



















Preview text:
BÀI TIỂU LUẬN
CHỦ ĐỀ: NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC CỦA KHÔNG GIAN VĂN HÓA TÂY BẮC
Lớp: Đại cương văn hóa Việt Nam
Giảng viên: Trần Thị Thùy Linh Thành viên: nhóm 7 1. Nguyễn Thị Thiện 2. Nguyễn Nguyệt Anh
3. Nguyễn Thị Linh Huyền 4. Nguyễn Phúc Hưng 5. Lê Thị Kim Thảo 6. Mẫn Thị Hiếu Ngân 1
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC STT Họ và tên Mã sinh viên Công việc Đánh giá 1 Nguyễn Thị Thiện 11233324
-Nội dung : Thuyết trình mở Hoàn thành
đầu; tìm hiểu chung về văn hóa (10 điểm) Tây Bắc - Làm word 2 Mẫn Thị Hiếu Ngân 11233307
-Nội dung : văn hóa nông nghiệp Hoàn thành
; kiến trúc nhà ở ; vận chuyển đi (10 điểm) lại -Làm word 3 Nguyễn Thị Linh Huyền 11233291
-Nội dung: ẩm thực, trang phục, Hoàn thành ngôn ngữ và chữ viết (10 điểm) - In tài liệu ; làm quiz 4 Nguyễn Phúc Hưng 11237077
-Nội dung: phong tục tập quán; Hoàn thành tín ngưỡng ; tôn giáo (10 điểm) -In tài liệu ; làm quiz 5 Nguyễn Nguyệt Anh 11233267
-Nội dung: nghệ thuật ; lễ hội Hoàn thành -Làm powerpoint (10 điểm) 6 Lê Thị Kim Thảo 11233322
-Nội dung: bảo tồn và phát huy Hoàn thành
các giá trị vùng văn hóa (10 điểm) -Làm powerpoint Table of Contents
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................................................... 3
PHẦN I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ VÙNG TÂY BẮC ......................................................................................... 4 1.1.
Vùng văn hóa .................................................................................................................................4 1.2.
Đặc điểm chung của vùng văn hóa Tây Bắc .....................................................................................4
PHẦN II. VĂN HOÁ VẬT CHẤT .................................................................................................................... 6 2 2.1.
Văn hoá nông nghiệp......................................................................................................................6 2.2.
Kiến trúc nhà ở...............................................................................................................................7 2.3.
Vận chuyển đi lại ............................................................................................................................9 2.4.
Ẩm thực .......................................................................................................................................10 2.5.
Trang phục....................................................................................................................................11
PHẦN III. VĂN HOÁ TINH THẦN .............................................................................................................. 12 3.1.
Ngôn ngữ và chữ viết ...................................................................................................................12 3.2.
Phong tục tập quán ......................................................................................................................12 3.3.
Tín ngưỡng ..................................................................................................................................14 3.4.
Tôn giáo ........................................................................................................................................15 3.5.
Nghệ thuật ...................................................................................................................................16
Múa dân tộc là đặc trưng của vùng Tây Bắc. ............................................................................................16 3.6.
Lễ hội ...........................................................................................................................................18
PHẦN IV. BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA VÙNG TÂY BẮC .......................................... 20 4.1.
Thực hiện giáo dục song ngữ tiếng việt và tiếng dân tộc ..............................................................20 4.2.
Tăng cường giáo dục đa dạng văn hóa cho các chủ thể văn hóa dân tộc thiểu số .........................21 4.3.
Bảo vệ môi trường sinh thái – cơ sở của các thực hành văn hóa................................................21 4.4.
Nhân rộng mô hình du lịch cộng đồng từ các thôn bản dân tộc thiểu số ......................................22
PHẦN V. PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 23 3
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................................................. 24 PHẦN MỞ ĐẦU
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội. Nền văn hóa Việt Nam đã hình thành và không ngừng phát triển
qua hàng ngàn năm, trải qua nhiều biến cố nhưng nó ấy vẫn luôn được giữ vững và trau dồi
bởi năm mươi tư dân tộc anh em với lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết nhất trí. Nếu như
sự thống nhất do cùng cội nguồn đã tạo ra bản sắc chung của văn hóa Việt Nam thì tính đa
dạng của các tộc người lại làm nên những đặc trưng bản sắc riêng của từng vùng văn hóa.
Và trong bài thảo luận này, nhóm 7 xin được trình bày về một vùng văn hóa có lịch sử hình
thành và phát triển lâu đời nhất của Việt Nam với nhiều bản sắc riêng, đầy độc đáo: Vùng
văn hóa Tây Bắc. Tây Bắc không chỉ là xứ sở hùng vĩ, hiểm trở, thơ mộng với những cánh
rừng đại ngàn, những triền ruộng bậc thang mà còn là một kho trầm tích văn hóa dân gian
được hình thành, lưu giữ và phát triển từ ngàn đời. Mưu sinh từ lâu đời trên những triền núi
cao, bên những dòng suối mát lành, đồng bào vùng cao Tây Bắc đã hình thành cho mình một
vốn văn hóa bản địa vô cùng đặc sắc. Mỗi một dân tộc lại có một nét riêng trong dòng chung
văn hóa dân gian Tây Bắc. Trong quá trình chinh phục tự nhiên, tạo dựng cuộc sống, sinh cơ
lập nghiệp, đồng bào các dân tộc vùng cao đã sinh thành những quan niệm nhân sinh để rồi
từ những quan niệm đó đã chuyển hóa thành những quan niệm nhân sinh để rồi từ những
quan niệm đó đã chuyển hóa thành những phong tục, tập quán riêng trong đời sống văn hóa,
vật chất, tinh thần của bản làng. Từ đời này sang đời khác, người già lưu giữ và truyền lại
cho con cháu đời sau và đời sau nữa. Cứ như thế, kho trầm tích văn hóa dân gian trong
những vùng đất, những bản làng luôn ăm ắp những giá trị nhân văn, luôn đa dạng những loại
hình và được bồi đắp theo tháng năm
PHẦN I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ VÙNG TÂY BẮC 1.1. Vùng văn hóa 4 a. Khái niệm
Vùng văn hóa là không gian tồn tại các nền văn hóa hay từng yếu tố văn hóa được tạo
thành bởi các đơn vị dân cư trên một phạm vi địa lí của một hay nhiều tộc người, sáng tạo ra
một hệ thống các dạng thức văn hóa mang đậm sắc thái tâm lý cộng đồng, thể hiện trong môi
trường xã hội nhân văn thông qua các hình thức ứng xử của con người với tự nhiên ,xã hội
và ứng xử với nhau trên một tiến trình lịch sử lâu dài
b. Các vùng văn hóa nước ta:
Theo tiến sĩ Trần Quốc Vượng nước ta được chia ra làm 6 vùng văn hóa: 1. Vùng văn hóa Tây Bắc
2. Vùng văn hóa Việt Bắc
3. Vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ
4. Vùng văn hóa Trường Sơn-Tây Nguyên
5. Vùng văn hóa Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 6. Vùng văn hóa Nam Bộ 1.2.
Đặc điểm chung của vùng văn hóa Tây Bắc
1.2.1. Giới hạn địa lí
Tây Bắc nằm ở hữu ngạn sông Hồng. Tây Bắc bao gồm các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Lai
Châu, Sơn La. Tuy nhiên khi nói đến vùng văn hóa Tây Bắc thì còn phải bao gồm một phần
tỉnh Hòa Bình. Như vậy vùng văn hóa Tây Bắc bao gồm có các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Lai
Châu, Sơn La và một phần của tỉnh Hòa Bình
1.2.2. Thời gian xuất hiện
Theo các nhà sử học thì từ đầu công nguyên đã xuất hiện cơ tầng văn hóa của vùng văn
hóa Tây Bắc. Thuở ấy cư dân Tây Bắc vẫn là một bộ phận của nền văn minh đồng thau
Đông Sơn với trống đồng và công cụ bằng đồng, những thứ mà ngày nay đã trở thành vật
thiêng, chỉ dùng trong các nghi lễ thờ cúng tổ tiên.
1.2.3. Đặc điểm tự nhiên
a. Đặc điểm địa hình 5
Đây là khu vực cao và đồ sộ nhất nước ta với 3 dải địa hình cùng hướng tây bắc - đông
nam. Phía đông là dãy Hoàng Liên Sơn cao và đồ sộ, có đỉnh Phanxipang cao 3143m được
mệnh danh là nóc nhà Đông Dương . Phía Tây là địa hình vùng núi trung bình với độ cao từ
500-1500m chạy dọc biên giới Việt Lào như dãy núi Pu Đen Đinh và Pu Sam Sao. Ở giữa
thấp hơn là các dãy núi, sơn nguyên và cao nguyên đá vôi từ Phong Thổ cho đến Mộc Châu.
Xen giữa các dãy núi là các thung lũng sông cùng hướng :sông Đà, sông Mã. Bề mặt địa
hình ở đây bị cắt xẻ mạnh do mưa tập trung theo mùa trên nền địa hình dốc b. Đặc điểm khí hậu
Khí hậu mang sắc thái của vùng cận nhiệt với nhiệt độ trung bình năm từ 18-20°C. Biên độ
nhiệt năm khá lớn khoảng 11°C. Lượng mưa trung bình năm từ 1200 - 1600mm, mùa mưa
tập trung từ tháng 5-10. Vùng thấp phía nam Tây Bắc chịu hiệu ứng phơn vào mùa hạ do các
dãy núi chạy dọc biên giới Việt Lào làm biến tính gió Tây Nam TBg vào đầu mùa hạ. Trong
khi đó về mùa đông thì đỡ lạnh hơn do vai trò bức chắn địa hình của dãy Hoàng Liên
Sơn.Vùng núi cao Hoàng Liên Sơn thì lại trái ngược hoàn toàn. Khí hậu ở đây giống như
vùng Ôn đới quanh năm nhiệt độ dưới 15°C, mùa đông nhiệt độ dưới 5°C c, Đặc điểm sông
ngòi.Mạng lưới sông ngòi dày đặc, có một mùa lũ từ tháng 6-10 và một mùa cạn từ tháng 11
đến tháng 5. Có các con sông lớn như sông Đà, sông Hồng, sông Mã. Tuy nhiên độ dốc lòng
sông lớn và hệ thống các phụ lưu phát triển nên vào mùa mưa lũ trên các sông lên nhanh và rút nhanh.
1.2.4. Đặc điểm kinh tế xã hội
a. Đặc điểm dân cư – dân tộc
• Dân cư: Mật độ dân số trung bình vào khoảng 69 người/km2 (2006) Phân bố dân cư không
đồng đều, dân cư phân bố thưa thớt với mật độ dưới 50 người/km2 ở khu vực giáp biên giới
Việt-Lào và vùng núi cao Hoàng Liên Sơn. Những khu vực có địa hình thấp, ven các con
sông thì mật độ cao hơn những nơi có địa hình cao, ít sông suối
• Dân tộc : Đây là địa bàn cư trú của các dân tộc ít người thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái (
Ngữ hệ Thái -Kadai) : Tày, Thái, Nùng, Sán Chay, Lự, Bố Y,…. Ngữ hệ Hmong-Dao:
Hmong Dao, Pà Thẻn và nhóm ngôn ngữ Tạng- Miến thuộc ngữ hệ Hán Tạng: Hà Nhì, Phù 6
Lá, Si La, Lô Lô, Cống…Các dân tộc phân bố xen kẽ với nhau. Trong các dân tộc thì người
Thái chiếm đa số. Các dân tộc có công lao lớn trong công cuộc bảo vệ Tổ Quốc. b. Phát triển kinh tế
Trình độ phát triển kinh tế không đồng đều giữa các dân tộc nhưng nhìn chung các đồng
bào dân tộc ít người trình độ phát triển kinh tế vẫn chưa cao do những nguyên nhân về lịch
sử, điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội. Nông nghiệp là ngành nghề chủ yếu của các dân tộc
ở đây. Nổi bật trong phát triển nông nghiệp là việc làm ruộng bậc thang, trồng các loại cây
ăn quả như mận, đào… Ở vùng núi Hoàng Liên Sơn các dân tộc đã có kinh nghiệm trong
việc trồng các loại cây dược liệu quý như tam thất, đương quy, đỗ trọng, hồi, thảo quả…
Chăn nuôi gia súc nổi bật với việc nuôi trâu và bò nhất là trâu. Trâu khỏe hơn, ưa ẩm chịu rét
giỏi hơn bò dễ thích nghi với điều kiện nuôi thả trong rừng nên được đồng bào nuôi nhiều
PHẦN II. VĂN HOÁ VẬT CHẤT
2.1. Văn hoá nông nghiệp
Với địa hình chủ yếu là đồi núi, bị chia cắt mạnh, khí hậu khắc nghiệt và thường xuyên xảy
ra thiên tai của vùng Tây Bắc, nông nghiệp vì vậy không phải là thế mạnh. Tuy nhiên, nó lại
góp phần quan trọng trong việc hình thành những nét văn hóa truyền thống của vùng này.
Văn hóa nông nghiệp của dân tộc Thái nổi tiếng với hệ thống tưới tiêu, được gói gọn trong 4
từ: " Mương - Phai - Lái –Lịn", lợi dụng độ dốc của dòng chảy, người ta lấy đá ngăn suối
làm nước dâng cao, đó là cái "phai". Phía trên "phai" xẻ một đường chảy lên dẫn vào cánh
đồng, đó là "mương". Từ "mương" xẻ những rãnh chảy vào ruộng, đó là "lái". Còn "lịn" là
cách lấy nước từ nguồn trên núi cao, dẫn về ruộng, về nhà, bằng các cây tre đục rừng đục
mấu, nối tiếp nhau, có khi dài hàng cây số. Do chủ động tưới tiêu nên người Thái nuôi cá
ngay trong mực nước của ruộng lúa. Cá nuôi trong ruộng vừa ăn sâu bọ cỏ dại, vừa sục bùn
cho tốt lúa. Cho nên, món dâng cúng trong lễ cơm mới bao giờ cũng có xôi và cá nướng.
Những dòng suối đóng vai trò quan trọng trong tâm linh con người. Suối là nơi trú ngụ của
thần nước, thưởng ở những đoạn nước cuốn thành vực, hằng năm vào mùa xuân người ta là
lễ cúng ngay bên bờ vựa đó. Cùng với suối, rừng và nương rẫy cũng là một bộ phận không
thể thiếu trong cuộc sống của dân cư Tây Bắc. Có nương thì mới có lúa, có rau quả như bầu 7
bí, rau cải, đậu, đu đủ. Còn rừng là nơi con người hái rau rừng, lấy thuốc chữa bệnh, thuốc
nhuộm, săn bắt thú rừng và khi thất bát mùa màng thì chính rừng, với củ mài, bột báng đã
cứu họ khỏi chết đói. Bản làng có một thái độ rất kính trọng với rừng, họ có hàng chục điều
quy định về việc khai thác rừng, săn bắn thú, đặc biệt là những quyết định về bảo vệ rừng đầu nguồn.
Ruộng bậc thang cũng là một yếu tố làm nên vẻ đe ̣p của vùng Tây Bắc. Điều này đã được
hàng triệu lượt du khách tới thăm Tây Bắc những năm qua công nhận và đã được giới thiệu,
quảng bá khá đậm nét trên hệ thống Internet và báo chí toàn cầu. Tạp chí Mỹ Travel &
Leisure đã so sánh những thửa ruộng tại Sa Pa như là “Những bậc thang dẫn lên trời” (Ladder to the sky).
2.2. Kiến trúc nhà ở
Văn hóa dân tộc Tây Bắc còn in đậm trong từng kiến trúc nhà ở của người dân khu vực. Mỗi
dân tộc khác nhau thường xây dựng nhà ở với lối kiến trúc khác nhau nhưng vẫn tạo nên
được một Tây Bắc rất riêng. ❖ Nhà sàn Thái:
Nhà sàn của người Thái bao giờ cũng làm số gian lẻ, hai đầu hồi - “tụp cống” khum
khum như mai rùa, gắn với truyền thuyết về thuở khai thiên lập địa, thần rùa “Pua
tấu” dạy cho người Thái biết cách làm nhà theo hình rùa đứng.
Nhà người Thái cổ bao giờ cũng có hai cầu thang: “Tang chan” và “Tang quản”.
“Tang chan” ở cuối nhà, bên trái dành cho phụ nữ lên xuống, thường là 9 bậc, ứng
với 9 vía. Cầu thang dành riêng cho nam giới - “tang quản” ở đầu nhà, thường có 7 bậc ứng với 7 vía.
Nhà sàn của người Thái cổ có hai bếp lửa - “Chík pháy”. Bếp lửa phía “tang quản”
dành cho người già, bếp chính ở phía “tang chang” dành cho nữ giới.
Từ bếp dành cho người già đến hết cầu thanh dành cho nam giới gọi là “quản”. Đây là
nơi dành riêng cho đàn ông, phụ nữ không được đến khu vực này, trừ một số trường
hợp đặc biệt. Nơi đây có gian thờ tổ tiên - “hỏng hóng” và cột thiêng - “sau he ̣”. Trên
cột thiêng treo hình thần rùa bằng gỗ, ba bông lúa - “sam huống khẩu” và ba nhánh 8
rau thì là - “sam hóm chík”... Ngoài ý nghĩa có tính biểu tượng của tô tem giáo thì
còn mang bóng dáng của thuyết thiên - địa - nhân. ❖ Nhà sàn Dao:
Kiến trúc nhà ở của người Dao cũng rất phong phú, tuỳ nhóm mà ở nhà trệt hay nửa
sàn, nửa đất. Hiện nay tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam ngôi nhà nửa sàn nửa đất
được chọn để trưng bày và giới thiệu. Loại nhà nửa sàn nửa đất là loại kiến trúc nhà
cửa của riêng người Dao, gắn liền với cuộc sống du canh du cư trước đây. Về cấu
trúc, nhà của người Dao được làm bằng gỗ, tre, nứa rất chắc chắn, đơn giản nhưng
được kết hợp khéo léo toát lên sự kín đáo, tế nhị của người Á Đông. Kiểu nhà truyền
thống của người Dao quần trắng là nhà sàn, thường được làm ba gian, cách chắp nối
các cấu kiện bằng nguyên liệu rời. Kiểu nhà này chỉ có một cầu thang lên xuống, cầu
thang có số bậc lẻ; trong nhà thường có hai bếp. Nhà người Dao đỏ làm nửa sàn nửa
đất ở lưng chừng đồi. ❖ Nhà sàn H’ Mông:
Người H'Mông chỉ ở nhà trệt, làm bằng gỗ pơ mu. Bộ khung bằng gỗ, kết cấu đơn
giản, chủ yếu là ba cột có một xà ngang kép hoặc hai xà ngang, một trên một dưới..
Công việc làm nhà là của đàn ông. Dân bản thường giúp nhau dựng nhà. Họ chỉ dùng
búa và dao. Hầu hết các bộ phận được liên kết với nhau bằng dây buộc
Nhà gồm ba gian: gian chính giữa giáp vách hậu bao giờ cũng là nơi đặt bàn thờ tổ
tiên. Gian này còn là nơi dành cho ăn uống hằng ngày. Một gian đầu hồi dành cho
sinh hoạt của các thành viên nam và khách nam. Ở đây thường có bếp phụ. Còn gian
đầu hồi bên kia dành cho sinh hoạt của nữ, đồng thời cũng là nơi đặt bếp chính. Bếp
của người Mèo thuộc loại bếp kín - bếp lò - một sản phẩm của phương Bắc. Chuồng
gia súc đặt trước mặt nhà.
Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà còn có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường
xếp đá cao khoảng gần 2 mét.
2.3. Vận chuyển đi lại
Vì địa hình chủ yếu là đồi núi cao hiểm trở, lại hay có thiên tai như xói mòn, sạt lở đất nên
giao thông ở vùng Tây Bắc không mấy phát triển. Và mỗi khu vực khác nhau thì giao thông 9
đi lại cũng có sự khác nhau. Nhưng nhìn chung người dân các dân tộc đều sử dụng xe bò, xe
ngựa để chở hàng; tàu thuyền, máng để di chuyển trên sông suối, đường bộ thì dùng đi bộ, đi ngựa...
❖ Dân tộc Thái : Người Thái vận chuyển hàng hóa bằng gánh là phổ biến, ngoài ra gùi
theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ nay. Ở dọc các con sông
lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.
❖ Dân tộc Dao : Người Dao thường dùng địu, quẩy tấu (một loại sọt) hay lù cở (giống
gùi) có hai quai đeo phía sau để lên rừng hái, quả hoặc thu thập nông sản. Ở những
vùng thấp hơn, người Dao thường dùng đôi dậu để gánh lúa, ngô và những vật dụng
khác. Một số tộc người Dao sinh sống ven các con suối, con sông đẽo thân gỗ tạo ra
thuyền độc mộc - loại thuyền này đã xuất hiện trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ
Quang Dũng và sử dụng thuyền để vận chuyển hàng hóa, lưu thông bằng thuyền trên sông suối lớn.
❖ Dân tộc H’Mông: Địa bàn đặc thù sinh sống của người Mông ở vùng núi cao, cheo
leo, đi lại khó khăn hiểm trở nên ngựa thồ là phương tiện chuyên chở đắc lực và duy
nhất. Ngựa chở lúa ngô khoai từ rẫy về nhà, lại chở ngô rượu ra chợ bán. Ngựa chở
người say mềm xõng xoài sau mỗi phiên chợ về nhà. Ngựa chở cả gia đình bố me ̣,
con cái đi chơi xuân, đi chợ tết. Cuộc sống bây giờ đã hiện đại với đủ các phương tiện
máy móc, nhưng hầu như hộ người H’Mông nào cũng cố nuôi giữ một vài con ngựa.
Vừa là phục vụ việc đi lại, chuyên trở, vừa như giữ lại những ký ức đe ̣p một thời về
người và ngựa lúc nào cũng bên nhau.
2.4. Ẩm thực
Ẩm thực chính là nét đặc trưng nhất trong văn hóa Tây Bắc nhằm phân biệt với 1 số vùng
khác , ẩm thực nơi đây mang nhiều hương vị độc đáo , đầy đủ thành phần dinh dưỡng là
điểm nhấn trong các dịp lễ , hội , phiên chợ mà hơn hết là trong dịp Tết
Nguồn nguyên liệu để tạo nên các món ăn có nguồn gốc từ tự nhiên , đảm bảo : gạo nếp ,
gạo tẻ , các loại thịt từ động vật .Kinh nghiệm chế biến các món ăn được lưu truyền từ đời
này qua đời khác nên vẫn giữ được hương vị đậm đà tươi ngon làm cho không chỉ người dân
mà thực khách cùng khó nào có thể quên
Một số món ăn độc đáo như : canh bon da trâu , chẩm chéo , rượu sâu chít , thắng cố 10
+ Canh bon da trâu : món ăn là sự kết hợp của thân và lá cây bon nấu cùng da trâu đã được
làm sạch , được chế biến vô cùng công phu , sự hòa quyện của nhiều loại gia vị khác nhau
+ Chẩm chéo : có thể mọi người chưa biết chẩm chéo chính là một món ăn không thể thiếu
trong mâm cơm của người dân Tây Bắc , được làm từ quả Mắc Khén , rang nóng , giã thành
bột mịn . Sau đó đem trộn đều với bột mịn giã từ ớt khô bỏ hạt , nướng giòn kết hợp thêm
cùng rau mùi tàu , tạo nên hỗn hợp với tên gọi là Chéo . Chéo mang mùi thơm hăng hắc
nhưng lại ngọt dịu , phảng phất chất núi rừng nồng nàn
+ Mèn mén : Do điều kiện địa hình nơi đây rất thích hợp cho việc trồng và canh tác cây ngô ,
bởi ngô là loại thực vật khá dễ tính ,vì thế ngô đã trở thành nguồn lương thực chính nuôi
sống con người nơi đây . Từ đó mèn mén , đặc sản chế biến từ ngô cũng đã xuất hiện , mèn
mén mang đặc tính dẻo thơm , được chọn lọc và chế biến vô cùng cẩn thận . Ngoài ra còn
có rất nhiều món ăn độc đáo như thắng cố , thịt trâu gác bếp ,…
Bên cạnh các món ăn truyền thống thì đồ uống cũng vô cùng quan trọng , Rượu sâu chít là
loại rượu ngon nổi tiếng được du khách ưa chuộng mỗi lần đến với vùng Tây Bắc . Sở dĩ có
tên gọi như vậy , là vì rượu được ủ lên từ các loại sâu , ngoài tên gọi như vậy thì rượu còn có
tên là Đông trùng hạ thảo , vô cùng có lợi cho sức khỏe
2.5. Trang phục
Do điều kiện tự nhiên nơi đây lạnh giá mà trang phục của đồng bào dân tộc Tây Bắc cũng vô
cùng mãn nhãn , trang phục nơi đây được trang trí với những họa tiết , hoa văn và bố cục bắt
mắt . Với tông màu chủ đạo nóng (đỏ , hồng , vàng tươi , da cam) để khi nhìn vào không còn
cảm thấy lạnh đến rùng mình .Trang phục Tây Bắc vô cùng đặc sắc phải kể đến 3 loại trang
phục truyền thống và nổi tiếng của 3 dân tộc chiếm phần đông dân số nơi đây
❖ Dân tộc Dao : Một bộ trang phục hoàn chỉnh của người Dao sẽ gồm có : áo , yếm , xả
cạp , cùng đồ trang sức vàng bạc , khăn đội đầu . . Ngoài trang phục chính , người
phụ nữ Dao còn ưa dùng tảng sức làm cho bộ quần áo họ mặc trở nên sang trọng hơn ❖ Dân tộc Thái:
Trang phục phụ nữ Thái gồm thái đen và Thái trắng
• Thái trắng: thường nhật, phụ nữ Thái sẽ mặc áo cánh ngắn màu xám, trắng. Váy màu
đen không trang trí hoa văn, phía trong gấu đáp vải đỏ. Không chỉ vâỵ, phụ nữ chưa 11
chồng còn búi tóc sau gáy, có chồng búi tóc trên đỉnh đầu
• Thái đen: ngày thường phụ nữ Thái đen mặc áo ngắn, màu tối thâm, đầu đội khăn
piêu, lối để tóc cũng giống như người Thái trắng, tuy nhiên trong những dịp đặc biệt
thì áo dài Thái đen được trang trí phong phú và đa dạng hơn người Thái trắng
Trang phục nam: đơn giản hơn, ít chứa đựng sắc thái tộc người và cũng biến đổi nhanh
hơn. Trang phục nam giới gồm: áo, quần, thắt lưng và các loại khăn. Áo không có trang
trí hoa văn, chỉ trong dịp sang trọng người ta mới thấy nam giới mặc áo cánh đứng lấp ló ở đầu đường
❖ Dân tộc H’mông: Trang phục cuả người H’mông không thể lẫn lộn với bất cứ nơi nào
khác bởi cách tạo hình vô cùng phong phú, công phu, kết hợp với kĩ thuật nhuộm.
Phụ nữ thường để tóc dài quấn quanh đầu, đồ trang sức bao gồm: khuyên tai, vòng cổ,
vòng tay, vòng chân. Đối với trang phục nam, khá độc đáo so với trang phục nữ, áo
cánh ngắn ngang hoặc dưới đáy thắt lưng, thân he ̣p, ống tay hơi rộng. Quần nam giới
là loại quần què, ống rất rộng, đầu thường chít khăn, có khi đội mũ cũng có khi
không, có khi đeo vòng cũng có khi không.
PHẦN III. VĂN HOÁ TINH THẦN
3.1. Ngôn ngữ và chữ viết ❖ Ngôn ngữ
HIện nay, vùng Tây bắc đang tồn tại của 4 trên tổng số 5 họ ngôn ngữ hiện có mặt tại
Việt Nam. 4 họ ngôn ngữ bao gồm: thứ nhất là họ ngôn ngữ Tai-ka bao gồm các dân tộc:
Thái, Tày, Nùng, Lào, Giáy, Khơ Mú. Thứ hai là họ ngôn ngữ Mông-Dao bao gồm các
dân tộc Mông, Dao. Thứ ba là họ ngôn ngữ Môn Khơ-me bao gồm các dân tộc Kinh,
Mường và thứ tư là họ ngôn ngữ Hán Tạng bao gồm các dân tộc: Hoa, Sila,… ❖ Chữ viết
Một số dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển không chỉ có tiếng nói mà họ còn có cả
chữ viết điển hình, làm giàu và phong phú mang đậm bản sắc dân tộc. Hiện nay, giáo dục
đã được phổ cập trên các bản, làng cũng đã phần nào xoá bớt gánh nặng mù chữ, gieo
con chữ trên những em thơ để các em được hưởng nên giáo dục và phát triển trọn ve ̣n.
3.2. Phong tục tập quán 12
Do vùng Tây Bắc là nơi sinh sống của 15 dân tộc khác nhau nên có phong tục tập quán vô cùng đa dạng, phong phú.
3.2.1. Ngày tết truyền thống:
a. Tết truyền thống của đồng bào dân tộc Mông:
Thời gian diễn ra tết truyền thống của dân tộc Mông diễn ra sớm hơn tết Nguyên Đán của
người Việt khoảng 1 tháng, gọi là Chia Sung Lầu- Tết tháng 12. Trong khâu bày biện, trang
trí bàn thờ của người Mông đặc biệt không thể thiếu giấy banr và lông gà. Họ cũng cắt và
dán giấy bản vào các công cụ lao động với ý nghĩa rằng thời gian nghỉ ngơi sau những tháng
ngày lao động đã đến, đồng thời cũng mong muốn 1 mùa màng bội thu.... nếu có dịp ghé
thăm họ vào lễ tết, bạn sẽ được đãi món thịt chuột sấy. Trong những ngày tết, họ không
kiêng quét nhà mà luôn dọn de ̣p bàn thờ, quét dọn nhà cửa nhằm xua đi cái bẩn cái cũ của
năm trước, ngoài ra họ cũng tắm rửa sạch sẽ để xua tan bệnh tật, xui xẻo
b. Tết truyền thống của dân tộc Thái:
Bánh trưng của người thái vô cùng khác biệt so với bánh Trưng của miền Bắc và bánh Tét
của miền Nam. Đó là bánh Trưng Gù với bánh mỏng, làm từ xôi nếp, phơi khô và rán lên.
Ngoài ra, còn cos bánh Khảu Tắt là món bánh đặc trưng của người Thái rất được ưa chuộng.
Ngày 30 tết, nhà nào cũng mổ 1 con lợn để chế biến nhiều món khác nhau. Món ăn không
chỉ để ăn trong ngày tết mà ăn đén ra giêng, nhà nào có nhiều thịt là tết to. Người Thái rất
coi trọng mâm cúng tổ tiên, ở bàn thờ được đặt thêm 2 cây mía và hoa bók piếng. 2 cây mía
với ý nghĩa là những chiếc thang để đón tổ tiên về ăn tết cùng con cháu. Việc thờ cúng vuaừ
mang ý nghĩa tâm linh, vừa thể hiện sự ấm no, sung túc cũng như mong muốn đủ đầy cho năm mới.
3.2.2. Phong tục cưới hỏi của một số dân tộc vùng tây bắc:
a. Phong tục Kéo Dâu (Bắt Vợ):
Theo truyền thống của người Mông, khi con trai trong gia đình đến tuổi kết hôn và tìm được
người muốn kết hôn thì cha me ̣ sẽ chuẩn bị một số sính lễ để sang nhà gái dạm hỏi. Sính lễ
chuẩn bị cho mỗi cuộc dạm ngõ khá đơn giản, bao gồm một chiếc ô vải đen có buộc khăn ở 13
giữa, một đôi gà luộc và vài lít rượu ngô. Theo tục lệ, nhà trai phải sang nhà gái ít nhất từ hai
lần trở lên thì nhà gái mới đồng ý gả con.
Ngoài ra trong nhiều trường hợp, khi đôi trai gái yêu nhau mà nhà gái nhất quyết cấm cản thì
người con trai sẽ he ̣n người con gái nửa đêm đợi cha me ̣ ngủ say, cô lén mở cửa và theo
chàng trai về nhà làm vợ chồng. Đó có lẽ là lý do tục lệ "bắt vợ" ra đời và trở thành một nét
đe ̣p rất riêng, cầu nối tình yêu cho những cặp đôi bị gia đình cấm cản. Đây thực chất là hình
thức hợp pháp hóa vợ chồng cho đôi trai gái yêu nhau mà không cần nhiều sính lễ. b. Phong tục ngủ thăm:
Ngủ thăm là một tục lệ lâu đời của các dân tộc thiểu số ở vùng cao Tây Bắc như Thái, Dao,
Mương, Mông,… Tuy nhiên, ngày nay, tập tục ngủ thăm này đã bị mai một và nhiều nơi
không còn tồn tại. Nhưng với người Mường ở bản Mọc, xã Đồng Nghê(Hòa Bình), tục cạy
cửa ngủ thăm vẫn còn được lưu giữ.Các chàng trai đến tuổi trưởng thành đều nắm rõ nhà
nào trong bản có con gái lớn,đến tuổi cập kê. Các thiếu nữ ở độ tuổi trăng tròn cũng thường
đốt nến, mắc màn vào mỗi đêm, chờ đợi chàng trai đến ngủ thăm. Thường khi đèn sáng, là
nhà cô gái chưa có ai vào ngủ thăm, lúc này chàng trai sẽ biết được tín hiệu, cạy cửa chui
vào nhà. Nếu cô gái ưng thuận sẽ tự tay vặn nhỏ đèn, để các chàng trai biết đã có người “ngủ
thăm”. Tuy nhiên, hai người chỉ được trò chuyện, tâm sự ở tư thế chung chăn, chung gối mà
không được chạm vào người nhau. Sau vài đêm ngủ thăm tìm hiểu, nếu cô gái đồng ý, chàng
trai sẽ mang bạc trắng, lợn béo sang nhà cô gái thưa chuyện 3.2.3. Phong tục tang lễ
a.Tang Lễ của người Thái Đen:
Người Thái đen vẫn giữ nghi thức hỏa táng khi người thân của họ qua đời. 4 khúc củi được
xếp vuông vắn ở nghĩa trang mà họ gọi là “ rừng ma”. sau khi hỏa thiêu hoàn tất, họ rửa lại
xương bằng rượu và xếp vào một cái chum và chôn xuống ngôi mộ ở trong rừng ma. Nghi lễ
diễn ra trong nhiều ngày đêm, nhưng do tốn nhiều nguyên liệu và chi phí, họ đã hạ xuống
còn 1 ngày. Hỏa táng được người thái gọi là “ Siêu”. do họ quan niệm người mất khi về với
tổ tiên phải được tăms rửa sạch sẽ nên mới hỏa táng. Khi hỏa táng không thể thiếu thịt trâu
và thịt bò. Thịt trâu hoặc thịt bò sẽ được mổ mang mời bản làng. Còn Thủ trâu cắt treo ở nhà 14
mồ. Ông mo cùng con cháu sẽ ra nơi hỏa táng nhặt xương người mất về, rửa sạch cho vào
tiểu hoặc vại. Trong đó sẽ được cho thêm 1 sợi tơ tằm được xem là sợi kết nối âm dương,
nếu linh hồn người mất có thiêng sẽ về phù hộ cho con cháu làm ăn
b. Tang lễ của người Mường:
Người Mường có nghi thức độc lạ là “ mo Mường”. đêm mo có thể kéo dài rất nhiều đêm
tùy thuộc vào địa vị của người trong Làng
3.3. Tín ngưỡng
3.3.1. Tín ngưỡng Thờ cúng rừng:
Đây là lễ lớn và quan trọng nhất trong năm để tạ ơn thần rừng, tạo ra mối liên kết cộng đồng,
đoàn kết giữa các dân tộc, lòng biết ơn của người dân đối với rừng. Với người dân tộc
Mông, lễ thờ cúng rừng diễn ra trong khu rừng cấm, tại đây họ sẽ lập ra 1 bàn thờ ở 1 cây cổ
thụ nhằm thực hiện các nghi thức.Thầy cúng sẽ nói những lời tạ ơn công đức của người dân
với rừng, ngoài ra sẽ hứa không chặt phá rừng, tạo ra nhiều rừng mới. Sau khi nghi lễ kết
thúc, thầy cúng sẽ ban rượu cho người dân trong bản cùng liên hoan, cùng nhau nghĩ ra các
biện pháp bảo vệ rừng, trồng rừng mới
3.3.2. Tín ngưỡng hầu đồng:
Là một nghi lễ giao tiếp tâm linh thông qua các ông đồng, bà đồng. Mọi người tin rằng sẽ
nhận được nhiều sự tài lộc, may mắn, làm nên ăn ra, mưa thuận gió hòa nếu như tin vào sự
tái hiện các vị thần linh qua các ông đồng bà đồng trong trạng thái tâm linh thăng hoa.
Những giá đồng được thực hiện theo đúng các nghi lễ, tín ngưỡng. Khi âm thanh vang lên,
khung cảnh các ngôi đền càng trở nên huyền diệu, huyền bí. Ở Tây Bắc, các ngôi đền gắn
với việc thờ mẫu, đó là các vị tướng có công cứu nước khỏi ách đô hộ như đền mẫu Âu Cơ
( Phú Thọ), đền Thượng, đền Bảo Hà
3.3.3. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên:
Người Thái có tín ngưỡng “ vạn vật hữu linh”. Họ quan niệm rằng mỗi người có đến 80 hồn
vía.... người chết sẽ không biến mất mà trở về sống ở bản của tổ tiên. Họ thường tổ chức
cúng người khuất trong dòng họ vào đầu năm mới lịch riêng của người thái gọi là lịch Can,
chi. Vào đầu mỗi năm mới, gia chủ sẽ mời ông mo đến nhà, chuẩn bị một cuốn sổ ghi tên
của người đã khuất trong nhà để ông Mo mời về ăn tết cùng con cháu. Mỗi tên khi ông Mo 15
gọi đến sẽ được bón 3 miếng thịt, 3 thìa măng vào chõo thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra, người ta
cũng khoét lỗ nhỏ để đút vừa miếng thịt để bón ma nhà. Cúng xong tam tạy, một mâm cỗ
được chủ nhà dọn ra ngoài sàn để ông mo mời thổ công, thổ địa, ma rừng, ma núi, thần sông
suối và cầu khấn phù hộ cho gia chủ được khoẻ mạnh, làm ăn phát đạt. Ông mo cúng xong,
gia chủ đặt mâm cơm mời anh em họ hàng, làng xóm đến chung vui, cùng nâng chén rượu
chúc tụng gia chủ năm mới dồi dào sức khoẻ, gia đình hạnh phúc, mùa màng bội thu. Người
Thái có truyền thống sống chân thật, giản dị và rất hoà thuận, tôn trọng người già, thương
yêu trẻ nhỏ và giúp đỡ nhau vô tư. 3.4. Tôn giáo 3.4.1. Công giáo:
Công giáo là tôn giáo lớn nhất ở Tây Bắc hiện nay, đã thành một phần quan trọng trong
sinh hoạt văn hóa và đời sống tinh thần của cư dân nơi đây. Cộng đồng Công giáo vùng đồng
bào dân tộc thiểu số là liên kết chặt chẽ, dưới sự thống nhất điều hành chung về sinh hoạt
đạo theo các cơ cấu hành chính đạo từ cấp giáo phận đến giáo hạt, giáo xứ, giáo họ và các
điểm truyền giáo. Tính cộng đồng tôn giáo tộc người thể hiện mạnh mẽ ở việc lấy niềm tin
tôn giáo làm yếu tố gắn kết các nhóm sắc tộc. Cho đến nay ước tính có khoảng 20.000 người
tín đồ trên tổng số hơn 200.000 tín đồ ở Tây Bắc là người đồng bào dân tôc thiểu số. Công
giáo vùng Tây Bắc chủ yếu tâp trung ở tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình, Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang. 3.4.2. Tin lành:
Trước những năm 1980, người H’Mông ở đây chủ yếu theo vật linh giáo và thờ cúng đa
thần, không có người theo đạo Tin lành. Từ năm 1987 đã có một bộ phận người H’Mông
chuyển đổi theo đạo Tin lành, và hiện nay có khoảng trên 100 nghìn tín đồ. Theo đạo Tin
lành giúp tín đồ giảm bớt những hủ tục trong tổ chức đám cưới, đám tang hay việc chữa
bệnh. Đức tin tôn giáo khuyến khích người H’Mông trong làm ăn kinh tế. Người H’Mông
theo Tin lành cũng thực hiện khá tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước
và quy định của các địa phương, phụ nữ H’Mông có nhiều cơ hội thể hiện mình hơn.
3.5. Nghệ thuật 3.5.1. Văn học
Xã hội cổ truyền Tây Bắc, văn hóa chuyên nghiệp bác học chưa xuất hiện. Người Thái 16
dù có một vài nghệ nhân giỏi sáng tác thơ nổi tiếng, có chữ viết cổ nhưng tác phẩm chủ
yếu bằng phương thức truyền miệng.
Mỗi dân tộc trong vùng đều có kho sáng tác ngôn từ giàu có, đủ thể loại: tục ngữ, thành
ngữ, đồng dao, giao duyên, lời khấn, lời bùa chú… Tác phẩm như Tiễn dặn người yêu
(Thái), Tiếng hát làm dâu (H’mông), Vườn hoa núi Cối (Mường)... Người Thái còn có
cả truyện thơ lịch sử kể lại quá trình thiên di của họ vào Tây Bắc: Bản sử ca Dõi theo
bước đường chinh chiến của ông cha (Táy pú Xớc), Lịch sử bản Mường (Quán tố Mường)... 3.5.2. Múa
Múa dân tộc là đặc trưng của vùng Tây Bắc.
Múa xòe: Là đặc sản nghệ thuật múa Thái và trở thành biểu tượng văn hóa Tây Bắc.
Người Thái có Xòe vòng quanh đốm lửa, quanh hũ rượu cần với sự tham gia đông đảo
của già trẻ, gái trai trong tiếng chiêng trống rộn ràng. Còn người Thái trắng ven sông
Đà có Xòe điệu nhe ̣ nhàng, tinh tế do các cô thanh nữ múa trong tiếng tính thanh dịu dàng của hai chàng trai.
Múa sạp: Múa sạp là điệu múa dân gian đặc sắc của dân tộc Mường trong những dịp
vui, trong lễ hội xuân. Người múa chia ra một tốp đập sạp và một tốp múa, mỗi tốp có
thể từ vài cặp trai gái đến nhiều cặp, càng nhiều, đội hình càng phong phú sinh động.
Tốp múa lần lượt từng cặp trai gái nhảy vào dàn sạp, mỗi người cầm một chiếc khăn
màu dài, khi tung lên, khi uốn lượn quanh người. Động tác khi lướt nhe ̣ nhàng, uyển
chuyển, lúc dồn dập quay, nhảy, bay trên sạp; đội hình uốn lượn quấn quýt, biến đổi
ngang, dọc, chéo, tròn, tất cả đều diễn ra trên dàn sạp và phải đúng nhịp, làm sao khi
hai sạp con chập vào nhau thì không bị ke ̣p chân vào.
Múa khèn: Múa khèn (Tang quây) của đồng bào dân tộc Mông là một nét văn hóa đặc
trưng, dễ thấy trong nhiều dịp lễ của đồng bào dân tộc này; múa khèn sử dụng loại nhạc
cụ khèn Mông – một nét văn hóa giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong tín ngưỡng người
Mông. Người Mông thường múa khèn khi có đám tang, đám giỗ hoặc trình diễn trong
lễ hội. Hiện nay, múa khèn còn được dùng biểu diễn trong những dịp sinh hoạt văn hóa,
văn nghệ tại địa phương. Với cây khèn Mông, người chơi có thể thổi hơi ra, có thể hít
hơi vào. Khèn cũng là đạo cụ múa có cấu tạo phù hợp với dáng khum người và các thế 17
quay, nhảy. Nghệ nhân múa khèn với những bước nhún, bước đảo, bước quay hoặc vừa
ôm khèn, vừa lăn mình trên đất tạo nên vũ đạo rất đe ̣p. Với những giá trị lịch sử, văn
hóa và khoa học đặc sắc của nghệ thuật Múa khèn của người Mông, Bộ trưởng Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch đã quyết định đưa di sản văn hóa phi vật thể này vào Danh
mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, loại hình Nghệ thuật trình diễn dân gian năm 2015. 3.5.3. Nhạc cụ
Hệ nhạc cụ hơi có lưỡi gà và bằng tre, bằng đồng hay bằng bạc.
Khèn: Điệu múa khèn người H’Mông không thể thiếu được loại nhạc cụ do chính họ
làm ra khèn H’Mông, là một nhạc cụ tiêu biểu, độc đáo, gắn bó và có vai trò quan trọng
trong đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc. Tiếng khèn dường như đã trở thành một
phương thức để người H’Mông chuyển tải, thổ lộ những tâm tư nguyện vọng của
mình,... Nghệ nhân múa khèn với những bước nhún, bước đảo, bước quay hoặc vừa ôm
khèn, vừa lăn mình trên đất tạo nên vũ đạo đe ̣p. Vũ điệu và âm thanh hòa quyện với
nhau trong nghệ thuật múa khèn giúp cho người xem được thưởng thức cùng lúc cả âm
thanh, tiết tấu đa dạng, biến hóa của tiếng khèn và hình ảnh uyển chuyển, nhịp nhàng của người múa.
Đàn tính: Đàn tính (tính tẩu) là một nhạc cụ đặc sắc của người Tày, đặc biệt ở tỉnh Cao
Bằng. Đàn tính là một loại nhạc cụ dân gian độc đáo của người Tày, mang lại âm thanh
mượt mà, ngọt ngào và ấm áp. Đàn được làm bằng vỏ bầu, mặt đàn làm bằng gỗ vông,
cán làm bằng gỗ cây khảo quang hoặc cây dâu tằm. Dễ thấy đàn tính được xuất hiện
trong các lễ hội văn hóa của người Tày, nhất là trong các dịp hát Then.
Bẳng bu: Một loại nhạc cụ thuộc bộ hơi được làm từ nguyên liệu tre và rất phổ
biến ở vùng núi Tây Bắc ta. Nhạc cụ này chỉ dành cho nữ giới, thường được sử
dụng trong các nghi lễ mang đậm tính phồn thực, chủ yếu là để người dân nơi đây cầu
mong một cuộc sống bình yên và mùa màng được bội thu. 3.6. Lễ hội
3.6.1. Lễ hội Lồng Tồng (Lễ hội xuống đồng)
Cứ vào dịp đầu tháng Giêng, người Tày, Nùng lại mở hội xuống đồng để tổng kết một
năm lao động, sản xuất và chuẩn bị cho công việc gieo trồng mùa vụ mới. Đồng bào
chọn ra một đám ruộng to nhất. Từ sáng sớm, trong làng đã vang lên hồi chiêng trống 18
rộn rã của lễ rước Thổ Công và Thần Nông tiến ra khu ruộng. Mỗi gia đình trong làng
chuẩn bị một mâm cỗ có gà luộc, thịt lợn luộc, xôi các màu… để đưa ra ruộng nơi tổ
chức lễ hội cúng tế. Thầy cúng đọc lên bài cúng mời Thần Nông, Thổ Công, Thần các
con suối, Thần các ngọn núi về dự lễ cúng; cầu mong cho lúa tốt như cỏ lau, cỏ lác,
hạt to như quả đao không có sâu cắn phá; cá nằm chật suối, chật ao; trâu lợn đầy đàn;
gà vịt đầy sân; người người khỏe mạnh, nhà nhà đông con, làng bản thêm nhiều trẻ
nhỏ, không người ốm đau… Nghi lễ cúng tế kết thúc, dân làng chuyển sang phần
hội vui chơi các trò chơi truyền thống, mỗi trò chơi đều mang ý nghĩa cầu mùa, cầu
sức khoẻ. Trong lễ hội thường diễn ra các trò chơi dân gian cổ truyền, như: Ném còn,
bịt mắt bắt dê, hát lượn…. 3.6.2 Lễ hội hoa Ban
Lễ hội hoa Ban hay còn gọi là lễ hội Xên Mường được người Thái ở Tây Bắc tổ chức
vào dịp tháng 2 âm lịch, khi hoa ban bắt đầu nở trắng cả núi rừng Tây Bắc. Lễ hội thể
hiện tấm lòng tôn kính tri ân của nhân dân tưởng nhớ công lao to lớn của các vị nhân
thần tiền bối và cầu cho quốc thái, dân an, bản mường no ấm, quanh năm mưa thuận
gió hòa, mùa màng bội thu, gia đình hạnh phúc…Lễ hội hoa Ban là ngày vui của họ
hàng, của bản, mường và là dịp cho trai gái gặp gỡ, hò he ̣n nhau. Lễ hội gồm 2 phần lễ
và hội, phần lễ để cúng thần linh, phần hội để tạo nên những tiếng cười thoải mái
nhằm giáo dục con người vươn tới cái tốt đe ̣p. Sau khi kết thúc phần lễ, bà con dân bản
sẽ tiếp tục phần hội với nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như: ném còn, kéo co, đi cà
kheo, leo cây, chọi cù, hát đối đáp… Các chàng trai vừa cũng giúp các cô gái hái những
bông hoa trắng muốt đem về nhà.
3.6.3.Lễ hội cầu an bản Mường
Đây là lễ hội của đồng bào dân tộc Thái ở Mai Châu, Thuận Châu, Mộc Châu và đồng
bào dân tộc Mường. Đây là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng rất quan trọng đối với
cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc. Lễ hội được tổ chức vào cuối tháng Giêng,
đầu tháng Hai âm lịch hằng năm. Lễ hội này được gắn với tục giết trâu và tạ thần linh
được thể hiện qua hình tượng thủy thần, thuồng luồng… Nội dung của lễ hội có nhiều
hoạt động liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh, mùa màng, sức khỏe và
sự làm ăn của cả cộng đồng trong năm diễn ra lễ hội. Chính vì thế mà lễ hội này được 19
tổ chức rất trọng thể, thu hút đông đảo nhân dân trong vùng. 20