mới. Ngược lại, công ty B có năng
suất lao động thấp hơn, giá thành sản phẩm cao và không có năng lực cạnh tranh trên thị trường. Do đó, công ty B sẽ có ít
nhu cầu tuyển dụng lao động và có thể gặp khó khăn trong việc duy trì việc làm cho nhân viên hiện tại.
Từ ví dụ trên, ta thấy việc tăng năng suất lao động của công ty A đã dẫn đến sự phân bố lao động trong ngành công
nghiệp sản xuất giày. Công ty A thu hút nhiều lao động để đáp ứng nhu cầu sản xuất, trong khi công ty B gặp khó khăn và
có ít lao động. Điều này cho thấy tăng năng suất lao động không chỉ làm tăng sức mạnh cạnh tranh của một công ty mà
còn ảnh hưởng đến phân bố lao động xã hội.
• Thứ năm: Chức năng xã hội của tiền công
+ Tiền công còn có chức tổng hòa và hoàn thiện các mối quan hệ lao động.
+ Việc duy trì mức tiền lương cao và tăng không ngừng dựa trên kết quả làm việc của lao động không chỉ dựa trên cơ sở
tăng năng suất lao động, mà còn hòa hợp các mối quan hệ giữa lao động và tư bản.
+ Việc tiền lương được xây dựng dựa trên hiệu quả làm việc của người lao động và các thành phần kinh tế sẽ khuyến
khích tinh thần cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau, hai bên bình đẳng và cùng có lợi, nâng cao tính cạnh tranh trong nội bộ công
ty. Mặt khác, chức năng này của tiền công còn tạo bản lề cho sự hoàn thiện và nâng cao chất lượng lao động, thúc đẩy xã
hội theo định hướng văn minh và dân chủ.
+ Ví dụ về nội dung trên dễ hiểu cụ thể có thể là:
Một ví dụ minh họa về nội dung trên là trong một công ty công nghệ thông tin. Công ty này có một chính sách tiền lương
linh hoạt, được xây dựng dựa trên hiệu quả làm việc của từng nhân viên và đánh giá công bằng về đóng góp cá nhân.
Công ty này đã tạo ra một môi trường làm việc cạnh tranh, nơi mỗi nhân viên được khuyến khích để đạt được hiệu suất
làm việc cao nhất và đóng góp tích cực cho sự phát triển của công ty. Nhân viên có thể được thưởng lương cao hơn nếu
họ đạt được các mục tiêu và kết quả công việc cao. Điều này tạo ra một tinh thần cộng tác giữa nhân viên, khi họ sẽ giúp
đỡ lẫn nhau và chia sẻ kiến thức và kỹ năng để đạt được thành công cá nhân và cùng với đó là sự phát triển của công ty.
Hơn nữa, việc công ty đánh giá công bằng về đóng góp cá nhân và đưa ra mức lương thích hợp sẽ giúp tạo ra sự công
bằng và bình đẳng giữa nhân viên.
Thêm vào đó, chính sách tiền lương linh hoạt của công ty còn thúc đẩy nhân viên nỗ lực và cải thiện chất lượng làm việc
của họ để có thể nhận được mức lương tương xứng. Điều này dẫn đến việc nâng cao chất lượng lao động trong công ty và
thúc đẩy công ty theo hướng văn minh và dân chủ.
Từ ví dụ trên, ta thấy chức năng xã hội của tiền công trong công ty công nghệ thông tin đã hòa hợp quan hệ lao động,
khuyến khích tinh thần cộng tác và đóng góp tích cực của nhân viên. Nó cũng đã tạo ra một môi trường làm việc công
bằng và định hướng công ty theo hướng văn minh và dân chủ. IV
Các hình thức của tiền lƣơng
• Tiền công theo thời gian:
Khái niệm: hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay nhiều tuỳ theo thời gian lao động của công nhân
(giờ, ngày, tháng) dài hay ngắn. Việc xem xét mức tiền công theo thời gian không chỉ phụ thuộc vào tổng số
tiền tích lũy được mà còn cả độ dài ngắn của thời gian lao động, cũng như mức độ của cường độ lao động.
+ Vì vậy nên cần phân biệt giữa tiền công giờ, tiền công ngày, tiền công tuần, tiền công tháng. Từ đó, ta có
đơn vị tiền công tính theo thời gian trung bình được tính bằng công thức: Tiền công theo giờ = (Giá trị
hàng ngày của sức lao động)/(Ngày lao động với một số giờ nhất định)

Tuy thực hiện chế độ tiền công theo thời gian, các nhà tư bản không thế thay đổi được lương theo ngày, theo
tháng... của người lao động, nhưng mà có thể’ khiến cho giá trị của sức lao động mà người lao động bỏ ra
bằng cách kéo dài thời gian lao động hoặc tăng cường độ làm việc. Bên cạnh đó còn có tiền công kéo dài
thời gian, hay là khoản tiền công mà người lao động có được khi làm việc ngoài thời gian đã quy định. Điều
này là một bước đi mang tính chiến lược của các công ty, doanh nghiệp khi thị trường thuận lợi, lượng hàng
hóa được nhanh chóng tiêu thụ. Còn khi có sự tắc nghẽn trong thị trường, yêu cầu có sự thu hẹp, giảm quy
mô sản xuất, tư bản sẽ thực hiện chế độ tiền công theo thời gian, làm cho tiền công của người công nhân
giảm đi rất nhiều do giảm thời gian làm việc quy định. Điều này cho thấy người lao động không phải chỉ
đối mặt với việc thời gian làm việc bị kéo dài quá giới hạn, mà cả việc bị cắt xén giờ làm.

+ Ví dụ về nội dung trên dễ hiểu cụ thể có thể là:
Một ví dụ minh họa về tình trạng tiền công theo giờ là khi một công ty muốn tiết kiệm chi phí lao động
trong một thời gian kinh tế khó khăn. Thay vì trả lương theo ngày làm việc, công ty quyết định chuyển sang
chế độ tiền công theo giờ làm việc.
Ví dụ, trước đây công ty A trả lương cho nhân viên là 200.000 đồng/ngày làm việc 8 giờ. Tuy nhiên, trong
thời gian khó khăn kinh tế, công ty quyết định chuyển sang tiền công theo giờ làm việc. Họ giảm lương mỗi
giờ làm việc xuống còn 25.000 đồng/giờ.
Với việc điều chỉnh này, nếu nhân viên làm việc 8 giờ/ngày như trước, tiền công mà nhân viên A nhận được
sẽ là 8 giờ x 25.000 đồng/giờ = 200.000 đồng/ngày, không có thay đổi. Tuy nhiên, công ty có thể yêu cầu
nhân viên làm thêm giờ để tăng năng suất và tiết kiệm chi phí. Nếu nhân viên làm thêm 2 giờ/ngày, tổng số
tiền công mà nhân viên A nhận được sẽ là 10 giờ x 25.000 đồng/giờ = 250.000 đồng/ngày. Tuy có tăng
thêm 2 giờ làm việc, nhưng tiền công vẫn không đổi so với trước đây.
Đây là một ví dụ về tình trạng tiền công theo giờ khi công ty sử dụng để ưu tiên tiết kiệm chi phí và tăng
năng suất lao động trong một thời gian kinh tế khó khăn.
• Tiền lƣơng tính theo sản phẩm
Khái niệm: hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm hay số lượng những
bộ phận của sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra hoặc là số lượng công việc đã hoàn thành trong một
khoảng thời gian xác định. Tiền công tính theo sản phẩm là một hình thức chuyển hóa của của tiền công tính theo thời gian.
Đơn giá tiền công = (Tiền công trung bình trong một ngày của lao động)/(Số lƣợng sản phẩm mà
lao động tạo ra trong một ngày lao động bình thƣờng)
+ Ví dụ về nội dung trên dễ hiểu cụ thể có thể là:

Một ví dụ về hình thức tiền công tính theo sản phẩm có thể là trong sản xuất bánh mì. Giả sử một công nhân
làm trong một nhà máy sản xuất bánh mì, và được trả lương theo hình thức tiền công tính theo sản phẩm.
Nếu công nhân đó sản xuất được 100 chiếc bánh mì trong một ngày, và đơn giá tiền công của nhà máy là
1000 đồng cho mỗi chiếc bánh mì, thì công nhân đó sẽ nhận được 1000 đồng x 100 chiếc bánh mì =
100,000 đồng trong một ngày.
Nếu công nhân đó làm việc chăm chỉ hơn và sản xuất được 120 chiếc bánh mì trong một ngày, thì công
nhân đó sẽ nhận được 1000 đồng x 120 chiếc bánh mì = 120,000 đồng trong một ngày. Tuy nhiên, nếu công
nhân đó sản xuất ít hơn và chỉ sản xuất được 80 chiếc bánh mì trong một ngày, thì công nhân đó sẽ chỉ nhận
được 1000 đồng x 80 chiếc bánh mì = 80,000 đồng trong một ngày.
This document is available free of charge on
Như vậy, với hình thức tiền công tính theo sản phẩm, công nhân sẽ nhận được số tiền lương phụ thuộc vào
số lượng sản phẩm mà họ sản xuất được trong một khoảng thời gian xác định.
• So sánh giữa hai hình thức tiền công theo thời gian, tiền công theo sản phẩm:
+ càng che đậy và làm lệch đi bản chát của tiền lương. Q studocu
+ Ví dụ điển hình cho hình thức tiền công theo sản phẩm được triển khai bởi nhiều công ty, doanh nghiệp
và cả các ngân hàng khác nhau, đó là KPI (KEY OBJECTIVE INDICATOR).
Bằng cách sử dụng những công cụ đo lường, đánh giá hiệu quả công việc được thể hiện qua số liệu, tỷ lệ,
chỉ tiêu định lượng, nhằm phản ánh hiệu quả hoạt động của các tổ chức hoặc bộ phận chức năng của công ty
hay doanh nghiệp cá nhân, các nhà tư bản sẽ đặt ra những yêu cầu, mục tiêu về doanh số, về hiệu quả và
đưa ra những chế tài khen thưởng, xử phạt cho từng bộ phận, phòng ban và cá nhân nhân sự.
KPI nói riêng và hình thức tiền công theo sản phẩm nói chung sản sinh môi trường cạnh tranh giữa các lao
động với nhau, kích thích sự tích cực của người lao động trong công việc, nâng cao cường độ làm việc.
=> Từ đó nhà tư bản có được những sản phẩm đạt về cả hai phương diện là chất lượng và số lượng, còn
người lao động có thể tăng thêm thu nhập của bản thân. Nhưng chính vì sự gia tăng áp lực trong việc theo
đuổi yêu cầu mà nhà tư bản đặt ra nên xuất hiện tình trạng người lao động bị kéo thời gian làm việc quá độ,
môi trường làm việc luôn ở trạng thái căng thẳng, khẩn trương và đốc thúc quá mức, dẫn đến lao động bị
suy kiệt về sức khỏe và tinh thần. V
Tiền lƣơng danh nghĩa, tiền lƣơng thực tế và xu hƣớng vận động của
tiền công trong tƣ bản chủ nghĩa
• Tiền lƣơng danh nghĩa, tiền lƣơng thực tế
o Tiền lƣơng danh nghĩa: là số tiền mà người lao động được công bố trên hợp đồng lao động hoặc trên
giấy khai thuế. Đây là số tiền mà nhà tuyển dụng và người lao động thỏa thuận trước khi bắt đầu làm việc.
o Tiền lƣơng thực tế: số tiền mà người lao động thực sự được trả sau khi trừ đi các khoản phí, thuế và các
khoản khấu trừ khác. Tiền lương thực tế bao gồm cả tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp như trợ
cấp ăn trưa, trợ cấp đi lại, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, và các khoản phí khác.
Ví dụ, nếu một nhân viên được công bố mức lương danh nghĩa là 10 triệu đồng mỗi tháng, nhưng sau khi trừ các
khoản phí và thuế, thực tế anh ta chỉ nhận được 8 triệu đồng mỗi tháng, thì tiền lương thực tế của anh ta là 8 triệu đồng.
=> Có thể thấy rằng tiền lương thực tế luôn thấp hơn tiền lương danh nghĩa do các khoản khấu trừ.
• Xu hƣớng vận động của tiền công dƣới chủ nghĩa tƣ bản o Nhận định:
Các Mác đã chỉ ra xu hướng chung trong nền sản xuất của tư bản chủ nghĩa không phải là nâng cao
mức tiền lương trung bình, mà cố gắng hạ thấp tiền công xuống. Trong xu thế phát triển của tư bản chủ
nghĩa, tiền công danh nghĩa đúng ra có khuynh hướng tăng lên, nhưng tốc độ và mức tăng của nó vẫn
chưa tương ứng với mức tăng của giá cả sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng. Chính vì lẽ ấy mà tiền công
thực tế có xu hướng hạ thấp đi.
o Tại sao việc tiền công bị hạ thấp lại mang tính xu hƣớng:
Q Trong điều kiện của thời đại khoa học, kỹ thuật, quá trình sản xuất đang không ngừng thay đổi, bớt
giản lược, đơn sơ, trở nên tinh vi và phức tạp hơn để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ đảm bảo hai
phương diện là chất và lượng. Vì thế yêu cầu phải tăng trình độ chuyên môn kỹ thuật, gia tăng
cường độ làm việc với bản thân lao động. Cũng vì vậy mà các nhà tư bản cũng phải trả thêm
nhiều chi phí cho việc đào tạo nhân công, cải thiện môi trường làm việc, hay nói chung là tái sản
xuất lao động, thế nên làm tăng giá trị của tiền công.
Q Còn yếu tố làm giảm giá trị tiền công là tăng năng suất lao động, Bởi khi tăng năng suất lao động,
giá cả tư liệu sinh hoạt cũng có khả năng rẻ đi, tiền công thực tế cũng sẽ tăng lên. Nhưng sự thật
thì tiền lương thực tế vẫn chưa thỏa mãn tất cả các nhu cầu thực sự của người lao động. Thế nên
không chỉ sự chênh lệch giữa chúng không được rút ngắn mà còn bị kéo dài ra.
o Sự hạ thấp tiền công dƣới giá trị sức lao động còn do sự ảnh hƣởng của các yếu tố sau
+Nhận thấy được việc bất kỳ lao động nào cũng cần phải bán sức lao động của mình bằng mọi cách
để có chi phí thỏa mãn các nhu cầu và trang trải cho cuộc sống, các nhà tư bản đã giảm mức lương
trung bình xuống, dẫn đến tình trạng nhiều lao động không nhận được lương.
+ Lạm phát cũng đóng vai trò làm giảm mức tiền lương trong bối cảnh hiện nay khi đã làm giảm sức mua.
+ các yếu tố địa lý, văn hóa, xã hội quyết định xu hướng hạ thấp tiền lương của lao động. Tại các
nước phát triển, dù tiền lương cao hơn bởi trình độ chuyên môn đã qua đào tạo của lao động đi kèm
với sự áp dụng của khoa học kỹ thuật hiện đại vào quá trình sản xuất, nhưng lại thể hiện rõ nét hơn sự
bóc lột của tư bản chủ nghĩa. Còn ở các nước đang phát triển, giá cả sức lao động thấp do lao động
thiếu kiến thức chuyên môn hay sự lạc hậu trong công nghệ, nhưng cũng chính vì giá thành lao động
thấp nên đã thu hút sự chú ý của các nhà tư bản nước ngoài. VI
Downloaded by ha le (Vj8@gmail.com) Kết luậ
Một số phƣơng hƣớng cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả cải cách chính sách tiền công ở n nƣớc ta hiện nay:
Q Cải cách tiền công, trả lƣơng theo thời gian làm việc.
Muốn đánh giá chính xác mức tiền công không chỉ căn cứ vào tiền công ngày mà phải căn cứ vào độ dài của
ngày lao động và cường độ lao động. Theo đó, cần tiếp tục mở rộng quan hệ tiền
This document is available free of charge on studocu
Downloaded by ha le (Vj8@gmail.com)
lương tối thiểu-trung bình-tối đa nhằm khắc phục hiện tượng bình quân trong chi trả lương, động viên khuyến
khích người có tài, có trình độ yên tâm công tác trong khu vực công nói chung, đặc biệt là khắc phục triệt để
tính bình quân, cào bằng trong chi trả lương hiện nay, phát huy khả năng, trí tuệ của mọi người trong sản xuất.
Q Cải cách tiền công, trả lƣơng theo sản phẩm
Để đạt được cần có các quy định rõ ràng về vấn đề này, “ làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít” tránh
tình trạng “ làm nhiều, làm ít cũng hưởng lương như nhau” dẫn đến tiền lương chưa phù hợp với mức độ
cống hiến, chưa phản ánh đúng năng lực, kết quả lao động. Gắn cải cách tiền tiền lương với cải cách
hành chính. Việc này cũng đồng nghĩa với việc tiền công sẽ được trả theo chức vụ, chức danh nghiệp vụ
chuyên môn, công tác. Hệ số lương khởi điểm các gạch cần nâng cao hơn phù hợp với lượng sản phẩm,
công việc của họ làm ra và đạt được trong công việc.
Q Cải cách tiền công theo thực tế:
Mức lương tối thiểu hiện nay chưa phù hợp với cơ chế thị trường, việc điều chỉnh mức lương tối thiểu
tăng không kịp so với mức tăng của giá cả sinh hoạt hằng ngày và mức tăng trưởng kinh tế. Do đó, thay
bằng tăng tiền lương theo thời kỳ dài ta tăng theo thời gian, theo sự tăng lên hay giảm xuống của giá cả
sinh hoạt hằng ngày và theo mức tăng trưởng của nền kinh tế theo thời gian. Khuyến khích các cơ quan
nhà nước, doanh nghiệp trả lương cho người lao động cao hơn mức lương tối thiểu vùng, trả lương theo
hình thức khen thưởng và khuyến khích.
Q Cải cách tiền công trên danh nghĩa:
Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tiền lương theo cơ chế thị trường đảm bảo tiền
lương được trả đúng cho người lao động theo cơ chế thị trường, theo sức lao động công nhân đã bán đi.
Cần có quan điểm đầu tư vào tiền lương là đầu tư cho phát triển, từ đó điều chỉnh mạnh chi tiêu công, cơ
cấu lại chi ngân sách nhà nước; trong đó, tăng huy động các nguồn ngoài ngân sách nhà nước như vốn
đầu tư của doanh nghiệp, trong nhân dân... cho đầu tư toàn xã hội, dành nguồn cho trả tiền lương cho
công chức, viên chức đảm bảo cho họ có mức tiền lương bình quân trên trung bình của lao động khu vực thị trường.
• Tóm tắt những điểm chính:
Tiền lương của Mác là sự tiếp tục phát triển lý luận về tiền lương của các nhà kinh tế cổ điển trước đó. Lý
luận tiền lương của Mác đã vạch rõ bản chất của tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản đã bị che đậy - tiền lương
là giá cả của lao động, bác bỏ quan niệm của các nhà kinh tế tư bản trước đó (Ricardo).Những luận điểm của
Mác về tiền lương vẫn còn giá trị đến ngày nay. Mặc dù ở nước ta chính sách tiền lương đã được cải cách.
• Nhận định nhóm và một số định tiếp theo:
Tuy nhiên, nhiều vấn đề cốt lõi vẫn chưa được giải quyết một cách thoả đáng. Cho đến nay, thu nhập của
người được hưởng lương tăng, mức sống, tiêu dùng tăng, về cơ bản không do chính sách tiền lương đem lại
mà do tăng thu nhập ngoài lương, nhờ kinh tế tăng trưởng Việc hiểu và vận dụng đúng những nguyên lý về
tiền lương của Mác trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay có ý nghĩa rất lớn. Đây là vấn
đề đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo người lao động và chuyên gia nghiên cứu. Xuất phát từ ý
nghĩa lý luận và thực tiễn nêu trên mà người viết lựa chọn đề tài này nhằm hiểu rõ hơn về hệ thống chính
sách tiền lương ở Việt Nam, nhằm đưa ra các kiến nghị hoàn thiện hệ thống chính sách tiền lương ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
TÊN CÁC THÀNH VIÊN THAM GIA ĐÓNG GÓP:
1. LƢU THỊ ÁNH TUYẾT
Q PHỤ TRÁCH PHẦN CANVA MINDMAP, PHẦN V
2. BÙI THỊ KIM NGỌC
g NỘI DUNG PHẦN I và II 3. TRƢƠNG SỬ BẢO g PHẦN III, IV NGỌC
g PHẦN VI, LÊN DÀN Ý CHI TIẾT, BỔ SUNG THÊM CÁC VÍ DỤ MINH HỌA 4. LÊ YẾN NHI
Cảm ơn Thầy và các bạn đã đọc và đóng góp để nhóm có thể hoàn thiện hơn!
Downloaded by ha le (Vj8@gmail.com)
This document is available free of charge on Q studocu
Downloaded by ha le (Vj8@gmail.com)