Tiểu luận cuối kì | Kinh Tế Chính Trị Mác - Lênin | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
"Tiểu luận cuối kì" là một phần quan trọng của môn học "Kinh Tế Chính Trị Mác - Lênin" tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Trong phần này, sinh viên sẽ được yêu cầu thực hiện một bài tiểu luận với nội dung liên quan đến các khía cạnh của chủ đề Mác - Lênin đã học trong suốt kỳ học. Bài tiểu luận này thường đòi hỏi sinh viên nắm vững kiến thức lý thuyết, có khả năng áp dụng vào thực tế, và đưa ra quan điểm, phân tích, hoặc giải thích các vấn đề được đặt ra. Qua việc thực hiện tiểu luận cuối kì, sinh viên có cơ hội tự chứng minh khả năng nghiên cứu, phân tích và suy luận của mình, đồng thời cũng là cơ hội để họ tự phát triển kiến thức và kỹ năng trong lĩnh vực kinh tế - chính trị. Mục tiêu của phần này là đánh giá khả năng hiểu biết và ứng dụng kiến thức của sinh viên, cũng như khả năng tự nghiên cứu và phân tích
Môn: Kinh tế chính trị Mác - Lênin (XH&NV-ĐHQGHCM)
Trường: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 41487147
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TÂM LÝ HỌC CHỦ ĐỀ:
TÍNH TẤT YẾU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN CỦA VIỆT NAM
Bộ môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin
Giảng viên hướng dẫn: Lê Văn Thông Nhóm 8
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2023 lOMoAR cPSD| 41487147
I. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế:
Vì quá trình toàn cầu hoá có mối liên hệ vô cùng chặt chẽ đến quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, nên trước khi thâm nhập và tìm hiểu
về hội nhập kinh tế quốc tế, ta cần sơ lược về khái niệm toàn cầu hoá.Không ít các học
giả đã cho rằng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã bắt đầu từ đầu thế kỷ XX.
Khái niệm Toàn cầu hóa: là quá trình tạo ra liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng
tăng giữa các quốc gia trên quy mô toàn cầu.
Toàn cầu hoá trong Kinh tế - Chính trị Mác-Lênin được hiểu là một quá trình mà các
quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển được liên kết chặt chẽ hơn với nhau
thông qua các quan hệ thương mại, tài chính, đầu tư và công nghệ. Ngoài ra, toàn cầu hóa
còn được coi là một phần của cuộc đấu tranh giữa các lực lượng kinh tế và chính trị trong
xã hội, và các quốc gia đang phát triển cần phải nắm bắt được cơ hội và thách thức từ quá
trình này để phát triển một cách bền vững và độc lập.
Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế: Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá
trình quốc gia đó thực hiện gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên
sự chia sẻ lợi ích, đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
II. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, với sự phát triển vượt bậc của các lực lượng sản
xuất cùng với sự ra đời của các nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình liên
kết, hợp tác giữa các quốc gia. Các quốc gia có nền kinh tế phát triển mạnh mở rộng thị
trường giao thương hàng hóa, đầu tư và chuyển giao công nghệ ra nước ngoài, đồng thời
tận dụng và khai thác được các nguồn lực từ bên ngoài (tài nguyên, lao động và thị
trường); từ đó gia tăng các ảnh hưởng kinh tế và chính trị của mình trên trường quốc tế.
Ngược lại, các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển hơn cũng thúc đẩy quá trình hợp
tác kinh tế với các nền kinh tế phát triển mạnh để từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất
nước. Ta có thể giải thích hội nhập kinh tế quốc tế là một vấn đề tất yếu khách quan qua các luận điểm sau: lOMoAR cPSD| 41487147
1. Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế. Xu thế
khách quan ấy có thể được minh chứng rõ qua các ví dụ sau:
a. Sự tăng trưởng của các tập đoàn đa quốc gia: Trong thời đại toàn cầu hoá, các tập
đoàn đa quốc gia như Coca-Cola, PepsiCo, Nike và McDonald's trở nên quan
trọng hơn đối với nền kinh tế toàn cầu. Những công ty này thường có quy mô lớn,
có thể tận dụng lợi thế của quy mô và các kinh nghiệm để sản xuất và tiêu thụ các
sản phẩm trên khắp thế giới.
b. Sự gia tăng của chuỗi cung ứng toàn cầu: Toàn cầu hoá kinh tế đã tạo ra một chuỗi
cung ứng quốc tế phức tạp, trong đó các sản phẩm và dịch vụ được sản xuất và
cung cấp bởi nhiều quốc gia khác nhau. Ví dụ, một sản phẩm iPhone của Apple có
thể được sản xuất ở Trung Quốc, lắp ráp ở Việt Nam và bán ra trên khắp thế giới.
Qua đó ta có thể thấy rõ sự liên kết và phụ thuộc giữa các nền kinh tế (ví dụ 2).
Toàn cầu hoá diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,... Ta có
thể đưa ra một số ví dụ như:
Chính trị: Tình hình chính trị thế giới đang trở nên phức tạp hơn do sự cạnh tranh
giữa các quốc gia trên nhiều mặt như kinh tế, quân sự, chính trị, văn hóa, tôn giáo
và địa lý. Toàn cầu hoá cũng đã tạo ra các diễn đàn quốc tế như Liên Hợp Quốc,
IMF và WTO để giải quyết các vấn đề chung của thế giới.
Văn hoá, xã hội: Với sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông, các
giá trị, phong cách sống và nghệ thuật của các quốc gia đang trở nên giống nhau
hơn. Ví dụ, văn hoá Mỹ và Châu Âu đang được lan truyền trên toàn cầu thông qua
phim ảnh, âm nhạc, thời trang, thực phẩm và hình ảnh giới trẻ.
Nhưng trong đó, toàn cầu hoá kinh tế là xu thế nổi bật nhất trong các phương diện toàn
cầu hoá bởi vì nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy toàn cầu hoá lOMoAR cPSD| 41487147
các lĩnh vực khác, một phần do nó ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của mỗi người dân
trên toàn cầu, đặc biệt là trong bối cảnh quan trọng của thị trường toàn cầu.
Toàn cầu hoá kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên
giới quốc gia, khu vực tạo nên sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận
động và phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất. Đó cũng là cơ sở và hệ
quả của việc sản sinh ra sự phát triển của các khu vực kinh tế đặc biệt trên khắp thế giới.
Ví dụ, các khu vực như Khu vực Tự do châu Á-Thái Bình Dương (FTAAP), Liên minh
châu Âu (EU), Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Đối tác
Kinh tế Xuyên Đại Tây Dương (TTIP) đang phát triển với mục tiêu tăng cường hợp tác
kinh tế giữa các quốc gia.
Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế trở thành tất yếu khách quan vì:
toàn cầu hoá kinh tế đã lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân công lao động quốc tế,
các mối liên hệ quốc tế của sản xuất và trao đổi ngày càng gia tăng, khiến cho nền kinh tế
của các nước trở thành một bộ phận hữu cơ và không thể tách rời của nền kinh tế toàn cầu.
Lấy ví dụ như sau: Samsung là một trong những tập đoàn điện tử lớn nhất thế giới và có
nhiều nhà máy sản xuất tại các quốc gia trên thế giới. Năm 2008, Samsung đặt nhà máy
sản xuất tại Bắc Ninh, Việt Nam để tận dụng lực lượng lao động giá rẻ ở đây. Nhà máy
này đã trở thành một trong những nhà máy sản xuất điện thoại thông minh của Samsung
quan trọng nhất trên thế giới.
Việc Samsung đặt nhà máy tại Việt Nam là một ví dụ cụ thể về việc toàn cầu hoá kinh tế
đã lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân công lao động quốc tế. Samsung đã chọn
đặt nhà máy tại Việt Nam để tận dụng lực lượng lao động giá rẻ và tận dụng cơ hội sản
xuất trong khu vực Đông Nam Á, nơi có sự phát triển mạnh mẽ của các quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ. lOMoAR cPSD| 41487147
Khi Samsung xây dựng nhà máy tại Việt Nam, họ không chỉ đầu tư vào vị trí địa
lý và sức lao động rẻ, mà còn phụ thuộc vào các nguồn cung ứng quốc tế để sản
xuất các linh kiện máy tính và điện thoại.
Chẳng hạn, một số chi tiết của điện thoại Samsung có thể được sản xuất ở các
quốc gia khác như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản hoặc Mỹ, sau đó được vận
chuyển đến Việt Nam để lắp ráp thành sản phẩm hoàn chỉnh. Việc này cho phép
Samsung tận dụng lợi thế về chi phí và sự đa dạng trong nguồn cung ứng, tăng
cường hiệu suất sản xuất và giảm chi phí.
Tuy nhiên, điều này cũng cho thấy rằng sự phụ thuộc vào các nguồn cung ứng
quốc tế và việc Samsung đặt nhà máy tại Việt Nam cũng cho thấy rằng sản xuất và
trao đổi ngày càng gia tăng giữa các nước trên thế giới đã khiến cho nền kinh tế
của các quốc gia trở thành một bộ phận hữu cơ và không thể tách rời của nền kinh
tế toàn cầu. Nếu các quốc gia không thể cung cấp được các linh kiện hoặc dịch vụ
cần thiết cho sản xuất của Samsung, hoặc không cạnh tranh được với các đối thủ
khác trên thị trường quốc tế, thì nền kinh tế của họ có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Trong toàn cầu hoá kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi toàn
cầu. Như samsung sẽ phụ thuộc vào các linh kiện từ các quốc gia khác hoặc việc nhà
máy được đặt ở nhiều nước khác, chứ không phải phụ thuộc hoàn toàn vào yếu tổ sản
xuất nội địa. Vì vậy nếu không hội nhập kinh tế quốc tế thì các nước không thể đảm
bảo được điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra
cơ hội để các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện ngày
càng nhiều tận dụng được các thành tựu của cách mạng công nghiệp, biến nó thành
động lực cho sự phát triển. Chứng minh cho điều này, ta có thể lấy ngành công
nghiệp sản xuất điện thoại di động tại Việt Nam năm 1990. Trước khi Việt Nam tham
gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngành công nghiệp này đang gặp khó khăn
trong việc sản xuất các linh kiện cần thiết như lOMoAR cPSD| 41487147
chip điện tử, màn hình LCD, các loại kim loại quý,... Bởi vì Việt Nam chưa phát
triển được công nghiệp sản xuất những linh kiện này, và nếu không được nhập
khẩu từ các quốc gia khác như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, thì sản xuất
điện thoại di động tại Việt Nam sẽ bị gián đoạn hoặc chất lượng sản phẩm sẽ
không đạt được tiêu chuẩn quốc tế.
Tuy nhiên, khi Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhờ vào
các thỏa thuận thương mại tự do và mối quan hệ kinh tế với các quốc gia khác,
ngành công nghiệp điện thoại di động tại Việt Nam đã có thể nhập khẩu linh kiện
từ các quốc gia khác và sản xuất các sản phẩm chất lượng cao đáp ứng được yêu
cầu của thị trường toàn cầu. Điều này đã tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người
dân Việt Nam, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
2. Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các
nước, nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
Đối mặt với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ
hội để tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học -
công nghệ, kinh nghiệm của các nước cho phát triển. Khi các nước tư bản giàu có
nhất, các công ty xuyên quốc gia đang nắm trong tay những nguồn lực vật chất và
phương tiện hùng mạnh nhất để tác động lên toàn thế giới thì chỉ có phát triển kinh
tế mở và hội nhập quốc tế, các nước đang và kém phát triển mới có thể tiếp cận
được những nguồn lực này cho quá trình phát triển của mình.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường có thể giúp cho các nước đang và kém phát
triển có thể tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước
tiên tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp mở cửa thị trường, thu hút vốn, thúc đẩy công
nghiệp hóa, tăng tích lũy; tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức thu
nhập tương đối của các tầng lớp dân cư. lOMoAR cPSD| 41487147
Nghĩa là, trong xu thế hiện nay làm nảy sinh nhu cầu hội nhập của tất cả quốc gia
dân tộc mà không phân biệt chế độ chính trị, không phân biệt nước lớn hay nước
nhỏ, nước phát triển hay nước đang phát triển, nước giàu hay nước nghèo nhưng
đặc biệt là những nước nghèo, kém và đang phát triển trong đó có Việt Nam càng
phải hội nhập. Đây không đơn giản là những nước giàu mạnh có thể không hội
nhập cùng các nước khác và các nước kém phát triển hơn thì càng phải cần nhiều
mối quan hệ mà xét cốt lõi trong nguyên tắc quan hệ kinh tế quốc tế, phải dựa trên
cơ sở lợi ích (đầu tiên là lợi ích kinh tế, sau là các lợi ích xã hội, chính trị,…), các
nước có điều kiện và tận dụng điều kiện để phát triển kinh tế. Những nước đang
phát triển sản xuất khối lượng vật chất khổng lồ, nếu không hội nhập kinh tế quốc
tế hoặc ít mở rộng các mối quan hệ với các nước thì không thể bán. Hội nhập kinh
tế quốc tế chính là xu thế chung của toàn thế giới. Đặc biệt các nước kém phát
triển càng phải tranh thủ, chủ động và tích cực hội nhập sâu và rộng bằng các hiệp
định thương mại tự do FTA, hiệp ước về kinh tế,...
Ví dụ như Việt Nam sử dụng chiến lược “Cái vòng luẩn quẩn” và “Cú huých từ
bên ngoài” của Samuelson, nếu không hội nhập thì sao có thể kêu gọi đầu tư từ
nước ngoài để phát huy tối đa và tác động đến chiến lược ấy. Nội dung học thuyết
“Cái vòng luẩn quẩn” đề cập 4 nhân tố ảnh hưởng và là nguồn gốc của tăng trưởng
kinh tế là: nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, tư bản và kỹ thuật. Samuelson
cho rằng bốn yếu tố này ở các nước đang phát triển đều khan hiếm nên việc khai
thác và vận dụng chúng vào thực tế gặp khó khăn trở ngại lớn, điều đó dẫn đến các
nước đang phát triển đều bị bó buộc trong cái “vòng luẩn quẩn” của sự đói nghèo
mà không thoát ra được. “Cái vòng luẩn quẩn” nghèo khổ có thể được biểu thị qua hình sau: lOMoAR cPSD| 41487147
Các quốc gia muốn đạt mức tăng trưởng kinh tế thì cần có một “cú huých từ bên
ngoài” như yếu tố về vốn, khoa học công nghệ hiện đại, chuyên gia,… trong đó thì
yếu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò là cú huých mang tính đột
phá quan trọng trong yếu tố tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, các nước đang phát triển
cần phải có đầu tư nước ngoài, phải tạo điều kiện thuận lợi để kích thích đầu tư
nước ngoài nhằm vực dậy và phát triển nền kinh tế bằng cách hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, điều cần chú ý ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về vốn và
công nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình toàn cầu hóa
thành quá trình tự do hóa kinh tế (là quá trình giảm bớt các quy định và hạn chế
của chính phủ trong một nền kinh tế để đổi lấy sự tham gia nhiều hơn của các thực
thể tư nhân) và áp đặt chính trị theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Điều này khiến cho
các nước đang và kém phát triển phải đối mặt với không ít rủi ro, thách thức, đó
là: gia tăng sự phụ thuộc do nợ nước ngoài, tình trạng bất bình đẳng trong trao đổi
mậu dịch – thương mại (là khái niệm dùng để chỉ hoạt động trao đổi hàng hoá trực
tiếp giữa các cá nhân hay nhóm người dưới hình thức hiện vật, hay gián tiếp thông
qua một phương tiện trung gian như tiền) giữa nước đang phát triển và phát triển.
Bởi vậy, các nước đang và kém phát triển cần phải có chiến lược hợp lý, tìm kiếm
các đối sách phù hợp để thích ứng với quá trình toàn cầu hóa đa bình diện và đầy nghịch lý.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình giữ cho việc cân bằng chiến lược
trong các mối quan hệ, vừa hợp tác vừa đấu tranh và đấu tranh giúp hợp tác tốt
hơn dựa trên phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá. Giữ vững độc lập, tự do
tùy thuộc rất lớn vào năng lực tự chủ của từng dân tộc, đó là năng lực chống lại
sức ép và ảnh hưởng từ bên ngoài, không bị lệ thuộc, chi phối hoặc không bị áp
đặt trong quá trình đưa ra các quyết định liên quan đến vận mệnh dân tộc. Tuy
nhiên, không thể nhận thức và đồng nhất quan điểm giữa độc lập, tự chủ với tư
duy và hành động đơn phương, một chiều. Độc lập, tự chủ cũng hoàn toàn không
phải là biệt lập, cô lập với cộng đồng quốc tế. Trái lại, việc một quốc gia rơi vào lOMoAR cPSD| 41487147
tình trạng bị bao vây, cô lập sẽ dẫn đến trì trệ, kém phát triển và cuối cùng sẽ
không bảo vệ được độc lập, tự chủ của mình. Trong lịch sử, Việt Nam đã từng phá
vây để vượt qua vị thế hiểm nghèo như vậy.
Vì thế, "trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, ngoại lực càng
trở nên quan trọng. Một nước đang phát triển ở trình độ thấp như nước ta muốn
vươn lên để theo kịp theo các nước, không thể coi nhẹ việc thu hút và sử dụng tốt
nhất ngoại lực. Muốn phát huy tốt ngoại lực, phải có một chiến lược phù hợp và
môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh, trước hết là có một hệ thống thể chế,
chính sách đồng bộ, một nền hành chính minh bạch, hiệu lực, hiệu quả"(1).
III. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến quá trình phát triển của Việt Nam
Từ định nghĩa đã nêu ở mục đầu tiên, ta dễ thấy được hai mặt tác động của việc
hội nhập kinh tế quốc tế. Một mặt, quá trình hội nhập tạo ra nhiều tác động tích
cực đối với quá trình phát triển của Việt Nam. Mặt khác cũng đưa đến nhiều thách
thức đòi hỏi phải vượt qua để thu được những lợi ích to lớn.
1. Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế:
Tạo điều kiện mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học - công nghệ, vốn, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong nước:
Từ khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường được mở rộng thúc đẩy thương mại
phát triển, từ đó tạo điều kiện cho các ngành sản xuất trong nước. Có thể thấy vào giai
đoạn đầu Đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%.
Trong các giai đoạn tiếp theo, tỷ lệ này được cải thiện đáng kể: Từ năm 1991 - 2019,
GDP bình quân tăng trưởng ổn định trong khoảng 6% - 8,2% trên năm. Năm 2020 do ảnh
hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, mức tăng GDP chỉ đạt 2,91% năm nhưng vẫn nằm
trong số ít các quốc gia có mức tăng trưởng cao nhất thế giới. lOMoAR cPSD| 41487147
BIỂU ĐỒ TĂNG TRƯỞNG GDP HÀNG NĂM CỦA VIỆT NAM
Song, tận dụng các lợi thế kinh tế nước ta trong phân công lao động quốc tế. Điển hình
là Việt Nam đang ở trong giai đoạn dân số vàng, tỉ lệ người lao động cao, việc hội nhập
phân công lao động quốc tế giúp giải quyết vấn đề việc làm trong nước và vấn đề nhân
lực ở nước ngoài. Từ đó, tạo tiền đề cho nước ta chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang
chiều sâu với hiệu quả cao.
Hội nhập kinh tế cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế (chuyển dịch
từ nền kinh tế nông lâm ngư nghiệp ngày càng chuyển sang nền kinh tế công nghiệp
xây dựng và dịch vụ): hình thành các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn để nâng cao hiệu quả và
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp trong nước. Có
thể kể đến là ngành du lịch cùng với các ngành công nghiệp năng lượng, chế biến thực lOMoAR cPSD| 41487147
phẩm,... ở nước ta từ khi hội nhập kinh tế quốc tế đến nay vẫn đang tiếp tục “sứ mệnh”
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần cải
thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó làm tăng khả năng thu hút khoa học - công
nghệ hiện đại và đầu tư bên ngoài vào nền kinh tế. Chúng ta có thể thấy tỷ lệ đầu tư của
các nước trong khu vực châu Á cũng như châu u tăng vọt trong thời gian qua:
Hội nhập làm tăng cơ hội cho doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế,
nguồn tín dụng cũng như các đối tác quốc tế. Việc tiếp cận, trao đổi và quan sát từ môi
trường quốc tế giúp doanh nghiệp trong nước có thể học hỏi, trau dồi kinh nghiệm, thay
đổi công nghệ sản xuất và tiếp cận phương thức quản trị phát triển. Hoa Kỳ và Anh đã áp
dụng mô hình quản trị cổ đông làm trung tâm, Đức và một số quốc gia châu Âu khác lại
áp dụng mô hình quản trị lấy các bên liên quan làm trung tâm. Hay mô hình Nhật Bản
được xây dựng dựa trên các mối quan hệ kinh doanh với các ngân hàng, khách hàng và
nhà cung cấp, tất cả đều ảnh hưởng tới các quyết định quản trị. Mô hình của Hàn Quốc
bắt nguồn từ cuộc chiến tranh Triều Tiên, trong khi mô hình của Trung Quốc phản ánh
một sự chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Mô hình của Ấn Độ
bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi lịch sử sở hữu gia đình. Còn rất nhiều các quốc gia khác nữa
mà khi nhìn vào nền quản trị doanh nghiệp ở Việt Nam ta dễ dàng thấy các nhà lãnh đạo
đã học hỏi, kế thừa và phát triển từ trên nền tảng vốn có và phù hợp với tình hình nước nhà.
Hội nhập quốc tế giúp cải thiện tiêu dùng trong nước: người dân có cơ hội trải
nghiệm nhiều chủng loại sản phẩm đến từ các quốc gia khác nhau với giá cả cạnh
tranh. Điển hình như các cửa hàng Starbucks, các hãng xe,... hay các sản phẩm ở cửa
hàng tiện lợi. Điều này giúp người dân tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới, từ đó
có cơ hội tìm kiếm việc làm cả trong lẫn ngoài nước. lOMoAR cPSD| 41487147
Tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế
phát triển của thế giới để xây dựng, điều chỉnh chiến lược phát triển hợp lý, đề ra chính
sách phát triển phù hợp cho đất nước.
Xét trên điều kiện kinh tế - chính trị toàn cầu trong thời gian gần đây, những xu thế và
nhân tố chi phối sự chuyển dịch kinh tế cần được đề cập nhằm xây dựng đường lối phát triển phù hợp:
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhấn mạnh vào những tiến bộ trong công nghệ
kỹ thuật số, như: trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, cơ sở dữ liệu lớn, Internet kết nối
vạn vật, robots, công nghệ in 3 chiều, công nghệ nano, công nghệ sinh học, lưu trữ năng
lượng,.. đem đến sự thay đổi vượt bậc cho chất lượng cuộc sống, việc làm và sản xuất, kinh doanh.
Các hiệp định tự do thương mại (FTA)
Những biến động để lại hệ quả kéo dài trên thế giới nói chung, có thể kể đến: xung đột
giữa Nga và Ukraine gây ảnh hưởng tiêu cực với châu u và các nước có thu nhập thấp
(khiến cho giá nhiên liệu và lương thực tăng cao); khó khăn về nợ gây áp lực lên các
nước có thu nhập thấp; sự phân mảnh địa chính trị, cuộc xung đột ở Ukraine và các biện
pháp trừng phạt quốc tế đang chia rẽ nền kinh tế thế giới thành các khối và làm gia tăng
căng thẳng địa chính trị, cản trở quá trình thương mại giữa các quốc gia.
Dựa trên những quan sát đó, các nhà hoạch định chính sách có thể thực hiện chức năng
dự đoán, điều hướng sao cho kinh tế nước nhà vừa tận dụng xu thế của thời đại để củng
cố cho mô hình phát triển bền vững, vừa giảm thiểu tối đa áp lực, tác động từ các nhân tố gây thất thiệt.
Tạo cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học - công nghệ quốc gia thông
qua việc đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước.
Thông qua việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trong khu vực và thế giới, Việt
Nam đã tiếp thu được khoa học - công nghệ mới và cách quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh
vực: kinh tế, kỹ thuật, văn hóa - xã hội,… góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao lOMoAR cPSD| 41487147
năng lực cạnh tranh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh,… Bên cạnh đó, hội nhập quốc
tế cũng đã góp phần đào tạo cho Việt Nam có được đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ
và năng lực cả về chuyên môn lẫn quản lý.
Tạo điều kiện để thúc đẩy hội nhập của các lĩnh vực văn hóa, chính trị, củng cố an ninh - quốc phòng:
Hội nhập là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếp thu những giá trị tinh
hoa thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế giới để làm
giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội (LGBT).
Không dừng lại ở đó, việc hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho cải cách toàn diện
hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hội mở, dân chủ, văn minh.
Tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế,
nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của nước ta trong các tổ chức chính trị, kinh
tế toàn cầu.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định
ở khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế, xã hội đồng thời mở ra khả
năng phối hợp ác nỗi lực và nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan
tâm chung như: môi trường, biến đổi khí hậu, phòng chống tội phạm và buôn lậu quốc tế.
Có thể thấy từ tháng 6/2014, Việt Nam đã chính thức cử lực lượng tham gia hoạt động
gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Tính đến tháng 8/2020, Việt Nam đã cử 50 lượt sĩ
quan tham gia các phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Cộng hòa Trung phi và
Nam Xu đăng; đã tổ chức triển khai 2 bệnh viện dã chiến cấp 2 mỗi bệnh viện gồm 63
quân nhân tại phái bộ Nam Xu đãng và đang tích cực chuẩn bị Đội công binh để triển
khai tới phái bộ theo yêu cầu của Liên hợp quốc. lOMoAR cPSD| 41487147
2. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh
nghiệp và ngành kinh tế của nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí phá sản,
gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế - xã hội. Thách thức lớn và trực diện nhất là
sức ép cạnh tranh gay gắt hơn trên cả ba cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Các
sản phẩm và doanh nghiệp của ta sẽ phải cạnh tranh với sản phẩm và doanh nghiệp nước
ngoài không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay trên thị trường nội địa. Chính phủ ta phải
cạnh tranh với chính phủ các nước trong cải thiện môi trường thu hút đầu tư, nguồn nhân
lực… Các lĩnh vực kinh tế vốn được bảo hộ bị thách thức gay gắt do việc cắt giảm thuế
quan, như ngành sản xuất ô-tô, mía đường, gạo, xăng dầu…
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam
nói chung còn thấp, chịu sức ép cạnh tranh lớn từ phía doanh nghiệp nước ngoài, dẫn đến
một số ngành trong nước bị ảnh hưởng do tác động của việc mở cửa thị trường, nhập
khẩu tăng mạnh. Sự cạnh tranh, đặc biệt là cả các sản phẩm công nghiệp còn thấp, Việt
Nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát triển các thị trường mới trong điều
kiện nhiều nước đang phát triển cùng chọn chiến lược tăng cường hướng về xuất khẩu
nên sẽ bị áp lực cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia
vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động
khôn lường về chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế. Năm 2019, thương mại quốc tế
bị ảnh hưởng đáng kể bởi căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc, xung đột thương mại
ở nhiều khu vực trên thế giới, sự suy giảm tương ứng của nhiều nền kinh tế... Các năm
2020 - 2021, dịch bệnh COVID-19 bùng phát và lan rộng toàn cầu, hoạt động thương mại
bị xáo trộn chưa từng có tiền lệ. Diễn biến dịch bệnh, chính sách giãn cách xã hội, các lOMoAR cPSD| 41487147
quyết định đóng cửa tạm thời nền kinh tế, đứt gãy chuỗi sản xuất và vận tải… là những
yếu tố bất thường, tác động trực tiếp tới hoạt động thương mại.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng về lợi ích và rủi
ro cho các nước, các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng
khoảng cách giàu – nghèo và bất bình đẳng xã hội. Trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, các nước đang phát triển như nước ta phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài
nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có vị trí bất lợi và thua thiệt
trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, dễ trở thành bãi thải công nghiệp và công nghệ thấp,
bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường ở mức độ cao.
Với xu thế chuyển dịch lao động giữa các nước tham gia Hiệp định thương mại tự do
(FTA), thách thức đối với các cơ quan, doanh nghiệp, hiệp hội, người lao động trong
nước là sức ép về trình độ, tri thức và tay nghề, nguy cơ tranh chấp quốc tế (các FTA mới
có quy định cao về giải quyết tranh chấp)… Trong khi lực lượng lao động nước ta chưa
qua đào tạo còn chiếm tỉ trọng lớn, số lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao
còn thiếu; Đội ngũ cán bộ, công chức nước ta thiếu và hạn chế về năng lực hội nhập;
thiếu đội ngũ luật sư giỏi để giải quyết các tranh chấp thương mại và tư vấn cho các doanh nghiệp.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực nhà nước,
chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và
ổn định trật tự, an toàn xã hội. Hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên số khiến gia tăng
thách thức về bảo đảm an ninh quốc gia và bảo vệ, giữ vững chủ quyền lãnh thổ. Nguy cơ
an ninh mạng đối với các quốc gia ngày càng tăng, với thiệt hại năm 2021 từ tấn công
mạng lên tới hơn 4% GDP toàn cầu. Các thách thức về quốc phòng, an ninh gia tăng do
sự phát triển của các vũ khí, khí tài thế hệ mới tích hợp công nghệ số, nhất là trí tuệ nhân
tạo (AI)... Việc các nước tiến hành chiến dịch thông tin giả để chống phá, can thiệp lẫn
nhau, làm gia tăng rủi ro về mức độ và quy mô bất ổn xã hội. Phương Tây, Nga và Trung lOMoAR cPSD| 41487147
Quốc ngày càng khác biệt về thúc đẩy chủ quyền quốc gia không gian mạng hay duy trì
không gian mạng tự do và mở.
Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống Việt
Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài. Sự xâm lăng văn hóa từ
nước ngoài dường như phổ biến hơn và các phương thức xâm lăng thậm chí còn đa dạng
hơn. Trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), một số
hiệp định thương mại tự do (FTA) của thế hệ mới và xu hướng của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, sự phát triển mạnh của mạng điện tử, mạng xã hội, sẽ ngày càng có
nhiều thiết bị thông minh kết nối mạng. Do đó, lĩnh vực của xâm lăng văn hóa ngày càng
rộng và các phương thức tác động ngày càng đa dạng, thay đổi.
Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu,
tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
Theo đánh giá của Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm Liên hợp quốc (UNODC),
Việt Nam hiện là một trong những nước có an ninh tốt nhất toàn cầu. Tình hình tội phạm
nước ta ở mức độ trung bình so với thế giới và khu vực Ðông-Nam Á nhưng vẫn còn
diễn biến phức tạp, với trung bình hơn 80.000 vụ phạm tội mỗi năm. Ðã xuất hiện các
loại tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, có tính quốc tế như buôn bán phụ nữ, trẻ em ra
nước ngoài, rửa tiền, lừa đảo quốc tế, khủng bố, bắt cóc con tin, tội phạm người nước
ngoài ở Việt Nam, tội phạm người Việt ở nước ngoài... Lĩnh vực kinh tế xuất hiện các
loại tội phạm phi truyền thống như rửa tiền, tiền giả, buôn lậu, tham nhũng xuyên quốc
gia, tội phạm môi trường, hối lộ, lừa đảo kinh tế quốc tế. Tội phạm ma túy cũng phát sinh
phương thức, thủ đoạn phạm tội phi truyền thống như sử dụng công nghệ cao để buôn
bán ma túy, buôn lậu ma túy trên biển, đường không, đường bưu điện.
=> Tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức trong hội nhập kinh tế là vấn đề cần phải đặc biệt coi trọng. lOMoAR cPSD| 41487147
TÀI LIỆU THAM KHẢO: