Contents
LỜI MỞ ĐẦU.
.........................................................................................
3
LỜI CẢM ƠN.
..........................................................................................
5
CHƯƠNG 1: QUY LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ
LƯỢNG THÀNH NHỮNG SỰ THAY Đ VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI.
6
1.1.
Các khái niệm.
...................................................................................
6
1.1.1.
Khái niệm về chất.
..........................................................................
6
1.1.2.
Khái niệm về lượng.
.......................................................................
6
1.2.
Mối quan hệ biện chứng giữa lượng chất.
.............................
7
1.2.1.
Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
......................
7
1.2.2.
Sự thay đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về lượng
......................
8
1.3
Ý nghĩa phương pháp luận.
..............................................................
9
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUY LUẬT ỢNG CHẤT VÀO QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT NƯỚC TA
HIỆN NAY
...................................................................................................
10
KẾT LUẬN.
............................................................................................
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
........................................................................
13
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc sống luôn thay đổi con người cũng phải thay đổi để thích nghi với
những hoàn cảnh mới. Thế giới đang thay đổi nhanh chóng, hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng. Để thích ứng với xu thế này, mỗi chúng ta phải nội lực đủ
mạnh, bản lĩnh vững vàng đhội nhập tốt, để đất nước sánh vai cùng bạn quốc
tế. Quy luật tự nhiên, quy luật xã hội và quy luật tư tưởng của con người đều mang
tính khách quan. Con người không thể tùy ý tạo ra hay xóa bỏ luật này chỉ
thể nhận thức áp dụng chúng vào thực tế. Quy luật “từ sự thay đổi vlượng
thành sự thay đổi về chất ngược lại” một trong ba quy luật của phép biện
chứng duy vật, quy luật y chỉ con đường vận động phát triển. Quy luật
chuyển hóa giữa lượng chất, chất là quy luật phổ biến bản của đường lối vận
động, phát triển chung của tự nhiên, xã hội và
tư tưởng. Khi lượng thay đổi tất yếu sẽ làm thay đổi chất của sự vật, hiện tượng
ngược lại, khi chất thay đổi sẽ tạo nên những biến đổi mới về lượng của sự vật,
hiện ợng. Đây quy luật tất yếu, khách quan, phổ biến của sự vật, hiện tượng
trong mọi lĩnh vực của tự nhiên, hội duy.
Chính vậy, em lựa chọn đ tài: “Quy luật chuyển hoá t những thay đổi về
lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại. Vận dụng quy luật này vào
quá trình xây dựng phát triển lực lượng sản xuất nước ta hiện nay” làm tiu
luận nghiên cứu, đồng thời cái nhìn khách quan đánh giá đúng đắn hơn v
vấn đề này.
LỜI CẢM ƠN
“Để hoàn thành tiểu luận này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu trường… ... đã tạo điều kiện về sở vật chất với hệ
thống thư viện hiện đại, đa dạng các loại sách, tài liệu thuận lợi cho việc tìm kiếm,
nghiên cứu thông tin.
Xin cảm ơn giảng viên bộ môn ..... đã giảng dạy tận tình, chi tiết để em
đủ kiến thức vận dụng chúng vào bài tiểu luận này.
Do chưa nhiều kinh nghiệm làm để tài cũng như những hạn chế về kiến
thức, trong bài tiểu luận chắc chắn skhông tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được sự nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía… để bài tiểu luận
được hoàn thiện n.
Lời cuối cùng, em xin kính chúc…nhiều sức khỏe, thành công hạnh
phúc”.
CHƯƠNG 1: QUY LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ
LƯỢNG THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ
NGƯỢC LẠI
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm về chất
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật hiện tượng, sự thống nhất hữu các thuộc tính làm cho
không phải cái khác. Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn
của sự vật, hiện tượng; sự thống nhất hữu các thuộc tính cấu thành nó,
phân biệt nó với sự vật hiện tượng.
Mọi sự vật, hiện tượng đều được cấu thành bởi những thuộc tính khách quan
vốn của chúng những thuộc tính này sở để chúng ta phân biệt các sự
vật, hiện tượng. dụ, một cái bàn các đặc tính phân biệt với một cái ghế.
Tuy nhiên, khái niệm thực thể không thể được đánh đồng với khái niệm thuộc tính.
Mọi sự vật, hiện tượng đều những thuộc tính bản không bản chất. Chỉ
những thuộc tính bản mới cấu thành chất của sự vật, hiện tượng. Theo mối
quan hệ cụ thể thể phân biệt thuộc tính bản thuộc tính không bản.
Chất lượng của sự vật, hiện tượng không chỉ phụ thuộc vào thành phần cấu tạo của
chúng mà còn phụ thuộc vào
cấu trúc và cách thức chúng liên kết với nhau.
dụ: Nguyên tố Đồng (Cu) nguyên tử lượng 63,54đvC, nhiệt độ nóng chảy
1083, nhiệt độ sôi 2880 độ C… Những thuộc tính (tính chất) này nói lên chất
riêng của đồng, phân biệt nó với các kim loại khác.
1.1.2. Khái niệm về lượng
Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng
như các thuộc tính của nó. Khái niệm lượng dùng để chỉ những quy định khách
quan
vốn của sự vật: số lượng các yếu tố cấu thành, quy tồn tại, tốc độ, nhịp điệu
của sự vận động phát triển của sự vật. Với khái niệm này cho thấy một vật
thể tồn tại
với nhiều số lượng khác nhau, được xác định bằng các phương thức khác nhau phù
hợp với từng loại lượng của cụ thể của sự vật.
dụ: Số lượng sinh viên học tinh luyện định của một lớp sẽ nói lên chất lượng
học tập của lớp đó.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng cht
1.2.1. Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi vcht
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và hội cũng như sự phát
triển của nhận thức, tư duy của con người đều từ mức độ tích lũy dần dần biến đổi,
vượt quá giới hạn đến mức diệt vong, dẫn đến sự thay đổi bản về phẩm chất.
Cái cũ biến mất và cái mới được sinh ra.
Sự thay đổi về lượng thể xảy ra theo hai hướng: tăng hoặc giảm về lượng dẫn
đến thay đổi ngay hoặc thay đổi dần về chất. vật chất sự vật tương đối ổn
định lượng vật không ngừng biến đổi nên khi lượng của sự vật thay đổi thì
một giới hạn nhất định chưa làm cho chất lượng của thay đổi. Giới hạn này
được gọi độ. Độ là một phạm trù triết học, dùng để chỉ khoảng giới hạn sự
thay đổi về lượng của sự vật không làm thay đổi bản tính chất của sự vật đó.
Mức độ là mối quan hệ giữa lượng và chất của sự vật, phản ánh sự thống nhất giữa
chất lượng của sự vật. mức độ, mọi thứ vẫn những chúng vốn có, chưa
được biến đổi thành một cái đó khác.
Sự vận động, biến đổi của các sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi của
lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ dẫn đến sự thay đổi
bản về chất. Giới hạn này nút. Nút một phạm trù triết học đề cập đến một
điểm sự thay đổi về lượng là đđể thay đổi chất lượng của một cái gì đó. Tích
lũy đủ số lượng nội dung trên một nút skhiến vật chất mới của được sinh ra.
Số lượng mới chất lượng mới của sự vật kết hợp với nhau tạo nên tính mới
điểm nút mới của
sự vật. Quá trình này xảy ra liên tục trong sự vật, vì vậy sự vật luôn phát triển miễn
chúng tồn tại. VD: 0 độ C 100 độ C yếu tố nút để nước chuyển sang
trạng thái rắn hoặc trạng thái khí (bay hơi).
Sự thay đổi về lượng khi đến nút, trong những điều kiện nhất định, tất yếu sẽ dẫn
đến sự ra đời của chất mới. bước nhảy trong svận động phát triển của các
sự vật, hiện tượng. Bước nhảy sự thay đổi tất yếu trong quá trình phát triển của
sự vật, hiện tượng. Những thay đổi về chất xảy ra dưới nhiều hình thức nhảy vọt
khác nhau, được xác định bởi mâu thuẫn, bản chất điều kiện của svật. Đó
các bước nhảy: nhanh chậm, lớn nhỏ, từng phần toàn bộ, tphát tự
giác ... Bước nhảy skết thúc của một giai đoạn vận động phát triển; đồng
thời sự khởi đầu của một giai đoạn mới, của sự vật hiện tượng Sự gián đoạn
các quá trình phát triển trong quá trình chuyển động. Trên thế giới luôn
những bước nhảy vọt về số lượng chất lượng, tạo ra những đường nút tận.
chỉ ra sự vận động phát triển của sự vật từ thấp đến cao. Ph. Ăngghen khái quát
tính tất yếu này: “Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định
sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất”.
1.2.2. Sự thay đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về lượng
Chất mới của sự vật chỉ xuất hiện khi sự thay đổi về lượng đến thời điểm tới hạn,
khi sự vật mới ra đời có chất mới và với lượng mới phù hợp, tạo nên sự thống nhất
mới về lượng chất thì chất mới tác động trở lại. Lượng khách mới đến được
biểu hiện trên quy tồn tại của nhịp điệu vận động. Khi một chất mới ra đời,
phản ứng với một lượng mới, làm thay đổi cấu trúc, quy và nhịp điệu của các
yếu tố sinh trưởng của các yếu tố vật chất.
