TIỂU LUN
KẾT THÚC HỌC PHẦN
VĂN HOÁ ĐẠI CƯƠNG
Đề tài: “Văn hoá chính phổ rộng của pháp luật pháp luật được xây
dựng dựa trên những kinh nghiệm của văn hoá.”
Họ n học viên: Nguyễn Mai Trang
học viên: 2113650018
Lớp: NGOH102.CLC.1
Khóa: 60
Nội - 2022
BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
Tên học phần : VĂN HOÁ ĐẠI ƠNG
Học kỳ 2 năm học 2022
Họ tên Sinh viên: Nguyễn Mai Trang
Ngày sinh: 28/11/2003
Mã số sinh viên: 2113650018
Lớp tín chỉ: NGOH102.CLC.1
Khóa: 60
Ngày thi: 29/06/2022
Ca thi: 3
Số trang bài làm: 13
Điểm bài thi
Họ tên chữ của giáo viên chấm thi
Bằng số
Bằng chữ
GV chấm thi 1:
GV chấm thi 2:
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 1
2. Kết cấu tiểu luận: ................................................................................................ 1
NỘI DUNG.................................................................................................................. 2
PHẦN I: SỞ LUẬN VỀ VĂN HOÁ PHÁP LUẬT ................................. 2
1. Giới thuyết về khái niệm văn hoá ..................................................................... 2
1.1. Văn hoá gì? ........................................................................................... 2
1.2. Các đặc trưng chức năng của văn hoá ................................................... 2
1.2.1. Tính hệ thống chức năng tổ chứchội của văn hoá ...................... 2
1.2.2. Tính giá trị chức năng điều chỉnhhội của văn hoá ..................... 2
1.2.3. Tính nhân sinh chức năng giao tiếp của văn hoá ............................. 3
1.2.4. Tính lịch sử chức năng giáo dục của văn hoá.................................. 3
2. Giới thuyết về khái niệm pháp luật................................................................... 4
2.1. Pháp luật gì? .......................................................................................... 4
2.2. Các đặc trưng bản của pháp luật ........................................................... 4
2.2.1. Tính quyền lực nhà c .................................................................... 4
2.2.2. Tính quy phạm phổ biến: .................................................................... 4
2.2.3. Tính hệ thống: .................................................................................... 5
2.2.4. Tính xác định về hình thc ................................................................. 5
3. Mối quan hệ giữa văn hoá pháp luật ............................................................ 5
PHẦN II: ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HOÁ ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT ......................... 6
1. Văn hoá phổ rộng của pháp luật ................................................................... 6
1.1. Tinh thần của pháp luật Tự do: ............................................................... 6
1.2. Sự biến dạng văn hoá kéo theo sự biến dạng của hệ thống pháp luật .......... 6
2. Pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hoá ........................ 8
PHẦN III: THỰC TRẠNG, HẠN CHẾ VỀ VIỆC BẢO ĐẢM, XÂY DỰNG MỐI
QUAN HỆ GIỮA VĂN HOÁ VÀ PHÁP LUẬT HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ
KHẮC PHỤC .......................................................................................................... 10
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 13
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
quan niệm cho rằng: “Văn hoá chính phổ rộng của pháp luật và pháp
luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm của văn hoá.” Thật vậy, văn
hóa một ảnh hưởng không thể phủ nhận đối với pháp luật. Văn hoá chính
một mảnh ghép không thể thiếu của bức tranh cuộc sống, điều chỉnh hành vi và
duy của con người một cách tự giác. Chính vậy, pháp luật, với cách
công cụ điều chỉnh hành vi của con người, phải được xây dựng dựa trên những
kinh nghiệm quý báu sẵn của văn hoá. Đây một điều không thể chối cãi.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, rất nhiều nơi trên thế giới, hệ thống pháp luật tỏ
ra không tương thích với cuộc sống. vậy, ở đây, đặt ra hai câu hỏi lớn về mối
quan hệ thiếu tính chặt chẽ, gắn kết giữa pháp luật văn hoá hay tính chính xác
của nguồn gốc việc xây dựng pháp luật dựa trên một nền văn hóa méo mó, phi
tự nhiên.
Qua quá trình học tập nghiên cứu bộ môn Văn hoá đại cương, em đã nhận
thức được hơn tính cấp thiết của việc làm rõ mối liên hệ và sự ảnh hưởng lẫn
nhau giữa pháp luật văn hoá cũng như các vấn đề xung quanh chúng. Chính
vậy, qua bài tiểu luận này, em sẽ đưa ra các phân tích và chứng minh nhận
định: “Văn hoá chính phổ rộng của pháp luật và pháp luật được xây dựng dựa
trên những kinh nghiệm của văn hoá.”
Em xin gửi lời chân thành cảm ơn giáo Trần Thị Thanh Thuỷ go
Nguyễn Mai đã hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này. Trong
bài viết còn nhiều sai sót mong các chỉ bảo để em rút kinh nghiệm lần sau
sửa chữa. Em xin chân thành cảm ơn!
2. Kết cấu tiểu luận:
Tiểu luận: Phân tích chứng minh nhận định “Văn hoá chính phổ rộng
của pháp luật pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm của văn
hoá.” được chia làm 3 phần chính bao gm:
- Phần I: sở luận về văn hoá pháp luật.
- Phần II: Ảnh hưởng của văn hoá đối với pháp luật.
- Phần III: Thực trạng, hạn chế về việc bảo đảm, xây dựng mối quan hệ giữa
văn hoá và pháp luật hiện nay và giải pháp để khắc phục.
1
NỘI DUNG
PHẦN I: SỞ LUẬN VỀ VĂN HOÁ PHÁP LUẬT
1. Giới thuyết về khái niệm văn hoá:
1.1. Văn hoá gì?
nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo UNESCO: ‘Văn hóa
tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ trong hiện
tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống
các giá trị, các truyền thống thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính
riêng của mỗi dân tộc”.
Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày
về mặc, ăn, các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa”.
Tuy nhiên, phân tích các cách tiếp nhận văn hoá phổ biến hiện nay (coi
văn hoá như tập hợp, như hệ thống, như giá trị, như hoạt động, như
hiệu…), thể xác định được bốn đặc trưng bản tổng hợp lại, ta
thể nêu ra một định nghĩa văn hoá như sau: “Văn hoá một hệ thống hữu
các gtrị vật chất tinh thần do con người sáng tạo tích luỹ qua quá
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường
tự nhiên và xã hội.”
1
1.2. Các đặc trưng chức năng của văn hoá:
1.2.1. Tính hệ thống chức năng tổ chức hội của văn hoá:
Tính hệ thống của văn hoá giúp phát hiện những mối liên hệ mật thiết
giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hoá; kết nối những hiện
tượng, quy luật lại với nhau trong quá trình phát triển.
Nhờ tính hệ thống văn hóa thể thực hiện được các chức năng tổ
chức hội. do bởi văn hóa bao trùm lên tất cả các hoạt động, các lĩnh
vực. Từ đó thể làm tăng độ ổn định của hội, cung cấp trang bị cho
xã hội những phương tiện cần thiết để ứng biến với môi trường tự nhiên.
1.2.2. Tính giá trị chức năng điều chỉnhhội của văn hoá:
1
Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, tái bản lần 2, NXB Giáo dục, 1999.
2
Văn hóa khi được hiểu theo khía cạnh của một tính từ sẽ mang nghĩa tốt
đẹp, gtrị. Người văn hóa cũng chính một người giá trị. Do
đó mà văn hóa trở thành thước đo chuẩn mực cho con người và xã hội.
Văn hóa tự chính bản thân cũng mang trong mình những gtrị riêng
bao gồm gtrị vật chất và giá trị tinh thần. Xét vmặt ý nghĩa thì văn hóa
thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị thẩm mỹ, giá trị đạo đức. Đứng trên
góc độ thời gian lại thể chia văn hóa thành giá trị vĩnh cửu gtrị nhất
thời. Với mỗi góc độ khác nhau gắn với một sự vật, hiện tượng, sự kiện khác
nhau ta lại thể cái nhìn khác nhau. Từ những cái nhìn này, ta thể
đánh giá văn hóa dưới những góc độ khách quan khác nhau.
Nhờ thường xuyên xem xét các gtrị văn hoá thực hiện được chức
năng điều chỉnh hội, giúp cho hội duy trì được trạng thái cân bằng
động, không ngừng tự hoàn thiện thích ứng với những biến đổi của môi
trường, giúp định hướng các chuẩn mực, m động lực cho sự phát triển của
xã hội.
2
1.2.3. Tính nhân sinh chức năng giao tiếp của văn hoá:
Tính nhân sinh của văn hóa nghĩa rằng văn hóa được coi như một hiện
tượng hội. Hiện tượng hội được hiểu những hiện tượng do con
người sáng tạo ra hay còn gọi nhân tạo, khác với các gtrị tự nhiên hay
còn gọi thiên tạo. Chính vì một thực thể tính nhân sinh nên văn hóa
chịu tác động của cả vật chất lẫn tinh thần của con người.
Đồng thời, vì tính nhân sinh nên văn hóa thực hiện được chức năng
giao tiếp, vô tình trở thành sợi dây liên kết giữa người với người, vật với vt
cả vật với người. Đó chính ý nghĩa nhân sinh sâu sắc nhất văn hóa
hàm chứa.
1.2.4. Tính lịch sử chức năng giáo dục của văn hoá:
Văn hóa phản ánh quá trình sáng tạo của con người trong một không gian
thời gian nhất định. Chính vì thế mà văn hóa cũng gắn liền với chiều dài
lịch sử, thậm chí văn hóa m chứa lịch sử. Tính lịch sử khiến cho văn
hóa mang đặc trưng bề dày, chiều sâu, hệ giá trị. Nhờ tính lịch sử
văn hóa cũng cần được duy trì, nói một cách khác đó biến văn hóa trở
thành truyền thống văn hóa.
Văn hóa có tính lịch sử cao cần phải được tích lũy, được gìn giữkhông
ngừng tái tạo, chắt lọc những tinh hoa, không ngừng sản sinh và phát triển để
hoàn thiện dưới dạng ngôn ngữ, phong tục,… Chính vậy, để tồn tại, văn
2
Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, tái bản lần 2, NXB Giáo dục, 1999.
3
hoá thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định,
mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành.
3
2. Giới thuyết về khái niệm pháp luật:
2.1. Pháp luật gì?
Việt Nam hiện nay, trong giáo trình của các cơ sở đào tạo luật học cũng
như trong sách báo pháp tồn tại nhiều định nghĩa về pháp luật dưới góc độ
pháp luật thực định. Tuy nhiên, thể nói, các định nghĩa đó bản chỉ
khác nhau vcâu chữ thể hiện quan niệm về pháp luật với cách một
loại quy tắc ứng xử của con người, một loại chuẩn mực hội, pháp luật
những điểm khác biệt bản so với các loại chuẩn mực xã hội khác như đạo
đức, phong tục tập quán... Vậy, pháp luật là gì?
Pháp luật hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa
nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ hội theo mục đích,
định hướng của nhà nước.
4
2.2. Các đặc trưng bản của pháp luật:
2.2.1. Tính quyền lực nhà ớc:
Đây một đặc điểm riêng của pháp luật, bằng pháp luật, nhà nước
thực hiện việc tổ chức quản các mặt của đời sốnghội. Nói cách khác,
pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước. Thông qua pháp luật, nhà nước quy
định ràng về quyền nghĩa vụ của người dân, cho phép người dân được
làm gì, không cho phép họ làm gì hay bắt buộc họ phải làm gì, làm như thế
nào... Để đảm bảo việc tổ chức thực hiện tuyên truyền pháp luật, nhà
nước sử dụng nhiều biện pháp khác nhau thông qua quyền lực của mình, yêu
cầu các cá nhân, tập thể sống và làm theo quy định của pháp luật.
2.2.2. Tính quy phạm phổ biến:
“Quy phạmnghĩa khuôn thước, khuôn mẫu, chuẩn mực. Từ đó, các
quy định của pháp luật những khuôn mẫu, chuẩn mực định hướng cho
nhận thức và hành vi của mọi người, hướng dẫn cách xử sự cho nhân, tổ
chức trong hội. Phạm vi tác động của pháp luật rất rộng lớn, khuôn
mẫu ứng xử cho mọi nhân, tổ chức trong đời sống hàng ngày, điều
chỉnh các quan hệ hội trên các lĩnh vực của cuộc sống, pháp luật tác động
đến mọi địa phương, vùng, miền của đất nước.
3
Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, tái bản lần 2, NXB Giáo dục, 1999.
4
Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, tái bản lần 2, NXB Giáo dục, 1999.
4
2.2.3. Tính hệ thống:
Bản thân pháp luật một hệ thống các quy phạm hay cạc quy tăc xử sự
chung, các nguyên tắc, các khai niệm pháp lí... Pháp luật điều chỉnh quan hệ
hội bằng cậch tác động lên cách xử sự của các chủ thể tham gia quan hệ
hội đó, làm cho quan hệ phát triển theo chiều hướng nhà nước mong
muốn. Mặcđiều chỉnh các quan hệhội trong nhiều lĩnh vực khác nhau,
song các quy định của pháp luật không tồn tại biệt lập mà giữa chúng mối
liên hệ nội tại thống nhất với nhau, tạo nên một chỉnh thể thống nhất.
2.2.4. Tính xác định về hình thc:
Pháp luật được thể hiện trong những hình thức xác định như tập quán
pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật. dạng thành văn, các quy
định của pháp luật được thể hiện một cách rõ ràng, cụ thể, không trừu tượng,
chung chung, bảo đảm thể được hiểu và thực hiện thống nhất trên toàn
hội. Ngoài ra, ngày nay, trong thời đại hội nhập quốc tế, các quốc gia xu
hướng tác động ràng buộc lẫn nhau. vậy, cần thiết phải pháp luật
quốc tế để điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế.
3. Mối quan hệ giữa văn hoá pháp luật
Văn hóa và pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ, gắn kết với nhau, vừa điểm
tương đồng, vừa sự khác nhau trong chính đặc điểm mục đích mà chúng
hướng tới. Văn hóa những đặc trưng chức năng riêng như đã phân tích
trên, pháp luật cũng vậy. Văn hóa tính khuyến cáo, định hướng, giáo dục,
nhắc nhở con người. Pháp luật được xây dựng trên nền tảng văn hóa, những giá
trị chung của văn hóa, đồng thời, giữ vai trò củng cố, duy trì và phát triển văn
hóa.
Pháp luật mang trong mình bốn đặc trưng bản, trong đó, thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị, trong một hội nào cũng cần pháp luật như một công cụ
điều chỉnh hành vi của con người trong mọi hoạt động đời sống của hội. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy rằng, con người chịu sự điều chỉnh của văn hóa nhiều
hơn pháp luật vì con người luôn hành động theo bản năng, thói quen, phong
tục tập quán… Hơn nữa, ngay cả trong trường hợp pháp luật được sử dụng để áp
đặt hành vi của con người thì con người vẫn hành động theo thói quen, theo
kinh nghiệm văn hóa của mình. Chính vậy, văn hóa một ảnh hưởng không
thể phủ nhận đối với pháp luật.
PHẦN II: ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HOÁ ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT
5
1. Văn hoá phổ rộng của pháp luật.
1.1. Tinh thần của pháp luật Tự do:
Pháp luật luôn cần thiết và được coi như một công cụ điều chỉnh
hành vi hữu hiệu của con người trong mọi mặt đời sống. Tuy nhiên, thực
tế chứng minh, con người chịu sự điều chỉnh của văn hóa nhiều hơn
pháp luật vì con người luôn hành động theo tập quán, theo thói quen... kể
cả khi việc đó dẫn họ đến vi phạm pháp luật. Vậy, vấn đề đặt ra là, pháp
luật phải được xây dựng như thế nào để thể biến thành văn hóa và đi
vào cuộc sống của con người? Nếu pháp luật không biến thành các giá trị
văn hóa thì khôngtác dụng điều chỉnh hành vi của con người?
5
Để làm được như vậy, trước tiên cần phải hiểu tinh thần của pháp luật,
đó chính tự do. Từ thời kỳ Khai sáng, các triết gia đã đúc kết ra rằng
pháp luật những khế ước hội, khế ước hội trong triết học
chính trị học một học thuyết tả việc con người cùng thỏa thuận từ
bỏ trạng thái tự nhiên để xây dựng cuộc sống cộng đồng.
6
Tuy nhiên, để
tham gia bình đẳng vào quá trình thỏa thuận, con người cần phải tự
do. Nếu không tự do thì con người không nhận thức được cuộc sống,
do đó, không thỏa thuận được. Người không nhận thức được cuộc sống
người không lường hết được các tình huống của cuộc sống, do đó, không
đủ kinh nghiệm để tham gia vào quá trình thỏa thuận, quá trình
đó, người ta hy sinh những quyền tự do bản năng của mình để hưởng
sự trật tự của một hội, cộng đồng văn minh và tạo ra những quyền tự
do mang tính tự giác.
7
Do đó, tự do buộc phải điểm khởi đầu của mọi
quá trình thỏa thuận cũng chính như vậy tự do trở thành tinh
thần của pháp luật.
8
1.2. Sự biến dạng văn hoá kéo theo sự biến dạng của hệ thống pháp luật:
Văn hoá chính cuộc sống, những giá trị vật chất tinh thần đã
được đúc kết từ ngàn đời; do đó, khi làm biến dạng văn hóa, những người
5
Luật Minh Trường (2019), “Ảnh hưởng của n h đối với pháp luật”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ:
https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
6
Luật Minh Trường (2021), “Thuyết khế ướchội ? Tìm hiểu về thuyết khế ước hội”, Luật Minh
Khuê, tại địa chỉ: https://luatminhkhue.vn/thuyet-khe-uoc-xa-hoi-la-gi---tim-hieu-ve-thuyet-ke-uoc-xa-hoi.aspx ,
ngày truy cập: 27/06/2022.
7
Luật Minh Trường (2021), “Thuyết khế ướchội ? Tìm hiểu về thuyết khế ước hội”, Luật Minh
Khuê, tại địa chỉ: https://luatminhkhue.vn/thuyet-khe-uoc-xa-hoi-la-gi---tim-hieu-ve-thuyet-ke-uoc-xa-hoi.aspx ,
ngày truy cập: 27/06/2022.
8
Luật Minh Trường (2019), “Ảnh hưởng của văn hoá đối với pháp luật”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ:
https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
6
cầm quyền đã làm biến dạng cả cuộc sống, hay nói cách khác, đời sống
tinh thần vật chất của con người cũng xu hướng đi xuống. Hệ thống
pháp luật, để thể điều chỉnh được cuộc sống, tất yếu cũng bị biến dạng
theo. Từ đó dẫn đến kết luận, để tương thích với một cuộc sống đã bị
biến dạng thì bản thân pháp luật cũng phải méo mó và sự méo đáng
sợ nhất của pháp luật chính sự không thừa nhận quyền sở hữu của con
người.
9
Để nhận biết mộthội văn minh, sở hữu một trong những dấu hiệu
quan trọng nhất và cũng quyền con người căn bản nhất. Sự tiêu diệt
quyền hay ý thức sở hữu của con người đối với một vật cụ thể cũng kéo
theo sự sụp đổ của quyền và ý thức đó đối với những tài sản tinh thần
pháp luật không nằm ngoài phạm vi. Từ đó diễn ra thực trạng con người
dần không ý thức được quyền sở hữu của mình với pháp luật, dần thờ ơ,
ít quan tâm các vấn đề liên quan đến pháp luật, thậm chí, chà đạp lên tài
sản tinh thần của chính mình. Chính vậy, loại bỏ sở hữu tư nhân chính
một trong những hành vi phá hoại mạnh nhất đời sống văn hóa của con
người.
10
Ngoài ra, khuyết tật quan trọng nhất của nền văn hóa phi tự nhiên
tính đơn giản. Trước hết, cần phải hiểu nguồn gốc của nền văn hoá phi tự
nhiên gì? đây, chính sự phản ánh cuộc sống một cách đơn giản của
con người bằng cả hành vi lẫn duy tạo ra sự đơn giản của nền văn hóa
hay tạo ra một nền văn hóa méo mó, phi tự nhiên, tiêu diệt sự đa dạng
của đời sống. Chính trong môi trường như vậy, cái chết về mặt tinh thần
của con người đã tạo hội cho sự lộng hành của một khuynh hướng đã
được nhà cầm quyền lựa chọn công các nhà cầm quyền dùng để tăng
cường kiểm soát con nời pháp luật. Tuy nhiên, chỉ những hệ
thống pháp luật méo mó mới bảo đảm cơ sở tồn tại hợp pháp của sự lộng
hành, bảo trợ cho những hành vi tham nhũng tinh thần như vậy.
11
Những phân tích trên cho thấy ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa đến
pháp luật. Tuy nhiên, sẽ rất phiến diện, không đầy đủ nếu chúng ta
không phân tích cả hai mặt, cụ thể ảnh hưởng ngược lại của pháp luật
đối với văn hóa. Pháp luật, với tư cách công cụ điều chỉnh hành vi con
người, tất yếu tạo ra hành vi tương thích với nó. Cho ví dụ, một hệ thống
pháp luật méo sẽ tạo ra những hành vi méo mó. Không chỉ dừng lại
9
Luật Minh Tng (2019), “Ảnh hưởng của văn h đối với pháp luật”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ:
https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
10
Luật Minh Trường (2019), nh hưởng của văn hoá đối với pháp luật”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ:
https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
11
Trần Ngọc Thêm, sở văn h Việt Nam, tái bản lần 2, NXB Giáo dục, 1999.
7
đó, một hệ thống pháp luật méo cũng sẽ tạo ra tư duy méo mó, bởi lẽ,
duy một loại hành vi. Theo dòng chảy của thời gian, những hành vi
duy méo đó dần trở thành những thói quen méo củng cố
thêm cho nền văn hóa vốn đã méo đó. Một dân tộc sở hữu cả nền văn
hóa dị dạng lẫn hệ thống pháp luật méo như vậy một dân tộc đã
chết vmặt văn hóa hay chết vđời sống tinh thần. Khi ý thức vvăn
hoá biến mất, ý thức dân tộc cũng dần trở nên mai một đi, dẫn đến hệ quả
về sự hao mòn của một dân tộc.
2. Pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hoá.
Như đã đề cập ở trên, văn hoá chính cuộc sống, bản chất của cuộc sống
sự đa dạng, do đó, một hệ thống pháp luật chỉ gtrị khi mang trong
mình tính đa dạng của cuộc sống. Văn hóa chính phổ rộng lớn nhất của pháp
luật không một hệ thống pháp luật nào ngoài văn hóa đủ năng lực điều
chỉnh tất cả các tình huống của cuộc sống. Chính vậy, kinh nghiệm văn hóa
nền tảng quan trọng nhất để xây dựng pháp luật. Điều này đồng nghĩa với việc
pháp luật thừa nhận cuộc sống chkhông áp đặt lên cuộc sống. Nhờ đó, tốc độ
thâm nhập của pháp luật vào trong cuộc sống sẽ nhanh hơn, việc tuân thủ pháp
luật trở thành thói quen chất lượng văn hóa của con người. Kinh nghiệm về
việc xây dựng pháp luật các quốc gia phát triển chỉ ra rằng, pháp luật càng gần
với tập quán cũng như thói quen của con người, càng có chất lượng văn hóa bao
nhiêu thì pháp luật càng dễ được chấp nhận bấy nhiêu. Điều đó hoàn toàn thể
giải được bởi nếu chúng ta không xây dựng pháp luật dựa trên những thói
quen, thì con người sẽ cảm thấy hẫng hụt khi hành động ngược với thói quen.
Hành động ngược với thói quen sẽ tạo ra thói quen mới, đến lượt mình, thói
quen mới sẽ mâu thuẫn, phá vỡ các thói quen và tạo ra mâu thuẫn trong các
hành vi của con người.
12
Đào sâu n vào vấn đề, phong tục, tập quán một bộ phận quan trọng của
hệ thống văn hóa, phản ánh “nhãn quan” của một cộng đồng dân tộc về thế giới
trụ bao gồm vật chất tự nhiên, môi trường sống xung quanh những quy tắc
ứng xử tương ứng của cộng đồng. Các ứng xđó lặp đi, lặp lại nhiều lần tạo
thành nếp sống, nếp nghĩ, biểu hiện nét các phong tục, tập quán. Chính các
phong tục, tập quán lâu đời này đã tạo nên truyền thống văn hóa, nét đặc thù,
điểm khác biệt, hình thành bản sắc của cộng đồng, dân tộc.
Trước hết, tập quán nguồn hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật. Nhà nước không
thể nào “luật hóa” được mọi lĩnh vực, mọi nngách của đời sống hội,
12
Luật Minh Trường (2019), nh ng của n hoá đối với pháp luật”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ:
https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
8
thế, trong thực tiễn sẽ luôn những tình huống thiếu pháp luật thành văn để
điều chỉnh, trong khi đó tập quán lại rất phong phú và đa dạng, với chế điều
chỉnh mềm dẻo, linh hoạt chính nguồn hỗ trợ, bổ sung quan trọng cho pháp
luật trong điều chỉnh các quan hệ hội nói chung quan hệ dân sự nói riêng.
Cho dụ, Việt Nam, phong tục giỗ Tổ Hùng Vương phong tục tốt đẹp
được Nhà nước thừa nhận được đảm bảo thực hiện không chỉ Phú Thọ mà
còn được đảm bảo trên toàn quốc gia.
Thứ hai, tập quán tiền đề giúp cho pháp luật đi vào đời sống hội. Tập
quán tác động không nhỏ đến việc tiếp nhận thi hành pháp luật của người
dân. Tập quán lạc hậu sẽ trở thành lực cản trong việc tiếp nhận và thi hành pháp
luật. Ngược lại, tập quán tiến bộ sẽ đóng vai trò tích cực trong việc tiếp nhận và
thi hành pháp luật một cách tự giác của người dân. Việc áp dụng tập quán tốt
đẹp sẽ đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng tình đoàn kết nội bộ, giải quyết
các tranh chấp bằng con đường hoà giải, giải quyết linh hoạt, kịp thời, tình,
các mâu thuẫn trong cộng đồng dân cư, phù hợp với điều kiện của từng địa
phương bảo đảm ổn định trật tự hội và do vậy, sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện
pháp luật, xây dựng ý thức pháp luật.
Thứ ba, tập quán nguồn nội dung của pháp luật. Tập quán không chỉ
nguồn bổ sung cho pháp luật, tiền đề khách quan đưa pháp luật vào cuộc sống
còn nguồn nội dung của pháp luật, “chất liệu quý” để hoàn thiện một
nền pháp luật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. vậy, trên sở xác định đúng
đắn vị trí, vai trò, gtrị của tập quán trong giai đoạn phát triển hiện nay, để phát
huy được vai trò, giá trị của tập quán trong điều chỉnh các quan hệ hội nói
chung, quan hệ dân sự nói riêng, góp phần đảm bảo quyền lợi chính đáng cho
các chủ thể, cũng như đảm bảo trật tự hội thì việc áp dụng tập quán cần phải
tuân theo những nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo trong quá trình áp dụng
tập quán thể kế thừa được những tập quán hay” loại bỏ được những tập
quán “dở”.
9
PHẦN III: THỰC TRẠNG, HẠN CHẾ VỀ VIỆC BẢO ĐẢM, XÂY DỰNG MỐI
QUAN HỆ GIỮA VĂN HOÁ PHÁP LUẬT HIỆN NAY GIẢI PHÁP ĐỂ
KHẮC PHỤC:
Trước hết, như đã đề cập đến từ trước, trên thực tế, con người chịu sự điều
chỉnh của văn hóa nhiều n pháp luật con người luôn hành động theo tập
quán, theo thói quen... Việc người dân hành động theo tập quán, thói quen hơn
tuân thủ các quy định của pháp luật đã dẫn tới tình trạng vi phạm pháp luật,
xa hơn sự mất trật tự, ổn định hội. Để khắc phục tình trạng này, hay nói
cách khác, để cho văn hoá nói chung, pháp luật nói riêng thấm sâu vào từng khu
dân cư, từng hộ gia đình từng người dân, đòi hỏi sự tham gia vào cuộc của cả
hệ thống chính trị, mọi cấp, mọi ngành, nhất các ngành pháp, Văn hoá -
thông tin, các cấp chính quyền… Mỗi cấp uỷ đảng, cán bộ, đảng viên còn phải
ơng mẫu tiên phong trong việc tuyên truyền, phổ biến, phát triển pháp luật
đến quần chúng nhân dân gương mẫu thực hành, thực thi pháp luật. Cần tạo
ra môi trường văn hoá - xã hội lành mạnh từ mỗi khu dân cư, cộng đồng dân cư.
Lực lượng nòng cốt đây, bên cạnh các tổ chức đảng, các chính quyền còn phải
lôi kéo được sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân
dân. Phải thực hiện được sự phối kết hợp, lồng ghép các nội dung phát triển văn
hoá, pháp luật với các cấp phong trào, cuộc vận động thi đua yêu nước do Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân phát động thực
hiện, tiêu biểu như các phong trào, cuộc vận động: Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá khu dân cư”, cuộc vận động “Ngày vì nời nghèo”,
phong trào Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc”… Chỉ làm được như
vậy, mới nói đến xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc phát triển văn hoá, pháp luật đúng như ý tưởng mong muốn của
Đảng và Nhà nước ta.
Thứ hai, tự do là tinh thần của pháp luật, như đã chứng minh trên, bởi vì, để
tham gia bình đẳng vào cuộc sống cộng đồng, con người cần phải được tự do.
Ngoài ra, sở tự do tinh thần của pháp luật còn bởi tự do công cụ duy nhất
thể điều chỉnh tự do nhân trở thành tự do cộng đồng. Nếu không các giá
trị văn hóa thì ai điều chỉnh và kiểm soát quá trình góp tự do? ràng, góp tự
do kết quả của sự tự giác. Nếu không sự giác ngộ vmặt văn hóa thì con
người không tôn trọng các khế ước tạo ra các vùng bất hợp pháp trong cuộc
sống. Các vùng bất hợp pháp trong cuộc sống vẫn tồn tại nhiều nơi trên thế
giới, đặc biệt những nền văn hóa không lành mạnh, nơi pháp luật bất lực
trong việc bảo vệ tự do của con người. Do vy, cách tốt nhất để khắc phục tình
10
trạng bất lực của pháp luật chính mở rộng sự giác ngộ về mặt văn hóa của con
người.
13
Cuối cùng, trong thời đại hội nhập toàn cầu hóa hiện nay, mỗi một nền văn
hóa, mỗi một quốc gia không thể tồn tại độc lập với thế giới bên ngoài luôn
sự tác động hợp tác, lẫn nhau. Tuy nhiên, điều này thể dẫn tới hai mặt tích
cực tiêu cực. Về mặt tích cực, các quốc gia hội cọ xát, học hỏi giúp
đỡ nhau về mọi mặt trong đời sống: kinh tế, chính trị, văn hoá… Về mặt tiêu
cực, nếu những mâu thuẫn chưa được pháp luật quốc tế điều chỉnh mà đã nảy
sinh mâu thuẫn mới, thể dẫn đến sự xung đột giữa các quốc gia, thậm chí
thể xảy ra chiến tranh. Giải pháp được đặt ra đây đòi hỏi mỗi nền văn hóa, hơn
bao giờ hết phải luôn nâng cao năng lực hợp tác với các nền văn hóa khác, tức
nâng cao tính mcủa chính mình. Smở của các nền văn hóa chính nguồn
gốc của trạng thái hòa bình giữa các dân tộc bởi khi con nời hiểu biết hiểu
nhau thì sẽ tránh được rất nhiều sự va chạm. Chính vì vậy, xây dựng một nền
văn hóa tính mở chính nâng cao năng lực tạo ra đời sống hòa bình của
nhân loại. Xét trên khía cạnh hẹp hơn, đối với mỗi cộng đồng, tính mvvăn
hóa sẽ góp phần nâng đỡ các cộng đồng lạc hậu đi qua những khó khăn vmặt
nhận thức hay đi qua ngưỡng của sự chậm phát triển. Mặt khác, mở cửa vvăn
hóa sẽ tạo ra môi trường tinh thần cởi mở. Môi trường tinh thần cởi mở chính
môi trường nâng đỡ các hệ thống luật pháp tham gia vào quá trình hội nhập.
14
KẾT LUẬN
13
Luật Minh Trường (2019), Ảnh hưởng của n hoá đối với pháp luật”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ:
https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
14
Luật Minh Trường (2019), Ảnh hưởng của n hoá đối với pháp luật”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ:
https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
11
Văn hoá có ảnh hưởng to lớn đến việc xây dựng pháp luật, chính văn hoá điều chỉnh
hành vi của con người mạnh hơn cả pháp luật. Văn hoá chính cuộc sống, do vậy, để
điều chỉnh tốt hành vi con người trong mọi mặt đời sống, pháp luật hay mọi khế ước
hội phải được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa chứ không phải chỉ
những kinh nghiệm pháp lý.
Văn hoá là nền tảng xây dựng hệ thống pháp luật. Chính vậy, để xây dựngphát
huy được một hệ thống pháp luật lành mạnh, thì nền tảng của văn hoá cũng phải
mang tinh thần như vậy. Điều này chỉ được đáp ứng khi đủ hai điều kiện: con người
thừa nhận tính đa dạng tự nhiên của cuộc sống đảm bảo tính đa khuynh hướng của
văn hóa. trên hết, văn hóa pháp luật lành mạnh đều phải hướng tới bảo vệ các giá
trị tự do của con người. Chỉ khi làm được như vậy, con người mới đạt đến trạng thái
phát triển thực sự.
Nhìn chung, quan niệm: “Văn hoá chính phổ rộng của pháp luật pháp luật được
xây dựng dựa trên những kinh nghiệm của văn hoá” một quan niệm giàu tính thực tế,
phản ánh đúng được tầm quan trọng tính cấp thiết của việc giữ gìn phát huy mối
quan hệ chặt chẽ giữa văn hoá pháp luật gắn với sự nâng cao nhận thức của mọi
người về ý thức bảo vệ, tiếp thu văn hoá và pháp luật.
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Ngọc Thêm, sở văn hoá Việt Nam, tái bản lần 2, NXB Giáo dục, 1999.
2. Luật Minh Trường (2019), “Ảnh hưởng của văn hoá đối với pháp luật”, Luật
Minh Khuê, tại địa chỉ: https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-
luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
3. Luật Minh Trường (2021), “Thuyết khế ước hội gì ? Tìm hiểu vthuyết
khế ước hội”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ: https://luatminhkhue.vn/thuyet-khe-uoc-
xa-hoi-la-gi---tim-hieu-ve-thuyet-ke-uoc-xa-hoi.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
13

Preview text:

TIỂU LUẬN
KẾT THÚC HỌC PHẦN
VĂN HOÁ ĐẠI CƯƠNG
Đề tài: “Văn hoá chính phổ rộng của pháp luật pháp luật được xây
dựng dựa trên những kinh nghiệm của văn hoá.”
Họ tên học viên: Nguyễn Mai Trang
học viên: 2113650018
Lớp: NGOH102.CLC.1 Khóa: 60
Nội - 2022
BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
Tên học phần : VĂN HOÁ ĐẠI CƯƠNG
Học kỳ 2 năm học 2022
Họ và tên Sinh viên: Nguyễn Lê Mai Trang Ngày thi: 29/06/2022 Ngày sinh: 28/11/2003 Ca thi: 3
Mã số sinh viên: 2113650018 Số trang bài làm: 13
Lớp tín chỉ: NGOH102.CLC.1 Khóa: 60
Điểm bài thi
Họ tên chữ của giáo viên chấm thi Bằng số Bằng chữ
GV chấm thi 1:
GV chấm thi 2:
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 1
2. Kết cấu tiểu luận: ................................................................................................ 1
NỘI DUNG.................................................................................................................. 2
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HOÁ VÀ PHÁP LUẬT ................................. 2
1. Giới thuyết về khái niệm văn hoá ..................................................................... 2
1.1. Văn hoá là gì? ........................................................................................... 2
1.2. Các đặc trưng và chức năng của văn hoá ................................................... 2 1.2.1.
Tính hệ thống và chức năng tổ chức xã hội của văn hoá ...................... 2 1.2.2.
Tính giá trị và chức năng điều chỉnh xã hội của văn hoá ..................... 2 1.2.3.
Tính nhân sinh và chức năng giao tiếp của văn hoá ............................. 3 1.2.4.
Tính lịch sử và chức năng giáo dục của văn hoá.................................. 3
2. Giới thuyết về khái niệm pháp luật................................................................... 4
2.1. Pháp luật là gì? .......................................................................................... 4
2.2. Các đặc trưng cơ bản của pháp luật ........................................................... 4 2.2.1.
Tính quyền lực nhà nước .................................................................... 4 2.2.2.
Tính quy phạm phổ biến: .................................................................... 4 2.2.3.
Tính hệ thống: .................................................................................... 5 2.2.4.
Tính xác định về hình thức ................................................................. 5
3. Mối quan hệ giữa văn hoá và pháp luật ............................................................ 5
PHẦN II: ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HOÁ ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT ......................... 6
1. Văn hoá là phổ rộng của pháp luật ................................................................... 6
1.1. Tinh thần của pháp luật – Tự do: ............................................................... 6
1.2. Sự biến dạng văn hoá kéo theo sự biến dạng của hệ thống pháp luật .......... 6
2. Pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hoá ........................ 8
PHẦN III: THỰC TRẠNG, HẠN CHẾ VỀ VIỆC BẢO ĐẢM, XÂY DỰNG MỐI
QUAN HỆ GIỮA VĂN HOÁ VÀ PHÁP LUẬT HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ
KHẮC PHỤC .......................................................................................................... 10
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 13
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Có quan niệm cho rằng: “Văn hoá chính là phổ rộng của pháp luật và pháp
luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm của văn hoá.” Thật vậy, văn
hóa có một ảnh hưởng không thể phủ nhận đối với pháp luật. Văn hoá chính là
một mảnh ghép không thể thiếu của bức tranh cuộc sống, điều chỉnh hành vi và
tư duy của con người một cách tự giác. Chính vì vậy, pháp luật, với tư cách là
công cụ điều chỉnh hành vi của con người, phải được xây dựng dựa trên những
kinh nghiệm quý báu và sẵn có của văn hoá. Đây là một điều không thể chối cãi.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ở rất nhiều nơi trên thế giới, hệ thống pháp luật tỏ
ra không tương thích với cuộc sống. Vì vậy, ở đây, đặt ra hai câu hỏi lớn về mối
quan hệ thiếu tính chặt chẽ, gắn kết giữa pháp luật và văn hoá hay tính chính xác
của nguồn gốc việc xây dựng pháp luật dựa trên một nền văn hóa méo mó, phi tự nhiên.
Qua quá trình học tập và nghiên cứu bộ môn Văn hoá đại cương, em đã nhận
thức được rõ hơn tính cấp thiết của việc làm rõ mối liên hệ và sự ảnh hưởng lẫn
nhau giữa pháp luật và văn hoá cũng như các vấn đề xung quanh chúng. Chính
vì vậy, qua bài tiểu luận này, em sẽ đưa ra các phân tích và chứng minh nhận
định: “Văn hoá chính là phổ rộng của pháp luật và pháp luật được xây dựng dựa
trên những kinh nghiệm của văn hoá.”
Em xin gửi lời chân thành cảm ơn cô giáo Trần Thị Thanh Thuỷ và cô giáo
Nguyễn Tú Mai đã hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này. Trong
bài viết còn nhiều sai sót mong các cô chỉ bảo để em rút kinh nghiệm lần sau
sửa chữa. Em xin chân thành cảm ơn! 2. Kết cấu tiểu luận:
Tiểu luận: Phân tích và chứng minh nhận định “Văn hoá chính là phổ rộng
của pháp luật và pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm của văn
hoá.” được chia làm 3 phần chính bao gồm:
- Phần I: Cơ sở lý luận về văn hoá và pháp luật.
- Phần II: Ảnh hưởng của văn hoá đối với pháp luật.
- Phần III: Thực trạng, hạn chế về việc bảo đảm, xây dựng mối quan hệ giữa
văn hoá và pháp luật hiện nay và giải pháp để khắc phục. 1 NỘI DUNG
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HOÁ VÀ PHÁP LUẬT
1. Giới thuyết về khái niệm văn hoá: 1.1. Văn hoá là gì?
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo UNESCO: ‘Văn hóa là
tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện
tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống
các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính
riêng của mỗi dân tộc”.
Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày
về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa”.
Tuy nhiên, phân tích các cách tiếp nhận văn hoá phổ biến hiện nay (coi
văn hoá như tập hợp, như hệ thống, như giá trị, như hoạt động, như kí
hiệu…), có thể xác định được bốn đặc trưng cơ bản mà tổng hợp lại, ta có
thể nêu ra một định nghĩa văn hoá như sau: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường
tự nhiên và xã hội.”1 1.2.
Các đặc trưng và chức năng của văn hoá:
1.2.1. Tính hệ thống và chức năng tổ chức xã hội của văn hoá:
Tính hệ thống của văn hoá giúp phát hiện những mối liên hệ mật thiết
giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hoá; kết nối những hiện
tượng, quy luật lại với nhau trong quá trình phát triển.
Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa có thể thực hiện được các chức năng tổ
chức xã hội. Lý do là bởi văn hóa bao trùm lên tất cả các hoạt động, các lĩnh
vực. Từ đó có thể làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp và trang bị cho
xã hội những phương tiện cần thiết để ứng biến với môi trường tự nhiên.
1.2.2. Tính giá trị và chức năng điều chỉnh xã hội của văn hoá:
1 Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, tái bản lần 2, NXB Giáo dục, 1999. 2
Văn hóa khi được hiểu theo khía cạnh của một tính từ sẽ mang nghĩa là tốt
đẹp, là có giá trị. Người có văn hóa cũng chính là một người có giá trị. Do
đó mà văn hóa trở thành thước đo chuẩn mực cho con người và xã hội.
Văn hóa tự chính bản thân nó cũng mang trong mình những giá trị riêng
bao gồm giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Xét về mặt ý nghĩa thì văn hóa
có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị thẩm mỹ, giá trị đạo đức. Đứng trên
góc độ thời gian lại có thể chia văn hóa thành giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất
thời. Với mỗi góc độ khác nhau gắn với một sự vật, hiện tượng, sự kiện khác
nhau ta lại có thể có cái nhìn khác nhau. Từ những cái nhìn này, ta có thể
đánh giá văn hóa dưới những góc độ khách quan khác nhau.
Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hoá thực hiện được chức
năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng
động, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi
trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội.2
1.2.3. Tính nhân sinh và chức năng giao tiếp của văn hoá:
Tính nhân sinh của văn hóa có nghĩa rằng văn hóa được coi như một hiện
tượng xã hội. Hiện tượng xã hội được hiểu là những hiện tượng do con
người sáng tạo ra hay còn gọi là nhân tạo, khác với các giá trị tự nhiên hay
còn gọi là thiên tạo. Chính vì là một thực thể có tính nhân sinh nên văn hóa
chịu tác động của cả vật chất lẫn tinh thần của con người.
Đồng thời, vì có tính nhân sinh nên văn hóa thực hiện được chức năng
giao tiếp, vô tình trở thành sợi dây liên kết giữa người với người, vật với vật
và cả vật với người. Đó chính là ý nghĩa nhân sinh sâu sắc nhất mà văn hóa hàm chứa.
1.2.4. Tính lịch sử và chức năng giáo dục của văn hoá:
Văn hóa phản ánh quá trình sáng tạo của con người trong một không gian
và thời gian nhất định. Chính vì thế mà văn hóa cũng gắn liền với chiều dài
lịch sử, thậm chí là văn hóa hàm chứa lịch sử. Tính lịch sử khiến cho văn
hóa mang đặc trưng có bề dày, có chiều sâu, có hệ giá trị. Nhờ có tính lịch sử
mà văn hóa cũng cần được duy trì, nói một cách khác đó là biến văn hóa trở
thành truyền thống văn hóa.
Văn hóa có tính lịch sử cao cần phải được tích lũy, được gìn giữ và không
ngừng tái tạo, chắt lọc những tinh hoa, không ngừng sản sinh và phát triển để
hoàn thiện dưới dạng ngôn ngữ, phong tục,… Chính vì vậy, để tồn tại, văn
2 Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, tái bản lần 2, NXB Giáo dục, 1999. 3
hoá thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định,
mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành.3
2. Giới thuyết về khái niệm pháp luật: 2.1. Pháp luật là gì?
Ở Việt Nam hiện nay, trong giáo trình của các cơ sở đào tạo luật học cũng
như trong sách báo pháp lí tồn tại nhiều định nghĩa về pháp luật dưới góc độ
là pháp luật thực định. Tuy nhiên, có thể nói, các định nghĩa đó cơ bản chỉ
khác nhau về câu chữ và thể hiện quan niệm về pháp luật với tư cách là một
loại quy tắc ứng xử của con người, một loại chuẩn mực xã hội, pháp luật có
những điểm khác biệt cơ bản so với các loại chuẩn mực xã hội khác như đạo
đức, phong tục tập quán... Vậy, pháp luật là gì?
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa
nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích,
định hướng của nhà nước.4 2.2.
Các đặc trưng cơ bản của pháp luật:
2.2.1. Tính quyền lực nhà nước:
Đây là một đặc điểm riêng có của pháp luật, bằng pháp luật, nhà nước
thực hiện việc tổ chức và quản lí các mặt của đời sống xã hội. Nói cách khác,
pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước. Thông qua pháp luật, nhà nước quy
định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của người dân, cho phép người dân được
làm gì, không cho phép họ làm gì hay bắt buộc họ phải làm gì, làm như thế
nào... Để đảm bảo việc tổ chức thực hiện và tuyên truyền pháp luật, nhà
nước sử dụng nhiều biện pháp khác nhau thông qua quyền lực của mình, yêu
cầu các cá nhân, tập thể sống và làm theo quy định của pháp luật.
2.2.2. Tính quy phạm phổ biến:
“Quy phạm” nghĩa là khuôn thước, khuôn mẫu, chuẩn mực. Từ đó, các
quy định của pháp luật là những khuôn mẫu, chuẩn mực định hướng cho
nhận thức và hành vi của mọi người, hướng dẫn cách xử sự cho cá nhân, tổ
chức trong xã hội. Phạm vi tác động của pháp luật rất rộng lớn, nó là khuôn
mẫu ứng xử cho mọi cá nhân, tổ chức trong đời sống hàng ngày, nó điều
chỉnh các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực của cuộc sống, pháp luật tác động
đến mọi địa phương, vùng, miền của đất nước.
3 Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, tái bản lần 2, NXB Giáo dục, 1999.
4 Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, tái bản lần 2, NXB Giáo dục, 1999. 4 2.2.3. Tính hệ thống:
Bản thân pháp luật là một hệ thống các quy phạm hay cạc quy tăc xử sự
chung, các nguyên tắc, các khai niệm pháp lí... Pháp luật điều chỉnh quan hệ
xã hội bằng cậch tác động lên cách xử sự của các chủ thể tham gia quan hệ
xã hội đó, làm cho quan hệ phát triển theo chiều hướng nhà nước mong
muốn. Mặc dù điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nhiều lĩnh vực khác nhau,
song các quy định của pháp luật không tồn tại biệt lập mà giữa chúng có mối
liên hệ nội tại thống nhất với nhau, tạo nên một chỉnh thể thống nhất.
2.2.4. Tính xác định về hình thức:
Pháp luật được thể hiện trong những hình thức xác định như tập quán
pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật. Ở dạng thành văn, các quy
định của pháp luật được thể hiện một cách rõ ràng, cụ thể, không trừu tượng,
chung chung, bảo đảm có thể được hiểu và thực hiện thống nhất trên toàn xã
hội. Ngoài ra, ngày nay, trong thời đại hội nhập quốc tế, các quốc gia có xu
hướng tác động và ràng buộc lẫn nhau. Vì vậy, cần thiết phải có pháp luật
quốc tế để điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế.
3. Mối quan hệ giữa văn hoá và pháp luật
Văn hóa và pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ, gắn kết với nhau, vừa có điểm
tương đồng, vừa có sự khác nhau trong chính đặc điểm và mục đích mà chúng
hướng tới. Văn hóa có những đặc trưng và chức năng riêng có như đã phân tích
ở trên, pháp luật cũng vậy. Văn hóa có tính khuyến cáo, định hướng, giáo dục,
nhắc nhở con người. Pháp luật được xây dựng trên nền tảng văn hóa, những giá
trị chung của văn hóa, đồng thời, giữ vai trò củng cố, duy trì và phát triển văn hóa.
Pháp luật mang trong mình bốn đặc trưng cơ bản, trong đó, nó thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị, trong một xã hội nào cũng cần pháp luật như một công cụ
điều chỉnh hành vi của con người trong mọi hoạt động đời sống của xã hội. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy rằng, con người chịu sự điều chỉnh của văn hóa nhiều
hơn là pháp luật vì con người luôn hành động theo bản năng, thói quen, phong
tục tập quán… Hơn nữa, ngay cả trong trường hợp pháp luật được sử dụng để áp
đặt hành vi của con người thì con người vẫn hành động theo thói quen, theo
kinh nghiệm văn hóa của mình. Chính vì vậy, văn hóa có một ảnh hưởng không
thể phủ nhận đối với pháp luật.
PHẦN II: ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HOÁ ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT 5
1. Văn hoá là phổ rộng của pháp luật. 1.1.
Tinh thần của pháp luật – Tự do:
Pháp luật luôn cần thiết và được coi như là một công cụ điều chỉnh
hành vi hữu hiệu của con người trong mọi mặt đời sống. Tuy nhiên, thực
tế chứng minh, con người chịu sự điều chỉnh của văn hóa nhiều hơn là
pháp luật vì con người luôn hành động theo tập quán, theo thói quen... kể
cả khi việc đó dẫn họ đến vi phạm pháp luật. Vậy, vấn đề đặt ra là, pháp
luật phải được xây dựng như thế nào để có thể biến thành văn hóa và đi
vào cuộc sống của con người? Nếu pháp luật không biến thành các giá trị
văn hóa thì không có tác dụng điều chỉnh hành vi của con người?5
Để làm được như vậy, trước tiên cần phải hiểu tinh thần của pháp luật,
đó chính là tự do. Từ thời kỳ Khai sáng, các triết gia đã đúc kết ra rằng
pháp luật là những khế ước xã hội, mà khế ước xã hội trong triết học và
chính trị học là một học thuyết mô tả việc con người cùng thỏa thuận từ
bỏ trạng thái tự nhiên để xây dựng cuộc sống cộng đồng.6 Tuy nhiên, để
tham gia bình đẳng vào quá trình thỏa thuận, con người cần phải có tự
do. Nếu không có tự do thì con người không nhận thức được cuộc sống,
do đó, không thỏa thuận được. Người không nhận thức được cuộc sống là
người không lường hết được các tình huống của cuộc sống, do đó, không
có đủ kinh nghiệm để tham gia vào quá trình thỏa thuận, là quá trình mà
ở đó, người ta hy sinh những quyền tự do bản năng của mình để hưởng
sự trật tự của một xã hội, cộng đồng văn minh và tạo ra những quyền tự
do mang tính tự giác.7 Do đó, tự do buộc phải là điểm khởi đầu của mọi
quá trình thỏa thuận và cũng chính vì như vậy mà tự do trở thành tinh thần của pháp luật.8 1.2.
Sự biến dạng văn hoá kéo theo sự biến dạng của hệ thống pháp luật:
Văn hoá chính là cuộc sống, là những giá trị vật chất và tinh thần đã
được đúc kết từ ngàn đời; do đó, khi làm biến dạng văn hóa, những người
5 Luật sư Lê Minh Trường (2019), “Ảnh hưởng của văn hoá đối với pháp luật”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ:
https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
6 Luật sư Lê Minh Trường (2021), “Thuyết khế ước xã hội là gì ? Tìm hiểu về thuyết khế ước xã hội”, Luật Minh
Khuê, tại địa chỉ: https://luatminhkhue.vn/thuyet-khe-uoc-xa-hoi-la-gi---tim-hieu-ve-thuyet-ke-uoc-xa-hoi.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
7 Luật sư Lê Minh Trường (2021), “Thuyết khế ước xã hội là gì ? Tìm hiểu về thuyết khế ước xã hội”, Luật Minh
Khuê, tại địa chỉ: https://luatminhkhue.vn/thuyet-khe-uoc-xa-hoi-la-gi---tim-hieu-ve-thuyet-ke-uoc-xa-hoi.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
8 Luật sư Lê Minh Trường (2019), “Ảnh hưởng của văn hoá đối với pháp luật”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ:
https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022. 6
cầm quyền đã làm biến dạng cả cuộc sống, hay nói cách khác, đời sống
tinh thần và vật chất của con người cũng có xu hướng đi xuống. Hệ thống
pháp luật, để có thể điều chỉnh được cuộc sống, tất yếu cũng bị biến dạng
theo. Từ đó dẫn đến kết luận, để tương thích với một cuộc sống đã bị
biến dạng thì bản thân pháp luật cũng phải méo mó và sự méo mó đáng
sợ nhất của pháp luật chính là sự không thừa nhận quyền sở hữu của con người.9
Để nhận biết một xã hội văn minh, sở hữu là một trong những dấu hiệu
quan trọng nhất và cũng là quyền con người căn bản nhất. Sự tiêu diệt
quyền hay ý thức sở hữu của con người đối với một vật cụ thể cũng kéo
theo sự sụp đổ của quyền và ý thức đó đối với những tài sản tinh thần mà
pháp luật không nằm ngoài phạm vi. Từ đó diễn ra thực trạng con người
dần không ý thức được quyền sở hữu của mình với pháp luật, dần thờ ơ,
ít quan tâm các vấn đề liên quan đến pháp luật, thậm chí, chà đạp lên tài
sản tinh thần của chính mình. Chính vì vậy, loại bỏ sở hữu tư nhân chính
là một trong những hành vi phá hoại mạnh nhất đời sống văn hóa của con người. 10
Ngoài ra, khuyết tật quan trọng nhất của nền văn hóa phi tự nhiên là
tính đơn giản. Trước hết, cần phải hiểu nguồn gốc của nền văn hoá phi tự
nhiên là gì? Ở đây, chính sự phản ánh cuộc sống một cách đơn giản của
con người bằng cả hành vi lẫn tư duy tạo ra sự đơn giản của nền văn hóa
hay tạo ra một nền văn hóa méo mó, phi tự nhiên, tiêu diệt sự đa dạng
của đời sống. Chính trong môi trường như vậy, cái chết về mặt tinh thần
của con người đã tạo cơ hội cho sự lộng hành của một khuynh hướng đã
được nhà cầm quyền lựa chọn mà công các nhà cầm quyền dùng để tăng
cường kiểm soát con người là pháp luật. Tuy nhiên, chỉ có những hệ
thống pháp luật méo mó mới bảo đảm cơ sở tồn tại hợp pháp của sự lộng
hành, bảo trợ cho những hành vi tham nhũng tinh thần như vậy. 11
Những phân tích trên cho thấy ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa đến
pháp luật. Tuy nhiên, sẽ là rất phiến diện, không đầy đủ nếu chúng ta
không phân tích cả hai mặt, cụ thể là ảnh hưởng ngược lại của pháp luật
đối với văn hóa. Pháp luật, với tư cách là công cụ điều chỉnh hành vi con
người, tất yếu tạo ra hành vi tương thích với nó. Cho ví dụ, một hệ thống
pháp luật méo mó sẽ tạo ra những hành vi méo mó. Không chỉ dừng lại ở
9 Luật sư Lê Minh Trường (2019), “Ảnh hưởng của văn hoá đối với pháp luật”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ:
https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
10 Luật sư Lê Minh Trường (2019), “Ảnh hưởng của văn hoá đối với pháp luật”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ:
https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
11 Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, tái bản lần 2, NXB Giáo dục, 1999. 7
đó, một hệ thống pháp luật méo mó cũng sẽ tạo ra tư duy méo mó, bởi lẽ,
tư duy là một loại hành vi. Theo dòng chảy của thời gian, những hành vi
và tư duy méo mó đó dần trở thành những thói quen méo mó và củng cố
thêm cho nền văn hóa vốn đã méo mó đó. Một dân tộc sở hữu cả nền văn
hóa dị dạng lẫn hệ thống pháp luật méo mó như vậy là một dân tộc đã
chết về mặt văn hóa hay chết về đời sống tinh thần. Khi ý thức về văn
hoá biến mất, ý thức dân tộc cũng dần trở nên mai một đi, dẫn đến hệ quả
về sự hao mòn của một dân tộc.
2. Pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hoá.
Như đã đề cập ở trên, văn hoá chính là cuộc sống, mà bản chất của cuộc sống
là sự đa dạng, do đó, một hệ thống pháp luật chỉ có giá trị khi nó mang trong
mình tính đa dạng của cuộc sống. Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp
luật và không một hệ thống pháp luật nào ngoài văn hóa có đủ năng lực điều
chỉnh tất cả các tình huống của cuộc sống. Chính vì vậy, kinh nghiệm văn hóa là
nền tảng quan trọng nhất để xây dựng pháp luật. Điều này đồng nghĩa với việc
pháp luật thừa nhận cuộc sống chứ không áp đặt lên cuộc sống. Nhờ đó, tốc độ
thâm nhập của pháp luật vào trong cuộc sống sẽ nhanh hơn, việc tuân thủ pháp
luật trở thành thói quen có chất lượng văn hóa của con người. Kinh nghiệm về
việc xây dựng pháp luật ở các quốc gia phát triển chỉ ra rằng, pháp luật càng gần
với tập quán cũng như thói quen của con người, càng có chất lượng văn hóa bao
nhiêu thì pháp luật càng dễ được chấp nhận bấy nhiêu. Điều đó hoàn toàn có thể
lý giải được bởi nếu chúng ta không xây dựng pháp luật dựa trên những thói
quen, thì con người sẽ cảm thấy hẫng hụt khi hành động ngược với thói quen.
Hành động ngược với thói quen sẽ tạo ra thói quen mới, đến lượt mình, thói
quen mới sẽ mâu thuẫn, phá vỡ các thói quen cũ và tạo ra mâu thuẫn trong các
hành vi của con người.12
Đào sâu hơn vào vấn đề, phong tục, tập quán là một bộ phận quan trọng của
hệ thống văn hóa, phản ánh “nhãn quan” của một cộng đồng dân tộc về thế giới
vũ trụ bao gồm vật chất tự nhiên, môi trường sống xung quanh và những quy tắc
ứng xử tương ứng của cộng đồng. Các ứng xử đó lặp đi, lặp lại nhiều lần tạo
thành nếp sống, nếp nghĩ, biểu hiện rõ nét ở các phong tục, tập quán. Chính các
phong tục, tập quán lâu đời này đã tạo nên truyền thống văn hóa, nét đặc thù,
điểm khác biệt, hình thành bản sắc của cộng đồng, dân tộc.
Trước hết, tập quán là nguồn hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật. Nhà nước không
thể nào “luật hóa” được mọi lĩnh vực, mọi ngõ ngách của đời sống xã hội, vì
12 Luật sư Lê Minh Trường (2019), “Ảnh hưởng của văn hoá đối với pháp luật”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ:
https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022. 8
thế, trong thực tiễn sẽ luôn có những tình huống thiếu pháp luật thành văn để
điều chỉnh, trong khi đó tập quán lại rất phong phú và đa dạng, với cơ chế điều
chỉnh mềm dẻo, linh hoạt chính là nguồn hỗ trợ, bổ sung quan trọng cho pháp
luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng.
Cho ví dụ, ở Việt Nam, phong tục giỗ Tổ Hùng Vương là phong tục tốt đẹp
được Nhà nước thừa nhận và được đảm bảo thực hiện không chỉ ở Phú Thọ mà
còn được đảm bảo trên toàn quốc gia.
Thứ hai, tập quán là tiền đề giúp cho pháp luật đi vào đời sống xã hội. Tập
quán có tác động không nhỏ đến việc tiếp nhận và thi hành pháp luật của người
dân. Tập quán lạc hậu sẽ trở thành lực cản trong việc tiếp nhận và thi hành pháp
luật. Ngược lại, tập quán tiến bộ sẽ đóng vai trò tích cực trong việc tiếp nhận và
thi hành pháp luật một cách tự giác của người dân. Việc áp dụng tập quán tốt
đẹp sẽ đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng tình đoàn kết nội bộ, giải quyết
các tranh chấp bằng con đường hoà giải, giải quyết linh hoạt, kịp thời, có tình,
có lý các mâu thuẫn trong cộng đồng dân cư, phù hợp với điều kiện của từng địa
phương bảo đảm ổn định trật tự xã hội và do vậy, sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện
pháp luật, xây dựng ý thức pháp luật.
Thứ ba, tập quán là nguồn nội dung của pháp luật. Tập quán không chỉ là
nguồn bổ sung cho pháp luật, là tiền đề khách quan đưa pháp luật vào cuộc sống
mà còn là nguồn nội dung của pháp luật, là “chất liệu quý” để hoàn thiện một
nền pháp luật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Vì vậy, trên cơ sở xác định đúng
đắn vị trí, vai trò, giá trị của tập quán trong giai đoạn phát triển hiện nay, để phát
huy được vai trò, giá trị của tập quán trong điều chỉnh các quan hệ xã hội nói
chung, quan hệ dân sự nói riêng, góp phần đảm bảo quyền lợi chính đáng cho
các chủ thể, cũng như đảm bảo trật tự xã hội thì việc áp dụng tập quán cần phải
tuân theo những nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo trong quá trình áp dụng
tập quán có thể kế thừa được những tập quán “hay” và loại bỏ được những tập quán “dở”. 9
PHẦN III: THỰC TRẠNG, HẠN CHẾ VỀ VIỆC BẢO ĐẢM, XÂY DỰNG MỐI
QUAN HỆ GIỮA VĂN HOÁ VÀ PHÁP LUẬT HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ KHẮC PHỤC:
Trước hết, như đã đề cập đến từ trước, trên thực tế, con người chịu sự điều
chỉnh của văn hóa nhiều hơn là pháp luật vì con người luôn hành động theo tập
quán, theo thói quen... Việc người dân hành động theo tập quán, thói quen hơn
là tuân thủ các quy định của pháp luật đã dẫn tới tình trạng vi phạm pháp luật,
xa hơn là sự mất trật tự, ổn định xã hội. Để khắc phục tình trạng này, hay nói
cách khác, để cho văn hoá nói chung, pháp luật nói riêng thấm sâu vào từng khu
dân cư, từng hộ gia đình và từng người dân, đòi hỏi sự tham gia vào cuộc của cả
hệ thống chính trị, mọi cấp, mọi ngành, nhất là các ngành Tư pháp, Văn hoá -
thông tin, các cấp chính quyền… Mỗi cấp uỷ đảng, cán bộ, đảng viên còn phải
gương mẫu tiên phong trong việc tuyên truyền, phổ biến, phát triển pháp luật
đến quần chúng nhân dân và gương mẫu thực hành, thực thi pháp luật. Cần tạo
ra môi trường văn hoá - xã hội lành mạnh từ mỗi khu dân cư, cộng đồng dân cư.
Lực lượng nòng cốt ở đây, bên cạnh các tổ chức đảng, các chính quyền còn phải
lôi kéo được sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân
dân. Phải thực hiện được sự phối kết hợp, lồng ghép các nội dung phát triển văn
hoá, pháp luật với các cấp phong trào, cuộc vận động thi đua yêu nước do Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân phát động và thực
hiện, tiêu biểu như các phong trào, cuộc vận động: “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”,
phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc”… Chỉ có làm được như
vậy, mới nói đến xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc và phát triển văn hoá, pháp luật đúng như ý tưởng và mong muốn của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ hai, tự do là tinh thần của pháp luật, như đã chứng minh ở trên, bởi vì, để
tham gia bình đẳng vào cuộc sống cộng đồng, con người cần phải được tự do.
Ngoài ra, sở dĩ tự do là tinh thần của pháp luật còn bởi tự do là công cụ duy nhất
có thể điều chỉnh tự do cá nhân trở thành tự do cộng đồng. Nếu không có các giá
trị văn hóa thì ai điều chỉnh và kiểm soát quá trình góp tự do? Rõ ràng, góp tự
do là kết quả của sự tự giác. Nếu không có sự giác ngộ về mặt văn hóa thì con
người không tôn trọng các khế ước và tạo ra các vùng bất hợp pháp trong cuộc
sống. Các vùng bất hợp pháp trong cuộc sống vẫn tồn tại ở nhiều nơi trên thế
giới, đặc biệt là ở những nền văn hóa không lành mạnh, nơi pháp luật bất lực
trong việc bảo vệ tự do của con người. Do vậy, cách tốt nhất để khắc phục tình 10
trạng bất lực của pháp luật chính là mở rộng sự giác ngộ về mặt văn hóa của con người.13
Cuối cùng, trong thời đại hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, mỗi một nền văn
hóa, mỗi một quốc gia không thể tồn tại độc lập với thế giới bên ngoài mà luôn
có sự tác động hợp tác, lẫn nhau. Tuy nhiên, điều này có thể dẫn tới hai mặt tích
cực và tiêu cực. Về mặt tích cực, các quốc gia có cơ hội cọ xát, học hỏi và giúp
đỡ nhau về mọi mặt trong đời sống: kinh tế, chính trị, văn hoá… Về mặt tiêu
cực, nếu những mâu thuẫn cũ chưa được pháp luật quốc tế điều chỉnh mà đã nảy
sinh mâu thuẫn mới, có thể dẫn đến sự xung đột giữa các quốc gia, thậm chí có
thể xảy ra chiến tranh. Giải pháp được đặt ra ở đây đòi hỏi mỗi nền văn hóa, hơn
bao giờ hết phải luôn nâng cao năng lực hợp tác với các nền văn hóa khác, tức là
nâng cao tính mở của chính mình. Sự mở của các nền văn hóa chính là nguồn
gốc của trạng thái hòa bình giữa các dân tộc bởi khi con người hiểu biết và hiểu
nhau thì sẽ tránh được rất nhiều sự va chạm. Chính vì vậy, xây dựng một nền
văn hóa có tính mở chính là nâng cao năng lực tạo ra đời sống hòa bình của
nhân loại. Xét trên khía cạnh hẹp hơn, đối với mỗi cộng đồng, tính mở về văn
hóa sẽ góp phần nâng đỡ các cộng đồng lạc hậu đi qua những khó khăn về mặt
nhận thức hay đi qua ngưỡng của sự chậm phát triển. Mặt khác, mở cửa về văn
hóa sẽ tạo ra môi trường tinh thần cởi mở. Môi trường tinh thần cởi mở chính là
môi trường nâng đỡ các hệ thống luật pháp tham gia vào quá trình hội nhập.14 KẾT LUẬN
13 Luật sư Lê Minh Trường (2019), “Ảnh hưởng của văn hoá đối với pháp luật”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ:
https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
14 Luật sư Lê Minh Trường (2019), “Ảnh hưởng của văn hoá đối với pháp luật”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ:
https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022. 11
Văn hoá có ảnh hưởng to lớn đến việc xây dựng pháp luật, chính văn hoá điều chỉnh
hành vi của con người mạnh hơn cả pháp luật. Văn hoá chính là cuộc sống, do vậy, để
điều chỉnh tốt hành vi con người trong mọi mặt đời sống, pháp luật hay mọi khế ước xã
hội phải được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa chứ không phải chỉ là
những kinh nghiệm pháp lý.
Văn hoá là nền tảng xây dựng hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, để xây dựng và phát
huy được một hệ thống pháp luật lành mạnh, thì nền tảng của nó – văn hoá cũng phải
mang tinh thần như vậy. Điều này chỉ được đáp ứng khi có đủ hai điều kiện: con người
thừa nhận tính đa dạng tự nhiên của cuộc sống và đảm bảo tính đa khuynh hướng của
văn hóa. Và trên hết, văn hóa và pháp luật lành mạnh đều phải hướng tới bảo vệ các giá
trị tự do của con người. Chỉ khi làm được như vậy, con người mới đạt đến trạng thái phát triển thực sự.
Nhìn chung, quan niệm: “Văn hoá chính là phổ rộng của pháp luật và pháp luật được
xây dựng dựa trên những kinh nghiệm của văn hoá” là một quan niệm giàu tính thực tế,
phản ánh đúng được tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc giữ gìn và phát huy mối
quan hệ chặt chẽ giữa văn hoá và pháp luật gắn với sự nâng cao nhận thức của mọi
người về ý thức bảo vệ, tiếp thu văn hoá và pháp luật. 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, tái bản lần 2, NXB Giáo dục, 1999.
2. Luật sư Lê Minh Trường (2019), “Ảnh hưởng của văn hoá đối với pháp luật”, Luật
Minh Khuê, tại địa chỉ: https://luatminhkhue.vn/anh-huong-cua-van-hoa-doi-voi-phap-
luat.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022.
3. Luật sư Lê Minh Trường (2021), “Thuyết khế ước xã hội là gì ? Tìm hiểu về thuyết
khế ước xã hội”, Luật Minh Khuê, tại địa chỉ: https://luatminhkhue.vn/thuyet-khe-uoc-
xa-hoi-la-gi---tim-hieu-ve-thuyet-ke-uoc-xa-hoi.aspx , ngày truy cập: 27/06/2022. 13
Document Outline

  • BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
  • NỘI DUNG 2
  • KẾT LUẬN 12
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO 13
  • LỜI MỞ ĐẦU
  • NỘI DUNG
  • KẾT LUẬN
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO