BÀI TIỂU LUN
MÔN HỌC: ĐẠI CƯƠNG VĂN HOÁ VIỆT NAM
Đề tài: “Phân tích khái niệm “văn hoá” theo một số quan điểm của các nhà
văn hoá học phương Đông, phương Tây, UNESCO và Hồ Chí Minh?”
Giảng viên hướng dẫn: TS. Đồng Thị Tuyền
Lớp: N06 - Nhóm: 05
Hoàng Th Thúy Ngân - 2301957
Trần Thế Luân - 23014886
Ngô Thị Yến Nhi - 23014034
Lê Thị Minh - 22014538
Trần Phạm Ánh Ngọc - 22014867
Nguyễn Thị Khánh Ly - 22013135
Ngô Thị Hồng Mến - 23014637
Nguyễn Duy Nguyên - 22013674
Năm học 2023-2024
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 3
NỘI DUNG ........................................................................................................ 4
1.
Khái niệm của n hoá .................................................................................... 4
2.
Khái niệm văn hoá” theo phương Đông ....................................................... 4
2.1. Khái niệm phương Đông ...................................................................... 4
2.2. Những đặc điểm chủ yếu của văn hoá theo phương Đông ................ 6
2.2. Văn hoá phương Đông mang đậm tính chất nông nghiệp nông
thôn ............................................................................................................... 7
3.
Khái niệm văn hóa” theo phương tây ........................................................... 9
4.
Khái niệm văn hóa” theo UNESCO ............................................................ 10
5.
Khái niệm văn hóa” theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh ................ 11
KẾT LUN ...................................................................................................... 13
Danh mục tài liệu tham khảo .......................................................................... 14
2
MỞ ĐẦU
Văn hóa một trong bốn lĩnh vực rộng lớn có quan hệ mật thiết với kinh tế,
chính trị hội; vai trò nền tảng tinh thần của hội, vừa mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy văn hóa là
đối tượng được nhiều bộ môn khoa học nghiên cứu trong đó có bộ môn khoa
học tương đối mới “Văn hóa học”. Việc nghiên cứu văn hóa học nói
chung và văn hóa Việt Nam nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng giúp trang bị
năng lực phản văn hóa, tác dụng rất lớn trong giáo dục bồi dưỡng
nhân cách con người. Đặc biệt đúc kết nghiên cứu sâu sắc đã giúp giải
khuynh hướng lựa chọn, cách ng xử, cách hành dộng, triết sống của con
người Việt Nam. Trên thế giới, rất nhiều định nghĩa về văn hóa khác nhau
dựa trên lối sống, truyền thống, bản sắc văn hóa lâu đời cũng như cách tiếp
cận văn hóa của mỗi nhân cũng như mỗi dân tộc khác nhau trên thế giới.
thể thấy rằng, khái niệm văn hvai trò cùng quan trọng đối với
nhận thức cũng như mọi mặt của đời sống hội. Để đi sâu hơn về khái
niệm “Văn hóa”, chúng em quyết định lựa chọn: “Đề tài: Phân tích khái
niệm "Văn hóa" theo mt số quan điểm của các nhà văn a học
phương Đông, phương Tây, UNESCO và Hồ Chí Minh?”
3
NỘI DUNG
1. Khái niệm của văn h
Với cách đối tượng nghiên cứu của văn hóa học, n hóa được hiểu
theo nghĩa rộng nhất tất cả những giá trị vật thể do con người sáng tạo ra
trên nền của thế giới tự nhiên. Văn hóa khái niệm mang nội hàm rộng với
rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất
tinh thần của con người. Văn hóa bao gồm tất cả những sản phẩm của con
người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất
của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị các khía cạnh vật chất như nhà
cửa, quần áo, các phương tiện, v.v..
2. Khái niệm văn hoá theo phương Đông
2.1. Khái niệm phương Đông:
- Văn hoá phương Đông mang đậm tính chất nông nghiệp nông thôn:
đặc điểm nổi bật nhất, là bản sắc dễ thấy nhất của văn hoá phương Đông.
hội phương Đông là hội nông nghiệp. Điều kiện địa tự nhiên của các
quốc gia phương Đông nói chung đều thuận lợi cho sự phát triển nông
nghiệp. Lưu vực các con sông lớn tạo ra những đồng bằng rộng lớn, vựa lúa
của phương Đông và thế giới. cũng chính từ các dòng sông ấy đã xuất
hiện các nhà nước cổ đại các nền văn hoá - văn minh phươngĐông. thể
nói, ngay từ đầu, văn hoá - văn minh phương Đông đã là văn hoá - văn minh
nông nghiệpvà vẫn tồn tại cho đến tận ngày nay.
-Tính chất nông nghiệp - nông thôn được thể hiện rất nhiều bình diện văn
hoá sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của các nền văn hoá
phương Đông.
4
- Về tưởng triết học phương thức duy, phương Đông thiên về “chủ
toàn” và tổng hợp: Theo nhận xét của GS Cao Xuân Huy, phương Đông, xét
về tư tưởng triết học, thiên về chủ toàn. Khi nhìn nhận vấn đề, phương Đông
thường chú trọng đến tính toàn diện, toàn thể, toàn cục. tưởng triết học
chủ toàn có quan hệ mật thiết với phương thức tư duy tổng hợp và phép biện
chứng. Khi xem xét một sự vật, hiện tượng, người phương Đông thường
nhìn một cách tổng thể, xem như một hệ thống - cấu trúc hoàn chỉnh,
đó các yếu ttạo nên chỉnh thể quan hệ với nhau, ràng buộc quy
định lẫn nhau. Người phương Đông ít chú ý đến việc phân tích từng yếu tố
tách “rời” quan tâm nhiều hơn về mối quan hệ của chúng. thể lấy
dụ qua cách chữa bệnh truyền thống. Các thầy thuốc phương Đông thường
xem cơ thcon người một “chỉnh thể hệ thống”, do vậy sự tồn tại của các
quan trong thể con người mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi một
quan nào đó bị yếu hoặc mắc bệnh thì các thầy thuốc Đông y thường
không chỉ chữa cơ quan đó mà còn chú ý đến toàn bộ thể. Khi toàn bộ
thể khoẻ thì sẽ “kéo” quan bị yếu khoẻ lên Óc duy tổng hợp của
phương Đông mặt mạnh giúp con người cái nhìn toàn diện nhưng
đôi khi cũng hạn chế là dễ “bỏ qua” những tiểu tiết quan trọng.- Trong
quan hệ giữa người với người, văn hoá phương Đông nặng về tính cộng
đồng cách ứng xử tình cảm, mềm dẻo: Đặc trưng của văn hoá phương
Đông khiến mỗi người khi hành động luôn luôn phải nghĩ đến cộng đồng,
đến tập thể, hội. Trong làng, người dân thường tránh những việc làm
phương hại đến tập thể. Từ đây nảy sinh quan điểm sống tập thể. tập
thể, người ta sẵn sàng hi sinhlợi ích nhân. Cũng thế người phương
Đông thường đề cao nghĩa vụ, trách nhiệm. Quả thực, trong việc chống chọi
với thiên tai, địch hoạ, nếu không tinh thần trách nhiệm được đề lên thành
5
nghĩa vụ thì không thể được chiến thắng. “Mềm dẻo, trọng tình” thực sự
một đặc trưng của văn hoá ứng xử phương Đông. Người ta sống với nhau
bằng tình cảm thương yêu, bằng tinh thần cộng đồng, vậy sẵn sàng giúp
đỡ nhau trong những lúc hoạn nạn, khó khăn, theo tinh thần “lá lành đùm lá
rách”. Lối sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn,
trọng sự hiếu hoà. Từ tính cộng đồng, từ sự đùm bọc làng xã, sau này truyền
thống tốt đẹp ấy phát triển thành tinh thần dân tộc chủ nghĩa yêu nước
phương Đông.- Trong quan hệ ứng x với thiên nhiên, phương Đông
nghiêng về hoà đồng, thuận tự nhiên: Sản xuất nông nghiệp chỉ thể đạt
hiệu quả khi thuận theo tự nhiên. Một trong những biểu hiện của sự thuận
theo ấy tính thời vụ. thể nói, kinh nghiệm sống, nói cụ thể hơn là kinh
nghiệm sản xuất, đã khiến dân nông nghiệp phương Đông phải hành động
thuận theo tự nhiên. Trái ý tự nhiên, trái ý Trời sẽ bị trả giá. Đó là bài học
thể phải trả bằng đói khổ, nước mắt tính mạng. Không còn cách nào khác,
Nhật Bản vẫn phải “sống chung với động đất”, Indonesia phải “sống chung
với núi lửa”, Philippines phải “sống chung với bão” còn đồng bằng sông
Cửu Long của Việt Nam thì phải chấp nhận “sống chung với lũ” như một
lẽ tự nhiên.
- Về phương thức sống, văn hoá truyền thống phương Đông trọng tĩnh,
hướng nội khép kín: Cuộc sống nông nghiệp luôn luôn cần một sự n
định. Người dân thường rất sợ những điều xảy ra bất thường. Lối sống hài
hoà với tnhiên, tình cảm với mọi người, suy cho cùng, cũng nhằm đạt
tới sự ổn định. Từ đây xuất hiện phương thức sống trọng tĩnh, hướng nội
khép n. Lối sống trọng tĩnh, hướng nội khép kín không thể tạo ra sự
phát triển đột biến. lẽ đây cũng một trong nhiều nguyên nhân làm cho
chế độ phong kiến phương Đông kéo dài sự trì trệ nhiều thế kỉ.
6
2.2. Những đặc điểm chủ yếu của văn hoá theo phương Đông
* Văn hoá phương Đông rất rộng lớn về quy mô, lãnh thổ, rất đa dạng về
màu sắc sự tồn tại rất lâu dài về mặt lịch sử. Khái quát cho đúng, cho
hết những đặc điểm của văn hoá phương Đông quả một công việc không
hề đơn giản, nếu không nói hết sức khó khăn. Đây là vấn đphức tạp
còn phải nghiên cứu nhiều. đây chúng tôi mới chỉ tập hợp nêu lên một
số nhận xét bước đầu.
2.3. Văn hoá phương Đông mang đậm tính chất nông nghiệp – nông thôn
Theo chúng tôi, tính chất nông nghiệp - nông thôn là đặc điểm nổi bật nhất, là
bản sắc dễ thấy nhất của văn hoá phương Đông. Đặc điểm này thuộc về
loại hình văn hoá: Văn hoá phương Đông chủ yếu văn hoá gốc nông
nghiệp, trong khi văn hoá phương Tây chủ yếu thuộc loại hình gốc du mục và
thương nghiệp. Tất nhiên nói như thế không có nghĩa là trong văn hoá phương
Đông không có các yếu tố du mục và thương nghiệp (như đã thấy qua việc
khảo sát các khu vực văn hoá phương Đông vừa trình bày ở trên) nhưng nhìn
một cách tổng thể thì bản sắc nông nghiệp - nông thôn là nét chủ đạo.
2.3.1. Xã hội phương Đông, như đã trình bày các trang trước, là hội nông
nghiệp. Nền sản xuất cổ truyền của các hội phương Đông về bản đều
nền sản xuất nông nghiệp. Điều kiện địa tự nhiên của các quốc gia phương
Đông nói chung đều thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp.
thể nói, ngay tđầu, văn hoá - văn minh phương Đông đã văn hoá - văn
minh nông nghiệp. Và đặc điểm này “đeo đuổi” văn hoá phương Đông cho đến
tận ngày nay.
Không chỉ trong lịch sử xa xưa, ngày nay nông nghiệp vẫn phổ biến nhiều
quốc gia phương Đông. Các nhà khoa học cho biết rằng hiện nay 90% diện tích
trồng lúa trên thế giới nằm châu Á và sản lượng lúa gạo tại châu Á bằng 92%
7
tổng sản lượng của thế giới. Như vậy ràng sản xuất nông nghiệp gắn chặt
với các quốc gia phương Đông, đó sở tạo ra loại hình văn hoá gốc
nông nghiệp, tạo ra bản sắc nông nghiệp - nông thôn của văn hoá phương
Đông.
2.3.2. Tính chất nông nghiệp - nông thôn được thể hiện rất nhiều bình diện
văn hoá là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của các nền văn hoá
phương Đông.
Những biểu hiện của tính chất nông nghiệp - nông thôn của văn hoá phương
Đông rất đa dạng.
Không chỉ gắn liền với những yếu tố văn hoá mang “tính vật chất” phục vụ
trực tiếp đời sống thường nhật của con người như vừa trình bày trên, tính
chất nông nghiệp nông thôn của văn hoá phương Đông còn được biểu hiện ở
các tín ngưỡng và sinh hoạt văn hoá dân gian rất độc đáo của khu vực.
Có thể nói bao trùm lên đời sống cư dân nông nghiệp phương Đông là niềm tin
tín ngưỡng các sinh hoạt văn hoá dân gian như biểu diễn âm nhạc, múa hát,
lễ hội... Tín ngưỡng cội nguồn của lễ hội. Trong lễ hội thường diễn ra các trò
chơi các hoạt động ca múa dân gian. Lễ hội vừa dịp tiến hành các nghi lễ
tính ma thuật để cầu xin thần linh giúp đỡ, xua đuổi ma, vừa dịp để
người dân vui chơi giải trí. Tín ngưỡng và các hình thức sinh hoạt văn hoá dân
gian luôn gắn với cuộc sống của dân nông nghiệp, phản ánh sâu sắc nhịp
điệu lao động đời sống tinh thần phong phú của người dân. Tín ngưỡng bản
địa và các lễ hội đã trở thành mt nhân tố văn hoá đặc sắc gắn với các giá trị
văn hoá nông nghiệp – nông thôn cổ truyền phương Đông.
- Tín ngưỡng lễ hội phồn thực được biểu hiện hai khía cạnh chủ yếu:
thờ sinh thực khí thờ hành vi giao phối. Biểu hiện thờ sinh thực khí
nhiều nơi.
8
Tính chất nông nghiệp nông thôn còn được thể hiện qua các sinh hoạt văn
hoá dân gian như hát múa, biểu diễn âm nhạc. Các nh thức như hát đối
(nhất hát đối nam nữ), hát ru con, hát đồng dao... đều nhiều nước
phương Đông, nhất là các nước Đông Nam Á.
- Nông nghiệp gắn liền với nông thôn. Tính chất nông nghiệp nông thôn của
văn hoá phương Đông được nảy sinh, nuôi dưỡng phát triển trong một
hình hội đặc biệt: hình làng xã. Các công nông thôn, theo cách nói
của C. Mac, ảnh hưởng rất sâu đậm đến đời sống văn hoá của dân nông
nghiệp phương Đông. Có thể nói văn hoá làng xã với tính cộng đồng và tính tự
trị cao là một nét nổi bật của văn hoá phương Đông.
-Trong làng phương Đông, gia đình một “đơn vị sản xuất”, đó vai trò
của người phụ nữ rất quan trọng. Sự ra đời tồn tại dai dẳng của chế độ mẫu
hệ nhiều khu vực phương Đông, suy cho cùng, trên một khía cạnh nào đấy,
cũng do đời sống nông nghiệp quy định. đó cũng một biểu hiện của tính
chất nông nghiệp – nông thôn của văn hoá phương Đông.
3. Khái niệm “văn hóa” theo phương Tây
-Văn hoá phươngy mang đậm tính chất du mục thương nghiệp:
Do điều kiện khí hậu lạnh khô, địa hình củ yếu thảo nguyên, xứ scủa
những đồng cỏ, thích hợp chăn nuội vậy nghề truyền thống của dân
phương Tây cổ xưa chăn nuôi. Tính chất du mục thương nghiệp được
thể hiện rất nhiều bình diện văn hoá trong quá trình phát triển của văn
hóa phương Tây.
- Về tưởng triết học phương thức duy, phương Tây thiên về “chủ
biệt” phân tích: Khi nhìn nhận vấn đề, phương Đông thường chú trọng
đến tính đặc thù, chi tiết. Người phương Tây chú ý đến việc phân tích từng
9
yếu ttách “rời”. thể lấy dụ qua cách chữa bệnh truyền thống, y học
phương
Tây lại nặng về phân tích chú ý đến yếu tố, do vậy thường can thiệp trực
tiếp vào quan bị đau yếu trong thể: đau chỗ nào thì tiêm, chích, cắt bỏ
chỗ ấy. Óc phân tích của người phương Tây giúp con người điều kiện đi
sâu được vào các chi tiết. lẽ đó cũng một trong những do khiến nền
khoa
học thuật của phương Tây phát triển.
- Trong quan hệ giữa người với người, văn hoá phương Tây nặng về tính
thể cách ứng xử theo nguyên tắc: Sống du nên tính gắng kết cộng đồng
của dân du mục không cao, đề cao tính nhân dẫn đến tâm ganh đua,
cạnh tranh, hiếu thắng, lối sống độc tôn, độc đoán trong tiếp nhận,cứng rắn
trong đối phó, sớm dẫn đến sự hình thành nếp sống theo pháp luật với tính tổ
chức cao. Cách thức tổ chức theo nguyên tắc liên quan đến lối sống duy lý
- Trong quan hệ ứng xử với thiên nhiên, phương Tây nghiêng về chinh phục
tự nhiên: Loại hình văn hóa phương Tây luôn di chuyển nên cuộc sống
của dân du mục không phụ thuộc vào thiên nhiên, nảy sinh tâm lý coi
thường thiên nhiên và có tham vọng chinh phục, chế ngự tự nhiên.
- Về phương thức sống, văn hoá truyền thống phương Tây trọng động,
hướng ngoại và cởi mở: Do loại hình chăn nuối gia súc đòi hỏi phải sống du
cư, nay đây mai đó lối sống thích di chuyển, trọng động, hướng ngoại.
4. Khái niệm “văn hóa” theo UNESCO
-Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa hôm nay thể tổng thể những nét riêng
biệt tinh thần vật chất, trí tuệ cảm xúc quyết định tính cách của
hội hay của một nhóm người trong hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật
10
văn chương, những lối sống, những quyền bản của con người, những hệ
thống các giá trị những tập tục những tín ngưỡng: văn hóa đem lại cho
con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở
thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí trí, óc phê phán và dấu thân
một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức bản
thân, tự biết mình một phương án chưa hoàn chỉnh đặt ra để xem xét trước
thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt mỏi nhưng ý nghĩa mới mẻ
sáng tạo nên những công trình mới vượt trội lên bản thân mình.
=>Như vậy, văn hóa không phải một lĩnh vực riêng biệt. Đó tổng thể
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra phục vụ cho sự phát
triển của hội. Văn hóa đã cấu thành một hệ thống các giá trị truyền thống
thẩm mỹ lối sống, từng dân tộc dựa vào đó để tự khẳng định bản sắc
riêng của mình.
Khi hiểu theo nghĩa hẹp, văn hóa một tổng thể thì biểu trưng ( kí hiệu ) chi
phối cách ứng xử sự giao tiếp trong một cộng đồng, khiến cộng đồng ấy
mang tính đặc thù.
5. Khái niệm “văn hóa” theo quan điểm của chủ tịch HỒ CHÍ MINH
-Trong ngôn ngữ của nhân loại, khái niệm văn hóa nhiều định nghĩa,
nhiều cách hiểu nhất. Hiện đến vài trăm định nghĩa về văn hóa trong đó
có định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh đưa ra năm 1943.
-Trong tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hoá được hiểu theo cả ba
nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp:
+Theo nghĩa rộng- Hồ Chí Minh nếu văn hoá toàn bộ những giá trị vật
chất tinh thần do loài người sáng tạo ra. “Văn hoá sự tổng hợp của mọi
11
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của loài người đã sản sinh
ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1.
+Theo nghĩa hẹp, văn hoá là những giá trị tinh thần. Người viết: Trong công
cuộc kiến thiết nước nhà, bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan
trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, hội, văn hoá. Nhưng văn hoá một
kiến trúc thượng tầng (báo Cứu quốc, tháng 8- 1945).
+Theo nghĩa rất hẹp, văn hoá đơn giản chỉ là trình độ học vấn của con người
được đánh giá bằng trình độ học vấn phổ thông, thể hiện việc Hồ Chí
Minh yêu cầu mọi người “phải đi học văn hóa”, “xóa mù chữ”...
Trong định nghĩa này. Hồ Chí Minh cho chúng ta hiểu đươc:
- Văn hóa những sáng tạo phát minh của con người.
- Nguồn gốc của văn hóa lẽ sinh tồn của con người.
- Văn hóa là mục đích và động lực của cuc sống, nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
- Cấu trúc của văn hóa: ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, luật pháp, khoa học,
tôn giáo, văn học
- Nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các
phương thức sử dụng.
- Văn hóa tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt (ứng xử, giao tiếp).
Điều thú vị là định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh có nhiều điểm gần giống
với quan niệm hiện đại của UNESCO về văn hóa theo các khía cạnh sau:
Phức thể, tổng thể nhiều mặt: nét riêng biệt, đặc trưng riêng về tinh thần và
vật chất, khắc họa nên bản sắc; nghệ thuật, văn chương, và những quyền
bản của con người, hệ thống giá trị: cách ứng xử và sự giao tiếp.
12
KẾT LUẬN
thể nói sự ra đời phát triển của văn hóa kết quả quá trình
giao lưu cấp độ khu vực, châu lục toàn cầu. Giao thoa giữa các trung
tâm văn hóa lớn nên văn hóa hiện đại mang tính hỗn dung tổng hợp do
giao lưu tiếp biến với nhiều nền văn hóa lớn trên thế giới, đó Ấn Độ,
Trung Hoa và phương Tây. Kết quả của quá trình giao lưu văn hóa đó đã để
lại dấu ấn và được cải biến tạo thành những yếu tố bản sắc văn hóa hiện nay.
Mặc dù, ta khó thể nêu một cách đầy đnhững chuyển biến mạnh mẽ
trong những cuộc tiếp xúc văn hóa hiện này. Nhưng điều chắc chắn, cho
đến giờ, quá trình tiếp xúc ấy vẫn đang diễn ra, sẽ còn tiếp tục với một
cường độ ngày càng mãnh liệt về cả chiều rộng lẫn chiều sâu; với tần suất
ngày một cao, trong thế giới đang bị toàn cầu hóa như hiện nay. Khẳng định
lại một điều với các quan điểm của các nhà văn hóa học đưa ra, tuy có giống
khác nhau về văn hóa của mỗi quốc gia, nhưng chắc chắn luôn ý thức
giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Kết quả những thành tựu
được chọn lọc tiếp nhận, thêm vào đó, kiểu văn hóa hỗn dung tổng
hợp mang trong mình sự hòa hợp giữa các nền văn hóa, tức mỗi nền văn
hóa đều góp một phần đặc trưng của mình để tạo nên môt nền văn hóa như
ngày nay.
Vậy nên, kiểu văn hóa đặc trưng ấy sở đtiến hành hội nhập, hợp
tác sâu rộng hơn giữa các quốc gia và con người trên thế giới. Quá trình hội
nhập kinh tế, chính trị, hội sẽ dễ dàng hươn trên sở của nền văn hóa.
13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Dẫn theo Văn hóa học đại cương sở văn hóa Việt Nam, Nxb KHXH,
Hà Nội, 1996, tr.5.
[2] Định nghĩa "Văn hóa Việt Nam" - Wikipidea
[3] Theo GS.TS Mai Ngọc Chừ - Trường Đại học KHXH& NV, ĐHQGHN
[4] Lương Duy Thứ (chủ biên), Phan Thu Hiền, Phan Nhật Chiêu, 1996. Đại
cương văn hoá phương Đông. NXB Giáo dục Hà Nội.
[5] Nguyễn Hùng Hậu, 2004. Triết trong văn hoá phương Đông. NXB Đại
học Sư phạm Hà Nội.
14
15

Preview text:

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: ĐẠI CƯƠNG VĂN HOÁ VIỆT NAM
Đề tài: “Phân tích khái niệm “văn hoá” theo một số quan điểm của các nhà
văn hoá học phương Đông, phương Tây, UNESCO và Hồ Chí Minh?”
Giảng viên hướng dẫn: TS. Đồng Thị Tuyền
Lớp: N06 - Nhóm: 05
Hoàng Thị Thúy Ngân - 2301957
Trần Phạm Ánh Ngọc - 22014867
Trần Thế Luân - 23014886
Nguyễn Thị Khánh Ly - 22013135
Ngô Thị Yến Nhi - 23014034
Ngô Thị Hồng Mến - 23014637
Lê Thị Minh - 22014538
Nguyễn Duy Nguyên - 22013674 Năm học 2023-2024 1 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 3
NỘI DUNG ........................................................................................................ 4
1. Khái niệm của văn hoá .................................................................................... 4
2. Khái niệm “văn hoá” theo phương Đông ....................................................... 4
2.1. Khái niệm phương Đông ...................................................................... 4
2.2. Những đặc điểm chủ yếu của văn hoá theo phương Đông ................ 6
2.2. Văn hoá phương Đông mang đậm tính chất nông nghiệp – nông
thôn ............................................................................................................... 7
3. Khái niệm “văn hóa” theo phương tây ........................................................... 9
4. Khái niệm “văn hóa” theo UNESCO ............................................................ 10
5. Khái niệm “văn hóa” theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh ................ 11
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 13
Danh mục tài liệu tham khảo .......................................................................... 14 2 MỞ ĐẦU
Văn hóa là một trong bốn lĩnh vực rộng lớn có quan hệ mật thiết với kinh tế,
chính trị và xã hội; có vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy văn hóa là
đối tượng được nhiều bộ môn khoa học nghiên cứu trong đó có bộ môn khoa
học tương đối mới là “Văn hóa học”. Việc nghiên cứu văn hóa học nói
chung và văn hóa Việt Nam nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng giúp trang bị
năng lực phản tư văn hóa, có tác dụng rất lớn trong giáo dục và bồi dưỡng
nhân cách con người. Đặc biệt đúc kết nghiên cứu sâu sắc đã giúp lý giải
khuynh hướng lựa chọn, cách ứng xử, cách hành dộng, triết lý sống của con
người Việt Nam. Trên thế giới, có rất nhiều định nghĩa về văn hóa khác nhau
dựa trên lối sống, truyền thống, bản sắc văn hóa lâu đời cũng như cách tiếp
cận văn hóa của mỗi cá nhân cũng như mỗi dân tộc khác nhau trên thế giới.
Có thể thấy rằng, khái niệm văn hoá có vai trò vô cùng quan trọng đối với
nhận thức cũng như mọi mặt của đời sống xã hội. Để đi sâu hơn về khái
niệm “Văn hóa”, chúng em quyết định lựa chọn: “Đề tài: Phân tích khái
niệm "Văn hóa" theo một số quan điểm của các nhà văn hóa học
phương Đông, phương Tây, UNESCO và Hồ Chí Minh?” 3 NỘI DUNG
1. Khái niệm của văn hoá
Với tư cách là đối tượng nghiên cứu của văn hóa học, văn hóa được hiểu
theo nghĩa rộng nhất là tất cả những giá trị vật thể do con người sáng tạo ra
trên nền của thế giới tự nhiên. Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với
rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và
tinh thần của con người. Văn hóa bao gồm tất cả những sản phẩm của con
người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất
của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà
cửa, quần áo, các phương tiện, v.v..
2. Khái niệm văn hoá theo phương Đông
2.1. Khái niệm phương Đông:
- Văn hoá phương Đông mang đậm tính chất nông nghiệp – nông thôn: Là
đặc điểm nổi bật nhất, là bản sắc dễ thấy nhất của văn hoá phương Đông. Xã
hội phương Đông là xã hội nông nghiệp. Điều kiện địa lí tự nhiên của các
quốc gia phương Đông nói chung đều thuận lợi cho sự phát triển nông
nghiệp. Lưu vực các con sông lớn tạo ra những đồng bằng rộng lớn, vựa lúa
của phương Đông và thế giới. Và cũng chính từ các dòng sông ấy đã xuất
hiện các nhà nước cổ đại – các nền văn hoá - văn minh phươngĐông. Có thể
nói, ngay từ đầu, văn hoá - văn minh phương Đông đã là văn hoá - văn minh
nông nghiệpvà vẫn tồn tại cho đến tận ngày nay.
-Tính chất nông nghiệp - nông thôn được thể hiện ở rất nhiều bình diện văn
hoá và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của các nền văn hoá phương Đông. 4
- Về tư tưởng triết học và phương thức tư duy, phương Đông thiên về “chủ
toàn” và tổng hợp: Theo nhận xét của GS Cao Xuân Huy, phương Đông, xét
về tư tưởng triết học, thiên về chủ toàn. Khi nhìn nhận vấn đề, phương Đông
thường chú trọng đến tính toàn diện, toàn thể, toàn cục. Tư tưởng triết học
chủ toàn có quan hệ mật thiết với phương thức tư duy tổng hợp và phép biện
chứng. Khi xem xét một sự vật, hiện tượng, người phương Đông thường
nhìn nó một cách tổng thể, xem nó như một hệ thống - cấu trúc hoàn chỉnh,
ở đó các yếu tố tạo nên chỉnh thể có quan hệ với nhau, ràng buộc và quy
định lẫn nhau. Người phương Đông ít chú ý đến việc phân tích từng yếu tố
tách “rời” mà quan tâm nhiều hơn về mối quan hệ của chúng. Có thể lấy ví
dụ qua cách chữa bệnh truyền thống. Các thầy thuốc phương Đông thường
xem cơ thể con người là một “chỉnh thể hệ thống”, do vậy sự tồn tại của các
cơ quan trong cơ thể con người có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi một
cơ quan nào đó bị yếu hoặc mắc bệnh thì các thầy thuốc Đông y thường
không chỉ chữa cơ quan đó mà còn chú ý đến toàn bộ cơ thể. Khi toàn bộ cơ
thể khoẻ thì sẽ “kéo” cơ quan bị yếu khoẻ lên Óc tư duy tổng hợp của
phương Đông có mặt mạnh là giúp con người có cái nhìn toàn diện nhưng
đôi khi cũng có hạn chế là dễ “bỏ qua” những tiểu tiết quan trọng.- Trong
quan hệ giữa người với người, văn hoá phương Đông nặng về tính cộng
đồng và cách ứng xử tình cảm, mềm dẻo: Đặc trưng của văn hoá phương
Đông là khiến mỗi người khi hành động luôn luôn phải nghĩ đến cộng đồng,
đến tập thể, xã hội. Trong làng, người dân thường tránh những việc làm
phương hại đến tập thể. Từ đây nảy sinh quan điểm sống vì tập thể. Vì tập
thể, người ta sẵn sàng hi sinhlợi ích cá nhân. Cũng vì thế mà người phương
Đông thường đề cao nghĩa vụ, trách nhiệm. Quả thực, trong việc chống chọi
với thiên tai, địch hoạ, nếu không có tinh thần trách nhiệm được đề lên thành 5
nghĩa vụ thì không thể có được chiến thắng. “Mềm dẻo, trọng tình” thực sự
là một đặc trưng của văn hoá ứng xử phương Đông. Người ta sống với nhau
bằng tình cảm thương yêu, bằng tinh thần cộng đồng, vì vậy sẵn sàng giúp
đỡ nhau trong những lúc hoạn nạn, khó khăn, theo tinh thần “lá lành đùm lá
rách”. Lối sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn,
trọng sự hiếu hoà. Từ tính cộng đồng, từ sự đùm bọc làng xã, sau này truyền
thống tốt đẹp ấy phát triển thành tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước
phương Đông.- Trong quan hệ ứng xử với thiên nhiên, phương Đông
nghiêng về hoà đồng, thuận tự nhiên: Sản xuất nông nghiệp chỉ có thể đạt
hiệu quả khi thuận theo tự nhiên. Một trong những biểu hiện của sự thuận
theo ấy là tính thời vụ. Có thể nói, kinh nghiệm sống, nói cụ thể hơn là kinh
nghiệm sản xuất, đã khiến cư dân nông nghiệp phương Đông phải hành động
thuận theo tự nhiên. Trái ý tự nhiên, trái ý Trời sẽ bị trả giá. Đó là bài học có
thể phải trả bằng đói khổ, nước mắt và tính mạng. Không còn cách nào khác,
Nhật Bản vẫn phải “sống chung với động đất”, Indonesia phải “sống chung
với núi lửa”, Philippines phải “sống chung với bão” còn đồng bằng sông
Cửu Long của Việt Nam thì phải chấp nhận “sống chung với lũ” như là một lẽ tự nhiên.
- Về phương thức sống, văn hoá truyền thống phương Đông trọng tĩnh,
hướng nội và khép kín: Cuộc sống nông nghiệp luôn luôn cần một sự ổn
định. Người dân thường rất sợ những điều xảy ra bất thường. Lối sống hài
hoà với tự nhiên, tình cảm với mọi người, suy cho cùng, cũng là nhằm đạt
tới sự ổn định. Từ đây xuất hiện phương thức sống trọng tĩnh, hướng nội và
khép kín. Lối sống trọng tĩnh, hướng nội và khép kín không thể tạo ra sự
phát triển đột biến. Có lẽ đây cũng là một trong nhiều nguyên nhân làm cho
chế độ phong kiến phương Đông kéo dài sự trì trệ nhiều thế kỉ. 6
2.2. Những đặc điểm chủ yếu của văn hoá theo phương Đông
* Văn hoá phương Đông rất rộng lớn về quy mô, lãnh thổ, rất đa dạng về
màu sắc và có sự tồn tại rất lâu dài về mặt lịch sử. Khái quát cho đúng, cho
hết những đặc điểm của văn hoá phương Đông quả là một công việc không
hề đơn giản, nếu không nói là hết sức khó khăn. Đây là vấn đề phức tạp và
còn phải nghiên cứu nhiều. Ở đây chúng tôi mới chỉ tập hợp và nêu lên một
số nhận xét bước đầu.
2.3. Văn hoá phương Đông mang đậm tính chất nông nghiệp – nông thôn
Theo chúng tôi, tính chất nông nghiệp - nông thôn là đặc điểm nổi bật nhất, là
bản sắc dễ thấy nhất của văn hoá phương Đông. Đặc điểm này thuộc về
loại hình văn hoá: Văn hoá phương Đông chủ yếu là văn hoá gốc nông
nghiệp, trong khi văn hoá phương Tây chủ yếu thuộc loại hình gốc du mục và
thương nghiệp. Tất nhiên nói như thế không có nghĩa là trong văn hoá phương
Đông không có các yếu tố du mục và thương nghiệp (như đã thấy qua việc
khảo sát các khu vực văn hoá phương Đông vừa trình bày ở trên) nhưng nhìn
một cách tổng thể thì bản sắc nông nghiệp - nông thôn là nét chủ đạo.
2.3.1. Xã hội phương Đông, như đã trình bày ở các trang trước, là xã hội nông
nghiệp. Nền sản xuất cổ truyền của các xã hội phương Đông về cơ bản đều là
nền sản xuất nông nghiệp. Điều kiện địa lí tự nhiên của các quốc gia phương
Đông nói chung đều thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp.
Có thể nói, ngay từ đầu, văn hoá - văn minh phương Đông đã là văn hoá - văn
minh nông nghiệp. Và đặc điểm này “đeo đuổi” văn hoá phương Đông cho đến tận ngày nay.
Không chỉ trong lịch sử xa xưa, ngày nay nông nghiệp vẫn phổ biến ở nhiều
quốc gia phương Đông. Các nhà khoa học cho biết rằng hiện nay 90% diện tích
trồng lúa trên thế giới nằm ở châu Á và sản lượng lúa gạo tại châu Á bằng 92% 7
tổng sản lượng của thế giới. Như vậy rõ ràng là sản xuất nông nghiệp gắn chặt
với các quốc gia phương Đông, và đó là cơ sở tạo ra loại hình văn hoá gốc
nông nghiệp, tạo ra bản sắc nông nghiệp - nông thôn của văn hoá phương Đông.
2.3.2. Tính chất nông nghiệp - nông thôn được thể hiện ở rất nhiều bình diện
văn hoá và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của các nền văn hoá phương Đông.
Những biểu hiện của tính chất nông nghiệp - nông thôn của văn hoá phương Đông rất đa dạng.
Không chỉ gắn liền với những yếu tố văn hoá mang “tính vật chất” phục vụ
trực tiếp đời sống thường nhật của con người như vừa trình bày ở trên, tính
chất nông nghiệp – nông thôn của văn hoá phương Đông còn được biểu hiện ở
các tín ngưỡng và sinh hoạt văn hoá dân gian rất độc đáo của khu vực.
Có thể nói bao trùm lên đời sống cư dân nông nghiệp phương Đông là niềm tin
tín ngưỡng và các sinh hoạt văn hoá dân gian như biểu diễn âm nhạc, múa hát,
lễ hội... Tín ngưỡng là cội nguồn của lễ hội. Trong lễ hội thường diễn ra các trò
chơi và các hoạt động ca múa dân gian. Lễ hội vừa là dịp tiến hành các nghi lễ
có tính ma thuật để cầu xin thần linh giúp đỡ, xua đuổi tà ma, vừa là dịp để
người dân vui chơi giải trí. Tín ngưỡng và các hình thức sinh hoạt văn hoá dân
gian luôn gắn với cuộc sống của cư dân nông nghiệp, phản ánh sâu sắc nhịp
điệu lao động và đời sống tinh thần phong phú của người dân. Tín ngưỡng bản
địa và các lễ hội đã trở thành một nhân tố văn hoá đặc sắc gắn bó với các giá trị
văn hoá nông nghiệp – nông thôn cổ truyền phương Đông.
- Tín ngưỡng và lễ hội phồn thực được biểu hiện ở hai khía cạnh chủ yếu:
thờ sinh thực khí và thờ hành vi giao phối. Biểu hiện thờ sinh thực khí có ở nhiều nơi. 8
Tính chất nông nghiệp – nông thôn còn được thể hiện qua các sinh hoạt văn
hoá dân gian như hát múa, biểu diễn âm nhạc. Các hình thức như hát đối
(nhất là hát đối nam nữ), hát ru con, hát đồng dao... đều có ở nhiều nước
phương Đông, nhất là các nước Đông Nam Á.
- Nông nghiệp gắn liền với nông thôn. Tính chất nông nghiệp – nông thôn của
văn hoá phương Đông được nảy sinh, nuôi dưỡng và phát triển trong một mô
hình xã hội đặc biệt: mô hình làng xã. Các công xã nông thôn, theo cách nói
của C. Mac, có ảnh hưởng rất sâu đậm đến đời sống văn hoá của cư dân nông
nghiệp phương Đông. Có thể nói văn hoá làng xã với tính cộng đồng và tính tự
trị cao là một nét nổi bật của văn hoá phương Đông.
-Trong làng xã phương Đông, gia đình là một “đơn vị sản xuất”, ở đó vai trò
của người phụ nữ rất quan trọng. Sự ra đời và tồn tại dai dẳng của chế độ mẫu
hệ ở nhiều khu vực phương Đông, suy cho cùng, trên một khía cạnh nào đấy,
cũng do đời sống nông nghiệp quy định. Và đó cũng là một biểu hiện của tính
chất nông nghiệp – nông thôn của văn hoá phương Đông.
3. Khái niệm “văn hóa” theo phương Tây
-Văn hoá phương Tây mang đậm tính chất du mục và thương nghiệp:
Do điều kiện khí hậu lạnh khô, địa hình củ yếu là thảo nguyên, xứ sở của
những đồng cỏ, thích hợp chăn nuội vì vậy nghề truyền thống của cư dân
phương Tây cổ xưa là chăn nuôi. Tính chất du mục và thương nghiệp được
thể hiện ở rất nhiều bình diện văn hoá và trong quá trình phát triển của văn hóa phương Tây.
- Về tư tưởng triết học và phương thức tư duy, phương Tây thiên về “chủ
biệt” và phân tích: Khi nhìn nhận vấn đề, phương Đông thường chú trọng
đến tính đặc thù, chi tiết. Người phương Tây chú ý đến việc phân tích từng 9
yếu tố tách “rời”. Có thể lấy ví dụ qua cách chữa bệnh truyền thống, y học phương
Tây lại nặng về phân tích và chú ý đến yếu tố, do vậy thường can thiệp trực
tiếp vào cơ quan bị đau yếu trong cơ thể: đau chỗ nào thì tiêm, chích, cắt bỏ
chỗ ấy. Óc phân tích của người phương Tây giúp con người có điều kiện đi
sâu được vào các chi tiết. Có lẽ đó cũng là một trong những lí do khiến nền khoa
học – kĩ thuật của phương Tây phát triển.
- Trong quan hệ giữa người với người, văn hoá phương Tây nặng về tính cá
thể và cách ứng xử theo nguyên tắc: Sống du cư nên tính gắng kết cộng đồng
của dân du mục không cao, đề cao tính cá nhân dẫn đến tâm lý ganh đua,
cạnh tranh, hiếu thắng, lối sống độc tôn, độc đoán trong tiếp nhận,cứng rắn
trong đối phó, sớm dẫn đến sự hình thành nếp sống theo pháp luật với tính tổ
chức cao. Cách thức tổ chức theo nguyên tắc liên quan đến lối sống duy lý
- Trong quan hệ ứng xử với thiên nhiên, phương Tây nghiêng về chinh phục
tự nhiên: Loại hình văn hóa phương Tây vì luôn di chuyển nên cuộc sống
của dân du mục không phụ thuộc vào thiên nhiên, nảy sinh tâm lý coi
thường thiên nhiên và có tham vọng chinh phục, chế ngự tự nhiên.
- Về phương thức sống, văn hoá truyền thống phương Tây trọng động,
hướng ngoại và cởi mở: Do loại hình chăn nuối gia súc đòi hỏi phải sống du
cư, nay đây mai đó lối sống thích di chuyển, trọng động, hướng ngoại.
4. Khái niệm “văn hóa” theo UNESCO
-Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa hôm nay có thể tổng thể những nét riêng
biệt ở tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của xã
hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và 10
văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống các giá trị những tập tục và những tín ngưỡng: văn hóa đem lại cho
con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở
thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí trí, có óc phê phán và dấu thân
một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức bản
thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn chỉnh đặt ra để xem xét trước
thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt mỏi nhưng ý nghĩa mới mẻ và
sáng tạo nên những công trình mới vượt trội lên bản thân mình.
=>Như vậy, văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt. Đó là tổng thể
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra phục vụ cho sự phát
triển của xã hội. Văn hóa đã cấu thành một hệ thống các giá trị truyền thống
thẩm mỹ và lối sống, mà từng dân tộc dựa vào đó để tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
Khi hiểu theo nghĩa hẹp, văn hóa là một tổng thể thì biểu trưng ( kí hiệu ) chi
phối cách ứng xử và sự giao tiếp trong một cộng đồng, khiến cộng đồng ấy mang tính đặc thù.
5. Khái niệm “văn hóa” theo quan điểm của chủ tịch HỒ CHÍ MINH
-Trong ngôn ngữ của nhân loại, khái niệm văn hóa có nhiều định nghĩa, có
nhiều cách hiểu nhất. Hiện có đến vài trăm định nghĩa về văn hóa trong đó
có định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh đưa ra năm 1943.
-Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hoá được hiểu theo cả ba
nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp:
+Theo nghĩa rộng- Hồ Chí Minh nếu văn hoá là toàn bộ những giá trị vật
chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra. “Văn hoá là sự tổng hợp của mọi 11
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh
ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1.
+Theo nghĩa hẹp, văn hoá là những giá trị tinh thần. Người viết: Trong công
cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan
trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Nhưng văn hoá là một
kiến trúc thượng tầng (báo Cứu quốc, tháng 8- 1945).
+Theo nghĩa rất hẹp, văn hoá đơn giản chỉ là trình độ học vấn của con người
được đánh giá bằng trình độ học vấn phổ thông, thể hiện ỏ việc Hồ Chí
Minh yêu cầu mọi người “phải đi học văn hóa”, “xóa mù chữ”...
Trong định nghĩa này. Hồ Chí Minh cho chúng ta hiểu đươc:
- Văn hóa là những sáng tạo và phát minh của con người.
- Nguồn gốc của văn hóa là lẽ sinh tồn của con người.
- Văn hóa là mục đích và động lực của cuộc sống, nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
- Cấu trúc của văn hóa: ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, luật pháp, khoa học, tôn giáo, văn học
- Nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
- Văn hóa là tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt (ứng xử, giao tiếp).
Điều thú vị là định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh có nhiều điểm gần giống
với quan niệm hiện đại của UNESCO về văn hóa theo các khía cạnh sau:
Phức thể, tổng thể nhiều mặt: nét riêng biệt, đặc trưng riêng về tinh thần và
vật chất, khắc họa nên bản sắc; nghệ thuật, văn chương, và những quyền cơ
bản của con người, hệ thống giá trị: cách ứng xử và sự giao tiếp. 12 KẾT LUẬN
Có thể nói sự ra đời và phát triển của văn hóa là kết quả quá trình
giao lưu ở cấp độ khu vực, châu lục và toàn cầu. Giao thoa giữa các trung
tâm văn hóa lớn nên văn hóa hiện đại mang tính hỗn dung và tổng hợp do
giao lưu – tiếp biến với nhiều nền văn hóa lớn trên thế giới, đó là Ấn Độ,
Trung Hoa và phương Tây. Kết quả của quá trình giao lưu văn hóa đó đã để
lại dấu ấn và được cải biến tạo thành những yếu tố bản sắc văn hóa hiện nay.
Mặc dù, ta khó có thể nêu một cách đầy đủ những chuyển biến mạnh mẽ
trong những cuộc tiếp xúc văn hóa hiện này. Nhưng só điều chắc chắn, cho
đến giờ, quá trình tiếp xúc ấy vẫn đang diễn ra, và sẽ còn tiếp tục với một
cường độ ngày càng mãnh liệt về cả chiều rộng lẫn chiều sâu; với tần suất
ngày một cao, trong thế giới đang bị toàn cầu hóa như hiện nay. Khẳng định
lại một điều với các quan điểm của các nhà văn hóa học đưa ra, tuy có giống
có khác nhau về văn hóa của mỗi quốc gia, nhưng chắc chắn luôn có ý thức
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Kết quả là những thành tựu
được chọn lọc và tiếp nhận, thêm vào đó, kiểu văn hóa hỗn dung và tổng
hợp mang trong mình sự hòa hợp giữa các nền văn hóa, tức là mỗi nền văn
hóa đều góp một phần đặc trưng của mình để tạo nên môt nền văn hóa như ngày nay.
Vậy nên, kiểu văn hóa đặc trưng ấy là cơ sở để tiến hành hội nhập, hợp
tác sâu rộng hơn giữa các quốc gia và con người trên thế giới. Quá trình hội
nhập kinh tế, chính trị, xã hội sẽ dễ dàng hươn trên cơ sở của nền văn hóa. 13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Dẫn theo Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1996, tr.5.
[2] Định nghĩa "Văn hóa Việt Nam" - Wikipidea
[3] Theo GS.TS Mai Ngọc Chừ - Trường Đại học KHXH& NV, ĐHQGHN
[4] Lương Duy Thứ (chủ biên), Phan Thu Hiền, Phan Nhật Chiêu, 1996. Đại
cương văn hoá phương Đông. NXB Giáo dục Hà Nội.
[5] Nguyễn Hùng Hậu, 2004. Triết lý trong văn hoá phương Đông. NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. 14 15
Document Outline

  • BÀI TIỂU LUẬN
    • Đề tài: “Phân tích khái niệm “văn hoá” theo một số quan điểm của các nhà văn hoá học phương Đông, phương Tây, UNESCO và Hồ Chí Minh?”
    • Năm học 2023-2024
  • MỤC LỤC
  • MỞ ĐẦU
  • NỘI DUNG
    • 1. Khái niệm của văn hoá
    • 2. Khái niệm văn hoá theo phương Đông
    • 2.1. Khái niệm phương Đông:
    • 2.2. Những đặc điểm chủ yếu của văn hoá theo phương Đông
    • 3. Khái niệm “văn hóa” theo phương Tây
    • 4. Khái niệm “văn hóa” theo UNESCO
    • 5. Khái niệm “văn hóa” theo quan điểm của chủ tịch HỒ CHÍ MINH
  • KẾT LUẬN
  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO