



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58950985 TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM TIỂU HỌC Tên đề tài:
Đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học : lOMoAR cPSD| 58950985
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến tất cả quý thầy, cô đã hướng dẫn, giảng dạy
trong học kì I năm học 2021-2022 vừa qua. Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến với mẹ
của mình. Cảm ơn các bạn lớp 21STH07 đã cùng đồng hành, giúp đỡ; cùng đóng góp ý
kiến và cùng hoàn thành tốt các nhiệm vụ, bài tập nhóm thầy, cô giao.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến giảng viên bộ môn – Cô TS. Lê Mỹ
Dung đã rất nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ; đã dạy dỗ và tâm huyết cung cấp,
truyền đạt những kiến thức quý giá cho chúng em trong suốt thời gian học tập vừa qua.
Trong thời gian tham gia lớp học Tâm lý học sư phạm tiểu học của cô, em đã trau dồi cho
bản thân nhiều kiến thức bổ ích để có thể ứng dụng vào thực tế, tinh thần học tập nghiêm
túc và hiệu quả. Đây chắc chắn sẽ là những kiến thức có giá trị sâu sắc, là hành trang để em vững bước sau này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng bài tiểu luận chắc chắn còn nhiều thiếu sót, kính
mong cô xem xét và góp ý để bài tiểu luận của em được hoàn thiện và tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn. lOMoAR cPSD| 58950985 MỤC LỤC Trang
I. Đặc điểm các quá trình tâm lý của lứa tuổi học sinh tiểu học
1. Đặc điểm các quá trình nhận thức của lứa tuổi học sinh tiểu học
1.1. Nhận thức cảm tính ……………………………………………………………..5
1.2. Nhận thức cảm tính………………………………………………...................... 18
2. Đặc điểm đời sống tình cảm của lứa tuổi học sinh tiểu
học……………………………………………………………………………..… …44
3. Đặc điểm ý chí, ý thức của lứa tuổi học sinh tiểu học 3.1 Đặc điểm ý chí của lứa tuổi học sinh tiểu
học………………………………………………...................................................... 54
3.2. Đặc điểm ý thức của lứa tuổi học sinh tiểu
học…………………………………………………………………………………... 61
4. Khó khăn tâm lý của học sinh tiểu học:…………………………………………… 65
II. Đề xuất biện pháp dạy học và giáo dục nhằm giúp học sinh khắc phục khó khăn và
phát triển tâm lý ……………………………………………………………………… 71
III. kế hoạch rèn luyện phát triển phẩm chất và năng lực của người giáo viên tương
lai………………………………………………………………………………………..73 lOMoAR cPSD| 58950985 MỞ ĐẦU
Trong hệ thống giáo dục phổ thông, bậc tiểu học là nền tảng làm cơ sở quan trọng cho
việc phát triển đúng đắn, lâu dài đạo đức, nhân cách, kĩ năng cơ bản, trí tuệ cho các em
để tiếp tục học ở bậc cao hơn. Đặc biệt, trong đó, lớp một đóng vai trò vô cùng quan
trọng, và là một bước ngoặt trong cuộc đời đối với mỗi em học sinh.
Mỗi độ tuổi từ lớp một đến lớp năm của bậc tiểu học, các em học sinh đều có những
khó khăn riêng. Tuy nhiên, đối với học sinh đầu bậc tiểu học , việc chuyển đổi hoạt
động chủ đạo từ vui chơi, thoải mái ở trường mẫu giáo sang học tập ở một môi trường
mới, tuân theo các quy định, nề nếp mới, tham gia một cuộc sống mới sẽ có nhiều khó
khăn hơn cả. Vì vậy, với tư cách là giáo viên tiểu học, cần hiểu, nhận thức, nắm được
tâm lý của học sinh bậc tiểu học.
I. Đặc điểm các quá trình tâm lý của lứa tuổi học sinh tiểu học
1. Đặc điểm các quá trình nhận thức của lứa tuổi học sinh tiểu học Khái niệm Nhận thức
Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới
khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể.
Theo quan điểm triết học Mac-Lenin, nhận thức được định nghĩa là quá trình phản ánh biện chứng
hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động,
Theo đó nhận thức được cho là quá trình phản ánh năng động và sáng tạo hiện thực khách
quan vào bộ não con người. Nhờ hoạt động nhận thức, không chỉ cái bên ngoài mà cả bản chất nên
trong, các mối quan hệ mang tính quy luật chi phối sự vận động, sự phát triển các sự vật hiện tượng,
không chỉ phản ánh cái hiện tại mà cả cái đã qua và cái sẽ tới. Hoạt động này bao gồm nhiều quá trình
khác nhau thể hiện nhiều mức độ phản ánh hiện thực khách quan và mang lại những sản phẩm khác
nhau về hiện thức khách quan.
Sau khi tìm hiểu về nhận thức là gì thì chúng ta cần quan tâm đến các giai đoạn của quá trình nhận
thức. Theo quan điểm tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người đi từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Con đường nhận thức đó được
thực hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ
hình thức bên ngoài đến bản chất bên trong. Căn cứ vào tính chất phản ánh có thể chia toàn bộ hoạt
động nhận thức thành 2 giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính.
1.1. Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính hay còn được biết tới là trực quan sinh động (phản ánh thuộc tính bên
ngoài thông qua cảm giác và tri giác) là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đây là
một trong các giai đoạn của quá trình nhận thức mà con người sử dụng các giác quan để tác
động vào sự vạt, sự việc nhằm nắm bắt sự vật, sự việc ấy. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau: lOMoAR cPSD| 58950985
1.1.1. Cảm giác Khái niệm
Cảm giác là một quá trình tâm lí phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính của sự vật
và hiện tượng trong thực tại khách quan, khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan
của ta. ở con người, cảm giác là mức độ định hướng sơ khai, đơn giản nhất mang bản chất
xã hội – lịch sử, được phát triển nhờ hoạt động – giao tiếp. Trong cơ chế sinh lí của nó,
ngoài hệ thống tín hiệu thứ nhất ra còn có cả cơ chế thuộc hệ thống tín hiệu thứ hai.
Ví dụ: khi ta nhắm mắt, một người bạn đặt vào lòng bàn tay ta cục đá to. Nếu không sờ
mó, nắm, bóp, ta chỉ có thể cảm nhận được cục đá nặng và lạnh. Vai trò:
Cảm giác đóng vai trò là cơ sở cho mọi hoạt động nhận thức của con người. Cảm giác
có các đặc điểm cơ bản như mang tính xã hội – lịch sử, có tính quá trình, phản ánh một
cách trực tiếp từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng. Ngôn ngữ có tác dụng làm
tăng hay giảm cảm giác. Cảm giác tuy là quá trình phản ánh thấp nhất nhưng lại có vai trò
rất quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
- Các loại cảm giác
Theo vị trí của nguồn kích thích gây ra cảm giác, người ta chia nó thành hai loại là cảm
giác ngoài gồm có các cảm giác nhìn, nghe, ngửi, nếm, xúc giác da và cảm giác bên trong
bao gồm các cảm giác vận động – sờ mó, thăng bằng, rung và cảm giác cơ thể.
- Những quy luật cơ bản của cảm giác
Qui luật ngưỡng cảm giác:
Muốn có cảm giác thì phải có sự kích thích vào các giác quan, nhưng không phải
bất cứ kích thích nào tác động vào giác quan cũng đều gây ra cảm giác. Muốn gây ra cảm
giác thì kích thích đó phải đạt tới một giới hạn nhất định. Giới hạn đó được gọi là ngưỡng
cảm giác. Có hai loại ngưỡng cảm giác: ngưỡng phía dưới và ngưỡng phía trên.
+ Ngưỡng phía dưới là cường độ tối thiểu đủ để gây được cảm giác. Khả năng cảm
nhận được kích thích này gọi là độ nhạy cảm của cảm giác
Ví dụ: một người có đôi tai rất thính có nghĩa là với âm thanh khá nhỏ, trong khi người
khác chưa nghe thấy thì người đó đã nghe thấy. Ngưỡng tai người có thính giác
nhạy: 10-35 Db như tiếng lá rơi, hơi thở của con người. lOMoAR cPSD| 58950985
+ Ngưỡng cảm giác phía trên là cường độ tối đa của kích thích vẫn còn gây được cảm giác.
Ví dụ: Thông thường, ngưỡng chói tai là 140 dB như còi xe cứu hỏa. Tuy nhiên
một số người có ngưỡng chói tai ở mức 115 dB như tiếng nhạc rock.
Phạm vi giữa hai ngưỡng cảm giác có những vùng cảm giác được,
trong đó có một vùng phản ánh tốt nhất, giúp ta nhận biết đối tượng một cách rõ ràng chính xác.
Ngưỡng sai biệt là mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc tính
chất của hai kích thích đủ để phân biệt được sự khác biệt của hai kích thích đó.
Ngưỡng sai biệt càng lớn thì độ nhạy cảm của cảm giác nhỏ và ngược lại ngưỡng
sai biệt nhỏ thì độ nhạy cảm của cảm giác càng cao.
Qui luật thích ứng cảm giác
Để đảm bảo cho sự phản ánh được tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh khỏi bị hủy hoại,
cảm giác của con người có khả năng thích ứng với kích thích.
Tính thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho
phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích. Có nghĩa là khi cường độ kích
thích tăng thì độ nhạy cảm của cảm giác giảm, khi cường độ kích thích giảm thì
tăng độ nhạy cảm của cảm giác.
Ví dụ: khi ta đang ngâm hai bàn tay vào nước nóng (cường độ kích
thích mạnh) mà sau đó nhúng vào trong nước lạnh (cường độ kích thích yếu) thì
ta cảm thấy nước ở bàn tay cũng trở nên rất lạnh (thích ứng). Trong trường hợp
này đã xảy ra hiện tượng tăng độ nhạy cảm của cảm giác.
Qui luật thích ứng có ở tất cả các loại cảm giác, nhưng mức độ thích
ứng ở các cảm giác khác nhau thì khác nhau. Có những loại cảm giác có khả năng
thích ứng cao như thị giác, cảm giác đau thì khả năng thích ứng rất kém. Khả năng
thích ứng của cảm giác có thể phát triển do hoạt động và rèn luyện. Nhờ có tính
thích ứng mà cảm giác của con người có thể phản ánh những kích thích có cường
độ biến đổi trong một phạm vi rất lớn.
Ví dụ: Những người làm việc và sinh sống ở nước Nga có khả năng chịu lạnh cao hơn
người làm việc và sống ở Việt Nam vào mùa đông. lOMoAR cPSD| 58950985
Qui luật tác động qua lại giữa các cảm giác
Tác động qua lại giữa các cảm giác là sự thay đổi tính nhạy cảm của một cảm giác
này dưới ảnh hưởng của một cảm giác kia. Cụ thể:
Khi kích thích nhẹ vào cơ quan phân tích này sẽ tăng độ nhạy cảm của cơ quan phân tích kia.
Ví dụ: Khi ta nghe những bài hát nhẹ nhàng sẽ làm tăng tính nhạy cảm nhìn mọi
vật xung quanh.
Kích thích mạnh vào cơ quan phân tích này sẽ làm giảm độ nhạy của cơ quan phân tích kia.
Ví dụ: khi ta bị đau bệnh thì lúc ăn sẽ không còn cảm thấy ngon miệng như bình
thường hoặc không muốn ăn.
Sự tác động qua lại giữa các cảm giác còn được thể hiện ở chỗ là từ một cảm
giác này có thể tạo ra một cảm giác khác. Chẳng hạn ta lấy hai thanh tre, nứa cọ vào
nhau, lúc đầu ta có cảm giác về âm thanh nhưng nghe một hồi thì ta cảm thấy gai người (cảm giác cơ thể).
Sự tác động qua lại giữa các cảm giác diễn ra đồng thời hay nối tiếp trên cơ
sở những cảm giác đồng loại hay khác loại sẽ tạo ra sự tương phản giữa các cảm giác.
Ví dụ: + Khi đặt hai tờ giấy trắng A4 lên một nền đen và một nền xám, thì tờ giấy
trắng trên nền đen ta có cảm giác trắng hơn trên nền xám.
+ Sau khi ta ăn một cái kẹo liền ăn một quả chuối, thì không còn cảm giác quả
chuối ngọt như trước nữa.
Mỗi con người cần rèn luyện cho cảm giác thêm tinh, thêm thính, phải giữ gìn các cơ quan
phân tích làm cơ sở để phát triển tính nhạy cảm của cảm giác.
Vì cảm giác là cơ sở đầu tiên của mọi sự hiểu biết của con người nên cần phải giáo dục
cho trẻ biết cách bảo vệ giác quan của mình và rèn luyện để không ngừng phát triển năng
lực cảm giác. Có thể coi cảm giác như là một quá trình, một hành động hoặc một hoạt động nhận thức.
1.1.2. Tri giác - Khái niệm: lOMoAR cPSD| 58950985
Tri giác là một quá trình tâm lí, phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của
sự vật và hiện tượng trong thực tại khách quan khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan của chúng ta.
Ví dụ: Khi ta nhìn thấy quả cam sành, nó sẽ cho ta biết quả cam hình tròn màu xanh,
khi ta sờ vào quả cam tri giác cho ta cảm thấy vỏ quả cam sần sùi, khi ta đưa quả cam
lên ngửi ta sẽ ngửi thấy mùi thơm.
- Vai trò : Tri giác là thành phần chính trong nhận thức cảm tính, là
điều kiện quan trọng cho sự định hướng hành vi và hoạt động của
con người trong thế giới khách quan. Dựa vào các hình
ảnh của tri giác, con người điều chỉnh hoạt động của mình để thích
hợp với sự vật hiện tượng khách quan. Tri giác có vai trò tích cực
trong việc điều chỉnh hành động của con người.
Quan sát là hình thức cao nhất của tri giác, trở thành một bộ phận không thể thiếu
của hoạt động và là một phương pháp nghiên cứu khoa học.
- Các loại tri giác: Ta có các loại tri giác sau Tri giác không gian:
Định nghĩa: Tri giác không gian phản ánh khoảng không gian tồn tại khách quan của sự
vật hiện tượng. Tri giác không gian bao gồm:
+ Tri giác hình dạng sự vật,
+ Tri giác độ lớn của vật,
+ Tri giác chiều sâu, độ xa và các phương hướng.
Tri giác không gian có vai trò quan trong trong sự tác động qua lại của con người với
môi trường, là điều kiện cần thiết để con người định hướng trong môi trường.
Ví dụ: + Khi em nói em gái của em đi mua đồ ăn sáng gần trường THCS Lê Độ,
thì tri giác vận động giúp em ấy biết con đường đến trường Lê Độ dài 1 km, phải
đi thẳng đường Ngô Quyền sau đó đến đường Nguyễn Trung Trực thì rẽ trái , nhìn
thấy trường Lê Độ, bên cạnh là quán bán đồ ăn.
+ Khi được hỏi về biển, thì các em học sinh sẽ nhận biết được biển rất bao
la, rộng lớn và biển rất sâu
Tri giác thời gian
Tri giác thời gian phản ánh độ dài lâu, tốc độ và tính kế tục khách quan của sự vật hiện
tượng trong thế giới khách quan. Cơ chế của việc tri giác thời gian gắn với sự tiếp diễn
liên tục và nhịp trao đổi sinh học của các quá trình cơ thể. Trong đó nhịp của hệ tuần lOMoAR cPSD| 58950985
hoàn và nhịp hệ tiêu hoá đóng vai trò quan trọng. Các nghiên cứu cho thấy rằng khi dùng
một số thuốc làm thay đổi nhịp sinh học, sẽ dẫn tới sự thay đổi của tri giác thời gian.
Các nhân tố ảnh hưởng tới tri giác thời gian.
+ Tuổi và kinh nghiệm: Trẻ em chưa biết phân biệt thời gian, dần dần trẻ mới học được cách tri giác thời gian.
+ Động cơ, trạng thái tâm lí.
Ví dụ: Học sinh lớp 1,2,3 chưa thể coi giờ một cách chính xác, chưa nhận biết
được giờ kém, giờ hơn; nhưng học sinh lớp 5 trở lên đã có thể coi giờ chính xác,
tri giác được thời gian. Và học sinh tiểu học khó hình dung về thế kỷ như năm
2015 thuộc thế kỷ nào thì các em khó trong việc tri giác thời gian •
Tri giác vận động: phản ánh sự biến đổi vị trí của các sự vật trong không gian.
Bao gồm sự thay đổi vị trí, hướng, tốc độ. Ví dụ:
+ Khi ta đi xe trên đường, chúng ta nhìn thấy cây cối, nhà cửa xung quanh lúc
đầu to, gần, rõ rệt; nhưng xe càng chuyển động xa dần, các sự vật đó càng dịch
chuyển ra xa hơn, mờ hơn, nhỏ bé hơn và với tốc độ nhanh về phía sau. + Khi
đưa ngón tay trỏ gần ngay trước mắt ta, thì ngón tay trỏ rất to, chắn hết tầm
nhìn ở giữa hai mắt, không nhìn rõ được nhưng khi di chuyển ngón tay trỏ ra
xa hơn ta nhìn thấy ngón trỏ rõ hơn, nhỏ hơn, xa hơn. •
Tri giác con người
Tri giác con người là quá trình nhận thức lẫn nhau của con người trong quá trình
giao lưu trực tiếp. Đối tượng của tri giác con người là đối tượng đặc biệt. Trong quá
trình tri giác con người, các chủ thể tập trung chủ yếu vào việc tri giác các đặc điểm
và giá trị xã hội của con người.
Ví dụ: học sinh chính là sự phản ánh lại một cách trọn vẹn của thầy cô qua việc
lĩnh hội tri thức, nhân cách, quan sát và giao tiếp mỗi ngày. Các em có thể học theo
và có những thói hư tật xấu hay có những đức tính tốt đẹp nên gíao viên đòi hỏi phải
có những chuẩn mực trong ứng xử •
Quan sát và năng lực quan sát lOMoAR cPSD| 58950985
Quan sát là một hình thức tri giác cao nhất, là loại tri giác có chủ định, diễn ra tương
đối độc lập và lâu dài nhằm phản ánh nhanh chóng, đầy đủ, và chính xác những điểm
quan trọng, chủ yếu và đặc sắc của sự vật, hiện tượng và những biến đổi của chúng.
Quan sát là quá trình tri giác mang tích cực nhất, chủ động và có mục đích rõ rệt.
Quá trình quan sát trong hoạt động đặc biệt trong rèn luyện để hình thành năng lực
quan sát. Năng lực quan sát ở mỗi người khác nhau là khác nhau, nó phụ thuộc vào
đặc điểm nhân cách và biểu hiện ở sự thay đổi linh hoạt các kiểu tri giác như: kiểu
tri giác tổng hợp, kiểu tri giác phân tích, kiểu cảm xúc chú ý tâm trạng xúc cảm và
đối tượng gây ra.
Xuất phát từ những hiểu biết về quan sát và năng lực quan sát, Giáo viên cần hình
thành ở học sinh tiểu học kỹ năng phản ánh hiện thực một cách khách quan nhất,
dạy trẻ các thao tác tư duy như phân tích tổng hợp, so sánh.
- Tổ chức tốt quá trình quan sát theo các yêu cầu sau: •
Xác định rõ ràng mục đích ý nghĩa nhiệm vụ quan sát •
Chuẩn bị chu đáo vị trí thức phương tiện trước khi quan sát •
Tiến hành quan sát có kế hoạch có hệ thống •
Khi quan sát cần bất cập sử dụng các phương tiện ngôn ngữ •
Đối với trẻ nhỏ thì tạo điều kiện để trẻ sử dụng nhiệt có các giác quan trong quá trình quan sát •
Trong dạy học và giáo dục, giáo viên tiểu học cần chú ý đặc điểm khác biệt để hình
thành các em năng lực quan sát tốt nhất.
Ví dụ: Đưa một quả táo cho các em học sinh quan sát, sau một khoảng thời gian nhất
định được nhìn bằng mắt thường học sinh có thể rút ra đặc điểm của quả táo: quả
táo có màu xanh ngọc, nhỏ, dầy, cứng, có hình tròn, táo còn non, có thể hơi chua, giòn.
- Các quy luật cơ bản của tri giác Tính
đối tượng của tri giác
+ Hình ảnh trực quan mà tri giác đem lại bao giờ cũng thuộc về một sự vật, hiện
tượng nhất định của thế giới bên ngoài. Hình ảnh ấy lOMoAR cPSD| 58950985
vừa phản ánh đặc điểm của đối tượng mà ta tri giác
vừa là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
+ Phản ánh hiện thực một cách khách quan chân thực vì nó hình thành do tác động
của sự vật hiện tượng xung quanh vào giác quan của con người trong hoạt động do những nhiệm vụ thực tiễn.
+ Tính đối tượng của tri giác Là cơ sở của sự định hướng cho hành vi và hoạt động của con người. Ví dụ:
+ Hai bạn học sinh lớp 4 cùng miêu tả về mẹ.
A: Năm nay, mẹ em gần bốn mươi mốt tuổi. Với thân hình mảnh mai, thon thả đã tô
đậm cho mẹ với vẻ đẹp của người mẹ hiền từ, mái tóc đen óng mượt mà dài ngang lưng
được mẹ thắt lên gọn gàng khi ra đường. Đôi mắt mẹ đen láy luôn nhìn em với ánh mắt
trìu mến gần gũi. Khuôn mặt mẹ hình trái xoan với làn da trắng. Khi cười nhìn mẹ tươi
như hoa. Giọng nói của mẹ đầy truyền cảm
B: Mẹ em năm nay đã ngoài ba mươi tuổi, nước da mẹ không còn được trắng trẻo nữa
mà đã ngăm ngăm đen vì vất vả chăm sóc chúng em. Mẹ có mái tóc đen dài đến ngang
lưng và luôn luôn được búi gọn gàng ở đằng sau. Hàm răng đều, trắng bóng và luôn nở
nụ cười mỗi khi có điều gì làm mẹ vui, khuôn mặt hiền từ hiện rõ với đôi mắt đen sáng
long lanh.. Mẹ em không cao lắm, hơi gầy, dáng đi rất nhanh nhẹn
=> Hai học sinh lớp 4 cùng tri giác về hình ảnh của mẹ. Mỗi khi nhắc tới mẹ các em
đều có thể nói ra những đặc điểm của mẹ nhưng mỗi người đều phản ánh mẹ theo một
cách riêng, theo lứa tuổi và theo cách quan sát của các em . Và đưa những phân tích và
sự hiểu biết của mình về mẹ.
+ Khi nhìn thấy hình ảnh con cá heo, học sinh tiểu học sẽ tri giác được cá heo là một
loài động vật, rất thân thiện và thông minh, có làn da trơn mịn, cá heo có ngôn ngữ,
tiếng kêu riêng rất hay. Ứng dụng:
+ Khi cần xác định đó là đối tượng gì phản ánh bản chất bên trong của đối tượng.
+ Tìm ra phương pháp phản ánh nhiều nhất để phản ánh chân thật đối tượng
+ Nếu chỉ dựa trên hiểu biết vốn kinh nghiệm của bản thân mà vội vàng đưa ra kết luận rất
dễ dàng mắc sai lầm thiếu chính xác trong quyết định. lOMoAR cPSD| 58950985
+ Trong trị liệu: Nếu một người tri giác sự vật hiện tượng quá khác biệt đối với hầu hết
mọi người thì ta có thể phân biệt được người đó đang có hành vi, hoạt động lệch lạc.
Tính lựa chọn của tri giác
Tri giác là một quá trình hoạt động tích cực, trong đó con người thực hiện sự lựa
chọn. Tính lựa chọn của tri giác là quá trình chủ thể hoạt động tích cực để tách được
đối tượng ra khỏi bối cảnh. Những sự vật (hay thuộc tính của sự vật) nào càng được
phân biệt với bối cảnh thì càng được ta tri giác dễ dàng, đầy đủ hơn.
Khi ta tri giác về một sự vật hiện tượng nào đó thì ý nghĩa ta tách sự việc đó ra khỏi bối
cảnh chung quanh lấy nó làm đối tượng phản ánh mình có liên hệ chặt chẽ với tính trọn
vẹn, và do hứng thú, sở thích, tâm thế, nhu cầu của bản thân chủ thể tri giác, trạng thái tâm
sinh lý cũng ảnh hưởng tới tri giác. Trong đó, ngôn ngữ cũng đóng vai trò rất quan trọng,
nó có tác dụng định hướng cho sự lựa chọn đối tượng để tri giác.
Ví dụ:+ khi trình chiếu slide, dựa vào sở thích, sự hứng thú của các em học sinh tiểu
học, giáo viên đóng khung các công thức quan trọng màu sắc hơn, in đậm và gạch
chân các ví dụ quan trọng giúp các em tập trung chú ý bài giảng, các điểm nổi bật đó
và nhớ kiến thức hơn.
+ Khi chấm bài cho học sinh, giáo viên thường dùng bút đỏ để sửa lỗi sai giúp
các em chú ý nhìn thấy bài sửa của giáo viên dễ dàng hơn
+ Khi mua hàng, khách hàng thường sẽ chọn sản phẩm có màu sắc đẹp, bắt
mắt, phù hợp với với sở thích hơn các sản phẩm khác.
Tính có ý nghĩa của tri giác
Tri giác của con người gắn chặt với tư duy, với bản chất của sự vật, hiện tượng.
Chính vì lẽ đó, biểu tượng tri giác cho phép người ta gọi tên được sự vật hiện tượng, có
thể sắp xếp chúng vào một nhóm, lớp nhất định. Tính có ý nghĩa của tri giác phụ thuộc vào
khả năng ngôn ngữ, tư duy của chủ thể, kinh nghiệm của cá nhân và vốn hiểu biết bản của
chủ thể. Ở đây kinh nghiệm sống có vai trò rất quan trọng đối với tính ý nghĩa của tri giác,
đặc biệt là vai trò của ngôn ngữ. Trong quá trình dạy học khi giáo viên sử dụng đồ dùng
trực quan cần phải chú ý đến qui luật này giúp học sinh tri giác một cách đầy đủ, sâu sắc hơn.
Ví dụ: Trong bài “ cây hoa” tự nhiên và xã hội lớp 1, yêu cầu nêu tên và phân lOMoAR cPSD| 58950985
biệt các bộ phận chính của cây hoa, vì các em chưa biết tên các bộ phận và vốn hiểu
biết còn hạn chế nên giáo viên đã cho các em quan sát các cây hoa trực tiếp. Nhờ việc
quan sát trực tiếp kết hợp với các tên gọi trong sách giáo khoa và cùng bạn chia sẻ
hoạt động nhóm, các em đã nhanh chóng đạt được mục tiêu phân biệt, nói tên và chỉ
ra các bộ phận chính của cây hoa: ở đâu là cuống hoa, đài hoa, cánh hoa, bộ nhị và bộ nhụy.
Tính trọn vẹn của tri giác
Tính trọn vẹn của tri giác là quá trình tri giác phản ánh tương đối đầy đủ các thuộc
tính biểu hiện ra bên ngoài của đối tượng một cách trọn vẹn, nó đem lại cho ta một hình
ảnh hoàn chỉnh về sự vật hiện tượng.
Ví Dụ: + Khi nghe một bản nhạc là ta tri giác toàn bộ bản nhạc đó chứ không
chỉ nghe từng nốt nhạc.
+ Khi cho học sinh tiểu học đọc một bài tập đọc, các em sẽ tri giác toàn
bộ câu chuyện, nội dung, kiến thức của bài tập đọc như cho học sinh lớp 4 đọc bài “
Vua tàu thủy Bạch Thái bưởi”, các em sẽ tri giác được toàn bộ câu chuyện nói về
Bạch Thái Bưởi, từ một cậu bé mồ côi cha từ nhỏ, nhưng nhờ giàu ý chí và nghị lực
nên đã trở thành một nhà kinh doanh tài giỏi; chứ không chỉ đọc từng chữ trong bài tập đọc.
Tính tổng giác
Sự phụ thuộc của hình ảnh tri giác vào nội dung đời sống tâm lý con người được gọi
là hiện tượng tổng giác. Trong quá trình dạy học và giáo dục ta cần tính đến kinh nghiệm,
những hiểu biết, nhu cầu, hứng thú, tâm thế...của học sinh nhằm nâng cao hiệu quả tri giác
và năng lực quan sát ở học sinh.
Ví dụ: + Khi con người trong lòng đang có chuyện vui vẻ, hạnh phúc thì họ tri
giác mọi việc xung quanh họ cảm thấy dễ chịu, hiền hòa, yêu thích, làm việc gì cũng vui vẻ, cởi mở.
+ Nam nhìn thấy Hoa trong lần đầu gặp mặt ăn mặc luộm thuộm, tóc tai
bù xù, khó gần, hay cáu gắt nên Nam nghĩ Hoa là một người không tốt.
Tính ổn định của tri giác
Tính ổn định của tri giác là khả năng phản ánh các sự vật,hiện tượng một cách không
thay đổi khi điều kiện tri giác đã thay đổi. lOMoAR cPSD| 58950985
Tính ổn định của tri giác thể hiện rõ trong các trường hợp tri giác về độ lớn, hình
dạng, màu sắc của đối tượng. Nó được hình thành trong hoạt động của con người với đồ
vật, nó không phải do cơ chế bẩm sinh mà do kinh nghiệm sống của con người tạo nên.
Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào kinh nghiệm sống; phụ thuộc vào cấu trúc tương
đối ổn định của sự vật trong một thời điểm nhất định và phụ thuộc vào khả năng tự điều
chỉnh mối quan hệ ngược của não.
Ví dụ: + Khi ta nhìn và sờ vào lá cây lúc trời đã tối vào ban đêm, ta luôn thấy
lá cây có màu xanh.
+ Khi nhìn thấy mặt trời, dù có cách xa chúng ta và hình ảnh của nó
khi ta thấy trong mắt nhỏ hơn hình ảnh của một người đang đứng trước mặt, thì
chúng ta vẫn tri giác được mặt trời rất to hơn so với con người, và luôn có hình tròn
khi mặt trời lặn.
Tính ảo giác (ảo ảnh của tri giác)
Ảo giác là tri giác không đúng, phản ánh sai lệch các sự vật, hiện tượng trong hiện thực
khách quan. Ảo giác là một hiện tượng có tính qui luật xảy ra ở tất cả mọi người bình
thường và có ở tất cả các loại tri giác. Mỗi loại ảo giác đều có nguyên nhân riêng của nó
Ví dụ: + khi nhìn vào bức tranh “những con rắn đang xoay” bởi nhà tâm lý
học Akiyoshi Kitaoka, Bức ảnh không hề chuyển động nhưng lại khiến người xem có
ảo giác những vòng tròn không ngừng xoay quanh trục.
+ Với người da có màu tối thì không nên mặc màu đen, đỏ,… vì sẽ làm
cho da trông tối hơn
- Đặc điểm tri giác của học sinh tiểu học
• Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không chủ định.
Ví dụ: Các em học sinh lớp 1,2 thường cho rằng Trái Đất chỉ bằng một viên bi, kích
thước mặt trời bằng một quả bóng
• Trẻ khó phân biệt một cách chính xác về sự giống nhau hoặc khác nhau giữa các
đối tượng và rất khó tri giác các đối tượng có kích thước quá lớn hay quá nhỏ. lOMoAR cPSD| 58950985
Ví dụ: học sinh lớp 4 rất khó phân biệt giữa km và kg, vì cả hai đều là đơn vị đo
và cùng có chữ k phía trước, hay khó phân biệt giữa công thức tính chu vi hình
chữ nhật và công thức tính diện tích hình chữ nhật vì đều có chiều dài, chiều rộng
• Về độ dài thời gian thì trẻ cũng rất khó có biểu tượng chính xác. Tri giác của học
sinh ở các lớp đầu bậc Tiểu học thường gắn với hành động, với hoạt động thực tiễn
của trẻ. Các em tri giác sự vật có nghĩa là làm một cái gì đó với sự vật: cầm nắm,
sờ mó... Tri giác của học sinh tiểu học mang tính xúc cảm. Trẻ thường bị hấp dẫn
bởi đối tượng có màu sắc rực rỡ hay âm thanh lạ. Cái trực quan, rực rỡ, sinh động
được các em tri giác tốt hơn, có cảm xúc nhiều hơn.
Ví dụ: Trong giờ học tập làm văn, sau khi giáo viên cho học sinh quan sát cây bàng
trên sân trường trong 1 giờ, cô ra đề bài cho các em hãy miêu tả cây bàng : Học sinh
Lớp 2/1: Lá xanh um, to hơn bàn tay người lớn một chút. Những bông hoa nhỏ li ti, có
hình ngôi sao và màu trắng.
Học sinh Lớp 2/2: Lá có màu đỏ, nhìn thật to giống như một chiếc quạt tay vậy.
Thân của cây bàng rất to.
Lớp 5: thân cây cao to, tán lá dày đặc, xanh ngắt che rợp cả một khoảng đất rộng
mang lại bóng mát. Lá bàng mọc từng chùm từng năm chiếc một, lá to bằng bàn tay,
gân lá giống như khung xương con cá. Cây bàng mỗi mùa lại có những sắc thái
khác nhau. Mùa đông, cây bàng xơ xác, trơ trụi, lá bang đỏ. Để rồi, khi xuân về, từ
thân cây ấy, những mầm non bắt đầu nhú lên. Những mầm non màu xanh lá, bay
trong gió xuân, dưới những cơn mưa phùn.
Như vậy, đều trong khoảng thời gian nhất định nhưng học sinh lớp 2 có các cách
miêu tả khác nhau, quan sát cây bàng theo hình dáng, màu sắc khác nhau, các em
miêu tả theo sở thích, thích nhìn vào cây bàng màu đỏ thì miêu tả đỏ, thích màu
xanh thì miêu tả xanh, thích nhìn hoa thì miêu tả hoa, không nhận diện được đặc
trưng của cây bàng là che bóng mát hay cây bàng thay đổi theo mùa. Còn học sinh
lớp 5 có nhiều cách miêu tả giống nhau hơn và nhận diện được những chi tiết cụ
thể, đặc trưng, sự thay đổi theo mùa của cây bàng. lOMoAR cPSD| 58950985
Khi dạy học, giáo viên phải đảm bảo được tính trực quan và biết bồi dưỡng năng lực
quan sát cho trẻ. Cần chú ý rằng ai cũng có khả năng quan sát. Nhưng năng lực quan sát
lại có sự khác biệt giữa các chủ thể với nhau, thể hiện ở khả năng tri giác nhanh chóng,
chính xác những đặc tính quan trọng, chủ yếu và đặc sắc của đối tượng một cách có kế
hoạch, có mục đích, có chủ ý – ý thức cao, có hứng thú cũng như biết ghi chép lại. Năng
lực này phần nhiều phụ thuộc vào đặc điểm nhân cách cũng như phẩm chất của hoạt động
và khả năng rèn luyện của mỗi người. Trong các tác động giáo dục và đào tạo, người thầy
giáo tiểu học cần chú ý đến những sự khác biệt đó và cần giáo dục cho trẻ có được kĩ năng
phản ánh thế giới đối tượng một cách khách quan, trung thực và có hứng thú, có niềm say
mê khoa học để phát hiện ra cái mới.
Để phát triển tri giác cho học sinh tiểu học, giáo viên cần đề ra cho các em nhiệm vụ tri
giác thích hợp, hướng dẫn các em điều chỉnh quá trình tri giác và kiểm tra những kết quả của nó.
Ví dụ: + Cho trẻ lập kế hoạch học tập, sắp xếp phòng ngủ của mình, biết làm
các bài tập từ dễ đến khó bằng các bài toán thú vị được sắp xếp trong các ô màu khi
đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác
+ Khi làm thí nghiệm môn khoa học lớp 4, khí ô-xi duy trì sự cháy, giáo
viên làm thí nghiệm, giới thiệu rõ nội dung và từng bước và nêu những câu hỏi như
sự cháy của ngọn nên diễn ra như thế nào, tại sao sau đó ngọn nến nhỏ dần, tại sao
cuối cùng ngọn nên tắt hẳn, sau đó cho học sinh quan sát từng bước, rồi cho các em
mô tả các bước làm , cho các em rút ra kết luận qua thí nghiệm.
1.2. Nhận thức lí tính : là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc
tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng
hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. a. Tư duy - Khái niệm tư duy
Tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên
hệ, quan hệ bên trong, có tính chất quy luật của sự vật – hiện tượng trong thực tại khách
quan một cách khái quát, gián tiếp bằng ngôn ngữ.
Hoạt động tư duy của con người diễn ra rất cơ động, linh hoạt và sáng tạo. Tính chủ
thể trong hoạt động tư duy của con người được biểu hiện rõ ràng, sâu sắc và độc đáo. lOMoAR cPSD| 58950985
Vai trò : Tư duy có vai trò cực kì quan trọng trong việc nhận thức tính quy luật của
thế giới cũng như chỉ đạo hoạt động cải tạo nó theo nhu cầu tìm tòi cái mới trong sự phát
triển của nhân cách ở từng con người. Tư duy có thể được coi là một quá trình, một hành
động và một hoạt động nhận thức độc đáo và sáng tạo của con người.
Tư duy có vai trò quan trọng, quyết định phẩm chất trí tuệ của hoạt động nhận thức
của con người. Chỉ có bằng tư duy và thông qua tư duy, chủ thể mới có được các điều kiện
tâm lí cần thiết để hiểu mình, hiểu người cũng như nắm vững quy luật của các sự vật và
hiện tượng trong thực tại khách quan để sống hạnh phúc, hoạt động đạt hiệu quả và giao
tiếp đúng mực với mọi người. Thông qua các hoạt động tư duy, người thầy giáo tiểu học
sẽ hiểu được học sinh, từ đó mới có thể đặt mình vào đúng vị trí của trẻ mà dạy dỗ – giáo
dục, đối xử khéo léo sư phạm với chúng. Nhờ vậy, họ mới đạt hiệu quả cao trong giáo dục
– đào tạo và được các em yêu mến kính trọng. Như vậy, phẩm chất tư duy sáng tạo sư
phạm sẽ được coi như là một thành phần quan trọng trong cấu trúc nhân cách của người
thầy giáo tiểu học, có tác dụng quy định hiệu quả và chất lượng của các tác động giáo dục – đào tạo của họ.
Đặc điểm của tư duy
Tính có vấn đề: Không phải bất cứ hoàn cảnh nào tư duy cũng xuất hiện. Trên thực
tế, tư duy chỉ nảy sinh khi chúng ta gặp tình huống “có vấn đề”. Muốn kích thích ta tư duy
thì tình huống có vấn đề phải được cá nhân nhận thức đầy đủ, được trở thành nhiệm vụ tư
duy của cá nhân, trên cơ sở đó tư duy mới xuất hiện. Tính “có vấn đề” của tư duy là tính
chất cơ bản và quan trọng nhất trong quá trình tư duy. Không có hoàn cảnh có vấn đề quá
trình tư duy không thể hình thành và phát triển.
Ví dụ: Để giải một bài toán khó, trước hết học sinh cần nhận thức yêu cầu,
nhiệm vụ của bài toán, sau đó nhớ lại công thức, định lí đã học để vận dụng giải bài
toán và suy nghĩ dựa trên kiến thức đã có . Từ đó, tư duy xuất hiện.
Tính gián tiếp: Tính gián tiếp của tư duy thể hiện trước hết ở việc con người sử
dụng ngôn ngữ để tư duy. Nhờ có ngôn ngữ mà con người sử dụng các kết quả nhận thức
(quy tắc, công thức,…) vào quá trình tư duy (phân tích tổng hợp, so sánh…) để nhận thức
được cái bên trong bản chất của sự vật hiện tượng. Vì vậy ngôn ngữ là một phương tiện
nhận thức đặc thù của con người. lOMoAR cPSD| 58950985
Ví dụ: + trong quá trình tư duy giải bài tập toán thì phải sử dụng các công thức, kí
hiệu, khái niệm được biểu hiện dưới dạng ngôn ngữ, nếu không có ngôn ngữ thì chính
bản thân người đang tư duy cũng không thể giải được bài tập.
+ Với Học sinh khi đọc nhiều sách báo, các tác phẩm văn học, các em sẽ được
tiếp xúc với các từ ngữ mới lạ mang tính học thuật, các mỹ từ, cụm từ hay thì khi làm
một bài văn các em sẽ có thể sử dụng những từ ngữ, cụm từ đó vào bài viết của mỹ
cho bài văn được hoàn thiện và hay hơn với ngôn từ phong phú, độc đáo.
Tính gián tiếp của tư duy còn được thể hiện ở chỗ, trong quá trình tư duy con người
sử dụng các phương tiện công cụ khác nhau để nhận thức sự vật, hiện tượng mà không thể trực tiếp tri giác.
Ví dụ: +muốn biết nhiệt độ của cơ thể, chúng ta có thể dùng nhiệt kế để đo nhiệt độ
+ muốn biết huyết áp của một người bao nhiêu ta dùng máy đo huyết áp
Nhờ có tính gián tiếp mà tư duy của con người đã mở rộng không giới hạn những
khả năng nhận thức của con người, con người không chỉ phản ánh những gì xảy ra trong
hiện tại mà còn phản ánh cả quá khứ và tương lai.
Ví dụ: + Từ dấu hiệu là trên trời có nhiều mây đen kết hợp với những dữ liệu
thiên văn, các nhà nghiên cứu thời tiết dựa vào những chỉ báo, sau đó thống kê, phân
tích đưa ra dự báo sẽ có mưa, hoặc có sấm sét, có mưa đá hay không, tránh được những thiên tai.
Tính trừu tượng và khái quát: Khác với nhận thức cảm tính, tư duy không phản ánh hiện
tượng một cách cụ thể riêng lẻ mà tư duy mang tính trừu tượng và khái quát.
Trừu tượng hóa là quá trình con người sử dụng trí óc để gạt bỏ những mặt, những
thuộc tính, những liên hệ, quan hệ thứ yếu không cần thiết và chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết để tư duy.
Ví dụ: + khi ta nghĩ tới “cái ghế” là một cái ghế nói chung chứ không chỉ nghĩ đến cụ
thể là cái ghế đó to hay nhỏ làm bằng gỗ hay bằng mây…
+ khi ta nói đến cái đèn thì ta không nghĩ đến những thuộc tính cụ thể là: màu
gì, to hay nhỏ, chất liệu gì,… mà chỉ nói đến dùng để chiếu sáng. lOMoAR cPSD| 58950985
Khái quát hóa là quá trình con người dùng trí óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác nhau
có chung thuộc tính liên hệ, quan hệ nhất định thành một nhóm một loại.
Nhờ có tính trừu tượng và khái quát của tư duy con người không chỉ giải quyết được
những nhiệm vụ hiện tại mà có thể giải quyết được những nhiệm vụ của tương lai.
Ví dụ: khái quát gộp những đồ vật có thuộc tính: giấy có nhiều chữ, có nội dung, có
tên tác giả, có giá bìa, có màu sắc… tất cả xếp chung vào nhóm sách.
Các giai đoạn của quá trình tư duy
Tư duy là một hành động trí tuệ, là một quá trình giải quyết một nhiệm vụ nào đó
nảy sinh trong quá trình nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn. Quá trình đó được thực
hiện bởi các thao tác trí tuệ nhất định, nó được diễn ra theo các giai đoạn sau:
+ Xác định vấn đề: Xuất hiện hoàn cảnh có vấn đề là một điều kiện quan trọng của
tư duy. Hoàn cảnh có vấn đề chứa đựng các mâu thuẫn khác nhau (giữa cái đã biết và cái
chưa biết, giữa cái đã có với cái chưa có) con người càng có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh
vực nào đó càng dễ dàng nhìn ra và đầy đủ những mâu thuẫn đó. Chính vấn đề được xác
định này quyết định toàn bộ những việc giải quyết sau đó. Đây là giai đoạn đầu tiên và
quan trọng nhất của quá trình tư duy
+ Xuất hiện các liên tưởng - huy động các tri thức, kinh nghiệm. Xuất hiện trong đầu
những tri thức, kinh nghiệm, những liên tưởng nhất định có liên quan đến vấn đề đã được xác định.
+ Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết. Các tri thức, kinh nghiệm và liên
tưởng xuất hiện đầu tiên còn mang tính chất rộng rãi chưa thực sát với nhiệm vụ đề ra.
Trên cơ sở sàng lọc này sẽ hình thành giả thuyết tức là cách giải quyết cho phù hợp với
nhiệm vụ của tư duy. Chính sự đa dạng của các giả thuyết cho phép xem xét cùng một sự
vật hiện tượng từ nhiều hướng khác nhau để tìm ra cách giải quyết đúng đắn nhất.
+ Kiểm tra giả thuyết. Nếu giả thuyết đúng thì khẳng định giả thuyết và đi đến giải
quyết vấn đề; Nếu giả thuyết sai thì bác bỏ, xây dựng giả thuyết mới, rồi kiểm tra lại. +
Giải quyết vấn đề. Khi giả thuyết đã được kiểm tra và khẳng định thì nó sẽ được thực hiện,
tức đi đến câu trả lời cho vấn đề được đặt ra Ví dụ: lOMoAR cPSD| 58950985
+ Tình huống có vấn đề: học sinh lớp 4 được ra giải 1 bài toán: “ Tìm hai số khi biết
tổng là 120. Biết rằng nếu lấy số lớn trừ đi số bé rồi cộng với tổng của chúng thì được 150? ”
Học sinh phải nhận diện được vấn đề , yêu cầu của bài toán: tìm hai số khi
biết tổng và hiệu, tìm số lớn, số bé, tổng của hai số là 120.
+ Sau khi nhận thức đúng vấn đề, học sinh sẽ xuất hiện những liên tưởng trong đầu:
công thức tính số bé, công thức tính số lớn khi biết tổng và hiệu, “số lớn trừ đi số bé
rồi cộng với tổng của chúng” là công thức gì, có mấy cách tìm số bé, số lớn, định lí gì:
+ Xem xét công thức, định lí nào phù hợp với yêu cầu bài toán rồi sàng lọc, hình thành
giả thuyết để áp dụng vào bài toán, tìm lời giải cho từng phép tính. Chuẩn bị bút mực,
giấy nháp viết công thức ra:
Cách 1: Số bé = ( Tổng -hiệu) : 2
Số lớn = Tổng – số bé
Cách 2: Số lớn = (Tổng – hiệu) : 2
Số bé = Tổng – số lớn
“số lớn trừ đi số bé rồi cộng với tổng của chúng”= ( số lớn - số bé) + tổng
Tóm tắt lại bài toán
+ Kiểm tra xem cách làm nào phù hợp, bắt đầu phân tích từng yếu tố, kiểm tra công
thức, từng cách làm, xem cách làm đó đúng yêu cầu bài toán chưa, có thỏa mãn điều
kiện không. Nếu số bé lớn hơn số lớn thì sai, lời giải không khớp với phép tính thì
không chính xác, tìm công thức, cách làm khác để sử dụng, lại bắt đầu hình thành
giai đoạn tư duy mới , nếu giải thích, phân tích đáp ứng đúng yêu cầu bài toán tìm ra
được hiệu, số bé, số lớn, lời giải khớp phép tính thì đúng, giai đoạn tư duy kết thúc.
+ Giải quyết vấn đề: Thế số vào công thức, tính ra kết quả cuối cùng.
Tư duy có thể được coi như một hoạt động nhận thức độc đáo và sáng tạo của chủ
thể. Đối tượng của hoạt động tư duy là các bài toán hay vấn đề đang đặt ra trước chủ thể
và được họ nhận thức. Mỗi hoạt động cụ thể lại được kích thích bởi một hệ thống động cơ,
trong đó có một động cơ đóng vai trò chủ đạo. Hoạt động này mang tính sáng tạo vì nó