Mọi sự vật hiện tượng dều vận động, phát triển bằng cách thay đổi dần về lượng,
lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì
diễn ra bước nhảy, tạo sự thay đổi về chất của sự vật. Kết quả là svật cũ, chất
mất đi svật mới, chất mới ra đời. Chất mới lại tác động trở lại lượng mới,
lượng mới lại tiếp tục thay đổi dần, đến lúc nào đó, vượt quá độ tồn tại của sự vật
tới điểm nút thì lại diễn ra bước nhảy tạo sự thay đổi vchất, cứ như vậy sự tác
động qua lại giữa hai mặt chất lượng tạo ra con đường vận động, phát triển
không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng.
dụ: Trong năm học bạn không ngừng tích lũy kiến thức, đó gọi lượng.
Trong khi đó bạn vẫn học sinh lớp 10, tức chất chưa đổi chỉ lượng đổi.
Lượng tích lũy đến khi thi cuối năm (điểm nút) bạn lên lớp 11 thì chất đã thay đổi.
1.3. Ý nghĩa phương pháp lun
Sự vận động phát triển của sự vật luôn diễn ra bằng cách tích lũy dần về
lượng đến một giới hạn nhất định bước nhảy vọt về chất. Vì vậy, trong hoạt
động tri giác thực tế, lượng được tích lũy theo từng giai đoạn để gây ra những
biến đổi về chất theo quy luật tránh duy chủ quan. Các hoạt động thực hành
phải được tổ chức dựa trên shiểu biết đúng đắn về vị trí, vai trò tầm quan
trọng của sự thay đổi về lượng chất đối với sự phát triển hội. Chúng ta cần
biết kịp thời làm thế nào để chuyển từ định lượng sang định tính tiến hóa
thành cách mạng. Để hoạch định chiến lược chiến thuật cách mạng, chúng ta
phải xem xét diễn biến cách mạng trong mối quan hệ biện chứng của chúng.
Nhận thức đúng đắn về mối quan hnày sẽ giúp chúng ta nhìn nhận một cách
nghiêm túc về chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa tả khuynh.
Cần phải linh hoạt trong việc điều chỉnh hình thức nhảy phợp với hoàn cảnh
của mình. Đặc biệt trong xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều
kiện khách quan mà còn phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người. Vì vậy, cần
tăng cường tính năng động, chủ động của chủ thể để tạo điều kiện chuyển đổi từ số
lượng sang chất lượng một cách hiệu quả nhất.
Cần tránh hai khuynh hướng sau: Thứ nhất, nôn nóng tkhuynh: Đây việc
một cá nhân không kiên trì và nỗ lực để có sự thay đổi về lượng nhưng lại muốn có
sự thay đổi về chất; Thứ hai, bảo thủ hữu khuynh: Lượng đã được tích lũy đến mức
điểm nút nhưng không muốn thực hiện bước nhảy để có sự thay đổi về chất.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT VÀO QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN LỰC ỢNG SẢN
XUẤT ỚC TA HIỆN NAY
Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, đặc biệt Internet, khoa
học nói chung và tri thức nói riêng được lan truyền nhanh chóng, gần như tức thời,
với nhiều sự kiện khoa học trên khắp thế giới. Dòng kiến thức, công nghệ
vốn đang chảy khắp thế giới với tốc độ nhanh chưa từng thấy. Các thành phần
riêng lẻ của một sản phẩm được sản xuất nhiều nơi trên thế giới được lắp p
và phân phối ở các
quốc gia khác nhau để đạt hiệu quả tối đa. vậy, sản xuất ra năng suất hiện đại
không còn là sản phẩm lao động độc quyền quốc gia nữa mà là sản phẩm toàn cầu.
Do đó, năng suất hiện đại đang trở thành nhân tố chính thúc đẩy quá trình toàn cầu
hóa. Đây
một đặc điểm mới chỉ trong năng suất hiện đại, nhưng năng suất khai
không tồn tại hoặc chỉ tồn tại trong một khuôn khổ hẹp. thời của C. Mác, ông
tả xu hướng phát triển tất yếu của sản xuất “xây dựng các mối quan hệ trên
thế giới”, nhưng thực tế ông không đề cập đến vấn đề toàn cầu hóa sản xuất.
vậy, ý nghĩa của thuật ngữ này cần được mở rộng ra ngoài phạm vi các nước sản
xuất vật chất, đặc biệt là tiếp tục vận dụng quan điểm của C. Mác vquy luật
lượng và chất, năng suất nói chung. Không chỉ trong sản xuất vật chất trên toàn thế
giới.
Quy luật này còn được thể hiện ngay trong quá trình học tập của mỗi học sinh (lực
lượng sản xuất lớn của tương lai). Đây một quá trình lâu dài khó khăn, đòi
hỏi sự nỗ lực không mệt mỏi của mỗi học sinh. Điều này cho thấy quy luật thay
đổi từ sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất. Mỗi học sinh tự tích lũy
lượng kiến thức (kiến thức) của mình bằng cách nghe thầy giảng trên lớp, làm
bài tập, đọc sách tham khảo ... Kết quả của quá trình tích lũy này một bài kiểm
tra, một học kỳ s được đánh giá bằng kỳ thi. kỳ thi cuối kỳ. Một khi kiến thức
cần thiết đã được tích lũy, sinh viên sẽ được chuyển sang một nền giáo dục mới
cao hơn. Vì vậy, quá trình học tập và tích lũy kiến thức là một cấp độ, các bài kiểm
tra kỳ thi những điểm quan trọng, việc học sinh chuyển tiếp lên các cấp
học cao hơn một bước nhảy vọt. Trong suốt 12 năm học, học sinh phải thực
hiện nhiều bước nhảy khác nhau.
Trước hết bước nhảy để chuyển từ một học sinh trung học lên học sinh phổ
thông kỳ thi lên cấp 3 điểm nút, đồng thời cũng điểm khởi đầu mới
trong việc tích lũy lượng mới (tri thức mới) để thực hiện một bước nhảy cùng
quan trọng trong cuộc đời: vượt qua thi đại học để trở thành một sinh viên. Sau
khi thực hiện bước nhảy vọt về dược trên, các chất mới được hình thành trong
mỗi người tác dụng của chúng được phục hồi. Hiệu ứng này được thể hiện
trong cách suy nghĩ ứng xử của mỗi học sinh, các em đã trưởng thành
chín chắn hơn so với học sinh phổ thông. Và từ đây bắt đầu một quá trình tích lũy
số lượng mới (tích lũy kiến thức), khác hoàn toàn với quá trình tích lũy ở bậc trung
học hay phổ thông. Ngoài việc lên giảng đường tiếp thu bài giảng của giảng viên
thì chủ yếu tự học, khám phá tích lũy kiến thức, kiến thức sách vở, cũng
như kiến thức hội từ việc làm thêm sinh hoạt câu lạc bộ. Sau khi tích lũy đủ
số tiền, học sinh sẽ có bước nhảy vọt tiếp theo. Đây bước quan trọng nhất trong
cuộc đời. Đó về việc lấy bằng cử nhân vượt qua kỳ thi cuối cùng để tìm
việc làm.
Bên cạnh đó, chúng ta không thphủ nhận được vai trò to lớn của quá trình toàn
cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với sự phát triển của xã hội
loài người, đặc biệt đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển
đó, một mặt, cung cấp những bằng chứng thuyết phục để chúng ta tiếp tục khẳng
định những giá trị đúng đắn, bền vững của chủ nghĩa Mác; mặt khác, cũng đặt ra
yêu cầu cần phải bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác nói chung và quan điểm của C.
Mác về quy luật lượng chất nói riêng. Việc bsung, phát triển đó không phải
“xét lại” chủ nghĩa Mác, cũng không phải làm lu mờ chân giá trị của chủ nghĩa
Mác, làm cho những nội dung, quan điểm của chủ nghĩa Mác thêm sức
sống mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của giai đoạn hiện nay. Đó việc
làm hết sức khó khăn, đòi hỏi những người mác-xít phải kiên trì, có bản lĩnh
trách nhiệm với hthống luận cách mạng khoa học được coi nền tảng
tưởng của Đảng ta hiện nay.
KẾT LUN
vậy lượng chất hai mặt của sự kết hợp biện chứng của sự vật, những
thay đổi về chất chỉ xảy ra khi lượng được tích tụ mức độ nào đó, chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, tích lũy dần dần sự chú ý đến lượng thì phải trả giá cho sự thay đổi
trong khi biết nhảy theo cả nhận thức khoa học biết nhảy ngay khi điều
kiện. Với tất cả sinh viên của chúng ta, chúng ta phải luôn tốt nghiệp phấn
đấu để đạt được bước tiến nhảy vọt đó. Bạn cần phải thu thập đủ tín chỉ cho mỗi
môn học. Mỗi lớp phải vượt qua đủ các bài kiểm tra để ghi danh vào nghiên cứu
sâu hơn. Ngoài ra, họ cần tham gia các hoạt động xã hội, học hỏi giao tiếp xây
dựng các mối quan hệ. Những người thành công trở thành triệu phú luôn học hỏi
được nhiều điều tcuộc sống hơn từ trường học. vậy, việc xây dựng một
hình học tập tốt cố gắng thay đổi “phẩm chất” của mỗi chúng ta việc làm cần
thiết và cấp bách trong quãng đời sinh viên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 1996;
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2001;
3. Giáo trình Những nguyên bản của ch nghĩa Mác nin
(Giành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác nin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh), Bộ Giáo dục và đào tạo, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia,
2009;
4. Giáo trình Triết học Mác nin, (Dùng trong các trường Đại học
cao đẳng), Bộ Giáo dục và đào tạo, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, 2008;
5. Bộ giáo dục đào tạo, Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005;
6. PGS.TS Trần Văn Phòng chủ biên, Nguyễn Thế Kiệt, Hỏi đáp môn
Triết học Mác-nin, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2005;
7. TS. Phạm Văn Sinh chủ biên, Ngân hàng câu hỏi thi kiểm tra môn
Những nguyên bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (Dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ thi kiểm tra cho các trường đại học, cao đẳng), Nxb Chính trị quốc gia,
năm 2013;
8. Quy luật lượng chất:

Preview text:

Contents
LỜI MỞ ĐẦU. ......................................................................................... 3
LỜI CẢM ƠN. .......................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: QUY LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ
LƯỢNG THÀNH NHỮNG SỰ THAY Đ VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI. 6
1.1.Các khái niệm. ................................................................................... 6
1.1.1.Khái niệm về chất. .......................................................................... 6
1.1.2.Khái niệm về lượng. ....................................................................... 6
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất. ............................. 7
1.2.1. Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất ...................... 7
1.2.2. Sự thay đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về lượng ...................... 8
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận. .............................................................. 9
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT VÀO QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY ................................................................................................... 10
KẾT LUẬN. ............................................................................................ 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO. ........................................................................ 13 LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc sống luôn thay đổi và con người cũng phải thay đổi để thích nghi với
những hoàn cảnh mới. Thế giới đang thay đổi nhanh chóng, hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng. Để thích ứng với xu thế này, mỗi chúng ta phải có nội lực đủ
mạnh, bản lĩnh vững vàng để hội nhập tốt, để đất nước sánh vai cùng bạn bè quốc
tế. Quy luật tự nhiên, quy luật xã hội và quy luật tư tưởng của con người đều mang
tính khách quan. Con người không thể tùy ý tạo ra hay xóa bỏ bó luật này mà chỉ
có thể nhận thức và áp dụng chúng vào thực tế. Quy luật “từ sự thay đổi về lượng
thành sự thay đổi về chất và ngược lại” là một trong ba quy luật của phép biện
chứng duy vật, quy luật này chỉ rõ con đường vận động và phát triển. Quy luật
chuyển hóa giữa lượng và chất, chất là quy luật phổ biến cơ bản của đường lối vận
động, phát triển chung của tự nhiên, xã hội và
tư tưởng. Khi lượng thay đổi tất yếu sẽ làm thay đổi chất của sự vật, hiện tượng và
ngược lại, khi chất thay đổi sẽ tạo nên những biến đổi mới về lượng của sự vật,
hiện tượng. Đây là quy luật tất yếu, khách quan, phổ biến của sự vật, hiện tượng
trong mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Chính vì vậy, em lựa chọn đề tài: “Quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về
lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại. Vận dụng quy luật này vào
quá trình xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay” làm tiểu
luận nghiên cứu, đồng thời có cái nhìn khách quan và đánh giá đúng đắn hơn về vấn đề này. LỜI CẢM ƠN
“Để hoàn thành tiểu luận này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu trường… ... vì đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất với hệ
thống thư viện hiện đại, đa dạng các loại sách, tài liệu thuận lợi cho việc tìm kiếm, nghiên cứu thông tin.
Xin cảm ơn giảng viên bộ môn ..... đã giảng dạy tận tình, chi tiết để em có
đủ kiến thức và vận dụng chúng vào bài tiểu luận này.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm làm để tài cũng như những hạn chế về kiến
thức, trong bài tiểu luận chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được sự nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía… để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Lời cuối cùng, em xin kính chúc…nhiều sức khỏe, thành công và hạnh phúc”.
CHƯƠNG 1: QUY LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ
LƯỢNG THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI 1.1. Các khái niệm 1.1.1. Khái niệm về chất
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà
không phải là cái khác. Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn
có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó,
phân biệt nó với sự vật hiện tượng.
Mọi sự vật, hiện tượng đều được cấu thành bởi những thuộc tính khách quan
vốn có của chúng và những thuộc tính này là cơ sở để chúng ta phân biệt các sự
vật, hiện tượng. Ví dụ, một cái bàn có các đặc tính phân biệt nó với một cái ghế.
Tuy nhiên, khái niệm thực thể không thể được đánh đồng với khái niệm thuộc tính.
Mọi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không bản chất. Chỉ
những thuộc tính cơ bản mới cấu thành chất của sự vật, hiện tượng. Theo mối
quan hệ cụ thể có thể phân biệt rõ thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.
Chất lượng của sự vật, hiện tượng không chỉ phụ thuộc vào thành phần cấu tạo của
chúng mà còn phụ thuộc vào cấu trúc và cách thức chúng liên kết với nhau.
Ví dụ: Nguyên tố Đồng (Cu) có nguyên tử lượng là 63,54đvC, nhiệt độ nóng chảy
là 1083, nhiệt độ sôi là 2880 độ C… Những thuộc tính (tính chất) này nói lên chất
riêng của đồng, phân biệt nó với các kim loại khác. 1.1.2. Khái niệm về lượng
Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng
như các thuộc tính của nó. Khái niệm lượng dùng để chỉ những quy định khách quan
vốn có của sự vật: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô tồn tại, tốc độ, nhịp điệu
của sự vận động và phát triển của sự vật. Với khái niệm này cho thấy một vật có thể tồn tại
với nhiều số lượng khác nhau, được xác định bằng các phương thức khác nhau phù
hợp với từng loại lượng của cụ thể của sự vật.
Ví dụ: Số lượng sinh viên học tinh luyện định của một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp đó. 1.2.
Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất 1.2.1.
Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội cũng như sự phát
triển của nhận thức, tư duy của con người đều từ mức độ tích lũy dần dần biến đổi,
vượt quá giới hạn đến mức diệt vong, dẫn đến sự thay đổi cơ bản về phẩm chất.
Cái cũ biến mất và cái mới được sinh ra.
Sự thay đổi về lượng có thể xảy ra theo hai hướng: tăng hoặc giảm về lượng dẫn
đến thay đổi ngay hoặc thay đổi dần về chất. Vì vật chất là sự vật tương đối ổn
định và lượng là vật không ngừng biến đổi nên khi lượng của sự vật thay đổi thì
một giới hạn nhất định chưa làm cho chất lượng của nó thay đổi. Giới hạn này
được gọi là độ. Độ là một phạm trù triết học, dùng để chỉ khoảng giới hạn mà sự
thay đổi về lượng của sự vật không làm thay đổi cơ bản tính chất của sự vật đó.
Mức độ là mối quan hệ giữa lượng và chất của sự vật, phản ánh sự thống nhất giữa
chất và lượng của sự vật. Ở mức độ, mọi thứ vẫn là những gì chúng vốn có, chưa
được biến đổi thành một cái gì đó khác.
Sự vận động, biến đổi của các sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi của
lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ dẫn đến sự thay đổi cơ
bản về chất. Giới hạn này là nút. Nút là một phạm trù triết học đề cập đến một
điểm mà sự thay đổi về lượng là đủ để thay đổi chất lượng của một cái gì đó. Tích
lũy đủ số lượng nội dung trên một nút sẽ khiến vật chất mới của nó được sinh ra.
Số lượng mới và chất lượng mới của sự vật kết hợp với nhau tạo nên tính mới và điểm nút mới của
sự vật. Quá trình này xảy ra liên tục trong sự vật, vì vậy sự vật luôn phát triển miễn
là chúng tồn tại. VD: 0 độ C và 100 độ C là yếu tố nút để nước chuyển sang
trạng thái rắn hoặc trạng thái khí (bay hơi).
Sự thay đổi về lượng khi đến nút, trong những điều kiện nhất định, tất yếu sẽ dẫn
đến sự ra đời của chất mới. Là bước nhảy trong sự vận động và phát triển của các
sự vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự thay đổi tất yếu trong quá trình phát triển của
sự vật, hiện tượng. Những thay đổi về chất xảy ra dưới nhiều hình thức nhảy vọt
khác nhau, nó được xác định bởi mâu thuẫn, bản chất và điều kiện của sự vật. Đó
là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn và nhỏ, từng phần và toàn bộ, tự phát và tự
giác ... Bước nhảy là sự kết thúc của một giai đoạn vận động và phát triển; đồng
thời là sự khởi đầu của một giai đoạn mới, của sự vật và hiện tượng Sự gián đoạn
và các quá trình phát triển trong quá trình chuyển động. Trên thế giới luôn có
những bước nhảy vọt về số lượng và chất lượng, tạo ra những đường nút vô tận.
chỉ ra sự vận động và phát triển của sự vật từ thấp đến cao. Ph. Ăngghen khái quát
tính tất yếu này: “Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định
sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất”. 1.2.2.
Sự thay đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về lượng
Chất mới của sự vật chỉ xuất hiện khi sự thay đổi về lượng đến thời điểm tới hạn,
khi sự vật mới ra đời có chất mới và với lượng mới phù hợp, tạo nên sự thống nhất
mới về lượng và chất thì chất mới tác động trở lại. Lượng khách mới đến được
biểu hiện trên quy mô tồn tại của nhịp điệu vận động. Khi một chất mới ra đời, nó
phản ứng với một lượng mới, làm thay đổi cấu trúc, quy mô và nhịp điệu của các
yếu tố sinh trưởng của các yếu tố vật chất.
Mọi sự vật hiện tượng dều vận động, phát triển bằng cách thay đổi dần về lượng,
lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì
diễn ra bước nhảy, tạo sự thay đổi về chất của sự vật. Kết quả là sự vật cũ, chất cũ
mất đi và sự vật mới, chất mới ra đời. Chất mới lại tác động trở lại lượng mới,
lượng mới lại tiếp tục thay đổi dần, đến lúc nào đó, vượt quá độ tồn tại của sự vật
tới điểm nút thì lại diễn ra bước nhảy tạo sự thay đổi về chất, cứ như vậy sự tác
động qua lại giữa hai mặt chất và lượng tạo ra con đường vận động, phát triển
không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Trong năm học bạn không ngừng tích lũy kiến thức, đó gọi là lượng.
Trong khi đó bạn vẫn là học sinh lớp 10, tức là chất chưa đổi chỉ có lượng đổi.
Lượng tích lũy đến khi thi cuối năm (điểm nút) bạn lên lớp 11 thì chất đã thay đổi. 1.3.
Ý nghĩa phương pháp luận
Sự vận động và phát triển của sự vật luôn diễn ra bằng cách tích lũy dần về
lượng đến một giới hạn nhất định và có bước nhảy vọt về chất. Vì vậy, trong hoạt
động tri giác thực tế, lượng được tích lũy theo từng giai đoạn để gây ra những
biến đổi về chất theo quy luật tránh tư duy chủ quan. Các hoạt động thực hành
phải được tổ chức dựa trên sự hiểu biết đúng đắn về vị trí, vai trò và tầm quan
trọng của sự thay đổi về lượng và chất đối với sự phát triển xã hội. Chúng ta cần
biết kịp thời làm thế nào để chuyển từ định lượng sang định tính và tiến hóa
thành cách mạng. Để hoạch định chiến lược và chiến thuật cách mạng, chúng ta
phải xem xét diễn biến và cách mạng trong mối quan hệ biện chứng của chúng.
Nhận thức đúng đắn về mối quan hệ này sẽ giúp chúng ta nhìn nhận một cách
nghiêm túc về chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa tả khuynh.
Cần phải linh hoạt trong việc điều chỉnh hình thức nhảy phù hợp với hoàn cảnh
của mình. Đặc biệt trong xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều
kiện khách quan mà còn phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người. Vì vậy, cần
tăng cường tính năng động, chủ động của chủ thể để tạo điều kiện chuyển đổi từ số
lượng sang chất lượng một cách hiệu quả nhất.
Cần tránh hai khuynh hướng sau: Thứ nhất, nôn nóng tả khuynh: Đây là việc mà
một cá nhân không kiên trì và nỗ lực để có sự thay đổi về lượng nhưng lại muốn có
sự thay đổi về chất; Thứ hai, bảo thủ hữu khuynh: Lượng đã được tích lũy đến mức
điểm nút nhưng không muốn thực hiện bước nhảy để có sự thay đổi về chất.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT VÀO QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, đặc biệt là Internet, khoa
học nói chung và tri thức nói riêng được lan truyền nhanh chóng, gần như tức thời,
với nhiều sự kiện khoa học trên khắp thế giới. Dòng kiến thức, công nghệ và
vốn đang chảy khắp thế giới với tốc độ nhanh chưa từng thấy. Các thành phần
riêng lẻ của một sản phẩm được sản xuất ở nhiều nơi trên thế giới và được lắp ráp và phân phối ở các
quốc gia khác nhau để đạt hiệu quả tối đa. Vì vậy, sản xuất ra năng suất hiện đại
không còn là sản phẩm lao động độc quyền quốc gia nữa mà là sản phẩm toàn cầu.
Do đó, năng suất hiện đại đang trở thành nhân tố chính thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa. Đây
là một đặc điểm mới chỉ có trong năng suất hiện đại, nhưng năng suất sơ khai
không tồn tại hoặc chỉ tồn tại trong một khuôn khổ hẹp. Ở thời của C. Mác, ông
mô tả xu hướng phát triển tất yếu của sản xuất là “xây dựng các mối quan hệ trên
thế giới”, nhưng thực tế ông không đề cập đến vấn đề toàn cầu hóa sản xuất. Vì
vậy, ý nghĩa của thuật ngữ này cần được mở rộng ra ngoài phạm vi các nước sản
xuất vật chất, đặc biệt là tiếp tục vận dụng quan điểm của C. Mác về quy luật
lượng và chất, năng suất nói chung. Không chỉ trong sản xuất vật chất trên toàn thế giới.
Quy luật này còn được thể hiện ngay trong quá trình học tập của mỗi học sinh (lực
lượng sản xuất lớn của tương lai). Đây là một quá trình lâu dài và khó khăn, đòi
hỏi sự nỗ lực không mệt mỏi của mỗi học sinh. Điều này cho thấy quy luật thay
đổi từ sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất. Mỗi học sinh tự tích lũy
lượng kiến thức (kiến thức) của mình bằng cách nghe thầy cô giảng trên lớp, làm
bài tập, đọc sách tham khảo ... Kết quả của quá trình tích lũy này là một bài kiểm
tra, một học kỳ sẽ được đánh giá bằng kỳ thi. và kỳ thi cuối kỳ. Một khi kiến thức
cần thiết đã được tích lũy, sinh viên sẽ được chuyển sang một nền giáo dục mới
cao hơn. Vì vậy, quá trình học tập và tích lũy kiến thức là một cấp độ, các bài kiểm
tra và kỳ thi là những điểm quan trọng, và việc học sinh chuyển tiếp lên các cấp
học cao hơn là một bước nhảy vọt. Trong suốt 12 năm học, học sinh phải thực
hiện nhiều bước nhảy khác nhau.
Trước hết là bước nhảy để chuyển từ một học sinh trung học lên học sinh phổ
thông và kỳ thi lên cấp 3 là điểm nút, đồng thời nó cũng là điểm khởi đầu mới
trong việc tích lũy lượng mới (tri thức mới) để thực hiện một bước nhảy vô cùng
quan trọng trong cuộc đời: vượt qua kì thi đại học để trở thành một sinh viên. Sau
khi thực hiện bước nhảy vọt về dược lý trên, các chất mới được hình thành trong
mỗi người và tác dụng của chúng được phục hồi. Hiệu ứng này được thể hiện
trong cách suy nghĩ và ứng xử của mỗi học sinh, vì các em đã trưởng thành và
chín chắn hơn so với học sinh phổ thông. Và từ đây bắt đầu một quá trình tích lũy
số lượng mới (tích lũy kiến thức), khác hoàn toàn với quá trình tích lũy ở bậc trung
học hay phổ thông. Ngoài việc lên giảng đường tiếp thu bài giảng của giảng viên
thì chủ yếu là tự học, khám phá và tích lũy kiến thức, kiến thức sách vở, cũng
như kiến thức xã hội từ việc làm thêm và sinh hoạt câu lạc bộ. Sau khi tích lũy đủ
số tiền, học sinh sẽ có bước nhảy vọt tiếp theo. Đây là bước quan trọng nhất trong
cuộc đời. Đó là về việc lấy bằng cử nhân và vượt qua kỳ thi cuối cùng để tìm việc làm.
Bên cạnh đó, chúng ta không thể phủ nhận được vai trò to lớn của quá trình toàn
cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với sự phát triển của xã hội
loài người, đặc biệt là đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển
đó, một mặt, cung cấp những bằng chứng thuyết phục để chúng ta tiếp tục khẳng
định những giá trị đúng đắn, bền vững của chủ nghĩa Mác; mặt khác, cũng đặt ra
yêu cầu cần phải bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác nói chung và quan điểm của C.
Mác về quy luật lượng chất nói riêng. Việc bổ sung, phát triển đó không phải là
“xét lại” chủ nghĩa Mác, cũng không phải là làm lu mờ chân giá trị của chủ nghĩa
Mác, mà là làm cho những nội dung, quan điểm của chủ nghĩa Mác có thêm sức
sống mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của giai đoạn hiện nay. Đó là việc
làm hết sức khó khăn, đòi hỏi những người mác-xít phải kiên trì, có bản lĩnh và có
trách nhiệm với hệ thống lý luận cách mạng và khoa học được coi là nền tảng tư
tưởng của Đảng ta hiện nay. KẾT LUẬN
Vì vậy lượng và chất là hai mặt của sự kết hợp biện chứng của sự vật, những
thay đổi về chất chỉ xảy ra khi lượng được tích tụ ở mức độ nào đó, chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, tích lũy dần dần sự chú ý đến lượng thì phải trả giá cho sự thay đổi
trong khi biết nhảy theo cả nhận thức khoa học và biết nhảy ngay khi có điều
kiện. Với tất cả sinh viên của chúng ta, chúng ta phải luôn tốt nghiệp và phấn
đấu để đạt được bước tiến nhảy vọt đó. Bạn cần phải thu thập đủ tín chỉ cho mỗi
môn học. Mỗi lớp phải vượt qua đủ các bài kiểm tra để ghi danh vào nghiên cứu
sâu hơn. Ngoài ra, họ cần tham gia các hoạt động xã hội, học hỏi giao tiếp và xây
dựng các mối quan hệ. Những người thành công trở thành triệu phú luôn học hỏi
được nhiều điều từ cuộc sống hơn là từ trường học. Vì vậy, việc xây dựng một mô
hình học tập tốt và cố gắng thay đổi “phẩm chất” của mỗi chúng ta là việc làm cần
thiết và cấp bách trong quãng đời sinh viên. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 1996; 2.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2001; 3.
Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin
(Giành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác – Lê nin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh), Bộ Giáo dục và đào tạo, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, 2009; 4.
Giáo trình Triết học Mác – Lê nin, (Dùng trong các trường Đại học
cao đẳng), Bộ Giáo dục và đào tạo, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, 2008; 5.
Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; 6.
PGS.TS Trần Văn Phòng chủ biên, Nguyễn Thế Kiệt, Hỏi – đáp môn
Triết học Mác-Lênin, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2005; 7.
TS. Phạm Văn Sinh chủ biên, Ngân hàng câu hỏi thi kiểm tra môn
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (Dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ thi kiểm tra cho các trường đại học, cao đẳng), Nxb Chính trị quốc gia, năm 2013; 8.
Quy luật lượng – chất: