







Preview text:
lOMoAR cPSD| 23136115 Nội dung
I . Lý luận chung về thuyết quản lý gắn với quyền lực của max weber
1. Max Weber và sự ra đời của học thuyết Max Weber
Max Weber (1864-1920) là một nhà xã hội học nổi tiếng người Đức, sống cùng thời
với Taylor và Fayol. Ông đã có những cống hiến kiệt xuất đối với lý luận tổ chức quản lý cổ điển phương Tây.
Đức tuy là một nước tư bản phát triển muộn, nhưng đã nhanh chóng hoàn thành quá
trình cách mạng công nghiệp, kinh tê tư bản chủ nghĩa phát triển nhanh, các xí nghiệp gia
đình với đặc trưng ngành nghề gia truyền bắt đầu chuyển hoá theo hình thái xí nghiệp tư
bản chủ nghĩa hiện đại, các tổ chức tư bản lũng đoạn lần lượt xuất hiện.
Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, các tổ chức tư bản lũng đoạn đã ngự trị một
cách phổ biến trong các ngành công nghiệp chủ yếu như than đá, luyện kim, hoá chất. Sự
phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa và việc không ngừng mở rộngquy mô tổ chức kinh
tế xã hội đòi hỏi phải có những biện pháp quản lí và tổ chức kiểu mới tương xứng, ổn
định, có hiệu quả cao. Là một nhà xã hội học, Weber đã say mê nghiên cứu vấn đề này và
đề ra thể chế quản lí hành chính goi là thể chế quản lí hành chính trong “lý tưởng” bằng
học thức uyên bác và lý luận sâu sắc của ông, khiến cho ông trở thành người có địa vị
quan trọng trong lý luận tổ chức cổ điển.
Max Weber sinh ra trong một gia đình giàu có ở An pho năm 1864, sau đó ông chuyển
đến Berlin. Năm 1892, ông vào học khoa kinh tế và khoa luật tại trường Đại học Berlin
và trường Đại học C. Trong thời kì này, Weber đã từng phục vụ trong quân đội nên ông
hiểu biết khá nhiều về chế độ quản lí trong quân đội Đức. Điều này rất có ích cho việc
nghiên cứu lý luận tổ chức của ông sau đó. Năm 1891, ông thi đỗ tiến sĩ với luận văn
“Bàn về lịch sử các công ty thương mại trong thế kỉ”. Từ năm 1892 đến năm 1920 ( năm
ông mất ) ông đã lần lượt giảng dạy Đại học Berlin, trường Đại học Hamburg, trường Đại
học Heidelberg, trường Đại học Viên, trường Đại học Munich. Các môn mà ông giảng
dạy là pháp luật, chính trị kinh tế học, xã hội học. Ông là người sáng lập tạp chí “ Văn
hiến khoa học xã hội và chính trị xã hội ”và là cố vấn Chính phủ Đức. Những vấn đề mà
ông say sưa nghiên cứu rất nhiều, liên quan đến xã hội học, chính trị học, kinh tế học, lịch
sử, tôn giáo. Với những kiến giảI độc đáo, sâu sắc, ông đã trở thànhmột học giả nổi tiếng
của nước Đức lúc đó. Nhũng ý kiến của ông về quan hệ giữa các tổ chức kinh tế với xã
hội học đã thúc đẩy mạnh mẽ nhận thức mang tính liên tục về quan hệ giữa chủ nghĩa tư lOMoAR cPSD| 23136115
bản trong các xí nghiệp gia đình ở thế kỉ XIX với các tổ chức công nghiệp lớn đang phát
triển ở Châu Âu trong thời kì của Weber và với các đơn vị của chính phủ.
Các tác phẩm chủ yếu của ông là “ Lý luận tôn giáo và tinh thần tư bản chủ nghĩa”, “
Lịch sử kinh tế nói chung ”, “ Lý luận về tổ chức kinh tế xã hội”, “Những luận văn về xã
hội học”. Do thể chếhành chính trong “lý tưởng” mà ông nêu ra đã đóng góp to lớn vào
lý luận tổ chức cổ điển nên các nhà khoa học về quản lý ở phương Tây đã gọi ông là “
người cha của lý luận về tổ chức ”
2. Thể chế quản lý hành chính lý tưởng - thể chế quan liêu.
Trong cuốn sách “ lý luận về tổ chức kinh tế và xã hội”, Weber đã đưa ra mộ thể chế quản
lý hành chính lý tưởng, tức là thể chế quan liêu. KháI niệm “thể chế quan liêu” đây không
phảI là khía niệm quan liêu theo nghĩa xắu như nền kinh tế chính trị quan liêu, chủ nghĩa
quan liêu, cũng không có nghĩa là thoát ly thực tế, chủ nghĩa giấy tờ, hiệu suất thấp… mà
nó có nghĩa rằng tổ chức này tiến hành công việc quản lý thông qua chức vụ hoặc chức
vị. Thể ché quản lí hành chính trong lý tưởng nói đây không phảI là thể chế quản lý tốt
nhất hoặc phù hợp với nhu cầu nào đó mà là một hình tháI tổ chức thuần tuý, không có
ví dụ thực tế trong hiện thực, dùng để phân biệt nó với các tổ chức mang các hình tháI
đặc thù khác nhau tồn tại trong thực tế, Weber đã từ những tổ chức mang hình tháI đặc
thù khác nhau tồn tại trong thực tế đó để rút ra mộ hình tháI tổ chức thuần tuý nhằm thuận
tiện cho sự phân tích về mặt lý luận.
Weber cho rằng, thể chế quan liêu là một tổ chức xã hội chặt chẽ, hợp lý, giống như một
cỗ máy. Nó có những hoạt động chuyên nghiệp thành thạo, có quy định rõ ràng về quyền
hạn, trách nhiệm, có quy chế thực hiện nghiêm khắc và quan hệ phục tùng theo cấp bậc,
do đó trở thành một hệ thống kỹ thuật quản lý. Weber vạch rõ, thể chế quan liêu dù quan
sát theo góc độ kỹ thuật thuần tuý cũng có những thể chế quản lý khác trước kia. Điều đó
thể hiện ở những đặc trưng của nó sau đây: 1. Tính chuẩn xác 2. Tính nhạy bén. 3. Tính rõ ràng 4. Tinh thông văn bản. 5. Tính liên tục. 6. Tính nghiêm túc. 7. Tính thống nhất.
8. Quan hệ phục tùng nghiêm chỉnh. lOMoAR cPSD| 23136115 9. Phòng ngừa va chạm.
10.Tiết kiệm nhân lực và vật lực.
Do thể chế quan liêu có những ưu điểm kể trên nên có thể vận hành linh hoạt như một
cỗ máy. Thể chế quan liêu này xuất hiện cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và
nền sản xuất xã hội hóa, theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là phải
không ngừng tiến hành quản lý một cách tỉ mỉ và cần phải nhanh chóng làm việc đó.
Weber cho rằng, trong một quốc gia hiện đại nền chính trị quan liêu là người cai trị
thực tế. Đó là điều tất nhiên và không thể tránh được. Trong tất cả các lĩnh vực như: nhà
nước, quân đội, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện... sự phát triển của các hình thái xã
hội đều nhất trí với sự phát triển và lớn mạnh của việc quản lý theo thể chế uan liêu. Do
đó, trên ý nghĩa ấy, có thể nói quá trình phát triển của xã hội tư bản chủ ghĩa cũg là quá
trình phát triển và phổ cập thể chế quan liêu. Ngày nay, không ai có hể phủ nhận rằng các
hoạt động chính trị, văn hoá, giáo dục và tất cả các lĩnh vực xã ội, nếu rời xa thể chế quan
liêu này đêu sẽ lâm vào cảnh hỗn loạn và không thể tién hành một cách bình thường.
3. Quản lý gắn với quyền lực
Theo Weber thì bất kỳ tổ chức xã hội nào cũng phải lấy quyền lực ở một hình thức
nào đó làm cơ sở tồn tại. Xã hội và các bộ phận hợp thành của nó, phần lớn không phải
là quy tụ với nhau thông qua quan hệ khế ước hoặc sự nhất trí về đạo đức, mà là thông
qua việc thực hiện quyền lực. Nếu không có quyền lực dưới một hình thức nào đó thì tất
cả các tổ chức xã hội không thể hoạt động bình thường được, và do đó không đạt được mục tiêu đề ra.
Xét về mặt quản lý, quyền lực là mệnh lệnh của nhà quản lý tác động đến hành vi của
người bị quản lý. Người bị quản lý, do có những ràng buộc nhất định, chấp nhận phục
tùng mệnh lệnh của người quản lý, lấy mệnh lệnh của nhà quản lý làm chuẩn mực cho
mọi hành vi của họ. Tuy nhiên Weber không chỉ coi quyền lực à cơ cấu mệnh lệnh dẫn
đến sự phục tùng mà còn cho rằng người bị quản lý vui lòng phục tùng, tựa hồ như người
bị quản lý đã xuất phát từ lý do tự thân, coi nội dung ): tù t mệnh lệnh là khuôn phép cho
mọi hành động của họ.
Có 3 loại quyền lực trong lịch sử:
- Quyền lực kiểu truyền thống: dựa vào truyền thống cổ xưa và địa vị chính thống
của người sử dụng quyền lực đó. Ông cho rằng chế đọ thủ lĩnh, trởng bộ tộc là biểu hiện lOMoAR cPSD| 23136115
quan trọng nhất của quyền lực kiểu truyền thống. NgoàI ra còn có hình thức cha truyền
con nối. Sự phục tùng đối với quyền lực truyền thống dựa vào chỗ người cai trị chiếm giữ
địa vị cai trị và việc người cai trị có thể sử dụng quyền lực là do sự ràng buộc truyền
thống. Nếu trong số họ có người nào thường xuyên vi phạm quy định do truyền thống đặt
ra thì họ sẽ có nguy cơ đánh mất tính hợp pháp của sự cai trị.
- Quyền lực dựa vào sự sùng bái đối với lãnh tụ siêu phàm: Loại hình này dựa vào
sự sùng báI và yêu quý đối với một anh hùng có đạo đức gương mẫu. Sự phục tùng đối
với loại hình này dựa vào lòng tin của cấp dưới về sự thiênng liêng của lãnh tụ, chứ không
phảI là một sức mạnh cưỡng chế. Weber cho rằng loại hình quyền lực này không thể là
cơ sở cho một nền cai trị vững chắc. Vì công việc hàng ngày của một quốc gia không thể
dựa vào sự ngưỡng mộ của công dân đối với một nhân vật vĩ đại và do đó, phục tùng sự
cai trị của nhân vật ấy.
- Quyền lực pháp lý: loại hình này dựa vào tính hợp lý, hợp pháp hoặc quyền lực
của người đã được cử làm chỉ huy. Nếu nói rằng tất cả những laọi hình quyền lực khác
đều quy vào cá nhân thì quyền lực pháp lý chỉ quy vào các quy định pháp luật, không quy
vào cá nhân. Theo đây thì mọi việc đều thi hành theo quy địng của pháp luật. Những
người sử dụng quyền lực là những người thực thi các quy định của pháp luật, chứ không
phảI là ngọn nguồn của các quy định pháp luật. Weber cho rằng những quan lại của các
quốc gia hiện đại chỉ là nô bộc của một quyền lực chính trị cao hơn. Ví dụ, chính phủ do
bầu cử hình thành và các bộ trưởng cung vậy. Nhưng điều Weber lo lắng là những quan
lại do nhân dân bầu ra không phảI đều đặt mình đúng chỗ. Trên thực tế,các quan lại không
phảI lúc nào cũng làm việc tuân theo phương thức họ phảI tuân theo mà thường tìm cách
mở rộng quyền lực, do đó mở rộng lợi ích riêng của họ. Họ không làm việc với tư cách là
những nô bộc trung thành mà họ muốn trở thành ông chủ của các bộ phận thuộc quyền.
Ba loại hình quyền lực này đều dựa trên những cơ sở khác nhau để thiết lập quan hệ
phục tùng đối với quyền lực.
Theo Weber, trong 3 loại hình quyền lực trên, loại hình quyền lực theo truyền thống
căn cứ vào truyền thống tương truyền đã lâu để làm việc. Người lãnh đạo chỉ ton hành
công việc quản lý theo truyền thống từ xa xưa để lại và cũng chỉ tiến hành công việc quản
lý theo truyền thống từ xa xưa để lại và cũng chỉ tiến hành công việc quản lý để giữ gìn
truyền thống đó. Không những thế, do những người lãnh đạo không phải là người được
lựa chọ theo năng lực cá nhân nên việc quản lý thuộc loại hình này kém hiệu quả. Còn lOMoAR cPSD| 23136115
loại hình quyền lực dựa vào sự siêu phàm của lãnh tụ mang nặng màu sắc thần bí. Nó dựa
vào tính cảm và sự ngưỡng mộ, phủ nhận lý trí trí, chỉ dựa vào sự thần bí để làm việc,
không dựa vào quy tắc do luật định, do đó không thể áp dụng. Loại hình quyền lực pháp
lý là loại hình quyền lực có thể làm cơ sở cho thể chế quản lý hành chính trong lý tưởng.
Bởi vì với loại hình quản lý này , tất cả nhân viên quản lý đều không được phép làm việc
theo thiên kiến và tình cảm cá nhân, phảI đối xử bình đẳng với tất cả mọi người, không
phân biệt đẳng cấp xã hội và thân phận cá nhân của họ. Do đó có thể giữ được sự công
minh thận trọng, tất cả quyền lực đều quy vào những quy định pháp luật; những người
giữ chức vị quản lý có những phương tiện hợp pháp để sử dụng quyền lực; mỗi nhân viên
quản lý đều trảI qua lựa chọn nên họ có thể đam nhiệm tốt chức ttrách của mình; quyền
lực của mỗi nhân viên quản lý đều được quy định rõ ràng theo nhu cầu hoàn thành nhiệm
vụ và bị hạn chế trong phạm vi cần thiết. Do đó chỉ loại hình quyền lực này là có thể bảo
đảm tính liên tục, ổn định cảu quản lý, bảo đảm hiệu quả cao cho quản lý. Vì thế loại hình
này trở thành nền tảng cho thể chế quản lý của các quốc gia hiện đại.
III. Việc áp dụng thuyết quản lý của M.weber trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
1. Một số ưu điểm và hạn chế của việc áp dụng học thuyết quản lý của Max
Weber trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Đồng thời với sự phát trển của kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, quy mô của các
xí nghiệp và tổ chức xã hội được mở rộng, nên người ta ngày càng nhận rõ giá trị của thể
chế quản lý hành chính trong lý tưởng do Weber nêu ra. Ngày nay, thể chế quản lý ấy đã
trở thành một cơ cấu điển hình của các tổ chức chính thức, một hình thức tổ chức chủ yếu,
được ứng dụng rộng rãi trong các thiết kế tổ chức và đã phát huy tác dụng chỉ đạo một
cách hữu hiệu. Những quan điểm sắc sảo của ông đã ảnh hưởng rộng rãi và sâu sắc đến
sự phát triển của lý luận quản lý Phương tây sau đó. Cống hiến của Weber đối với sự phát
triển của lý luận quản lý đã được các nhà khoa học về quản lý ở Phương Tây thừa nhận
một cách rộng rãi những ý kiến bổ ích của ông đã không ngừng gợi mở nhiều vấn đề cho các nhà quản lý.
Việc áp dụng tư tưởng này của ông vào các doang nghiệp Việt Nam hiện nay còn
chưa được triệt để. Như là việc phân công lao lao động vẫn chưa theo đúng chuyên môn,
tình trạng sinh viên ra trường làm trái với ngành nghề đang còn rất nan giải. Sinh viên tốt
nghiệp chuyên ngành kinh tế lại đi làm hướng dẫn viên du lịch hay cử nhân Anh văn lại lOMoAR cPSD| 23136115
làm một nhân viên kế toán... mà đáng ra họ phải đảm nhiệm những công việc mà trên ghế
nhà trường họ đã đuợc trang bị một cách rất căn bản...Tình trạng này dẫn đến tính chuyên
môn hoá không cao, sự hiểu biết hạn chế về lĩnh vực mình đang làm, thiếu sự tinh thông
nghề nghiệp dẫn đến hiệu quả công việc không đạt tối ưu.
Như trên đã nói, bất kì một tổ chức xã hội nào cũng phảI lấy quản lý bằng quyền
lực làm cơ sở tồn tại. Xã hội và các bộ phận hợp thành nó phần lớn không phảI quy tụ với
nhau thông qua quan hệ khế ước hoặc sự nhất trí về đạo đức mà thông qua quyền lực.
Ngay cả ở những nơI mà sự hoà thuận chiếm ưu thế, việc vận dụng quyền lực cũng chưa
bao giờ mất hẳn. Có thể nói, mọi lĩnh vực hnàh vi của con người đều chịu tác động của
quyền lực. Nếu không có quyền lực dưới hìmh thức nào đó thì hoạt động của tất cả các tổ
chức xã hội đều không thể tiến hành bình thường
Và các doanh nghiệp của Việt Nam cũng thế. Chỉ có quyền lực mới làm cho bộ
máy tổ chức của các doanh nghiệp Việt Nam đI theo đúng mục tiêu mà doanh nghiệp đề
ra. Sự sắp xếp các vị trí trong tổ chức theo một hệ thống quyền lực, có một tuyến chỉ huy
rõ ràng đã mang lại những kết quả rất tốt, tác phong công nghiệp cao song bên cạnh đó
nó vẫn mang tính hình thức, sự lạm dụng chức quyền dẫn đến tính áp đặt không dân chủ
nhân viên chịu nhiều áp lực làm cho những đề xuất, ý kiến hay của họ không đựơc chấp
nhận còn tồn tại nhiều bức xúc. Cấp dưới làm việc như một cái máy rồi ra về họ không
coi công ty là một ngôi nhà chung, không quan tâm đến sự đi lên hay tụt hậu, sự sống còn của doanh nghiệp...
Có một hệ thống nội quy thủ tục chính thức chi phối quyết định và hành động, đảm
bảo sự phối hợp tốt, định hướng cho họ phát triển, đề bạt theo thành tích và thâm niên.
Về công tác này ở các doanh nghiệp đã áp dụng và đạt được kết quả tốt. Những người có
đóng góp lâu năm cộng với sự làm việc có kết quả cao và tinh thần trách nhiệm, cống
hiến đối với công ty qua một số năm công tác nhất định đều sẽ được đề bạt thăng chức.
Công tác này đã là động lực rất lớn thúc đẩy nhân viên làm việc tốt, tìm tòi nghiên cứu
hoàn thành công việc một cách nhanh nhất, tốt nhất. Họ luôn tận tâm và làm việc hết
mình. Điều này rất có lợi cho công ty trong việc nâng cao khả năng lãnh đạo, tổ chức
trong doanh nghiệp nhất là trong thời đại hiện nay với xu thế hội nhập và phát triển. Cùng
với những kết quả đáng mừng ấy chúng ta không khỏi quan tâm đến một thực tế mà đôi
khi lại không hoàn toàn như trên lý thuyết, vẫn có tình trạng những nhân viên làm việc
thiếu tinh thần trách nhiệm, năng lực làm việc kém thế nhưng đến khi đề bạt họ lại là lOMoAR cPSD| 23136115
người giữ chức vị cao, như vậy hoàn toàn không tương xứng. Vì sao vậy? bởi trong cơ
chế thị trường ngày nay do chạy theo những lợi ích cá nhân nên còn tồn tại không ít
những kẻ nịnh bợ, những kẻ chuyên đi đút tiền để có được chức vị này nọ ... mà kiến thức
chuyên môn về lĩnh vực ấy họ không hề hiểu biết hoặc hiểu biết rất ít... Những tồn đọng
ấy không phải là hạn hữu, nó rất cần cố một thể chế quản lý tốt hơn, không những đào tạo
về tri thức mà còn cần đào tạo về phẩm chất cá nhân.
2. Một số đề xuất khắc phục những hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam.
Chúng ta cần từng bước xây qui chế áp dụng hệ thống quản lý một cách bao quát
hơn, toàn diện hơn nhằm đạt mục tiêu to nhất.
Các nhà lãnh đạo cần có những quyết định mang tính khoa học và tính chuyên môn nghề
nghiệp, việc này cần phải có sự xem xét chặt chẽ trên mọi phương diện. Họ cần đưa ra
những quyết sách hữu hiệu, có tính chiến lược liên quan tới sự thành bại, thịnh suy của tổ
chức. Hơn nữa các nhà lãnh đạo cần phảI là một người lãnh đạo dân chủ, biết lắng nghe
những đề xuất và nguyện vọng của cấp dưới, khuyến khích họ tham gia nhiệt tình vào
việc đóng góp ý kiến để xây dựng công ty ngày một tốt hơn.
Tổ chức doanh nghiệp một cách hệ thống phải áp dụng tốt hơn, chặt chẽ hơn, nghiêm chỉnh hơn.
Tất cả những điều trên là cần phải áp dụng thuyết như thế nào vào các doanh nghiệp
được tốt và nhịp nhàng vẫn là vấn đề đòi hỏi ở khả năng của các nhà lãnh đạo . lOMoAR cPSD| 23136115 Kết luận
Trong xu thế phát triển và hội nhập hiện nay các doanh nghiệp hiện nay cac daonh
nghiệp Việt Nam đang phấn đấu đạt được những mục tiêu mới, mang lại lợi ich cho đất
nước và cho riêng doanh nghiệp của mình. Các doanh nghiệp của Việt Nam đang đứng
trước những thời co và thách thức mới. Để nắm lấy thời cơ và vượt qua thử thách đòi hỏi
các doanh nghiệp Việt Nam phảI phát huy hơn nữa tinh thần chủ động sáng tạo, quyết
tâm đổi mới về tổ chức và hoạt động, không ngừng vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử
của mình, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.