lOMoARcPSD| 61830286
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG
KHOA XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
- - - - - - - - - - - -
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
MỐI QUAN HỆ GIỮA THẦN ĐẠO
PHẬT GIÁO Ở NHẬT BẢN TRONG THỜI
KỲ EDO
(1603 1868)
Giáo viên hưỡng dẫn: TS. Dương Ngọc Phúc
Nhóm thực hiện: Nhóm 7
Lớp : 23171SCIE10012
TP. HỒ CHÍ MINH - năm 2023
lOMoARcPSD|61830286
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THẦN ĐẠO VÀ PHẬT GIÁO Ở NHẬT BẢN..............3
1.1. Khái niệm và đặc điểm về Thần đạo và Phật giáo.....................................................3
1.1.1. Khái
niệm.............................................................................................................3
1.1.2. Đặc
điểm..............................................................................................................5
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển qua các thời kỳ.......................................................7
1.2.1. Lịch sử hình
thành...............................................................................................7
1.2.2. Quá trình phát
triển............................................................................................14
Tiểu kết chương 1............................................................................................................35
CHƯƠNG 2. MỐI QUAN HỆ GIỮA THẦN ĐẠO VÀ PHẬT GIÁO Ở THỜI KỲ EDO
(1603 1868).....................................................................................................................38
2.1. Bối cảnh lịch sử trong thời kỳ Edo (1603 1868)...................................................38
2.1.1. Bối cảnh kinh
tế.................................................................................................39
2.1.2. Bối cảnh
hội..................................................................................................44
2.1.3. Bối cảnh văn
hóa...............................................................................................50
2.2. Sự hoà hợp giữa Thần đạo và Phật giáo...................................................................53
2.2.1. Tín ngưỡng Thần Phật tập hợp (Shinbutsushugo –
神神神神).............................54
2.2.2. Giáo trong thời k
Edo..................................................................................62
lOMoARcPSD|61830286
Tiểu kết chương 2............................................................................................................65
CHƯƠNG 3. TÍNH CHẤT VÀ Ý NGHĨA CỦA THẦN ĐẠO VÀ PHẬT GIÁO Ở THỜI
KỲ EDO (1603 1868)......................................................................................................66
3.1. Tính chất của Thần đạo và Phật giáo.......................................................................66
3.1.1. Sự công
sinh......................................................................................................66
3.1.2. Sự tương
tác.......................................................................................................69
3.2. Ý nghĩa của Thần đạo và Phật giáo..........................................................................70
3.2.1. Ảnh hưởng đến xã hội.......................................................................................70
3.2.2. Ảnh hưởng đến văn hoá.....................................................................................73
3.2.3. Ảnh hưởng đến nhận thức và tư tưởng con người Nhật
Bản.............................85
Tiểu kết chương 3............................................................................................................88
KẾT LUẬN........................................................................................................................89
lOMoARcPSD|61830286
LỜI MỞ ĐẦU
Ta có thể thấy ở tôn giáo luôn đóng vai trò không thể thiếu trong đời sống m linh
của mỗi con người. Đối với con người tôn giáo chính chỗ dựa tinh thần khi họ phải đối
mặt với các hiện tượng thiên nhiên không thể giải hay đơn giản hơn nhằm mục đích
chủ yếu tạo ra ý nghĩa cuộc sống. Tôn giáo đã tồn tại cách đây 45.000 năm với nhiều hình
thức khác nhau như thông qua kinh sách, khải thi, các lời tiên tri, quan niệm về đạo đức hay
các địa điểm linh thiên.
Trên thế giới rất nhiều loại hình thức tôn giáo khác nhau nhưng phổ biến bao gồm:
Kito giáo, Hồi giáo, n Độ giáo Phật giáo với hơn 84% dân số thế giới theo một trong
năm tôn giáo y. Trong quá khứ khi Kito giáo đang sức ảnh hưởng mãnh mẽ các nước
phương y thì ngược lại đối với các nước phía Đông thì Phật giáo cũng sức ảnh hưởng
tương tự như vậy. Ví dụ điển hình như Nhật Bản một trong những nước phương Đông khi
mà Phật giáo được du nhập từ Trung Quốc, Triều Tiên dưới dạng món quà của vương quốc
thân hữu vào thời kỳ Asuka và dần dần có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đối với đất nước mặt trời
mọc này.
Dưới sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tôn giáo ngoại lai Phật giáo thì Thần đạo một
tôn giáo bản địa đã trước đó vẫn đang còn non nớn, chưa hệ thống giáo vững chắc
phải chịu yếu thế ởng chừng như ai ng nghĩ sẽ biết mất. Tuy nhiên, Thần đạo với
tính hiện thế và lạc quan của mình đã cố gắng học hỏi, tiếp thu nhiều thứ từ Phật giáo và đã
dần hoàn thiện hơn. Về phía Phật giáo cũng đã được Thần đạo hỗ trợ ít nhiều thể các
hình thức khác nhau. Đây điểm thú vị ít nước nào nNhật Bản thể được
khi mà hai tôn giáo là Phật giáo và Thần đạo đã có sự ơng hộ và công nhận sự tồn tại của
nhau, đồng thời qua đó cùng nhau phát triển.
Qua đó thấy được ở đề tài liên quan tới mối quan hệ giữa Phật giáo và Thần đạo này
một đề tài hết sức thú vị tạo cảm giác muốn tìm hiểu sâu hơn. vậy tác giả sẽ
thông qua sách, tài liệu các bài báo cáo nghiên cứu chính thống, phù hợp m theo
những gì đúc kết được nhằm qua đó phục vụ cho nhu cầu của những người có đam mê tìm
lOMoARcPSD|61830286
hiểu sâu hơn về đề tài này có cái nhìn sâu sắc hơn ngoài ra còn nhằm đóng góp tài liệu cho
mục đích nghiên cứu cấp trường.
lOMoARcPSD|61830286
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THẦN ĐẠO VÀ PHẬT GIÁO Ở NHẬT
BẢN
1.1. Khái niệm và đặc điểm về Thần đạo và Phật giáo
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Thần đạo
Thần đạo tín ngưỡng đa Thần tồn tại Nhật Bản thời cổ đại, đã tạo nên một hệ
thống tôn thờ các vị thần. Các phẩm chất đại kỳ diệu của thiên nhiên, con người
các đối tượng khác được gọi là Kami (), tức là Thần, và được tôn kính. Những ngọn núi,
dòng sông, đại ơng, tảng đá, cát, chim muông mọi vật thể khác mang đến cảm giác
huyền sợ hãi đối với con người đều được coi là một Kami. Thuật ngữ Kami cũng dùng
để ám chỉ những nhân đặc biệt, như những vị Thiên Hoàng, những anh hùng tổ tiên
của các gia đình và bộ tộc.
Trong Thần đạo, những vị thần biểu trưng cho sức sáng tạo sự sinh thành được
tôn kính cao nhất. Trong thần thoại cổ đại của Nhật Bản, khả năng này được biểu thị thông
qua khái niệm Thần Tạo Sinh (Musubi no Kami ). Môt trong số các vị thần tổ tiên,
Nữ Thần Mặt Trời (Amaterasu Omikami ) được xem thần cao nhất của hoàng tộc
Nhật Bản.
Trong văn hóa Nhật Bản, "Thần" trong Thần đạo không bao giờ được coi những
vị thần tuyệt đối hoặc siêu phàm đối với con người thế giới chúng ta sống. Điều này
cũng áp dụng cho cặp đôi thần Izanagi () Izanami () - theo truyền
thuyết, hai vị thần y đã sinh ra các vị thần khác và quần đảo Nhật Bản, cùng với Nữ Thần
Mặt Trời. Ngược lại, trong quan niệm của người Nhật, tồn tại một sự liên tục giữa thần
con người. Mối quan hgiữa thần con người tương tự như mối quan hệ cha mẹ con
cái, tổ tiên hậu duệ, được gọi quan hệ Oyako (神神) trong tiếng Nhật. Theo truyền
thuyết, việc tồn tại liên tục của dòng dõi Thiên Hoàng Nhật Bản từ Thần Amaterasu cho
đến Thiên Hoàng hiện tại là một minh chứng rõ ràng cho mối quan hệ Oyako này.
lOMoARcPSD|61830286
Thuật ngữ "Thần đạo" là một khái niệm hình thành sau y, khi văn hóa Triều Tiên
lan tỏa vào Nhật Bản vào thế kthứ VI sau Công nguyên. Người Nhật Bản sử dụng chữ
Hán "Shin " để biểu thị "Thần" và chữ "To " để biểu thị "Đạo", và kết hợp hai chữ này
để tạo thành thuật ngữ "Thần đạo" (Shinto 神神). Thuật ngữ y được sử dụng để chỉ tín
ngưỡng thờ phụng các vị thần Kami như đã được đề cập, để phân biệt với các tôn giáo
từ bên ngoài như đạo Phật, đạo Khổng, đạo Lão...đang ngày càng ảnh ởng mạnh mẽ
Nhật Bản trong thời điểm đó.
Thần đạo đã trải qua một lịch sử phát triển kéo dài hơn hai ngàn năm Nhật Bản,
đặc biệt là trong bối cảnh tôn giáo ngoại lai, đặc biệt là Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo,
đã có những giai đoạn phát triển phức tạp. Tuy thế, Thần đạo có thể được xem như một hệ
thống tôn giáo bản địa, mật thiết liên kết với quá trình hình thành và phát triển của dân tộc
Nhật Bản. điều y, Thần đạo luôn chiếm vị trí đặc biệt trong đời sống văn hóa và trong
cấu trúc tôn giáo của đất nước Nhật Bản. Thần đạo không chỉ một tôn giáo đa Thần,
còn khác biệt với Khổng giáo, Phật giáo và Lão giáo, trong khi vẫn chịu sự ảnh hưởng sâu
sắc từ những tôn giáo này trong quá trình phát triển. Dựa trên việc thờ cúng các thần linh
truyền thống, Thần đạo thể hiện ý thức dân tộc và các nguyên tắc sống phổ biến của người
Nhật, mong muốn sống một cuộc sống bình an, sung túc và hạnh phúc trên thế gian.
1.1.1.2. Phật giáo
Phật giáo, hay còn được gọi đạo Phật, một hệ thống n giáo triết học
nguồn gốc từ Ấn Độ. Nó bao gồm một chuỗi các giáo lý, tư tưởng triết học, cũng như quan
niệm về cuộc sống, trụ, thế giới giải thích các hiện tượng tự nhiên, m linh, hội,
bản chất của vật chất sự kiện. cũng bao gồm các phương pháp thực hành tu tập
dựa trên những lời dạy ban đầu của một nhân vật lịch sử thật Tất đạt đa Cồ đàm
(神神神神神), được biết đến với nhiều tên gọi như, Bụt, Phật Thích Ca, Đức Phật, hoặc "người
giác ngộ" và "người tỉnh thức".
Các tài liệu kinh điển của Phật giáo cùng với các tài liệu khoa học khảo cổ đã
chứng minh rằng Tất đạt đa Cồ đàm đã sống truyền giáo pháp khu vực Đông Bắc
lOMoARcPSD|61830286
của Ấn Độ ngày nay tthế kthứ 6 TCN đến thế kỷ thứ 5 TCN. Sau hơn 100 năm kể từ
khi Đức Phật nhập niết bàn (nibbāna), trong Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai,
Phật giáo đã bắt đầu đa dạng hóa thành nhiều nhánh và các hệ tư ởng khác nhau, mặc dù
tất cả đều có nguồn gốc từ tư tưởng cơ bản của Đức Phật. Ngày nay, trên thế giới tồn tại ba
truyền thống Phật giáo chính.
1.1.2. Đặc điểm
1.1.2.1. Thần đạo
Chủ trương đa Thần: Trong đó lịch sử của đề cập đến 8 triệu vị thần 16 triệu
tên gọi khác nhau. Trong hội cổ đại, con người tôn sùng tôn kính các hiện ợng tự
nhiên, gọi chúng thần, bởi họ cảm thấy kính sợ sức mạnh và quyền năng của tự
nhiên.Ngoài ra, con người cũng tôn trọng thủy tổ của dân tộc và coi họ là Thần.
Coi trọng sứ mệnh Thần thánh của con người: Trong quan niệm Thần đạo, con người
đặt một giá trị đặc biệt vào sứ mệnh thần thánh của mình. Con người được coi là một biểu
tượng của sự ban tặng từ Thần linh, và vì vậy, họ phải cống hiến để sống một cuộc sống ý
nghĩa. Con người cần tự trọng tôn trọng cả bản thân những người khác, cùng y
dựng và duy trì những mối quan hệ tốt đẹp với vua chúa, cha mẹ, con cái, vợ chồng, và bạn
bè.
Sự hài hòa với tự nhiên: Tất cả các hình thức sống, bao gồm con người, động vật và
thực vật, đều được xem sinh mệnh do sban tặng của Thần. vậy, con người phải
sống hài hòa với tự nhiên và toàn thế giới, không can thiệp và thay đổi tự nhiên.
Nhấn mạnh về ởng đạo đức: Trong quá trình giáo dục, Thần đạo đặt sự minh
mẫn, sự quyết đoán, tính chính trực những phẩm chất khác của dân tộc Nhật Bản lên
hàng đầu. Những phẩm chất này đã phát triển từ lịch sử xã hội dài lâu của Nhật Bản và
được xem là nền tảng văn hóa chính của Thần đạo.
Chủ nghĩa trung tâm hiện thế: Trong Thần đạo, thế giới hiện tại được coi là một thế
giới tưởng, sau khi con người qua đời, họ tiếp tục sống chung với tổ tiên trong một
lOMoARcPSD|61830286
thế giới không bị chia cắt. Từ thế giới đó, tổ tiên bảo hộ và mang đến hạnh phúc cho thế hệ
con cháu hiện tại.
tưởng chủ đạo của Thần đạo: Thần đạo đã trải qua hàng ngàn năm phát triển
tồn tại, với sự ảnh hưởng sâu sắc từ nhiều tư tưởng và tôn giáo khác. Vì vậy, tư tưởng trong
Thần đạo một sự a trộn giữa nhiều giá trị đặc trưng của văn a bản địa cùng với tác
động từ Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và các tôn giáo khác. tưởng trọng yếu trong Thần
đạo Nhật Bản bao gồm ý thức dân tộc, tôn trọng sự trong sạch, đánh giá cao hiện thực
lạc quan. Những tưởng này thể hiện sự độc đáo duy đặc trưng dân tộc về thế
giới và cuộc sống.
1.1.2.2. Phật giáo
Tư tưởng chủ đạo trong Phật giáo: Đạo Phật tập trung o việc giáo dục con người về
việc thực hành nhân đức sở hữu tri thức để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hạnh phúc
trong hiện tại. Đạo Phật không coi trọng sự tồn tại của một thực thể tối cao thống trị cuộc
sống con người, không giới hạn phúc hay trừng phạt bất kai. Thay vào đó, trong cuộc
sống hàng ngày, mỗi người phải tuân thủ nguyên tắc Nhân - Quả, tức là hành động thiện sẽ
đem lại phúc lành, còn hành động ác sẽ gánh chịu hậu quả.
Đạo Phật cũng thể hiện tinh thần tiến bbằng cách không phân biệt đẳng cấp trong
hội. Đức Phật đã từng nói rằng: "Không phân biệt đẳng cấp trong sự đồng màu đỏ
của máu chung, không sự phân biệt đẳng cấp trong giọt ớc mắt cùng chung mặn".
Điều này cho thấy sự công bằng và tôn trọng đối với tất cả mọi người, không phân biệt tình
trạng xã hội hay địa vị.
Đạo Phật cũng thể hiện tinh thần đoàn kết không phân biệt đối xgiữa người tu
hành tín đồ. Quan điểm của đạo Phật "Tchúng cùng nh", tức mọi người, bao
gồm người tu hành, ni sư, nam và nữ tăng, đều có khả năng tu hành đạt được thành tựu
như Đức Phật nếu họ có ý chí và quyết tâm.
lOMoARcPSD|61830286
Trong suốt quá trình lịch sử của Nhật Bản, Phật giáo đã phát triển và bộc lộ một số
đặc điểm riêng. Tuy nhiên, khi đánh giá toàn bộ quá trình này, kể cả tình hình hiện tại của
Phật giáo, chúng ta thể nhìn nhận một số đặc điểm phổ biến của Phật giáo Nhật Bản.
Đó là tính dân tộc dựa trên sự kết hợp giữa các yếu tố tôn giáo từ ngoại lai và bản địa, tính
thế tục sâu sắc đa dạng của các giáo phái. Đồng thời, Phật giáo Nhật Bản cũng mang
trong mình tinh thần nhân đạo hiện thực, tập trung vào việc áp dụng giá trị tốt đẹp vào
cuộc sống hàng ngày.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển qua các thời k
1.2.1. Lịch sử hình thành
1.2.1.1. Thần đạo
Thần đạo không một người sáng lập cụ thể, do đó không thể định thời điểm
chính xác của sự ra đời. Dựa trên các liệu lịch sử, Thần đạo được cho đã phát triển
như một hệ thống tôn giáo bản trong thời kỳ Kofun, vào khoảng thế kỷ III TCN, trong
thời gian mà xã hội đang trải qua những biến đổi quan trọng. Trong giai đoạn này, các yếu
tố tự nhiên - xã hội, nhận thức và tâm lý đã cùng tồn tại và tạo nên cơ sở cho Thần đạo.
Dầu tiên, nếu xem xét nguồn gốc tự nhiên và xã hội, thời kỳ này chứng kiến sự xuất
hiện của nhà nước Yamato. Kỹ thuật trồng lúa đã được đưa vào Nhật Bản từ thời kJomon
và tiếp tục phát triển, tạo điều kiện cho việc xây dựng một xã hội có sự phát triển của công
nghệ đồ đồng nâng cao năng suất sản xuất. Trong những thế kđầu sau Công nguyên,
Nhật Bản chứng kiến sự suy tàn của chế độ công xã nguyên thuỷ và xuất hiện sự chia rẽ về
tài sản tầng lớp. Các bằng chứng lịch sử cho thấy hình hội của thời điểm đó đã
tiến thêm một bước với sự tồn tại của nhiều thị tộc độc lập, mỗi thị tộc có tầng lớp. Mỗi thị
tộc không chỉ là một đơn vị xã hội kinh tế, còn là một đơn vị n giáo tập trung quanh
người đứng đầu thị tộc hoặc dòng họ, được tôn trọng và kính phục (gọi là Uji no kami hoặc
Ujigami 神神). Trong quá trình chinh phục giữa các thtộc, khi một thị tộc mới mạnh hơn
hợp nhất với một thị tộc cũ yếu hơn, n của thị tộc sẽ bloại bỏ việc thờ cúng Ujigami
cũng sẽ do thị tộc chiến thắng quyết định. Mỗi thị tộc bao gồm một số thành viên mối
lOMoARcPSD|61830286
liên hệ huyết thống và nhiều nhóm khác không có liên hệ huyết thống nhưng đều tuân theo
sự lãnh đạo của một người đứng đầu.
Ban đầu, với một số ợng thị tộc ban đầu đáng kể, Cổ sự ký (Kojiki 神神神) ghi lại
rằng có đến 8 triệu kami (“kami” được xem như thần linh trong quan niệm Nhật). Điều y
đề cập đến sự mờ mịt về Ujigami của từng thị tộc, được coi thần linh cùng với các lực
lượng thiên nhiên con người tôn kính. Tuy nhiên, khi Nữ thần Mặt trời Amaterasu trở
thành vị thần tối cao được thờ cúng phổ biến, câu hỏi đặt ra vị trí của các kami khác
sẽ ra sao. Các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng sự cạnh tranh m lược không ngừng
giữa các thị tộc đã dẫn đến sự thịnh vượng của thị tộc thờ Nữ thần Mặt trời, làm cho nó trở
nên ưu thế hơn so với các thị tộc khác ảnh ởng đến việc thờ phụng các kami của những
thị tộc đó.
Sau khi quá trình thôn tính kết thúc nhà nước Yamato ra đời, việc thờ Nữ thần
Amaterasu đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng của Thần đạo. Thông qua việc hợp
nhất các tín ngưỡng đã tồn tại, Thần đạo được thiết lập tạo nền tảng cho sự hình thành
tôn giáo chung của dân tộc. Người Nhật cổ đại ban đầu đã tôn thờ nhiều kami khác nhau,
theo các tín ngưỡng về thế lực tự nhiên và sự tôn trọng đối với các lãnh đạo. Tuy nhiên, chỉ
khi nhà nước hình thành, những yếu tố tín ngưỡng riêng rẽ y mới được hợp nhất thành
một tôn giáo chung. Do đó, tôn giáo và nhà nước ở Nhật Bản luôn có mối liên hệ chặt chẽ.
Vai trò của nhà nước trong hình thành và duy trì tôn giáo là vô cùng quan trọng, như được
thể hiện qua từ "chính" (sei ) trong thuật ngữ "chính phủ" (seifu 神神), thể đọc
"matsurigoto", có nghĩa là hoạt động thờ cúng. Kể từ khi nhà nước Yamato được thành lập,
quyền lực chính trị của người đứng đầu không chỉ được bảo tồn mà còn được thể hiện suốt
lịch sử Nhật Bản. Hoàng tộc Nhật Bản, với vai trò của Thiên hoàng và Thần đạo, không thể
tách rời và luôn đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của quốc gia này.
Thứ hai, từ khía cạnh nhận thức, sự khác biệt văn hóa giữa người bản xứ những
người di cư từ lục địa đến quần đảo Nhật Bản đã dẫn đến sự biến đổi trong cộng đồng dân
cư. Giao tiếp giữa hai nhóm y đã góp phần thay đổi nhận thức và lối sống của nhiều cộng
đồng dân cư trên lãnh thổ Nhật Bản. Sự thay đổi nhận thức này có thể xuất phát từ việc tiếp
lOMoARcPSD|61830286
nhận các phương thức sản xuất mới. Trong thời k Yayoi, người Nhật Bản đã thực hiện
một sự chuyển đổi từ việc hái lượm chủ yếu sang việc sản xuất lúa nước. Tôn giáo trong
thời k y cũng phản ánh cuộc sống nông nghiệp của họ. Thực hiện các nghi lễ cầu mùa
màng biết cảm tạ thần linh khi mùa màng bội thu đã trở thành phong tục của con
người thời kỳ Kofun. Trong các nghi lễ y, các vật dụng bằng đồng như chuông đồng,
kiếm đồng... được sử dụng và các hoạt động này thường được thực hiện theo cách thức tập
thể. Một điểm đáng chú ý trong thời kỳ Kofun sự phổ biến của các ngôi mộ hình gò.
Khám phá nghiên cứu về những ngôi mộ này cung cấp cho chúng ta một cái nhìn sâu
hơn về triết lý của người Nhật Bản thời cổ đại. Các ngôi mộ này tượng trưng cho vị thế và
sự giàu có của chủ nhân khi còn sống. Đặc biệt, hình dạng của các ngôi mộ thường có dạng
lỗ khoá, kết hợp giữa hình tròn và hình vuông. Hình tròn đại diện cho Trời, hình vuông đại
diện cho Đất. Ngôi mộ kết hợp hai hình dạng này phiên dịch cho sự hòa hợp giữa Trời
Đất, đồng thời hào nước xung quanh tạo ra một ranh giới giữa thế giới của người đã khuất
và thế giới trần tục xung quanh. Hành động chôn cất các vật phẩm cũng được coi là nghi lễ
nhằm đảm bảo "cuộc sống sau khi qua đời" của chủ nhân. Điều y một dụ ràng
cho nhận thức rằng "Thần đạo không phải một thực thể bất biến từ xa a" (Sueki
Fumihiko, 2011: 18). Quan m đến cái chết kiếp sau chỉ tồn tại trong quan niệm Thần
đạo cổ đại, trong khi trong các giai đoạn sau y, chủ đề y ít được đề cập, cho thấy sự
biến đổi xã hội trong tôn giáo nói chung và Thần đạo nói riêng.
Thứ ba, về mặt tâm lý. Trong quá trình hình thành niềm tin tôn giáo ở Nhật Bản, một
yếu tố tâm quan trọng lòng sùng bái tự nhiên tôn kính đối với tổ tiên. Thần đạo
không phát triển dựa trên nỗi sợ hãi, dựa trên m tích cực. Điều y bắt nguồn từ
điều kiện tự nhiên đặc biệt của Nhật Bản. gặp khó khăn nguy hiểm từ thiên tai, con
người Nhật luôn biết ơn thiên nhiên nguồn sống của họ. Hình nh các ngọn núi, n
núi Fuji Ontake, rất quan trọng trong tâm thức người Nhật. Những ngọn núi y được
coi linh thiêng, nơi ngụ của các kami. Do đó, khi nhắc đến những dãy núi y,
người Nhật sẽ thêm từ "san" (sơn ), có nghĩa là núi, sau tên của chúng, trong khi các dãy
núi thông thường khác sẽ chỉ được gọi bằng từ "yama". Tôn giáo của người Nhật cần được
hiểu từ một góc nhìn ch cực, với tôn giáo của họ tập trung vào tình yêu lòng biết ơn,
lOMoARcPSD|61830286
thay vì sự sợ hãi. Nghi lễ tôn giáo của họ nhằm ca ngợi, cảm ơn và an ủi các thần thánh của
họ.
Ngoài sự tác động m lý từ tự nhiên, môi trường hội cũng đóng vai trò quan trọng
trong hình thành n ngưỡng tôn giáo Nhật Bản. Trước khi nhà nước, con người
sống trong các thị tộc, dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh. Thủ lĩnh được coi người sáng lập
và có công với thị tộc, nên được kính trọng rất nhiều. Trong thị tộc, tồn tại một số gia đình
mối quan hệ huyết thống, người Nhật luôn tin rằng linh hồn của tổ tiên tiếp tục tồn
tại ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại. Skết nối giữa tổ tiên đã khuất con người
hiện tại luôn tồn tại. Sự phát đạt thành công mà con người hiện đang trải nghiệm được
coi là kết quả của sự truyền dịp từ tổ tiên, vì vậy việc tôn kính tổ tiên được coi là điều cần
thiết.
Tín ngưỡng thờ kính tổ tiên không chỉ trong gia đình còn trải rộng đến cấp thị
tộc. Người Nhật cổ đại đã tôn trọng các thủ lĩnh thị tộc của mình, và ngay cả sau khi có nhà
nước, Thiên hoàng được coi là hiện thân của "cha, mẹ", nhận được sự sùng bái và tôn kính.
Điều này khác với một số quốc gia châu Á khác, nơi vua được coi là một dạng thần linh và
phải thần phục. Trái ngược với điều đó, người Nhật thường xu hướng biết ơn vì sự bảo
hộ của những người lãnh đạo đối với cộng đồng. Yếu tố tâm lý tích cực y có thể nguồn
gốc của sức mạnh và sự vững chắc của Thần đạo, tôn giáo của dân tộc, mặc vẫn còn một
số yếu tố chưa được thống nhất hoàn toàn. Ban đầu, tôn giáo Nhật Bản mối liên kết
chặt chẽ với sự đoàn kết của các gia tộc và việc hình thành chính quyền dưới sự nh đạo
của Thiên hoàng.
1.2.1.2. Phật giáo
Theo quy luật tiến hóa văn hóa, khi một yếu tố n hóa ngoại nhập vào một vùng
đất, sẽ phải thay đổi để phù hợp với yêu cầu địa phương. Quá trình đưa Phật giáo vào
Nhật Bản cũng tuân theo quy luật này. Phật giáo ở Nhật Bản đã trải qua nhiều biến đổi đến
mức một số yếu tố của đã khác biệt căn bản so với Phật giáo Ấn Độ Trung Quốc.
Những biến đổi ban đầu này được tạo ra bởi môi trường kinh tế - xã hội và yêu cầu văn hóa
lOMoARcPSD|61830286
của người Nhật, nhưng sau đó, chúng thậm cđã trở thành nguồn cảm hứng cho sự phát
triển văn hóa Nhật Bản trong tương lai. Do đó, mặc dù hiện diện trong một xã hội hiện đại,
văn hóa Nhật Bản vẫn giữ được tình yêu thương tính nhẹ nhàng của đạo Phật, tính linh
hoạt sự kiên nhẫn của võ thuật, sự thực dụng của nguyên tắc Khổng giáo, lòng mơ mộng
của thiền định, tôn trọng vật chất và yêu thích cái đẹp, cùng với tư duyi hòa và logic sắc
bén và nhiều khía cạnh khác.
Sau quá trình nghiên cứu về sự lan truyền của Phật giáo vào Nhật Bản, đã được xác
định một số đặc điểm quan trọng như sau:
Một số điểm quan trọng về quá trình du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản thể
được tóm gọn như sau, theo một cách diễn đạt khác:
Thứ nhất, Phật giáo đã được du nhập o Nhật Bản muộn hơn so với các quốc gia
khác trong khu vực. Theo các nguồn sử liệu n tồn tại, Phật giáo xuất hiện ở Nhật Bản vào
thế kthứ sáu. Việc du nhập Phật giáo vào Nhật Bản chủ yếu thông qua hai con đường:
Trung Quốc Triều Tiên. Cuốn sách "Lịch sử Phật giáo thế giới" trích dẫn từ "Phù Tang
lược ký" ghi nhận sự xuất hiện của Phật giáo tại Nhật Bản vào tháng 2 năm thứ 16 sau khi
Kế Thể Thiên Hoàng tức vị. Theo nguồn sử liệu trên, vào tháng 10 năm 522, Thánh Minh
Vương của Bách Tế trên bán đảo Triều Tiên đã gửi một đoàn người dẫn đầu bởi Thị
Đạt đến Nhật Bản để tặng một tượng Phật Thích Ca bằng đồng và cờ phướn, kinh luân. Các
nhà nghiên cứu Nhật Bản thường gọi hai con đường du nhập Phật giáo y là "Tư truyền"
và "Công truyền" để phân biệt giữa việc Phật giáo được truyền từ dân gian từ chính
phủ.
Phật giáo đã được du nhập vào Nhật Bản muộn hơn so với một sốớc khác trong
khu vực, và con đường truyền bá của đã trải qua nhiều quốc gia trung gian, dẫn đến sự
biến đổi không còn nguyên vẹn như nguyên mẫu gốc. Tuy nhiên, điều quan trọng Phật
giáo ở Nhật Bản đã chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ các yếu tố tín ngưỡng bản địa, đặc biệt
tục thờ Kami (thần linh trong đạo Shinto). Điều y cho thấy trong lịch sử Phật giáo
lOMoARcPSD|61830286
Nhật Bản luôn tồn tại sự đấu tranh và xung đột trong cuộc sống tín ngưỡng của cá nhân và
cả xã hội, giữa việc tôn thờ Phật và thần linh.
Thứ hai, khi Phật giáo được đưa vào Nhật Bản, đã gặp phải một bối cảnh đặc biệt,
trong đó người Nhật đã một truyền thống tín ngưỡng vững chắc từ thời cổ đại, tôn thờ
Thần trong Thần đạo. Kami là những thực thể trừu tượng, không có hình dạng riêng, và tồn
tại ngoài sự kiểm soát của con người. Tôn thờ Kami trong Shinto được coi cao cấp hơn
con người với kiến thức quyền lực, Kami thể mang lại phúc lợi hoặc tai họa y
thuộc vào thái độ và đối xử của con người. Kami thế giới riêng và có thể can thiệp vào
mục đích của con người, nhưng chúng không đại diện cho một sự thật tối cao.
So với Thần đạo, Phật giáo có những khác biệt căn bản. Phật giáo tôn thờ một hình
thể cụ thể, trong khi Kami trừu tượng. Trong Phật giáo, con người chịu trách nhiệm về
hành động của mình và không kỳ vọng vào sự ban phát từ Phật. Trong đạo Shinto, Kami
được tôn thờ như một thế lực ban phát, trong khi Phật giáo đại diện cho sự hiện thực tối
cao. Shinto không có một hệ thống giá trị đạo đức được coi là chân lý, trong khi Phật giáo
đã đóng p vào việc bổ sung và điền đầy những khoảng trống nhận thức mà Shinto không
thể có. Do đó, mặc đã xung đột giữa Shinto Phật giáo trong lịch sử Nhật Bản,
nhưng Phật giáo đã mang đến những khái niệm về đạo đức như lòng thương xót, anh minh,
lòng từ bi và lòng nhân ái cho văn hóa Nhật Bản.
Để một tôn giáo ngoại nhập thể tồn tại trong một khu vực, nó không thể không
tương tác với tôn giáo truyền thống đang tồn tại. Trong trường hợp này, khi Thần đạo đã
trở thành một n giáo phổ biến trong cộng đồng nhiều khác biệt so với Phật giáo,
quá trình du nhập trở nên khó khăn hơn.
Thứ ba, trong văn hóa tín ngưỡng của Nhật Bản, Phật giáo đã trải qua một quá
trình thích nghi biến đổi, khiến khác biệt so với nguyên mẫu Phật giáo. Để bắt rễ
trong xã hội Nhật Bản, Phật giáo không thể sử dụng lý luận trừu tượng mà phải sử dụng ma
thuật và những lời hứa về sự bảo vệ và cứu giúp từ các Bồ tát. Do đó, trong hai thế kỷ qua,
tôn giáo này đã được hiểu đơn giản như "một phương tiện hiệu quả để mang lại những phúc
lOMoARcPSD|61830286
lợi trần tục mà con người luôn m kiếm từ các vị thần trong Shinto". Triều đình đã nhanh
chóng chấp nhận Phật giáo nhận thấy rằng mang lại sự an lành, sự phát triển của tự
nhiên và đóng góp vào sự thịnh vượng của đất nước.
Phật giáo Nhật Bản luôn theo hai khuynh ớng để thu hút mọi đối tượng. Khuynh
hướng đầu tiên dành cho đại chúng, thường cung cấp các dịch vụ quan trọng như chữa bệnh,
tìm kiếm đối tác phù hợp hoặc chăm sóc người đã qua đời bằng các nghi lễ cầu hồn, nhằm
đem lại sự an tâm về linh hồn của người đã khuất. Một quan điểm khác nhìn nhận rằng
khuynh hướng thứ hai phục vụ những người tin rằng thế giới này là một hiện thực hư ảo và
mang đến đau khổ. Đối với những người y, Phật giáo cung cấp phương tiện để thay đổi
nhận thức, chẳng hạn như việc tu tập Thiền.
Trong giai đoạn đầu của Phật giáo Nhật Bản, do ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ thần
truyền thống, việc cầu mong công đức được coi trọng. Người ta không quá quan tâm đến ý
nghĩa tâm linh mà chỉ hy vọng sử dụng chú nguyện để kéo dài tuổi thọ, tránh tai họa, chữa
bệnh, cầu mưa bảo vệ nguồn nước. Người ta thực hiện các nghi lễ Phật với tâm cầu
thần, mong muốn có một cuộc sống hiện thực yên bình và như ý.
Thứ tư, trong hội Nhật Bản trong thời k thị tộc, mỗi gia tộc tôn thờ các vị thần
riêng của mình, tạo nên sự đa dạng trong thực hành thờ cúng của Thần đạo. những vị
thần được tôn thờ trong tự nhiên như cây cối, núi non, mặt trời, cũng những vị thần
liên quan đến các nghề thủ công, mang lại sức mạnh may mắn cho ngư dân thợ săn.
Có những vị thần sống như các chuyên gia tôn giáo hoặc những người đã rèn luyện để hòa
nhập và hóa thân thành các Kami. Trong xã hội Nhật Bản, có các Kami bảo vệ cá nhân, gia
đình dòng tộc, cũng như các Kami bảo hộ cho các đảo hoặc bảo vệ Hoàng gia. Một số
Kami khi được tôn thờ có khả năng chuyển từ trạng thái thần phá phách sang trạng thái hỗ
trợ, sẵn lòng giúp đỡ con người.
Sự đa dạng của các Kami là biểu hiện của duy phong phú phổ biến trong văn
hóa Đông Á. Tuy nhiên, khi thờ cúng đa dạng phức tạp, niềm tin cũng trở nên đa dạng
phức tạp. Tình hình này phản ánh sự đa dạng giữa các thị tộc trên quần đảo Nhật Bản,
lOMoARcPSD|61830286
không đặt nền tảng cho sự đồng nhất quốc gia. Trong ngữ cảnh đó, Phật giáo nhanh chóng
được chấp nhận bởi Hoàng gia và người dân Nhật Bản. Sự kiện này đã tạo ra một sở cho
sự hòa hợp trong niềm tin và từ đó tạo điều kiện cho sự đoàn kết quốc gia. Vì lý do đó, các
Thiên Hoàng của Nhật Bản không chỉ là nhà lãnh đạo chính trị, mà còn là nhà lãnh đạo tôn
giáo. Nơi ở của Thiên Hoàng cũng là nơi có sự hiện diện của các thần linh, và chỉ sau năm
1945, khi Nhật Bản thất bại trong chiến tranh, Thiên Hoàng mới được xem như một con
người.
Việc tiếp nhận Phật giáo Nhật Bản không chỉ dựa trên nền tảng Shinto, còn
phụ thuộc vào một hệ thống tín ngưỡng khác nhằm phục vụ cả người dân lợi ích của giới
cầm quyền. Điều y tạo nên một sự kết hợp giữa Thần Phật, trong đó yếu tố Thần chiếm
ưu thế.
1.2.2. Quá trình phát triển
1.2.2.1. Thần đạo
Kể từ khi nhà nước Yamato ra đời, đến khoảng thế kỷ thứ V, Nhật Bản đã trở thành
một quốc gia ổn định. Bên cạnh việc thờ cúng Nữ thần Amaterasu như vị thần tối cao, đất
nước y đã trải qua một giai đoạn phát triển tương đối về mặt tôn giáo hội. Trong
quá trình lịch sử của Nhật Bản, trước khi nhà nước Yamato ra đời, nhiều yếu tố văn hóa từ
nước ngoài đã được tiếp nhận. Tuy nhiên, nhờ yếu tố bản địa liên tục và bền vững, văn hóa
bản địa đã phát triển mạnh mẽ. Đồng thời, vị trí địa lý độc đáo của Nhật Bản đã giới hạn sự
ảnh hưởng của yếu tố ngoại lai, không rõ ràng. Theo thời gian, sự nhập cư của những người
mang theo các ngành nghề đặc trưng đã góp phần phát triển kinh tế một yếu tố quan
trọng đã thay đổi sâu sắc lịch sử và văn hóa của đất nước này, đó là chữ viết.
Với việc sử dụng chữ viết, chính quyền Yamato đã thể soạn thảo các văn bản hành chính,
lưu trữ kiến thức, việc biên soạn Csự (Kojiki ) Nhật Bản thư k(Nihonshoki
神神神神) đã đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu về sự phát triển của tín ngưỡng Thần
đạo cho đến thời điểm đó. Thần đạo có hai nh thức chính Thần đạo tại đền (Jinja Shinto
神神神神) và Thần đạo dân gian (Minkan Shinto 神神神神). Thần đạo tại đền có nguồn gốc từ
lOMoARcPSD|61830286
thời knguyên thủy và đã chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo nhập khẩu, chia thành nhiều
hướng phát triển khác nhau như Thần đạo Hoàng gia (Koushitsu Shinto 神神神神), Thần đạo
học phái (Gakuha Shinto 神神神神), Thần đạo quốc gia (Kokka Shinto 神神神神), Thần
đạo giáo phái (Kyouha Shinto ). Trong khi đó, Thần đạo dân gian phát triển chủ yếu
trong cộng đồng với các nghi lễ và tập tục tương tự như Shaman giáo.
Theo Kojiki (Cổ sự 神神神), từ “Thần đạo” xuất hiện vào thế kỷ thứ VI. Từ đó,
trong quá trình phát triển, Thần đạo luôn thể hiện tính chất hòa hợp với các yếu tố của các
tôn giáo khác. Có thể tóm gọn thành các giai đoạn chính như sau:
Thứ nhất, giai đoạn đầu tiên "kỷ nguyên của các vị thần" kamiyo (神神 thần đại).
Giai đoạn y được phản ánh chủ yếu trong Kojiki và Nihonshoki. Kojiki được xem là mt
trong những tác phẩm cổ nhất của Nhật Bản, được tổng hợp biên soạn từ các nguồn
liệu sớm nhất vào những năm 712 bởi Ono Yasumaro ( Thái An Vạn Lữ). Những
liệu này được ghi chép hoặc truyền miệng từ các thị tộc (uji thị) quyền lực trong
thời kNara, đặc biệt là thị tộc Yamato. Trong giai đoạn y, Nhật Bản đã mượn nhiều yếu
tố văn hóa từ Trung Hoa. Không chỉ sử dụng chữ Hán để viết các biên niên sử, Ono
Yasumaro cũng đã học hỏi áp dụng sự thần thánh hóa quyền lực của các vị vua Trung
Hoa vào việc cai trị mạnh mẽ của thị tộc Yamato. Trong phần mở đầu của tác phẩm,
Yasumaro đã giới thiệu về việc hình thành trụ sự ra đời của các vị thần trong Thần
đạo từ thời kban đầu. Theo câu chuyện, quần đảo Nhật Bản được tạo ra bởi hai vị thần
nguyên thủy Izanagi Izanami. Sau đó, Nthần Amaterasu được sinh ra cùng với
sự mở rộng tầm ảnh hưởng của Amaterasu trên đất trời, Thiên hoàng Jimmu, tổ tiên của các
Thiên hoàng sau này, đã xuất hiện.
Đáng chú ý trong thời ky, vẫn tồn tại nhiều thị tộc khác nhau có sự ảnh hưởng
đến những vấn đề chính trị. Do đó, việc đặt quá nhiều sự nhấn mạnh vào nguồn gốc của thị
tộc Yamato đã y phản đối từ các thị tộc lớn khác. Điều y đã dẫn đến việc biên soạn
Nihonshoki. Do sức ép từ các thị tộc quan trọng, Nihonshoki đã trở thành một tác phẩm
tổng hợp các sự kiện thần thoại từ nhiều quan điểm khác nhau, chiếu cố nhiều quan điểm
về nguồn gốc lãnh đạo của các thị tộc. Kết quả tác phẩm trnên rắc rối, phức tạp thậm
lOMoARcPSD|61830286
chí có sự mâu thuẫn giữa các câu chuyện. Tuy nhiên, việc viết Nihonshoki vào năm 720 đã
đánh dấu một sự thay đổi đáng kể trong việc khám phá sự đa dạng của Thần đạo cổ đại và
các vị thần trong nó.
Nếu Amaterasu được coi Ujigami của tộc Yamato, thì tộc Inbe cũng xưng con
cháu của Futodama. Futodama vị thần chủ trì các nghi lễ quan trọng trong các sự kiện
của các vị thần, một trong năm vị thần lãnh đạo các tộc người được gửi xuống trần
gian cùng lúc với Ninigi (cháu của Amaterasu) khi bắt đầu mở rộng quyền lực cai trị của
mình. Tương tự, tộc Izumo hậu duệ của Amenohohi, tộc Fujiwara hậu duệ của
Kogotomusubi. Điều này cho thấy các thị tộc lớn cũng nổ lực tìm cách củng cố ảnh hưởng
cho tộc của mình và có thể có nguồn gốc từ những vị thần quan trọng này, giúp các thtộc
duy trì quyền lực bên cạnh tộc Yamato của Nữ thần Amaterasu.
cả Kojiki và Nihonshoki đều thể hiện sự tác động từ văn hoá Trung Hoa theo các
cách độc đáo, điểm tương đồng giữa hai tác phẩm y chú trọng vào việc giải thích nguồn
gốc thần thánh của Nhật Bản. Theo đó, vào thời kỳ ban đầu của vũ trụ, khi mọi thứ còn hỗn
loạn và mờ mịt, by thế hệ các vị thần đã xuất hiện liên tiếp, ban đầu là các vị thần vô hình,
cho đến thế hệ thứm là Izanagi và Izanami. Sau khi tạo ra hòn đảo Onogoro, Izanagi và
Izanami giảm xuống thiên giới và từ đó các vị thần khác được hình thành. Trong quá trình
tẩy uế sau khi trở vtừ âm phủ, Amaterasu, một vị thần cao nhất, đã sinh ra từ Izanagi.
Amaterasu được Izanagi truyền quyền cai trị, mặc bị em trai Susano phản đối. Amaterasu
đã vượt qua mọi khó khăn và cuối cùng đạt được chiến thắng, được các vị thần công nhận
với sự tài ng và phẩm chất hoàn hảo. Do đó, hậu duệ của Amaterasu được công nhận
những người cai trị hạ giới.
Các câu chuyện trong Kojiki Nihonshoki chứa các chi tiết quan trọng trong việc
thiết lập chế độ cai trị của Thiên hoàng. Con cháu của Amaterasu, những người đã nhận
được quyền lực từ Izanagi, được coi những vị thần quan trọng trong lịch sử Nhật Bản.
Amaterasu cũng đã chiến thắng trong cuộc đấu với Susano, cho thấy tài năng của mình.
Ngay cả khi Amaterasu tự nhốt mình trong hang đá sau khi Susano không công nhận chiến
thắng của cô, sự hỗn loạn đã xảy ra. Vai trò của Amaterasu trong thế giới này được xã hội

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61830286
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG KHOA XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN - - - - - - - - - - - - TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
MỐI QUAN HỆ GIỮA THẦN ĐẠO VÀ
PHẬT GIÁO Ở NHẬT BẢN TRONG THỜI KỲ EDO (1603 – 1868) Giáo viên hưỡng dẫn: TS. Dương Ngọc Phúc Nhóm thực hiện: Nhóm 7 Lớp : 23171SCIE10012
TP. HỒ CHÍ MINH - năm 2023 lOMoARcPSD| 61830286 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THẦN ĐẠO VÀ PHẬT GIÁO Ở NHẬT BẢN..............3
1.1. Khái niệm và đặc điểm về Thần đạo và Phật giáo.....................................................3 1.1.1. Khái
niệm.............................................................................................................3 1.1.2. Đặc
điểm..............................................................................................................5
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển qua các thời kỳ.......................................................7 1.2.1. Lịch sử hình
thành...............................................................................................7 1.2.2. Quá trình phát
triển............................................................................................14
Tiểu kết chương 1............................................................................................................35
CHƯƠNG 2. MỐI QUAN HỆ GIỮA THẦN ĐẠO VÀ PHẬT GIÁO Ở THỜI KỲ EDO
(1603 – 1868).....................................................................................................................38
2.1. Bối cảnh lịch sử trong thời kỳ Edo (1603 – 1868)...................................................38 2.1.1. Bối cảnh kinh
tế.................................................................................................39 2.1.2. Bối cảnh xã
hội..................................................................................................44 2.1.3. Bối cảnh văn
hóa...............................................................................................50
2.2. Sự hoà hợp giữa Thần đạo và Phật giáo...................................................................53
2.2.1. Tín ngưỡng Thần Phật tập hợp (Shinbutsushugo –
神神神神).............................54 2.2.2. Giáo lý trong thời kỳ
Edo..................................................................................62 lOMoARcPSD| 61830286
Tiểu kết chương 2............................................................................................................65
CHƯƠNG 3. TÍNH CHẤT VÀ Ý NGHĨA CỦA THẦN ĐẠO VÀ PHẬT GIÁO Ở THỜI
KỲ EDO (1603 –1868)......................................................................................................66
3.1. Tính chất của Thần đạo và Phật giáo.......................................................................66 3.1.1. Sự công
sinh......................................................................................................66 3.1.2. Sự tương
tác.......................................................................................................69
3.2. Ý nghĩa của Thần đạo và Phật giáo..........................................................................70
3.2.1. Ảnh hưởng đến xã hội.......................................................................................70
3.2.2. Ảnh hưởng đến văn hoá.....................................................................................73
3.2.3. Ảnh hưởng đến nhận thức và tư tưởng con người Nhật
Bản.............................85
Tiểu kết chương 3............................................................................................................88
KẾT LUẬN........................................................................................................................89 lOMoARcPSD| 61830286 LỜI MỞ ĐẦU
Ta có thể thấy ở tôn giáo luôn đóng vai trò không thể thiếu trong đời sống tâm linh
của mỗi con người. Đối với con người tôn giáo chính là chỗ dựa tinh thần khi họ phải đối
mặt với các hiện tượng thiên nhiên không thể lý giải hay đơn giản hơn là nhằm mục đích
chủ yếu tạo ra ý nghĩa cuộc sống. Tôn giáo đã tồn tại cách đây 45.000 năm với nhiều hình
thức khác nhau như thông qua kinh sách, khải thi, các lời tiên tri, quan niệm về đạo đức hay
các địa điểm linh thiên.
Trên thế giới có rất nhiều loại hình thức tôn giáo khác nhau nhưng phổ biến bao gồm:
Kito giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo và Phật giáo với hơn 84% dân số thế giới theo một trong
năm tôn giáo này. Trong quá khứ khi Kito giáo đang có sức ảnh hưởng mãnh mẽ ở các nước
phương Tây thì ngược lại đối với các nước phía Đông thì Phật giáo cũng sức ảnh hưởng
tương tự như vậy. Ví dụ điển hình như Nhật Bản một trong những nước phương Đông khi
mà Phật giáo được du nhập từ Trung Quốc, Triều Tiên dưới dạng món quà của vương quốc
thân hữu vào thời kỳ Asuka và dần dần có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đối với đất nước mặt trời mọc này.
Dưới sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tôn giáo ngoại lai là Phật giáo thì Thần đạo một
tôn giáo bản địa đã có trước đó vẫn đang còn non nớn, chưa hệ thống giáo lý vững chắc
phải chịu yếu thế và tưởng chừng như ai cũng nghĩ sẽ biết mất. Tuy nhiên, Thần đạo với
tính hiện thế và lạc quan của mình đã cố gắng học hỏi, tiếp thu nhiều thứ từ Phật giáo và đã
dần hoàn thiện hơn. Về phía Phật giáo cũng đã được Thần đạo hỗ trợ ít nhiều có thể ở các
hình thức khác nhau. Đây là điểm thú vị mà ít có nước nào như Nhật Bản có thể có được
khi mà hai tôn giáo là Phật giáo và Thần đạo đã có sự tương hộ và công nhận sự tồn tại của
nhau, đồng thời qua đó cùng nhau phát triển.
Qua đó thấy được ở đề tài liên quan tới mối quan hệ giữa Phật giáo và Thần đạo này
là một đề tài hết sức thú vị và tạo cảm giác muốn tìm hiểu sâu hơn. Vì vậy mà tác giả sẽ
thông qua sách, tài liệu và các bài báo cáo nghiên cứu chính thống, phù hợp kèm theo là
những gì đúc kết được nhằm qua đó phục vụ cho nhu cầu của những người có đam mê tìm lOMoARcPSD| 61830286
hiểu sâu hơn về đề tài này có cái nhìn sâu sắc hơn ngoài ra còn nhằm đóng góp tài liệu cho
mục đích nghiên cứu cấp trường. lOMoARcPSD| 61830286
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THẦN ĐẠO VÀ PHẬT GIÁO Ở NHẬT BẢN
1.1. Khái niệm và đặc điểm về Thần đạo và Phật giáo 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1. Thần đạo
Thần đạo là tín ngưỡng đa Thần tồn tại ở Nhật Bản thời cổ đại, đã tạo nên một hệ
thống tôn thờ các vị thần. Các phẩm chất vĩ đại và kỳ diệu của thiên nhiên, con người và
các đối tượng khác được gọi là Kami (神), tức là Thần, và được tôn kính. Những ngọn núi,
dòng sông, đại dương, tảng đá, cát, chim muông và mọi vật thể khác mang đến cảm giác
huyền bí và sợ hãi đối với con người đều được coi là một Kami. Thuật ngữ Kami cũng dùng
để ám chỉ những cá nhân đặc biệt, như những vị Thiên Hoàng, những anh hùng và tổ tiên
của các gia đình và bộ tộc.
Trong Thần đạo, những vị thần biểu trưng cho sức sáng tạo và sự sinh thành được
tôn kính cao nhất. Trong thần thoại cổ đại của Nhật Bản, khả năng này được biểu thị thông
qua khái niệm Thần Tạo Sinh (Musubi no Kami 神神神神). Môt trong số các vị thần tổ tiên,
Nữ Thần Mặt Trời (Amaterasu Omikami 神神神神) được xem là thần cao nhất của hoàng tộc Nhật Bản.
Trong văn hóa Nhật Bản, "Thần" trong Thần đạo không bao giờ được coi là những
vị thần tuyệt đối hoặc siêu phàm đối với con người và thế giới chúng ta sống. Điều này
cũng áp dụng cho cặp đôi thần Izanagi (神神神神神) và Izanami (神神神神神) - theo truyền
thuyết, hai vị thần này đã sinh ra các vị thần khác và quần đảo Nhật Bản, cùng với Nữ Thần
Mặt Trời. Ngược lại, trong quan niệm của người Nhật, tồn tại một sự liên tục giữa thần và
con người. Mối quan hệ giữa thần và con người tương tự như mối quan hệ cha mẹ và con
cái, tổ tiên và hậu duệ, được gọi là quan hệ Oyako (神神) trong tiếng Nhật. Theo truyền
thuyết, việc tồn tại liên tục của dòng dõi Thiên Hoàng Nhật Bản từ Thần Amaterasu cho
đến Thiên Hoàng hiện tại là một minh chứng rõ ràng cho mối quan hệ Oyako này. lOMoARcPSD| 61830286
Thuật ngữ "Thần đạo" là một khái niệm hình thành sau này, khi văn hóa Triều Tiên
lan tỏa vào Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI sau Công nguyên. Người Nhật Bản sử dụng chữ
Hán "Shin 神" để biểu thị "Thần" và chữ "To 神" để biểu thị "Đạo", và kết hợp hai chữ này
để tạo thành thuật ngữ "Thần đạo" (Shinto 神神). Thuật ngữ này được sử dụng để chỉ tín
ngưỡng thờ phụng các vị thần Kami như đã được đề cập, và để phân biệt với các tôn giáo
từ bên ngoài như đạo Phật, đạo Khổng, đạo Lão...đang ngày càng ảnh hưởng mạnh mẽ ở
Nhật Bản trong thời điểm đó.
Thần đạo đã trải qua một lịch sử phát triển kéo dài hơn hai ngàn năm ở Nhật Bản,
đặc biệt là trong bối cảnh tôn giáo ngoại lai, đặc biệt là Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo,
đã có những giai đoạn phát triển phức tạp. Tuy thế, Thần đạo có thể được xem như một hệ
thống tôn giáo bản địa, mật thiết liên kết với quá trình hình thành và phát triển của dân tộc
Nhật Bản. Vì điều này, Thần đạo luôn chiếm vị trí đặc biệt trong đời sống văn hóa và trong
cấu trúc tôn giáo của đất nước Nhật Bản. Thần đạo không chỉ là một tôn giáo đa Thần, mà
còn khác biệt với Khổng giáo, Phật giáo và Lão giáo, trong khi vẫn chịu sự ảnh hưởng sâu
sắc từ những tôn giáo này trong quá trình phát triển. Dựa trên việc thờ cúng các thần linh
truyền thống, Thần đạo thể hiện ý thức dân tộc và các nguyên tắc sống phổ biến của người
Nhật, mong muốn sống một cuộc sống bình an, sung túc và hạnh phúc trên thế gian. 1.1.1.2. Phật giáo
Phật giáo, hay còn được gọi là đạo Phật, là một hệ thống tôn giáo và triết học có
nguồn gốc từ Ấn Độ. Nó bao gồm một chuỗi các giáo lý, tư tưởng triết học, cũng như quan
niệm về cuộc sống, vũ trụ, thế giới và giải thích các hiện tượng tự nhiên, tâm linh, xã hội,
bản chất của vật chất và sự kiện. Nó cũng bao gồm các phương pháp thực hành và tu tập
dựa trên những lời dạy ban đầu của một nhân vật lịch sử có thật là Tất đạt đa Cồ đàm
(神神神神神), được biết đến với nhiều tên gọi như, Bụt, Phật Thích Ca, Đức Phật, hoặc "người
giác ngộ" và "người tỉnh thức".
Các tài liệu kinh điển của Phật giáo cùng với các tài liệu khoa học và khảo cổ đã
chứng minh rằng Tất đạt đa Cồ đàm đã sống và truyền bá giáo pháp ở khu vực Đông Bắc lOMoARcPSD| 61830286
của Ấn Độ ngày nay từ thế kỷ thứ 6 TCN đến thế kỷ thứ 5 TCN. Sau hơn 100 năm kể từ
khi Đức Phật nhập niết bàn (nibbāna), trong Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai,
Phật giáo đã bắt đầu đa dạng hóa thành nhiều nhánh và các hệ tư tưởng khác nhau, mặc dù
tất cả đều có nguồn gốc từ tư tưởng cơ bản của Đức Phật. Ngày nay, trên thế giới tồn tại ba
truyền thống Phật giáo chính. 1.1.2. Đặc điểm 1.1.2.1. Thần đạo
Chủ trương đa Thần: Trong đó lịch sử của nó đề cập đến 8 triệu vị thần và 16 triệu
tên gọi khác nhau. Trong xã hội cổ đại, con người tôn sùng và tôn kính các hiện tượng tự
nhiên, gọi chúng là thần, bởi vì họ cảm thấy kính sợ sức mạnh và quyền năng của tự
nhiên.Ngoài ra, con người cũng tôn trọng thủy tổ của dân tộc và coi họ là Thần.
Coi trọng sứ mệnh Thần thánh của con người: Trong quan niệm Thần đạo, con người
đặt một giá trị đặc biệt vào sứ mệnh thần thánh của mình. Con người được coi là một biểu
tượng của sự ban tặng từ Thần linh, và vì vậy, họ phải cống hiến để sống một cuộc sống ý
nghĩa. Con người cần tự trọng và tôn trọng cả bản thân và những người khác, cùng xây
dựng và duy trì những mối quan hệ tốt đẹp với vua chúa, cha mẹ, con cái, vợ chồng, và bạn bè.
Sự hài hòa với tự nhiên: Tất cả các hình thức sống, bao gồm con người, động vật và
thực vật, đều được xem là có sinh mệnh do sự ban tặng của Thần. Vì vậy, con người phải
sống hài hòa với tự nhiên và toàn thế giới, không can thiệp và thay đổi tự nhiên.
Nhấn mạnh về tư tưởng đạo đức: Trong quá trình giáo dục, Thần đạo đặt sự minh
mẫn, sự quyết đoán, tính chính trực và những phẩm chất khác của dân tộc Nhật Bản lên
hàng đầu. Những phẩm chất này đã phát triển từ lịch sử và xã hội dài lâu của Nhật Bản và
được xem là nền tảng văn hóa chính của Thần đạo.
Chủ nghĩa trung tâm hiện thế: Trong Thần đạo, thế giới hiện tại được coi là một thế
giới lý tưởng, và sau khi con người qua đời, họ tiếp tục sống chung với tổ tiên trong một lOMoARcPSD| 61830286
thế giới không bị chia cắt. Từ thế giới đó, tổ tiên bảo hộ và mang đến hạnh phúc cho thế hệ con cháu hiện tại.
Tư tưởng chủ đạo của Thần đạo: Thần đạo đã trải qua hàng ngàn năm phát triển và
tồn tại, với sự ảnh hưởng sâu sắc từ nhiều tư tưởng và tôn giáo khác. Vì vậy, tư tưởng trong
Thần đạo là một sự hòa trộn giữa nhiều giá trị đặc trưng của văn hóa bản địa cùng với tác
động từ Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và các tôn giáo khác. Tư tưởng trọng yếu trong Thần
đạo Nhật Bản bao gồm ý thức dân tộc, tôn trọng sự trong sạch, đánh giá cao hiện thực và
lạc quan. Những tư tưởng này thể hiện sự độc đáo và tư duy có đặc trưng dân tộc về thế giới và cuộc sống. 1.1.2.2. Phật giáo
Tư tưởng chủ đạo trong Phật giáo: Đạo Phật tập trung vào việc giáo dục con người về
việc thực hành nhân đức và sở hữu tri thức để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc
trong hiện tại. Đạo Phật không coi trọng sự tồn tại của một thực thể tối cao thống trị cuộc
sống con người, không giới hạn phúc hay trừng phạt bất kỳ ai. Thay vào đó, trong cuộc
sống hàng ngày, mỗi người phải tuân thủ nguyên tắc Nhân - Quả, tức là hành động thiện sẽ
đem lại phúc lành, còn hành động ác sẽ gánh chịu hậu quả.
Đạo Phật cũng thể hiện tinh thần tiến bộ bằng cách không phân biệt đẳng cấp trong
xã hội. Đức Phật đã từng nói rằng: "Không có phân biệt đẳng cấp trong sự đồng màu đỏ
của máu chung, không có sự phân biệt đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng chung mặn".
Điều này cho thấy sự công bằng và tôn trọng đối với tất cả mọi người, không phân biệt tình
trạng xã hội hay địa vị.
Đạo Phật cũng thể hiện tinh thần đoàn kết và không phân biệt đối xử giữa người tu
hành và tín đồ. Quan điểm của đạo Phật là "Tứ chúng cùng hành", tức là mọi người, bao
gồm người tu hành, ni sư, nam và nữ tăng, đều có khả năng tu hành và đạt được thành tựu
như Đức Phật nếu họ có ý chí và quyết tâm. lOMoARcPSD| 61830286
Trong suốt quá trình lịch sử của Nhật Bản, Phật giáo đã phát triển và bộc lộ một số
đặc điểm riêng. Tuy nhiên, khi đánh giá toàn bộ quá trình này, kể cả tình hình hiện tại của
Phật giáo, chúng ta có thể nhìn nhận một số đặc điểm phổ biến của Phật giáo ở Nhật Bản.
Đó là tính dân tộc dựa trên sự kết hợp giữa các yếu tố tôn giáo từ ngoại lai và bản địa, tính
thế tục sâu sắc và đa dạng của các giáo phái. Đồng thời, Phật giáo Nhật Bản cũng mang
trong mình tinh thần nhân đạo và hiện thực, tập trung vào việc áp dụng giá trị tốt đẹp vào cuộc sống hàng ngày.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển qua các thời kỳ
1.2.1. Lịch sử hình thành 1.2.1.1. Thần đạo
Thần đạo không có một người sáng lập cụ thể, do đó không thể định rõ thời điểm
chính xác của sự ra đời. Dựa trên các tư liệu lịch sử, Thần đạo được cho là đã phát triển
như một hệ thống tôn giáo cơ bản trong thời kỳ Kofun, vào khoảng thế kỷ III TCN, trong
thời gian mà xã hội đang trải qua những biến đổi quan trọng. Trong giai đoạn này, các yếu
tố tự nhiên - xã hội, nhận thức và tâm lý đã cùng tồn tại và tạo nên cơ sở cho Thần đạo.
Dầu tiên, nếu xem xét nguồn gốc tự nhiên và xã hội, thời kỳ này chứng kiến sự xuất
hiện của nhà nước Yamato. Kỹ thuật trồng lúa đã được đưa vào Nhật Bản từ thời kỳ Jomon
và tiếp tục phát triển, tạo điều kiện cho việc xây dựng một xã hội có sự phát triển của công
nghệ đồ đồng và nâng cao năng suất sản xuất. Trong những thế kỷ đầu sau Công nguyên,
Nhật Bản chứng kiến sự suy tàn của chế độ công xã nguyên thuỷ và xuất hiện sự chia rẽ về
tài sản và tầng lớp. Các bằng chứng lịch sử cho thấy mô hình xã hội của thời điểm đó đã
tiến thêm một bước với sự tồn tại của nhiều thị tộc độc lập, mỗi thị tộc có tầng lớp. Mỗi thị
tộc không chỉ là một đơn vị xã hội và kinh tế, mà còn là một đơn vị tôn giáo tập trung quanh
người đứng đầu thị tộc hoặc dòng họ, được tôn trọng và kính phục (gọi là Uji no kami hoặc
Ujigami 神神). Trong quá trình chinh phục giữa các thị tộc, khi một thị tộc mới mạnh hơn
hợp nhất với một thị tộc cũ yếu hơn, tên của thị tộc cũ sẽ bị loại bỏ và việc thờ cúng Ujigami
cũng sẽ do thị tộc chiến thắng quyết định. Mỗi thị tộc bao gồm một số thành viên có mối lOMoARcPSD| 61830286
liên hệ huyết thống và nhiều nhóm khác không có liên hệ huyết thống nhưng đều tuân theo
sự lãnh đạo của một người đứng đầu.
Ban đầu, với một số lượng thị tộc ban đầu đáng kể, Cổ sự ký (Kojiki 神神神) ghi lại
rằng có đến 8 triệu kami (“kami” được xem như thần linh trong quan niệm Nhật). Điều này
đề cập đến sự mờ mịt về Ujigami của từng thị tộc, được coi là thần linh cùng với các lực
lượng thiên nhiên mà con người tôn kính. Tuy nhiên, khi Nữ thần Mặt trời Amaterasu trở
thành vị thần tối cao và được thờ cúng phổ biến, câu hỏi đặt ra là vị trí của các kami khác
sẽ ra sao. Các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng sự cạnh tranh và xâm lược không ngừng
giữa các thị tộc đã dẫn đến sự thịnh vượng của thị tộc thờ Nữ thần Mặt trời, làm cho nó trở
nên ưu thế hơn so với các thị tộc khác và ảnh hưởng đến việc thờ phụng các kami của những thị tộc đó.
Sau khi quá trình thôn tính kết thúc và nhà nước Yamato ra đời, việc thờ Nữ thần
Amaterasu đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng của Thần đạo. Thông qua việc hợp
nhất các tín ngưỡng đã tồn tại, Thần đạo được thiết lập và tạo nền tảng cho sự hình thành
tôn giáo chung của dân tộc. Người Nhật cổ đại ban đầu đã tôn thờ nhiều kami khác nhau,
theo các tín ngưỡng về thế lực tự nhiên và sự tôn trọng đối với các lãnh đạo. Tuy nhiên, chỉ
khi nhà nước hình thành, những yếu tố tín ngưỡng riêng rẽ này mới được hợp nhất thành
một tôn giáo chung. Do đó, tôn giáo và nhà nước ở Nhật Bản luôn có mối liên hệ chặt chẽ.
Vai trò của nhà nước trong hình thành và duy trì tôn giáo là vô cùng quan trọng, như được
thể hiện qua từ "chính" (sei 神) trong thuật ngữ "chính phủ" (seifu 神神), có thể đọc là
"matsurigoto", có nghĩa là hoạt động thờ cúng. Kể từ khi nhà nước Yamato được thành lập,
quyền lực chính trị của người đứng đầu không chỉ được bảo tồn mà còn được thể hiện suốt
lịch sử Nhật Bản. Hoàng tộc Nhật Bản, với vai trò của Thiên hoàng và Thần đạo, không thể
tách rời và luôn đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của quốc gia này.
Thứ hai, từ khía cạnh nhận thức, sự khác biệt văn hóa giữa người bản xứ và những
người di cư từ lục địa đến quần đảo Nhật Bản đã dẫn đến sự biến đổi trong cộng đồng dân
cư. Giao tiếp giữa hai nhóm này đã góp phần thay đổi nhận thức và lối sống của nhiều cộng
đồng dân cư trên lãnh thổ Nhật Bản. Sự thay đổi nhận thức này có thể xuất phát từ việc tiếp lOMoARcPSD| 61830286
nhận các phương thức sản xuất mới. Trong thời kỳ Yayoi, người Nhật Bản đã thực hiện
một sự chuyển đổi từ việc hái lượm chủ yếu sang việc sản xuất lúa nước. Tôn giáo trong
thời kỳ này cũng phản ánh cuộc sống nông nghiệp của họ. Thực hiện các nghi lễ cầu mùa
màng và biết cảm tạ thần linh khi có mùa màng bội thu đã trở thành phong tục của con
người thời kỳ Kofun. Trong các nghi lễ này, các vật dụng bằng đồng như chuông đồng,
kiếm đồng... được sử dụng và các hoạt động này thường được thực hiện theo cách thức tập
thể. Một điểm đáng chú ý trong thời kỳ Kofun là sự phổ biến của các ngôi mộ hình gò.
Khám phá và nghiên cứu về những ngôi mộ này cung cấp cho chúng ta một cái nhìn sâu
hơn về triết lý của người Nhật Bản thời cổ đại. Các ngôi mộ này tượng trưng cho vị thế và
sự giàu có của chủ nhân khi còn sống. Đặc biệt, hình dạng của các ngôi mộ thường có dạng
lỗ khoá, kết hợp giữa hình tròn và hình vuông. Hình tròn đại diện cho Trời, hình vuông đại
diện cho Đất. Ngôi mộ kết hợp hai hình dạng này phiên dịch cho sự hòa hợp giữa Trời và
Đất, đồng thời hào nước xung quanh tạo ra một ranh giới giữa thế giới của người đã khuất
và thế giới trần tục xung quanh. Hành động chôn cất các vật phẩm cũng được coi là nghi lễ
nhằm đảm bảo "cuộc sống sau khi qua đời" của chủ nhân. Điều này là một ví dụ rõ ràng
cho nhận thức rằng "Thần đạo không phải là một thực thể bất biến từ xa xưa" (Sueki
Fumihiko, 2011: 18). Quan tâm đến cái chết và kiếp sau chỉ tồn tại trong quan niệm Thần
đạo cổ đại, trong khi trong các giai đoạn sau này, chủ đề này ít được đề cập, cho thấy sự
biến đổi xã hội trong tôn giáo nói chung và Thần đạo nói riêng.
Thứ ba, về mặt tâm lý. Trong quá trình hình thành niềm tin tôn giáo ở Nhật Bản, một
yếu tố tâm lý quan trọng là lòng sùng bái tự nhiên và tôn kính đối với tổ tiên. Thần đạo
không phát triển dựa trên nỗi sợ hãi, mà dựa trên tâm lý tích cực. Điều này bắt nguồn từ
điều kiện tự nhiên đặc biệt của Nhật Bản. Dù gặp khó khăn và nguy hiểm từ thiên tai, con
người Nhật luôn biết ơn vì thiên nhiên là nguồn sống của họ. Hình ảnh các ngọn núi, như
núi Fuji và Ontake, rất quan trọng trong tâm thức người Nhật. Những ngọn núi này được
coi là linh thiêng, là nơi cư ngụ của các kami. Do đó, khi nhắc đến những dãy núi này,
người Nhật sẽ thêm từ "san" (sơn 神), có nghĩa là núi, sau tên của chúng, trong khi các dãy
núi thông thường khác sẽ chỉ được gọi bằng từ "yama". Tôn giáo của người Nhật cần được
hiểu từ một góc nhìn tích cực, với tôn giáo của họ tập trung vào tình yêu và lòng biết ơn, lOMoARcPSD| 61830286
thay vì sự sợ hãi. Nghi lễ tôn giáo của họ nhằm ca ngợi, cảm ơn và an ủi các thần thánh của họ.
Ngoài sự tác động tâm lý từ tự nhiên, môi trường xã hội cũng đóng vai trò quan trọng
trong hình thành tín ngưỡng và tôn giáo ở Nhật Bản. Trước khi có nhà nước, con người
sống trong các thị tộc, dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh. Thủ lĩnh được coi là người sáng lập
và có công với thị tộc, nên được kính trọng rất nhiều. Trong thị tộc, tồn tại một số gia đình
có mối quan hệ huyết thống, và người Nhật luôn tin rằng linh hồn của tổ tiên tiếp tục tồn
tại và có ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại. Sự kết nối giữa tổ tiên đã khuất và con người
hiện tại luôn tồn tại. Sự phát đạt và thành công mà con người hiện đang trải nghiệm được
coi là kết quả của sự truyền dịp từ tổ tiên, vì vậy việc tôn kính tổ tiên được coi là điều cần thiết.
Tín ngưỡng thờ kính tổ tiên không chỉ trong gia đình mà còn trải rộng đến cấp thị
tộc. Người Nhật cổ đại đã tôn trọng các thủ lĩnh thị tộc của mình, và ngay cả sau khi có nhà
nước, Thiên hoàng được coi là hiện thân của "cha, mẹ", nhận được sự sùng bái và tôn kính.
Điều này khác với một số quốc gia châu Á khác, nơi vua được coi là một dạng thần linh và
phải thần phục. Trái ngược với điều đó, người Nhật thường có xu hướng biết ơn vì sự bảo
hộ của những người lãnh đạo đối với cộng đồng. Yếu tố tâm lý tích cực này có thể là nguồn
gốc của sức mạnh và sự vững chắc của Thần đạo, tôn giáo của dân tộc, mặc dù vẫn còn một
số yếu tố chưa được thống nhất hoàn toàn. Ban đầu, tôn giáo ở Nhật Bản có mối liên kết
chặt chẽ với sự đoàn kết của các gia tộc và việc hình thành chính quyền dưới sự lãnh đạo của Thiên hoàng. 1.2.1.2. Phật giáo
Theo quy luật tiến hóa văn hóa, khi một yếu tố văn hóa ngoại nhập vào một vùng
đất, nó sẽ phải thay đổi để phù hợp với yêu cầu địa phương. Quá trình đưa Phật giáo vào
Nhật Bản cũng tuân theo quy luật này. Phật giáo ở Nhật Bản đã trải qua nhiều biến đổi đến
mức một số yếu tố của nó đã khác biệt căn bản so với Phật giáo ở Ấn Độ và Trung Quốc.
Những biến đổi ban đầu này được tạo ra bởi môi trường kinh tế - xã hội và yêu cầu văn hóa lOMoARcPSD| 61830286
của người Nhật, nhưng sau đó, chúng thậm chí đã trở thành nguồn cảm hứng cho sự phát
triển văn hóa Nhật Bản trong tương lai. Do đó, mặc dù hiện diện trong một xã hội hiện đại,
văn hóa Nhật Bản vẫn giữ được tình yêu thương và tính nhẹ nhàng của đạo Phật, tính linh
hoạt và sự kiên nhẫn của võ thuật, sự thực dụng của nguyên tắc Khổng giáo, lòng mơ mộng
của thiền định, tôn trọng vật chất và yêu thích cái đẹp, cùng với tư duy hài hòa và logic sắc
bén và nhiều khía cạnh khác.
Sau quá trình nghiên cứu về sự lan truyền của Phật giáo vào Nhật Bản, đã được xác
định một số đặc điểm quan trọng như sau:
Một số điểm quan trọng về quá trình du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản có thể
được tóm gọn như sau, theo một cách diễn đạt khác:
Thứ nhất, Phật giáo đã được du nhập vào Nhật Bản muộn hơn so với các quốc gia
khác trong khu vực. Theo các nguồn sử liệu còn tồn tại, Phật giáo xuất hiện ở Nhật Bản vào
thế kỷ thứ sáu. Việc du nhập Phật giáo vào Nhật Bản chủ yếu thông qua hai con đường:
Trung Quốc và Triều Tiên. Cuốn sách "Lịch sử Phật giáo thế giới" trích dẫn từ "Phù Tang
lược ký" ghi nhận sự xuất hiện của Phật giáo tại Nhật Bản vào tháng 2 năm thứ 16 sau khi
Kế Thể Thiên Hoàng tức vị. Theo nguồn sử liệu trên, vào tháng 10 năm 522, Thánh Minh
Vương của Bách Tế trên bán đảo Triều Tiên đã gửi một đoàn người dẫn đầu bởi Cơ Thị
Đạt đến Nhật Bản để tặng một tượng Phật Thích Ca bằng đồng và cờ phướn, kinh luân. Các
nhà nghiên cứu ở Nhật Bản thường gọi hai con đường du nhập Phật giáo này là "Tư truyền"
và "Công truyền" để phân biệt giữa việc Phật giáo được truyền bá từ dân gian và từ chính phủ.
Phật giáo đã được du nhập vào Nhật Bản muộn hơn so với một số nước khác trong
khu vực, và con đường truyền bá của nó đã trải qua nhiều quốc gia trung gian, dẫn đến sự
biến đổi và không còn nguyên vẹn như nguyên mẫu gốc. Tuy nhiên, điều quan trọng là Phật
giáo ở Nhật Bản đã chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ các yếu tố tín ngưỡng bản địa, đặc biệt
là tục thờ Kami (thần linh trong đạo Shinto). Điều này cho thấy trong lịch sử Phật giáo ở lOMoARcPSD| 61830286
Nhật Bản luôn tồn tại sự đấu tranh và xung đột trong cuộc sống tín ngưỡng của cá nhân và
cả xã hội, giữa việc tôn thờ Phật và thần linh.
Thứ hai, khi Phật giáo được đưa vào Nhật Bản, nó đã gặp phải một bối cảnh đặc biệt,
trong đó người Nhật đã có một truyền thống tín ngưỡng vững chắc từ thời cổ đại, tôn thờ
Thần trong Thần đạo. Kami là những thực thể trừu tượng, không có hình dạng riêng, và tồn
tại ngoài sự kiểm soát của con người. Tôn thờ Kami trong Shinto được coi là cao cấp hơn
con người với kiến thức và quyền lực, và Kami có thể mang lại phúc lợi hoặc tai họa tùy
thuộc vào thái độ và đối xử của con người. Kami có thế giới riêng và có thể can thiệp vào
mục đích của con người, nhưng chúng không đại diện cho một sự thật tối cao.
So với Thần đạo, Phật giáo có những khác biệt căn bản. Phật giáo tôn thờ một hình
thể cụ thể, trong khi Kami là trừu tượng. Trong Phật giáo, con người chịu trách nhiệm về
hành động của mình và không kỳ vọng vào sự ban phát từ Phật. Trong đạo Shinto, Kami
được tôn thờ như một thế lực ban phát, trong khi Phật giáo đại diện cho sự hiện thực tối
cao. Shinto không có một hệ thống giá trị đạo đức được coi là chân lý, trong khi Phật giáo
đã đóng góp vào việc bổ sung và điền đầy những khoảng trống nhận thức mà Shinto không
thể có. Do đó, mặc dù đã có xung đột giữa Shinto và Phật giáo trong lịch sử Nhật Bản,
nhưng Phật giáo đã mang đến những khái niệm về đạo đức như lòng thương xót, anh minh,
lòng từ bi và lòng nhân ái cho văn hóa Nhật Bản.
Để một tôn giáo ngoại nhập có thể tồn tại trong một khu vực, nó không thể không
tương tác với tôn giáo truyền thống đang tồn tại. Trong trường hợp này, khi Thần đạo đã
trở thành một tôn giáo phổ biến trong cộng đồng và có nhiều khác biệt so với Phật giáo,
quá trình du nhập trở nên khó khăn hơn.
Thứ ba, trong văn hóa và tín ngưỡng của Nhật Bản, Phật giáo đã trải qua một quá
trình thích nghi và biến đổi, khiến nó khác biệt so với nguyên mẫu Phật giáo. Để bắt rễ
trong xã hội Nhật Bản, Phật giáo không thể sử dụng lý luận trừu tượng mà phải sử dụng ma
thuật và những lời hứa về sự bảo vệ và cứu giúp từ các Bồ tát. Do đó, trong hai thế kỷ qua,
tôn giáo này đã được hiểu đơn giản như "một phương tiện hiệu quả để mang lại những phúc lOMoARcPSD| 61830286
lợi trần tục mà con người luôn tìm kiếm từ các vị thần trong Shinto". Triều đình đã nhanh
chóng chấp nhận Phật giáo vì nhận thấy rằng nó mang lại sự an lành, sự phát triển của tự
nhiên và đóng góp vào sự thịnh vượng của đất nước.
Phật giáo ở Nhật Bản luôn theo hai khuynh hướng để thu hút mọi đối tượng. Khuynh
hướng đầu tiên dành cho đại chúng, thường cung cấp các dịch vụ quan trọng như chữa bệnh,
tìm kiếm đối tác phù hợp hoặc chăm sóc người đã qua đời bằng các nghi lễ cầu hồn, nhằm
đem lại sự an tâm về linh hồn của người đã khuất. Một quan điểm khác nhìn nhận rằng
khuynh hướng thứ hai phục vụ những người tin rằng thế giới này là một hiện thực hư ảo và
mang đến đau khổ. Đối với những người này, Phật giáo cung cấp phương tiện để thay đổi
nhận thức, chẳng hạn như việc tu tập Thiền.
Trong giai đoạn đầu của Phật giáo Nhật Bản, do ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ thần
truyền thống, việc cầu mong công đức được coi trọng. Người ta không quá quan tâm đến ý
nghĩa tâm linh mà chỉ hy vọng sử dụng chú nguyện để kéo dài tuổi thọ, tránh tai họa, chữa
bệnh, cầu mưa và bảo vệ nguồn nước. Người ta thực hiện các nghi lễ Phật với tâm lý cầu
thần, mong muốn có một cuộc sống hiện thực yên bình và như ý.
Thứ tư, trong xã hội Nhật Bản trong thời kỳ thị tộc, mỗi gia tộc tôn thờ các vị thần
riêng của mình, tạo nên sự đa dạng trong thực hành thờ cúng của Thần đạo. Có những vị
thần được tôn thờ trong tự nhiên như cây cối, núi non, mặt trời, và cũng có những vị thần
liên quan đến các nghề thủ công, mang lại sức mạnh và may mắn cho ngư dân và thợ săn.
Có những vị thần sống như các chuyên gia tôn giáo hoặc những người đã rèn luyện để hòa
nhập và hóa thân thành các Kami. Trong xã hội Nhật Bản, có các Kami bảo vệ cá nhân, gia
đình và dòng tộc, cũng như các Kami bảo hộ cho các đảo hoặc bảo vệ Hoàng gia. Một số
Kami khi được tôn thờ có khả năng chuyển từ trạng thái thần phá phách sang trạng thái hỗ
trợ, sẵn lòng giúp đỡ con người.
Sự đa dạng của các Kami là biểu hiện của tư duy phong phú và phổ biến trong văn
hóa Đông Á. Tuy nhiên, khi thờ cúng đa dạng và phức tạp, niềm tin cũng trở nên đa dạng
và phức tạp. Tình hình này phản ánh sự đa dạng giữa các thị tộc trên quần đảo Nhật Bản, lOMoARcPSD| 61830286
không đặt nền tảng cho sự đồng nhất quốc gia. Trong ngữ cảnh đó, Phật giáo nhanh chóng
được chấp nhận bởi Hoàng gia và người dân Nhật Bản. Sự kiện này đã tạo ra một cơ sở cho
sự hòa hợp trong niềm tin và từ đó tạo điều kiện cho sự đoàn kết quốc gia. Vì lý do đó, các
Thiên Hoàng của Nhật Bản không chỉ là nhà lãnh đạo chính trị, mà còn là nhà lãnh đạo tôn
giáo. Nơi ở của Thiên Hoàng cũng là nơi có sự hiện diện của các thần linh, và chỉ sau năm
1945, khi Nhật Bản thất bại trong chiến tranh, Thiên Hoàng mới được xem như một con người.
Việc tiếp nhận Phật giáo ở Nhật Bản không chỉ dựa trên nền tảng Shinto, mà còn
phụ thuộc vào một hệ thống tín ngưỡng khác nhằm phục vụ cả người dân và lợi ích của giới
cầm quyền. Điều này tạo nên một sự kết hợp giữa Thần và Phật, trong đó yếu tố Thần chiếm ưu thế.
1.2.2. Quá trình phát triển 1.2.2.1. Thần đạo
Kể từ khi nhà nước Yamato ra đời, đến khoảng thế kỷ thứ V, Nhật Bản đã trở thành
một quốc gia ổn định. Bên cạnh việc thờ cúng Nữ thần Amaterasu như vị thần tối cao, đất
nước này đã trải qua một giai đoạn phát triển tương đối về mặt tôn giáo và xã hội. Trong
quá trình lịch sử của Nhật Bản, trước khi nhà nước Yamato ra đời, nhiều yếu tố văn hóa từ
nước ngoài đã được tiếp nhận. Tuy nhiên, nhờ yếu tố bản địa liên tục và bền vững, văn hóa
bản địa đã phát triển mạnh mẽ. Đồng thời, vị trí địa lý độc đáo của Nhật Bản đã giới hạn sự
ảnh hưởng của yếu tố ngoại lai, không rõ ràng. Theo thời gian, sự nhập cư của những người
mang theo các ngành nghề đặc trưng đã góp phần phát triển kinh tế và một yếu tố quan
trọng đã thay đổi sâu sắc lịch sử và văn hóa của đất nước này, đó là chữ viết.
Với việc sử dụng chữ viết, chính quyền Yamato đã có thể soạn thảo các văn bản hành chính,
lưu trữ kiến thức, và việc biên soạn Cổ sự ký (Kojiki 神神神) và Nhật Bản thư kỷ (Nihonshoki
神神神神) đã đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu về sự phát triển của tín ngưỡng Thần
đạo cho đến thời điểm đó. Thần đạo có hai hình thức chính là Thần đạo tại đền (Jinja Shinto
神神神神) và Thần đạo dân gian (Minkan Shinto 神神神神). Thần đạo tại đền có nguồn gốc từ lOMoARcPSD| 61830286
thời kỳ nguyên thủy và đã chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo nhập khẩu, chia thành nhiều
hướng phát triển khác nhau như Thần đạo Hoàng gia (Koushitsu Shinto 神神神神), Thần đạo
học phái (Gakuha Shinto 神神神神), Thần đạo quốc gia (Kokka Shinto 神神神神), và Thần
đạo giáo phái (Kyouha Shinto 神神神神). Trong khi đó, Thần đạo dân gian phát triển chủ yếu
trong cộng đồng với các nghi lễ và tập tục tương tự như Shaman giáo.
Theo Kojiki (Cổ sự ký 神神神), từ “Thần đạo” xuất hiện vào thế kỷ thứ VI. Từ đó,
trong quá trình phát triển, Thần đạo luôn thể hiện tính chất hòa hợp với các yếu tố của các
tôn giáo khác. Có thể tóm gọn thành các giai đoạn chính như sau:
Thứ nhất, giai đoạn đầu tiên là "kỷ nguyên của các vị thần" kamiyo (神神 thần đại).
Giai đoạn này được phản ánh chủ yếu trong Kojiki và Nihonshoki. Kojiki được xem là một
trong những tác phẩm cổ nhất của Nhật Bản, được tổng hợp và biên soạn từ các nguồn tư
liệu sớm nhất vào những năm 712 bởi Ono Yasumaro (神神神神 Thái An Vạn Lữ). Những
tư liệu này được ghi chép hoặc truyền miệng từ các thị tộc (uji 神 thị) có quyền lực trong
thời kỳ Nara, đặc biệt là thị tộc Yamato. Trong giai đoạn này, Nhật Bản đã mượn nhiều yếu
tố văn hóa từ Trung Hoa. Không chỉ sử dụng chữ Hán để viết các biên niên sử, mà Ono
Yasumaro cũng đã học hỏi và áp dụng sự thần thánh hóa quyền lực của các vị vua Trung
Hoa vào việc cai trị mạnh mẽ của thị tộc Yamato. Trong phần mở đầu của tác phẩm,
Yasumaro đã giới thiệu về việc hình thành vũ trụ và sự ra đời của các vị thần trong Thần
đạo từ thời kỳ ban đầu. Theo câu chuyện, quần đảo Nhật Bản được tạo ra bởi hai vị thần
nguyên thủy là Izanagi và Izanami. Sau đó, Nữ thần Amaterasu được sinh ra và cùng với
sự mở rộng tầm ảnh hưởng của Amaterasu trên đất trời, Thiên hoàng Jimmu, tổ tiên của các
Thiên hoàng sau này, đã xuất hiện.
Đáng chú ý là trong thời kỳ này, vẫn tồn tại nhiều thị tộc khác nhau có sự ảnh hưởng
đến những vấn đề chính trị. Do đó, việc đặt quá nhiều sự nhấn mạnh vào nguồn gốc của thị
tộc Yamato đã gây phản đối từ các thị tộc lớn khác. Điều này đã dẫn đến việc biên soạn
Nihonshoki. Do sức ép từ các thị tộc quan trọng, Nihonshoki đã trở thành một tác phẩm
tổng hợp các sự kiện thần thoại từ nhiều quan điểm khác nhau, chiếu cố nhiều quan điểm
về nguồn gốc lãnh đạo của các thị tộc. Kết quả là tác phẩm trở nên rắc rối, phức tạp và thậm lOMoARcPSD| 61830286
chí có sự mâu thuẫn giữa các câu chuyện. Tuy nhiên, việc viết Nihonshoki vào năm 720 đã
đánh dấu một sự thay đổi đáng kể trong việc khám phá sự đa dạng của Thần đạo cổ đại và các vị thần trong nó.
Nếu Amaterasu được coi là Ujigami của tộc Yamato, thì tộc Inbe cũng xưng là con
cháu của Futodama. Futodama là vị thần chủ trì các nghi lễ quan trọng trong các sự kiện
của các vị thần, và là một trong năm vị thần lãnh đạo các tộc người được gửi xuống trần
gian cùng lúc với Ninigi (cháu của Amaterasu) khi bắt đầu mở rộng quyền lực cai trị của
mình. Tương tự, tộc Izumo là hậu duệ của Amenohohi, và tộc Fujiwara là hậu duệ của
Kogotomusubi. Điều này cho thấy các thị tộc lớn cũng nổ lực tìm cách củng cố ảnh hưởng
cho tộc của mình và có thể có nguồn gốc từ những vị thần quan trọng này, giúp các thị tộc
duy trì quyền lực bên cạnh tộc Yamato của Nữ thần Amaterasu.
Dù cả Kojiki và Nihonshoki đều thể hiện sự tác động từ văn hoá Trung Hoa theo các
cách độc đáo, điểm tương đồng giữa hai tác phẩm này là chú trọng vào việc giải thích nguồn
gốc thần thánh của Nhật Bản. Theo đó, vào thời kỳ ban đầu của vũ trụ, khi mọi thứ còn hỗn
loạn và mờ mịt, bảy thế hệ các vị thần đã xuất hiện liên tiếp, ban đầu là các vị thần vô hình,
cho đến thế hệ thứ tám là Izanagi và Izanami. Sau khi tạo ra hòn đảo Onogoro, Izanagi và
Izanami giảm xuống thiên giới và từ đó các vị thần khác được hình thành. Trong quá trình
tẩy uế sau khi trở về từ âm phủ, Amaterasu, một vị thần cao nhất, đã sinh ra từ Izanagi.
Amaterasu được Izanagi truyền quyền cai trị, mặc dù bị em trai Susano phản đối. Amaterasu
đã vượt qua mọi khó khăn và cuối cùng đạt được chiến thắng, được các vị thần công nhận
với sự tài năng và phẩm chất hoàn hảo. Do đó, hậu duệ của Amaterasu được công nhận là
những người cai trị hạ giới.
Các câu chuyện trong Kojiki và Nihonshoki chứa các chi tiết quan trọng trong việc
thiết lập chế độ cai trị của Thiên hoàng. Con cháu của Amaterasu, những người đã nhận
được quyền lực từ Izanagi, được coi là những vị thần quan trọng trong lịch sử Nhật Bản.
Amaterasu cũng đã chiến thắng trong cuộc đấu với Susano, cho thấy tài năng của mình.
Ngay cả khi Amaterasu tự nhốt mình trong hang đá sau khi Susano không công nhận chiến
thắng của cô, sự hỗn loạn đã xảy ra. Vai trò của Amaterasu trong thế giới này được xã hội