Tiểu luận giáo dục giới tính - Con người và môi trường | Trường Đại học Khánh Hòa

Tiểu luận giáo dục giới tính - Con người và môi trường | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Trường:

Đại học Khánh Hòa 399 tài liệu

Thông tin:
15 trang 5 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tiểu luận giáo dục giới tính - Con người và môi trường | Trường Đại học Khánh Hòa

Tiểu luận giáo dục giới tính - Con người và môi trường | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

152 76 lượt tải Tải xuống
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cập thiết của đề tài:
Như chúng ta biết vấn đề giới tính là một vấn đề tế nhị, ít người nói đến. Trong
thời kỳ mở cửa giao lưu văn hóa như hiện nay giữa các dân tộc, các quốc gia với nền
khoa học hiện đại đang phát triển mạnh. Việc giáo dục giới tính góp phần xây dựng nhân
cách con người, hình thành nhân cách ở mọi cá nhân. Để giúp con người phát triển bình
thường và phát triển toàn diện về nhân cách, chúng ta cần đưa nội dung giáo dục giới tính
vào trong hoạt động giáo dục của xã hội.
Gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên của con người mà mỗi cá nhân đều phải
trải qua”. Cha mẹ là những người đầu tiên phát hiện được sự trưởng thành về mặt sinh lí
của con mình, ý thức cho con về mặt tâm sinh lí tình cảm… Hơn thế, cha mẹ là những
người ảnh hưởng lớn nhất đối với con cái, được coi là mẫu mực cho con cái trông vào
“Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội. Xã hội tốt thì gia đình càng tốt; gia đình càng
tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì phải chú ý hạt nhân cho tốt”. Con cái chính là tấm gương phản ánh thực
trạng đạo đức, nếp sống mỗi gia đình, của việc giáo dục con cái của những bậc làm cha,
làm mẹ. Xã hội phát triển khi có những gia đình tốt, những công dân tốt. Bởi cha m
thường né tránh, vì nỗi lo “vẽ đường cho hươu chạy” của người lớn, mặt khác do bận rộn
trong công việc nên rất ít gia đình có sự quan tâm đúng mức đến việc giáo dục giới tính
cho con, đặc biệt là khu vực nông thôn.Con cái, do sự thiếu hiểu biết, không được nhận
thức một cách đầy đủ hệ thống, khoa học từ gia đình và nhà trường, nên các em chủ yếu
tự suy diễn, tò mò, rồi tự giải đáp thắc mắc của chính mình, dẫn đến những suy nghĩ và
có những hành động sai lầm, trong đó vấn đề giới tính tình dục là một vấn đề đáng quan
tâm của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Ngày nay, các loại hình dịch vụ cũng là
nguồn cung cấp các yếu tố tiêu cực như văn hóa đồi trụy, sách báo, băng, đĩa đen…đã tác
động tới nhận thức của lớp trẻ về vấn đề giới tính; tệ nạn xã hội ngày một gia tăng gây
ảnh hưởng rối loạn trật tự xã hội, làm mai một thuần phong mỹ tục... Nhận thức được tầm
quan trọng của gia đình trong việc giáo dục giới tính cho con cái, là nơi hình thành nên
những giá trị nền tảng có ảnh hưởng rất lớn đến lối sống, tư tưởng của con cái. Và để tìm
hiểu về nhận thức của cha mẹ về việc giáo dục giới tính cho con hiện nay là như thế nào.
Vai trò của cha và mẹ trong giáo dục giới tính hiện nay ra sao? Giáo dục bằng những
phương pháp nào? Có giải pháp gì để nâng cao vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục GT
cho con cũng chính là lý do tôi chọn đề tài này.
2 . Mục đích nghiên cứu.
-Tìm hiểu vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục giới tính cho con tại xã Tế lợi – Huyện
Nông cống – Thanh hóa.
-Tìm hiểu nhận thức và thái độ của cha mẹ về tầm quan trọng trong việc giáo dục giới
tính cho con.
-Tìm hiểu nội dung giáo dục giới tính cho con của cha mẹ.
-Tìm hiểu một số phương pháp giáo dục giới tính chủ yếu cho con của cha mẹ. và tìm
hiểu những khó khăn trong việc giáo dục giới tính cho con của cha mẹ.
3 . Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu.
-Đối tượng nghiên cứu: Là cha mẹ có con đang đi học trong độ tuổi từ 6 – 17 tuổi tại Xã
Tế Lợi, Thanh Hóa. Để đảm bảo tính khách quan chúng tôi nghiên cứu phỏng vấn sâu là
con cái của phụ huynh đang đi học trong độ tuổi từ 6 -17 tuổi. Vì ở độ tuổi này trẻ đang ở
giai đoạn phát triển về thể chất và cũng bắt đầu hiểu biết được vấn đề.
-Phạm vi nghiên cứu: Xã Tế lợi – Huyện Nông Cống – Tỉnh Thanh Hóa.
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHÍNH
1. Khái niệm vai trò.
Theo Robertsons vai trò là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, quyền lợi và nghĩa vụ
được gắn liền với một vị thế xã hội nhất định.
2. Khái niệm gia đình.
Gia đ?nh là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chề
văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưjng hoăc quan hệ giáo dục giữa các
thành viên.
3. Khái niệm về giới tính và giáo dục giới tính.
Giới tính là một thuật ngữ khoa học bắt nguồn từ môn sinh vật học dùng đểc hỉ dự
khác biệt về sinh học giữa nam và nữ. Đó là sự khác biệt phổ thông và không thể thay đổi
được, mọi người đàn ông đều có những đặc điểm chung về giới tính và mọi người phụ nữ
đều có đặc điểm chung về giới tính.
là quá trình giáo dục con người (thanh thiếu niên), nhằm làm cho “Giáo dục giới tính
họ có nhận thức đầy đủ, có thái độ đúng đắn về giới tính và quan hệ giới tính, có nếp
sống văn hoá giới tính, hướng hoạt động của họ vào việc rèn luyện để phát triển nhân
cách toàn diện, phù hợp với giới tính, giúp cho họ biết tổ chức tốt nhất cuộc sống riêng
cũng như xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phát triển.” - (Bùi Ngọc Oánh Tâm lí học
giới tính và Giáo dục giới tính, NXB Giáo dục, 2006)
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH VỀ GIỚI TÍNH ,
QUAN ĐIỂM VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CHA MẸ TRONG VIỆC GDGT.
1. Nhận thức của học sinh về giới tính:
Ở Việt Nam hiện nay, theo chương trình giáo dục mà Bộ Giáo Dục Đào Tạo quy
định thì giáo dục giới tính đã được đưa vào giảng dạy lồng ghép từ cấp THCS. Mặc dù
phần lớn các em học sinh đều nhận thức được giáo dục giới tính bao gồm những nội dung
gì, nhưng kết quả vẫn cho thấy một mức độ thấp các em có hiểu biết sâu sắc về nội dung
của giáo dục giới tính hay những hậu quả có thể gặp phải khi thiếu kiến thức về giới tính.
Các em chỉ có nhận thức tốt về các dấu hiệu của tuổi dậy thì, còn những nội dung khác
trong sức khoẻ sinh sản, giáo dục giới tính thì các em còn mơ hồ hiểu biết còn rất hạn chế
chỉ có 6,4% hiểu biết đúng về thời điểm có thai, 93,6% học sinh không biết ở thời điểm
nào quan hệ tình dục sẽ có thai; 20,7% các em biết đuợc trong quá trình nạo hút thai có
thể gặp các tai biến như thủng tử cung, 18,8% các em biết đuợc sau khi nạo phá thai sẽ bị
đau bụng và 23% các em biết sẽ bị nhiễm trùng sau khi nạo phá thai.
Đồng thời, các em cũng có sự nhận thức đúng đắn về việc cần trang bị cho mình
đầy đủ những kiến thức về giới tính, biết phân biệt hành vi nào là đúng đắn, đúng với
chuẩn mực đạo đức xã hội. Cụ thể như: 88,% học sinh đồng ý nên trang bị đầy đủ kiến
thức giới tính cho lứa tuổi vị thành niên; 68,3% đồng ý với nội dung nên để tự bản thân
các em tìm hiểu, và cần trao đổi thẳng thắn các vấn đề có liên quan tới kiến thức giới
tính; 46.7 % cho rằng có quan hệ tình dục ở lứa tuổi trung học cơ sở là điều tồi tệ, trái với
đạo đức, truyền thống văn hóa của người Việt Nam.
Như vậy, đa số học sinh đã có nhận thức khá tốt và cái nhìn tổng quan về giới tính,
các em đã được nghe nói, hay tìm hiểu những nội dung về giới tính. Tuy nhiên sự nhận
thức đó chỉ dừng lại ở mức độ hiểu kiến thức chung về giới tính mà chưa đi sâu tìm hiểu
chi tiết để có nhận thức đúng đắn hơn, cụ thể hơn, tránh đuợc những rủi ro không nên có.
2. Quan diểm của cha mẹ về giáo dục giới tính:
Có rất nhiều quan điểm khác nhau của cha mẹ về giáo dục giới tính. Một phần
nhỏ cha mẹ có quan điểm tích cực và nhận thức đúng đắn là nên giáo dục giới tính cho
con. Tuy nhiên phần lớn cha mẹ lại đưa ra quan điểm không nên giáo dục giới tính cho
con, theo họ việc giáo dục giới tính, giáo dục tình dục cho trẻ ở tuổi vị thành niên là “vẽ
đường cho hươu chạy” và vô hình dung làm cho trẻ hiểu biết thêm nhiều thứ mà các cháu
chưa đủ tuổi để lĩnh hội. Giáo dục với con trẻ về vấn đề tình dục chỉ khiến chúng trở nên
tò mò hơn và bắt đầu… thử nghiệm xem sao. Chính quan điểm rất sai lầm đó của cha mẹ
đã đẩy con em vào tình trạng thiếu hiểu biết về giới tính, tình dục và dẫn đến những hành
động, việc làm lệch lạc, hậu quả là: mỗi năm nước ta có khoảng 300.000 ca nạo hút thai ở
độ tuổi 15-19, trong đó 60-70% là học sinh, sinh viên, Việt Nam là nước có tỷ lệ nạo phá
thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á và xếp thứ 5 thế giới. Hơn nữa có rất
nhiều bậc cha mẹ còn có quan điểm sai lầm khi cho rằng bố mẹ không nên đóng vai trò
trong việc giáo dục giới tính cho con. Hầu hết họ im lặng và cho rằng bọn trẻ sẽ có được
những thông tin cần thiết cho bản thân về vấn đề này từ trường học hoặc thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng. Một số khác nói rằng: ý kiến này cũng hay nhưng không
biết thực tế sẽ thế nào? ( Ủy ban dân số và kế hoạch hóa gia đình, trung tâm tư vấn về kế
hoạc hoá gia đình năm 2007).
Như vậỵ, phần lớn cha mẹ có quan điểm không đúng khi cho rằng không nên giáo
dục giới tính cho con và vô tình gán trách nhiệm đó cho nhà truờng, chỉ có một phần nhỏ
cha mẹ có quan điểm đúng đắn là nên giáo dục giới tính cho con. Từ quan điểm của cha
mẹ cho ta một nhận định rằng phần lớn cha mẹ đang hổng kiến thức về giới tính hay thiếu
sự hiêu biết về giới tính. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu về giới ngày càng cao, nếu
cha mẹ không sớm nhận ra đuợc sai lầm này, sẽ để lại nhiều hệ lụy cho xã hội, đặc biệt là
đối với lớp thế hệ trẻ như: quan hệ tình dục ở nước ta ngày càng sớm, trong đó học sinh,
sinh viên chiếm phần lớn; tỉ lệ nạo phá thai cũng liên tục gia tăng theo các năm; tội phạm
là trẻ đang ở tuổi vị thành niên ngày càng nhiều và có nhiều hành động táo tợn...
3. Tầm quan trọng của cha mẹ trong việc giáo dục giới tính:
Giáo dục giới tính cho trẻ có thể từ phía nhà trường, gia đình và ngoài xã hội,
nhưng gia đình là môi trường quan trọng nhất. Những nhận biết ban đầu của trẻ chính là
qua tiếp xúc với cha mẹ, trẻ không nói ra được nhưng cảm thụ được mọi chuyện, cảm
nhận được vị trí của mọi người trong gia đình qua hành vi, cách cư xử. Cha mẹ là những
người đầu tiên phát hiện được sự trưởng thành về mặt sinh lý của con mình. Các nhà
nghiên cứu tình dục đều thống nhất là trong sự phát triển tình dục, môi trường gia đình có
vai trò đặc biệt quan trọng. Cha mẹ cần quan sát xem quãng thời gian nào đứa trẻ của
mình hình thành ý thức về giới tính để tiến hành giáo dục. Đồng thời bài báo chỉ ra những
biểu hiện tâm sinh lý của trẻ ở mỗi giai đoạn phát triển, từ đó đưa ra cách tiếp cận của cha
mẹ với con cái về vấn đề giáo dục giới tính như thế nào để đạt hiệu qu Củng có quan .
điểm khi cho rằng: việc giáo dục giới tính tốt nhất là từ gia đình, nếp sống của cha mẹ là
tấm gương cho các con, nếu cha mẹ yêu thương, tôn trọng lẫn nhau, đối xử văn minh lịch
sự, biết hòa hợp trong cuộc sống gia đình, biết cởi mở và chân tình với con cái thì sẽ tạo
một ấn tượng tốt đẹp nơi các con. Theo nghiên cứu có 61,6% gia đình thấy cần thiết phải
trao đổi với con cái về vấn đề giới tính. Xét tương quan nam nữ có 56 ,6% ông bố và
64,3% bà mẹ cho rằng cần phải trao đổi về vấn đề này như vậy còn gần một nửa bố mẹ
không nhìn thấy sự cần thiết phải trao đổi với con về giới và giới tính. Bởi bố mẹ là
người định hướng cho con nhưng do những hạn chế về nhận thức của bố mẹ, cách truyền
đạt và sự lảng tránh của bố mẹ đã làm các em hiểu sai vấn đề dẫn tới những hậu quả
nghiêm trọng. Từ đó bài viết hướng tới việc đưa ra một số giải pháp để phòng tránh.
Bên cạnh đó nghiên cứu cũng chỉ ra những sự khác biệt trong việc giáo dục giới
tính ở đô thị và nông thôn, trong cách truyền đạt giữa người cha và người mẹ là khác
nhau, khác nhau trong thông tin truyền đạt. Ngoài ra cũng do những nhận thức hạn chế
của cha mẹ cũng ảnh hưởng tới việc giáo dục giới tính cho con.
Như vậy, ta có thể thấy được giáo dục giới tính cho trẻ là một vấn đề hết sức nhạy
cảm, tế nhị nhưng rất cần thiết và gặp rất nhiều khó khăn. Cùng với sự tiến bộ phát triển
của xã hội, giáo dục giới tính đã được xã hội quan tâm chú ý nghiên cứu nhiều hơn. Tuy
nhiên những nghiên cứu đó chủ yếu tập trung vào nghiên cứu về vấn đề giáo dục giới tính
được thể hiện ở những góc độ khác nhau: thực trạng, nhận thức, thái độ....mà chưa có một
nghiên cứu cụ thể về vai trò của gia đình trong việc giáo dục giới tính cho con ở Việt
Nam nói chung và đặc biệt trên trên địa bàn Xã Tế Lợi, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh
Hóa nói riêng.
CHƯƠNG III: VAI TRÒ CỦA CHA MẸ TRONG GDGT CHO CON CÁI.
I. Nhận thức và thái độ của cha mẹ về giáo dục giới tính cho con.
1. Nhận thức của cha mẹ về giáo dục giới tính cho con
a)Nhận thức của cha mẹ về tầm quan trọng của việc GDGT cho con:
Nhận thức là cơ sở tạo nên hoạt đông, nhận thức đúng mới có hành động đúng, phù
hợp, đồng thời nhận thức sai sẽ dẫn đến những hành đông sai lệch. Nhận thức của cha mẹ
trong GDGT cho con có đúng thì việc giáo dục cho con mới có chất lượng, tác động vào
suy nghĩ và tâm lý phát triển của trẻ. Để giáo dục tốt về giới tính cho con cái, trước hết
cha mẹ phải phải nhận thức được tầm quan trọng của việc GDGT mà họ sẽ giáo dục. Việc
đánh giá tầm quan trọng của GDGT sẽ giúp cho họ GDGT cho con cái tốt hơn và mức độ
quan tâm của cha mẹ về vấn đề GDGT cho con
Bảng 1: Mức độ quan tâm giữa cha và mẹ về vấn đề GDGT cho con.
Qua bảng 1 ta thấy, tỷ lệ giữa người cha và người mẹ quan tâm về GDGT cho con
là khá đồng đều. 100% các mẹ đều quan tâm đến vấn đề GDGT cho con và người cha là
93.3%. Với mức độ quan tâm tuyệt đối của người mẹ về GDGT cho con cho thấy người
mẹ đã nhận thức được vai trò quan trọng của mình trong GDGT cho con. Điều này còn có
thể, bởi đặc thù tính cách của người mẹ là dịu dàng, đảm đang. Ngay từ nhỏ những người
mẹ đã luôn ở bên cạnh bảo ban chăm sóc, kể chuyện, cùng vui đùa với các con quá trình
nuôi dưjng. Các mẹ đều có chung ý kiến là: GDGT cho con để trang bị cho con những
kiến thức cơ bản về giới tính, giúp con biết cách chăm sóc và bảo vệ bản thân. Vì vậy
100% các mẹ đều quan tâm đến vấn đề GDGT cho con là điều dễ hiểu. Đối với người cha
tỷ lệ quan tâm về GDGT là 93.3% có sự chênh nhau không đáng kể so với người mẹ. Có
2 người cha trả lời “không quan tâm”. Lý giải điều này, họ bày tỏ rằng: chọ chỉ quan tâm
giáo dục về đạo đức, lối sống chứ không mấy khi để ý giáo dục con những vấn đề tế nhị
như giới tính. Hơn nữa, họ cũng không có một khái niệm nào về việc giáo dục giới tính
cho con mà chỉ quan tâm giáo dục những nội dung về đạo đức, quan tâm giáo dục con
học hành thế nào chứ chẳng bao giờ để ý đến vấn đó, cũng chẳng biết nó là cái gì. Chứng
tỏ, về nhận thức cũng như kiến thức của họ còn rất hạn chế.
Như vậy, các bậc cha mẹ đều nói rằng có quan tâm đến GDGT cho con nhưng
mức độ tham gia vào quá trình GDGT cho con như thế nào mới là điều chúng ta cần phải
tìm hiểu. Bởi mức độ tham gia sẽ ảnh hưởng đến nội dung và phương pháp cha mẹ
GDGT cho con cái. Đồng thời, mức độ tham gia của cha mẹ vào GDGT cho con cũng thể
hiện một phần nhận thức của cha mẹ thông qua hành động quan tâm đến con cái thường
ngày.
Cha M
Tầần suầất
Người
T l (%) Tầần suầất T l (%)
13 86.7 15 100
Không 2 13.3 0 0
T ng 15 100 5 100
Biều đồ 1: Đánh giá mức độ tham gia của cha mẹ trong GDGT cho con
Đơn vị: %
( Nguồn: số liệu tháng 6 -2014 tại xã Tế Lợi- huyện Nông Cống)
Trong thực tế điều tra tại biều đồ 2, người cha có tham gia vào GDGT cho con nhưng
ở mức độ không thường xuyên, chỉ ở mức độ “thi thoảng” là 40% và “hiếm khi” là 33,3
%. Với mức độ “thỉnh thoảng”, “hiếm khi” phần lớn người cha nghĩ rằng chỉ khi nào thật
sự cần thiết hoặc ở một thời điểm nào đó cần lắm mới quan tâm đến GDGT cho con. Mặt
khác, do thời gian các con đi học ở trường nhiều, về nhà tối con lại học bài nên thời gian
cha chia sẻ được với con cũng ít đi. Một số người cha “không bao giờ” tham gia vào
GDGT cho con do người cha vì bận rộn với công việc, hơn nữa có người cha đây là
chuyện của người mẹ phải lo. Nguyên nhân có thể do nhận thức còn hạn chế của những
người cha ở đây, cũng có trường hợp do đặc thù công việc mà họ đang làm. Tuy nhiên,
điều đó cũng phản ảnh đúng thực tế là người mẹ tham gia vào GDGT thường xuyên
chiếm 66,7%, trong khi người cha chỉ chiếm 20%. Sở dĩ có sự chệnh lệch như vậy là do,
ảnh hưởng của quan niệm truyền thống thì đa số người mẹ tham gia vào giáo dục cho con
cái, còn người cha luôn gắn với công việc ngoài của xã hội. Người vợ thường có thời
gian ở nhà hơn, người chồng thường vắng nhà nhiều hơn nên tần suất dạy dỗ của người
phụ nữ sẽ cao hơn người đàn ông hay nói cách khác số ngày người phụ nữ dành cho con
cái sẽ nhiều hơn người đàn ông. Theo một bà mẹ 42 tuổi thì “Cha ít tham gia. Đa số là
mẹ đảm nhận vai trò giáo dục cho con. Gia đình bác làm nông nghiệp, chỉ khi nào đến
mùa vụ thì bận vội thôi, nên có nhiều thời gian chăm sóc, chỉ bảo cho con. Lúc nào cũng
giáo dục nhắc nhở con những việc nên làm trong ngày về những vấn đề lien quan đến
giới tính”. Chính vì vậy mà người mẹ có xu hướng tham gia vào giới tính cho con cái
thường xuyên hơn.
Như vậy người đóng vai trò chính trong GDGT cho con chủ yếu là người mẹ, người
cha ít tham gia vào các hoạt động GDGT cho con. Do người cha thường đi làm ăn xa,
bận rộn trong công việc nên đa số đàn ông thường phó trách nhiệm cho người mẹ và nhà
trường. Tuy nhiên xét về tổng thể thì hầu hết cha mẹ đều có ý thưc tham gia vào GDGT
cho con nhưng ở mức độ không thường xuyên.
b) Mức độ đánh giá sự cần thiết của cha mẹ về GDGT cho con:
Thực tế cho thấy khi cha mẹ đánh giá đúng tầm quan trọng của việc GDGT cho con
thì cha mẹ sẽ có cách quan tâm và giáo dục khác nhau. Vậy nhận thức của cha mẹ về vấn
đề GDGT cho con có thật sự được quan tâm không? Để đánh giá nhận thức của cha mẹ,
chúng tôi tiến hành tìm hiểu mức độ đánh giá của cha mẹ về sự cần thiết của việc GDGT
cho con. Sự đánh giá này sẽ cho thấy rõ suy nghĩ của cha và mẹ ở mỗi một bậc thang
khác nhau.
Biều đồ 2: Đánh giá của cha mẹ về sự cần thiết của GDGT cho con
Đơn vị: %
( Nguồn: số liệu thực tế 2014 – UBND Huyện Nông Cống)
Qua biều đồ 3, thấy rằng tỷ lệ đánh giá mức độ cần thiết của người mẹ luôn đánh
giá cao mức độ cần thiết của việc GDGT cho con hơn người cha. Người cha ít hơn người
mẹ 13,3% chiếm 46.7%. Mẹ đánh giá mức độ “rất cần thiết” chiếm tới 60%. Vì họ cho
rằng với bối cảnh xã hội như hiện nay thì cần thiết phải quan tâm đến giáo dục cho con để
giúp con có những nhận thức đúng đắn về giới tính, tình dục. Điều mà rất nhiều người mẹ
e ngại trong cơn lốc giá trị sống đang nhiều thay đổi, các em tiếp thu một cách thụ động
lối sống từ phương Tây trong tình trạng thiếu kỹ năng sống một cách trầm trọng. Chính vì
vậy mà việc GDGT cho con là rất cần thiết theo quan điểm của nhóm người mẹ này thì
sách báo tràn lan. Gio tư tưởng bọn trẻ khác rồi, thoáng lắm để ý cái gì, tò mò thích thú là
làm luôn. Nên sợ lắm Điều này chứng tỏ người phụ nữ rất quan tâm đến vai trò giáo dục .
giới tính cho con cái. Nhưng đối với người cha dường như họ cho rằng những vấn đề như
giáo dục đạo đức, giáo dục tri thức mới là điều quan trọng. Còn giáo dục giới tính là vấn
đề không cần thiết phải quan tâm. Nhưng khi so sánh tỷ lệ nhận thức giữa người cha với
nhau thì có 46.7% người cha chọn mức độ “rất cần thiết” lại chiếm tỷ lệ cao, đánh giá về
sự “cần thiết” người cha chiếm 33,3. Người mẹ chỉ có 13.3%, tương đương với sự lựa
chọn “bình thường” của người cha. Những người mẹ cho vấn đề này là bình thường vì họ
tin là con mình đủ nhận thức về giáo dục giới tính nên không cần thiết phải quan tâm quá
nhiều. Không có 1 người mẹ nào đánh giá “không cần thiết”. Bởi họ cho rằng: “Dạo này
đi đâu cũng nghe người ta cảnh báo tệ nạn trẻ yêu sớm và hàng loạt vụ lạm dụng tình
dục trẻ em. Nên là cô chú rất lưu tâm tới vấn đề này” Và chỉ có 1 người cha duy nhất
cho rằng GDGT cho con là “không cần thiết”. Điều này có thể giải thích rằng: do trình độ
học vấn còn hạn chế, bên cạnh đó do tính chất công việc chiếm gần hết số thời gian của
họ nên khi trở về nhà họ chỉ muốn nghỉ ngơi và không quan tâm đến giáo dục cho con.
Như vậy, theo kết quả đánh giá người mẹ vẫn hiểu sự cần thiết của việc GDGT
cho con hơn người cha. Nhưng nếu nhìn nhận một cách khách quan thì rõ ràng qua biểu
đồ trên thể hiện rõ khác nhau trong nhận thức về sự cần thiết của việc GDGT cho con
giữa cha và mẹ.
c) Nhận thức của cha mẹ về độ tuổi giáo dục giới tính cho con.
Nhận thức của cha mẹ sẽ được thể hiện rõ ràng và có cách giáo dục tốt hơn nếu
cha mẹ lựa chọn đúng thời điểm thích hợp để GDGT cho con.
Biểu đồ 3: Độ tuổi giáo dục giới tính cho con
Mẫu: 30
Đơn vị: %
( Nguồn: số liệu điều tra thực tế 2014 tại Xã Tế lợi)
Qua biểu đồ 3 cho thấy, hầu hết các bậc cha mẹ cho rằng giáo dục giới tính nên bắt
đầu khi trẻ bước vào học ở bậc tiểu học và lên cấp II. Có đến 60% người cha cho rằng
nên GDGT ở độ tuổi khi con đang học THCS và 53.3% người mẹ đồng ý với ý kiến
GDGT cho con ở độ tuổi THCS. Có thể các cha mẹ cho rằng đây là giai đoạn quá độ từ
trẻ con sáng người lớn, là đặc trưng của dấu hiệu tuổi dậy thì giữa nam và nữ. Các con
của họ có thể bị chi phối bởi những cảm xúc trong giao tiếp với bạn bà và người lớn.
Đồng thời, theo cha mẹ GDGT cho con ở độ tuổi này bởi đây là độ tuổi dậy thì đang phát
triển mạnh mẽ cơ cấu sinh học và ý thức rõ về sự thay đổi của cơ thể, trẻ lại rất tò mò.
Hơn nữa, trẻ còn được nhà trường GDGT thông qua môn học trên lớp, kết hợp với nhà
trường tránh những lỗi truyền đạt không hiệu quả khi con tiếp thu kiến thức từ phía nhà
trường. “Tôi nghĩ nên bắt đầu với độ tuổi từ 10 – 15 tuổi, khi con đang học cấp 2 là thích
hợp nhất, bởi đây là độ tuổi dậy thì đang có sự thay đổi về cơ thể. Được biết nhà trường
cũng có GDGT cho con thông qua môn học trên lớp nên cần chú ý GDGT cho con, tránh
những lỗi truyền đạt không hiệu quả khi con tiếp thu kiến thức từ phía thầy cô và bạn
bè”. Vì vậy, ở lứa tuổi này các bậc cha mẹ rất chú trọng vào việc GDGT cho các em. Qua
đó, chúng ta thấy rằng cha mẹ đã có nhận thức tương đối chính xác về GDGT cho các em
ở giai đoan này. Ở độ tuổi này hay còn gọi là lứa tuổi thiếu niên là độ tuổi khó giáo dục
nhất. Do lứa tuổi này có những biến đổi về sự mất cân bằng tâm, sinh lý tậm thời. Chính
vì cha mẹ luôn chú ý giáo dục cho con ở lứa tuổi này.
Tiếp đến là độ tuổi nên GDGT ở bậc “tiểu học” có 40% người mẹ đồng ý giáo dục
cho con ở độ tuổi “tiểu học” và chiếm tỷ lệ 20% theo ý kiến người cha. Lý do mà các bậc
cha mẹ đưa ra là trẻ tuổi này tính hiếu kì, trẻ liên tục hỏi cha mẹ về hiện tượng xung
quanh, nếu không có những câu trả lời thỏa đáng, trẻ sẽ tự mình tìm hiểu, suy đoán linh
tinh và tìm các kênh thông tin sai lệch để tìm hiểu. Cũng có một số ý kiến của người mẹ
cho rằng nên GDGT cho trong độ tuổi “Tiểu hoc”. Đối với người cha độ tuổi “Tiểu học”
là độ tuổi còn ngây dại, dễ bị lạm dụng nên giáo dục giới tính cho con ngay từ khi con
nhận biết được sự thay đổi cơ thể của bản thân mình. Độ tuổi đang học THPT, có 13.3%
người cha lựa chọn và người mẹ chiếm 6.7%. Mặc dù ở độ tuổi THPT cả cha và mẹ đều ít
chú trong GDGT ở độ tuổi này. Nhưng so tỷ lệ giữa cha và mẹ thì người cha quan tâm
giáo dục cho con ở độ tuổi này hơn. Đặc biệt đối với con trai. Sau khi tốt nghiệp THPT
có 1 người cha lựa chọn chiếm 6.7%. Các bậc cha mẹ còn lại có quan điểm “Con cái ở
tuổi này lớn rồi cần gì phải GDGT cho con. Nó lớn, nó tự biết cách tìm hiểu”. Trong khi
đó không một người mẹ, người cha nào lựa chọn đô tuổi mầm non để giáo dục giới tính
cho con. Bởi theo họ đây là độ tuổi “còn non”, nhận thức kém nếu giáo dục quá sớm cha
mẹ sợ sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ. Một số ý kiến lại cho rằng: GDGT cho ở độ tuổi
này sẽ kích thích tính tò mò của trẻ và dễ có nhận thức sai lầm “vẽ đường cho hươu chạy”
khi những thông tin trẻ tiếp nhận được chưa đủ tuổi để tiếp thu. Đây là quan điểm thể
hiện sự nhận thức của cha mẹ còn hạn chế. Nhiều người cho rằng GDGT nghĩa là chờ trẻ
bước vào độ tuổi dậy thì rồi mới đề cập, dạy dỗ. Thực tế cho thấy, trẻ tiếp cận với kiến
thức giới tính từ những sinh hoạt hàng ngày, những điều mình thấy hoặc được trải
nghiệm. Trẻ có thể dậy thì trước tuổi, nếu không có sự chăm sóc đầy đủ, không có những
kiến thức về GDGT để giáo dục cho con đúng độ tuổi sẽ khiến các em không biết rõ về
sự phát triển của cơ thể, thay đổi bản than. Liệu rằng, ý kiến nên giáo dục cho con ở độ
tuổi sau khi tốt nghiệp THPT có phải là quá muộn?. Nhiều phụ huynh thường gặp những
sai lầm trong việc GDGT cho trẻ nhỏ mà nguyên nhân xuất phát từ việc họ nhận thức sai
về độ tuổi nên GDGT cho con. Tóm lại, việc giáo dục con cái về sinh lý trong gia đình
nên được bắt đầu từ tuổi ấu thơ. Mục đích của việc giáo dục này không chỉ trang bị kiến
thức, xây dựng ý thức về giới tính, tình dục mà điều quan trọng là xây dựng những quan
niệm, nhận thức đúng đắn của các con về giới tinh, tình dục
.
2) Thái độ của cha mẹ trong giáo dục giới tính cho con:
Mỗi đứa trẻ đều nhận thức được sự thay đổi về cơ thể, tâm tư nguyện vọng tuổi mới
lớn, trẻ thường tò mò, thắc mắc những hiện tượng xảy ra xung quanh chúng. Nếu không
có câu trả lời thỏa đáng giải đáp các thắc mắc của chúng, không có sự hướng dẫn cụ thể
giúp trẻ nhận biết đúng vấn đề sẽ làm cho trẻ có những suy nghĩ lung tung, tự trả lời cho
câu hỏi của mình, khiến trẻ có những sai lệc trong nhận thức. Và thái độ của cha mẹ có
ảnh hưởng rất lớn đễn quá trình tiếp thu và phát triển nhận thức của trẻ về giới tính.
Thực tế cho thấy, có hơn 40% người cha thường co thái độ cấm đoán con khi con hỏi
về những vấn đề GDGT, 26,6 % người cha cảm thấy bực tức, không thoải mái khi con
nhắc tới những vấn đề được cho là nhạy cảm như tình dục, 20% các ông bố vui vẻ trả lời
những câu hỏi của các con vì họ cho rằng “đó là chuyện bình thường, chẳng có gì phải
dấu con”. Chỉ có duy nhất 1 người cha thường lảng tránh trước những thắc mắc của con
bởi họ không biết phải nói với con như thế nào và bắt đầu từ đâu? Ngược lại, có tới 7
người mẹ (trong 15 người mẹ được hỏi) tỏ ra lúng túng chiếm46 ,7% trước vấn đề con
chia sẻ và 26,6% người mẹ thường lảng tránh trước những câu hỏi của con. Một điều
đáng ngạc nhiên rằng ngay cả những người mẹ cũng lên án cấm đoán, đe dọa con không
cho con được phép hỏi hoặc tìm hiểu những vấn đề về giới tính, tình dục chiếm 20%.
Trong khi, xã hội luôn nhìn nhận tích cực vai trò của người phụ nữ trong việc chăm sóc
sức khỏe gia đình và giáo dục nhân cách cho con. Vì người phụ nữ là người có tính cách
hiền dịu và có suy nghĩ sâu sắc, ôn hòa hơn người cha nên sẽ có cách giáo dục nhẹ nhàng
nhất, có thể giúp con giải đáp những thắc mắc, đồng thời giáo dục cho con hiểu ở tuổi
nên con mới đủ độ chín đề biết về vấn đề đó, mặt khác giúp con trạng bị được kiến thức
đầy đủ hơn về GDGT. Rất ít cha mẹ có thái độ tự nhiên ôn hòa, vui vẻ trả lời những thắc
mắc của con.
Như vậy, cha mẹ vẫn né tránh khi nói về tình dục, giới tính. Phần lớn các bậc cha
mẹ đều rất ngại khi đề cập với con về vấn đề giới tính vì nói ra sợ con mình cảm thấy xấu
hổ. Nhiều phụ huynh thường tỏ ra lúng túng, ngại ngùng, phân vân mỗi khi đụng chạm
đến vấn đề giới tính của con. Thậm chí một số người còn xem đó là điều xấu xa nên tỏ vẻ
bực bội khi nghe con trẻ bày tỏ những thắc mắc về chuyện giới tính, tình yêu. Khi được
hỏi: có khi nào bác chủ động nói chuyện với các con về vấn đề tình dục, giới tính? Cha
mẹ không biết rằng trẻ em thường hiếu kỳ, rất hay hỏi, biểu hiện nguyện vọng và hứng
thú mạnh để nhận biết thế giới bên ngoài.trẻ có những thay đổi về tâm sinh lý và có
những tò mò và thắc mắc về những điều mà các em chưa biết. Và con cái rất muốn hỏi
những thắc mắc cùng cha mẹ chúng xoay quanh các vấn đề liên quan đến những biểu
hiện về tâm sinh lý của bản thân. Thậm chí nó mượn những vấn đề của bạn chúng thông
quan đó nói lên vấn đề của mình. Tuy nhiên, tất cả những suy nghĩ của các em đều bị
“chặn”ngay từ đầu bởi những câu nói của chính cha mẹ “lo học hành đi ở đó hỏi những
chuyện vớ vẫn, đâu đâu”. Thực tế cho thấy các em tiế cận từ rất nhiều kênh thông thông
tin khác nhau về giới tính và không phân biệt được đâu là kênh chính thống và phù hợp.
Cũng chính vì vậy mà trẻ trong giai đoạn mới lớn lại tìm đến những “người bạn” khác đó
chính là phim ảnh, sách báo với nội dung không lành mạnh. Vì vậy, cha mẹ càng cấm
đoán, càng lảng tránh thì các em càng có xu hướng tìm hiểu, hành động ngược lại với sự
cấm đoán của cha mẹ để thảo mãn sự tò mò của mình.
Từ những điều trên, một câu hỏi đặt ra là tại sao họ quan tâm đến GDGT cho con và
cần thiết phải GDGT cho con những khi con hỏi lại có thái độ cấm đoán con. Sự thiếu
quan tâm giáo dục là hiện tượng dễ thấy, dễ hiểu. Hiện tượng khó hiểu lại là sự quá chu
đáo thận trọng. Trong thực tế, sự ngăn chặn cấm đoán đã từng tạo ra sự phát triển bất
hạnh cho nhiều đứa trẻ. Bởi bên cạnh những kiến thức cha mẹ, nhà trường trang bị cho trẻ
thì trẻ em và thanh thiếu niên rất cần được giáo dục, định hướng về thái độ đối với vấn đề
giới tính, tình dục.
II. Nội dung giáo dục giới tính cho con của cha mẹ.
1. Nội dung cha mẹ ưu tiên giáo dục giới tính cho con cái:
1.1. Nội dung người cha giáo dục giới tính cho con trai và con gái:
Trong quan niệm truyền thống phương Đông “đàn ông ngoại giao kiếm tiền, phụ nữ
nội trợ, nuôi dạy con cái”. Vậy nên suy nghĩ ở các ông bố rằng việc giáo dục con cái là
của người mẹ vẫn rất phổ biến. Nhưng trên thực tế vai trò, trách nhiệm của người cha và
người mẹ trong gia đình là như nhau, con trẻ không thể thiếu được sự dạy dỗ và tình
thương yêu của cha hay của mẹ. Đối với người cha ở Xã Tế Lợi, do đặc thù tính chất
công việc hay phải đi làm xa nhà thì việc tham gia vào GDGT được thể hiện ra sao? Liệu
những nội dung người cha lựa chọn giáo dục cho con có được đám bảo và đáp ứng được
nguyện vọng của con.
Biều đồ 5: Nội dung người cha lựa chọn GDGT cho con gái và con trai
Đơn vị: %
Nguồn: Số liệu điều tra thực tế 2014 từ UBND Huyện Nông Cống
Theo kết quả điều tra tại bảng 4, đối với việc giáo dục cho con trai hay con gái,
người cha thường chú trọng nội dung “giáo dục lối sống lành mạnh” đối với cả con gái và
con trai. Tuy nhiên, so sánh tỷ lệ lựa chọn của người cha trong nội dung này thì người cha
có quan tâm giáo dục cho con trai nhiều hơn con gái (60% với con trai và với con gái là
40%). Đặc biệt là với con trai..
1.2 Nội dung người mẹ giáo dục giới tính cho con trai và con gái:
Đối với người mẹ nội dung giáo dục giới tính cho cả con trai và con gái được thực hện
giáo dục khá đồng đều, không có sự chênh lệch giữa những nội dung người mẹ giáo dục
cho con trai và con gái. Các nội dung người mẹ giáo dục thường xuyên cho hai con như
“sức khỏe & vệ sinh cơ thể”, “tâm lý tuổi dậy thì” và nội dung “tình bạn, tình yêu” và
“lối sống lành mạnh” được mẹ giáo dục cho cả con trai và con gái với tỷ lệ cao. Nhóm
người mẹ cho rằng con gái và con trai đều cần thiết nội dung này như nhau. Cũng giống
như người cha, trong nội dung “Tinh dục, hệ lụy của tinh dục và các bệnh lây truyền
người mẹ có cùng ý kiến với người cha là cần chú trọng nội dung này hơn đối với con
trai. Tuy nhiên, nội dung này cũng chỉ được người mẹ thực hiện giáo dục ở mức độ thấp.
Tỷ lệ chỉ là 16.7% đối với con trai và 6.7% đối với con gái.
Nhìn chung, trong gia đình hiên nay thì cả cha và mẹ đều đã tham gia vào GDGT
cho con, trách nhiệm tham gia vào giáo dục, chăm sóc con không còn là trách nhiệm
riêng của người mẹ. Nội dung mà người cha và người mẹ giáo dục cho con cái là khác
nhau, nhưng họ đều mong muốn cho con mình phát triển một cách toàn diện, có các mối
quan hệ tình bạn, tình yêu lành mạnh và hướng dẫn cho con biết vai trò của mình để các
con có một lối sống lành mạnh tránh xa các tệ nạn xã hội, làm một công dân có ích. Tuy
nhiên, những hình thức giáo dục này còn chưa thể hiện rõ nội dung GDGT. Nội dung
kiến thức còn sơ sài, tập trung chủ yếu ở những nội dung có tính chất tâm lý, sinh lý cơ
thể. Các nội dung thể hiện rõ hình thứ GDGT thì cha mẹ lại có xu hướng ít đề cập tới.
2. Phương pháp giáo dục giới tính chủ yếu cho con của cha và mẹ.
Giáo dục là hoạt động có tính liên tục và hệ thống giữa nội dung và hình thức
truyền đạt. Chính vì vậy việc cha mẹ lựa chọn các phương pháp giáo dục hiệu quả là rất
quan trọng. Tuy nhiên, việc lựa chọn phương pháp sao cho hiệu quả lại là một vấn đề
không hề dễ cho các bậc phụ huynh do ở mỗi đứa trẻ lại có những tính cách khác nhau,
cách bộc lộ tâm tình khác nhau. Do vậy cha mẹ phải có phương pháp giáo dục tốt nhất để
có thể truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm của bản thân đến các con.
Kết quả nghiên cứu về phương pháp cha mẹ lựa chọn để GDGT cho thấy hầu hết các
bậc cha mẹ lựa chọn phương pháp “tự cha mẹ giáo dục giới tính cho con” vì cho rằng đây
là phương pháp hiệu quả nhất. Có đến 76.7% mẹ GDGT cho con bằng phương pháp “tự
cha mẹ thực hiện GDGT cho con”. Vì theo các bậc cha mẹ, cha mẹ là người nuôi dưjng
và gần gũi con trong suốt quá trình phát triển hình thành, phát triển về mọi mặt của con là
người định hướng cho con nên các bậc cha mẹ thấy tự mình giáo dục GT cho con là
phương pháp tốt nhất. Người cha có sử dụng phương pháp này (60%) nhưng ít hơn người
mẹ có thể là do người cha ngại nói, ngại giáo dục về vấn đề này nên.
Như vậy phương pháp chiếm ưu thế là phương pháp “tự cha mẹ thực hiện GDGT cho
con” với nhiều hình thức khác nhau như: sử dụng hành vi gương mẫu của cha me, sử
dụng kinh nghiệm bản thân, lắng nghe con chia sẻ. Và bên cạnh đó các phương pháp cha
mẹ ngày nay đã có rất nhiều phương pháp để GDGT cho con. Nhưng cha mẹ ở các vùng
nông thôn do không có điều kiện để tham gia vào các lớp tấp huấn về GDGT cũng như là
các kênh thông tin hỗ trợ để GDGT cho con nên các phương pháp mà các gia đình đang
áp dụng đều do tự mày mò, tự giáo dục bằng kiến thức, kinh nghiệm họ có mà chưa có
phương pháp, chương trình giáo dục thống nhất, cụ thể. Vì vậy, để việc giáo dục giới tính
có hiệu quả, nhà trường và gia đình cần có mối quan hệ chặt chẽ hơn nữa, quan tâm đến
những diễn biến sinh lý, tìm hiểu tâm tư, tình cảm của các em nhằm hướng dẫn các em đi
đúng hướng.
3. Một số khó khăn của cha mẹ trong việc giáo dục giới tính cho con:
Giáo dục giới tính cho con là cả một quá trình quan sát, tìm hiểu và thực hiện giáo
dục từ phía cha mẹ. GDGT cho con với một số người là dễ dàng, nhưng với đa số cha mẹ
ở Xã Tế Lợi, quá trình GDGT cho con gặp rất nhiều khó khăn.
Đa phần cha mẹ gặp phải rất nhiều khó khăn khác nhau khi giáo dục giới tính cho con
như: là vấn đề tế nhị, khó nói không biết phải giáo dục cho con như thế nào, hay trình độ
học vấn kiến thức về giới tính còn hạn chế, nghề nghiệp và sự chênh lệch về tuổi tác giữa
cha mẹ và con cái, hay không đủ thời gian giáo dục cho con do phải đi làm ăn xa, ít khi
về nhà…Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất đó là trình độ học vấn của cha mẹ (86.7%).Và có
một số phụ huynh biết những lại không muốn nói quá nhiều về vấn đề GDGT, có tới
73.3% cha mẹ cho rằng đây là vấn đề khó nói. Bên cạnh đó một trong những khó khăn
ảnh hưởng rất lớn đến quá trình nhận thức và giáo dục giới tính cho con mà cha mẹ ở
nông thôn đang gặp phải là không rõ phương pháp giáo dục cho con (43.3%). Khó khăn
từ chính nghề nghiệp của cha mẹ là 36.7%. Mặt khác, sự khác nhau về quan điểm (20%)
và cha mẹ không đủ thời gian để chăm sóc con chiếm 23.3%. Ở một khía cạnh khác, khó
khăn gặp phải là gia đình đông con thiếu sự chăm sóc chu đáo cho từng con (3.3%). Và
không có gia đình nào gặp phải khó khăn trong trường hợp “gia đình không hạnh phúc”.
Ngoài ra các yếu tố liên quan đền giáo dục như: tình trạng văn hoá xã hội thấp, gia đình
có người có thai trước hôn nhân (mẹ,chị…).Cha mẹ li hôn…cũng là khó khăn trong
GDGT cho con của cha mẹ. Trong đó khó khăn lớn nhất mà nhóm người mẹ gặp phải
thường là do trình độ học vấn, kiến thức về giới tính còn hạn chế, hay là vấn đề tế nhị,
khó nói hay trong quan điểm giáo dục giữa hai vợ chồng…Nhóm người cha gặp trở ngại
lớn nhất đó là không có thời gian tham gia chăm sóc, giáo dục con nhiều. Đôi lúc, việc đề
cập tới tình dục dường như không thể thực hiện được. Bậc phụ huynh có thể quá ngượng
ngùng do đây là vấn đề nhay cảm khó nói.
Hơn nữa trong vấn đề giáo dục giới tính cho con, không chỉ gặp phải những khó khăn
từ phía gia đình mà còn có khó khăn từ phía xã hội như: thông tin đại chúng thường tránh
né các vấn đề về tình dục vị thành niên dẫn đến những thông tin nhiều mâu thuẫu không
rõ ràng, sự quản lý chưa đúng cách từ phía gia đình, nhà trường và xã hội. Vì vậy những
thông tin mà trẻ nhận được không đáp ứng được nhu cầu của lứa tuổi vị thành niên và sức
khoẻ sinh sản hơn nữa nhà trương và xã hội cũng là tác nhân dẫn đến thực trạng này ta ,
thấy được khó khăn lớn nhất gặp phải từ phía xã hội khi giáo dục giới tính cho con là do
mạng internet (76.7%) và phim ảnh (63.3%).
Ngoài ra, sự quản lý không đúng cách của gia đình, nhà trường và xã hội, hay cách
truyền đạt không hiệu quả từ phía bạn bè, thầy cô, xã hội, hay môi trường sống không
lành mạnh cũng là một trở ngại từ phía xã hội. Ngoài ra, sự quản lý không đúng cách của
gia đình, nhà trường và xã hội, hay cách truyền đạt không hiệu quả từ phía bạn bè, thầy
cô, xã hội, môi trường sống không lành mạnh cũng tạo trở ngại không hề nhỏ trong quá
trình GDGT cho con.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Nhìn chung, trong gia đình hiên nay thì cả cha và mẹ đều đã tham gia vào GDGT
cho con, trách nhiệm tham gia vào giáo dục, chăm sóc con không còn là trách nhiệm
riêng của người mẹ. Phần lớn cha mẹ đều quan tâm đến GDGT cho con, nhưng đánh giá
mức độ tham gia vào giáo dục thì người người mẹ là người đảm nhận công việc này là
chính. Nhận thức giữa cha và mẹ về tầm quan trọng của vệc giáo dục giới tính cho con thì
người mẹ vẫn đánh giá sự cần thiết của việc GDGT cho con hơn người cha.
Nội dung kiến thức còn sơ sài, tập trung chủ yếu ở những nội dung có tính chất tâm lý,
sinh lý cơ thể. Các nội dung thể hiện rõ hình thứ GDGT thì cha mẹ lại có xu hướng ít đề
cập tới. Mặt khác cũng có thể do chịu ảnh hưởng từ xã hội truyền thống vấn đề giới tính,
tình dục căn bản là vấn đề tế nhị, thầm kín, mặt khác có thể do cha mẹ có kiến thức hạn
chế về các vấn đề giới tính nên việc giáo dục giới tính ở gia đình học sinh gần như chưa
được thực hiện và ta thấy rằng các bậc cha mẹ có rất nhiều phương pháp để GDGT cho
con tuy nhiên các phương pháp mà các gia đình đang áp dụng đều do tự mày mò, tự giáo
dục bằng kiến thức họ có mà chưa có phương pháp, chương trình giáo dục thống nhất.
Với kiến thức về GDGT còn hạn chế nên những phương pháp mà cha mẹ giáo dục cho
con phần nhiều đều là tự mày mò và đúc rút kinh nghiệm trải nghiệm từ bản thân cha mẹ
để đưa vào giáo dục cho con. Điều này vừa có những tích cực lại vừa tạo ra những hạn
chế. Tích cực là từ kinh nghiệm bản thân cha mẹ, cha mẹ có thể hiểu và nhận biết được
sự thay đổi và những nhu cầu về tâm sinh lý của con, có thể dễ dàng chia sẻ với con.
Ngược lại những tư tưởng còn lạc hậu, bảo thủ trong suy nghĩ là những ảnh hưởng không
hề nhỏ trong quá trình con lĩnh hội những kiến thức về giới tính. Không đáp ứng được
những mong muốn của con cái.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Bùi Ngọc Oánh (2006), , Nxb Giáo dục.Tâm lí học giới tính và giáo dục giới tính
2. Dương Thị Như Mơ (2010). Thái độ của phụ huynh học sinh trung học phổ thông
ở trường THPT Nguyễn Thượng Hiền đối với giáo dục giới tính.
3. Đào Thị Vân Anh (2011), Cha mẹ với việc giáo dục giới tính trong gia đình.
4. Đinh Thị Thanh Nga( 2013), Tìm hiểu thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi
của học sinh THPT về sức khoẻ sinh sản, trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh
Ninh Bình.
5. Lê Thị Qúy (2009), Nhà xuất bản: giáo dục Việt Nam, Giáo trình xã hội học giới,
Hà Nội.
6. Ngọc Tuyết (2014) Giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên trong nông thôn.,
7. Nguyễn Quang Huy (2010). Vai trò của gia đình trong giáo dục giới tính.
8. Nguyễn Thị Tố Quyên (2005), về vấn đề giáo dục giới tính cho trẻ em trong gia
đình.
9. Tầm quan trọng của việc giáo dục giới tính.
10.http://thanhhoa.gov.vn/portal/Pages/default.aspx
11. http://nongcong.gov.vn/web/
12.http://teloi.nongcong.gov.vn/web/
13.http://doc.edu.vn/tai-lieu/de-tai-vai-tro-cua-nguoi-me-trong-giao-duc-con-cai-
nghien cuu-tai-phuong-hoi-hop-thanh-pho-vinh-yen-tinh-vinh-phuc-40597
14.http://www.gopfp.gov.vn/so 115
| 1/15

Preview text:

PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cập thiết của đề tài:
Như chúng ta biết vấn đề giới tính là một vấn đề tế nhị, ít người nói đến. Trong
thời kỳ mở cửa giao lưu văn hóa như hiện nay giữa các dân tộc, các quốc gia với nền
khoa học hiện đại đang phát triển mạnh. Việc giáo dục giới tính góp phần xây dựng nhân
cách con người, hình thành nhân cách ở mọi cá nhân. Để giúp con người phát triển bình
thường và phát triển toàn diện về nhân cách, chúng ta cần đưa nội dung giáo dục giới tính
vào trong hoạt động giáo dục của xã hội.
Gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên của con người mà mỗi cá nhân đều phải
trải qua”. Cha mẹ là những người đầu tiên phát hiện được sự trưởng thành về mặt sinh lí
của con mình, ý thức cho con về mặt tâm sinh lí tình cảm… Hơn thế, cha mẹ là những
người ảnh hưởng lớn nhất đối với con cái, được coi là mẫu mực cho con cái trông vào
“Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội. Xã hội tốt thì gia đình càng tốt; gia đình càng
tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì phải chú ý hạt nhân cho tốt”. Con cái chính là tấm gương phản ánh thực
trạng đạo đức, nếp sống mỗi gia đình, của việc giáo dục con cái của những bậc làm cha,
làm mẹ. Xã hội phát triển khi có những gia đình tốt, những công dân tốt. Bởi cha mẹ
thường né tránh, vì nỗi lo “vẽ đường cho hươu chạy” của người lớn, mặt khác do bận rộn
trong công việc nên rất ít gia đình có sự quan tâm đúng mức đến việc giáo dục giới tính
cho con, đặc biệt là khu vực nông thôn. Con cái, do sự thiếu hiểu biết, không được nhận
thức một cách đầy đủ hệ thống, khoa học từ gia đình và nhà trường, nên các em chủ yếu
tự suy diễn, tò mò, rồi tự giải đáp thắc mắc của chính mình, dẫn đến những suy nghĩ và
có những hành động sai lầm, trong đó vấn đề giới tính tình dục là một vấn đề đáng quan
tâm của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Ngày nay, các loại hình dịch vụ cũng là
nguồn cung cấp các yếu tố tiêu cực như văn hóa đồi trụy, sách báo, băng, đĩa đen…đã tác
động tới nhận thức của lớp trẻ về vấn đề giới tính; tệ nạn xã hội ngày một gia tăng gây
ảnh hưởng rối loạn trật tự xã hội, làm mai một thuần phong mỹ tục... Nhận thức được tầm
quan trọng của gia đình trong việc giáo dục giới tính cho con cái, là nơi hình thành nên
những giá trị nền tảng có ảnh hưởng rất lớn đến lối sống, tư tưởng của con cái. Và để tìm
hiểu về nhận thức của cha mẹ về việc giáo dục giới tính cho con hiện nay là như thế nào.
Vai trò của cha và mẹ trong giáo dục giới tính hiện nay ra sao? Giáo dục bằng những
phương pháp nào? Có giải pháp gì để nâng cao vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục GT
cho con cũng chính là lý do tôi chọn đề tài này.
2 . Mục đích nghiên cứu.
-Tìm hiểu vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục giới tính cho con tại xã Tế lợi – Huyện Nông cống – Thanh hóa.
-Tìm hiểu nhận thức và thái độ của cha mẹ về tầm quan trọng trong việc giáo dục giới tính cho con.
-Tìm hiểu nội dung giáo dục giới tính cho con của cha mẹ.
-Tìm hiểu một số phương pháp giáo dục giới tính chủ yếu cho con của cha mẹ. và tìm
hiểu những khó khăn trong việc giáo dục giới tính cho con của cha mẹ.
3 . Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu.
-Đối tượng nghiên cứu:
Là cha mẹ có con đang đi học trong độ tuổi từ 6 – 17 tuổi tại Xã
Tế Lợi, Thanh Hóa. Để đảm bảo tính khách quan chúng tôi nghiên cứu phỏng vấn sâu là
con cái của phụ huynh đang đi học trong độ tuổi từ 6 -17 tuổi. Vì ở độ tuổi này trẻ đang ở
giai đoạn phát triển về thể chất và cũng bắt đầu hiểu biết được vấn đề.
-Phạm vi nghiên cứu: Xã Tế lợi – Huyện Nông Cống – Tỉnh Thanh Hóa.
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHÍNH 1. Khái niệm vai trò.
Theo Robertsons vai trò là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, quyền lợi và nghĩa vụ
được gắn liền với một vị thế xã hội nhất định.
2. Khái niệm gia đình.
Gia đ?nh là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chề
văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưjng hoăc quan hệ giáo dục giữa các thành viên.
3. Khái niệm về giới tính và giáo dục giới tính.
Giới tính là một thuật ngữ khoa học bắt nguồn từ môn sinh vật học dùng đểc hỉ dự
khác biệt về sinh học giữa nam và nữ. Đó là sự khác biệt phổ thông và không thể thay đổi
được, mọi người đàn ông đều có những đặc điểm chung về giới tính và mọi người phụ nữ
đều có đặc điểm chung về giới tính.
“Giáo dục giới tính là quá trình giáo dục con người (thanh thiếu niên), nhằm làm cho
họ có nhận thức đầy đủ, có thái độ đúng đắn về giới tính và quan hệ giới tính, có nếp
sống văn hoá giới tính, hướng hoạt động của họ vào việc rèn luyện để phát triển nhân
cách toàn diện, phù hợp với giới tính, giúp cho họ biết tổ chức tốt nhất cuộc sống riêng
cũng như xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phát triển.” (Bùi Ngọc Oánh - Tâm lí học
giới tính và Giáo dục giới tính, NXB Giáo dục, 2006)

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH VỀ GIỚI TÍNH ,
QUAN ĐIỂM VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CHA MẸ TRONG VIỆC GDGT.

1. Nhận thức của học sinh về giới tính:
Ở Việt Nam hiện nay, theo chương trình giáo dục mà Bộ Giáo Dục Đào Tạo quy
định thì giáo dục giới tính đã được đưa vào giảng dạy lồng ghép từ cấp THCS. Mặc dù
phần lớn các em học sinh đều nhận thức được giáo dục giới tính bao gồm những nội dung
gì, nhưng kết quả vẫn cho thấy một mức độ thấp các em có hiểu biết sâu sắc về nội dung
của giáo dục giới tính hay những hậu quả có thể gặp phải khi thiếu kiến thức về giới tính.
Các em chỉ có nhận thức tốt về các dấu hiệu của tuổi dậy thì, còn những nội dung khác
trong sức khoẻ sinh sản, giáo dục giới tính thì các em còn mơ hồ hiểu biết còn rất hạn chế
chỉ có 6,4% hiểu biết đúng về thời điểm có thai, 93,6% học sinh không biết ở thời điểm
nào quan hệ tình dục sẽ có thai; 20,7% các em biết đuợc trong quá trình nạo hút thai có
thể gặp các tai biến như thủng tử cung, 18,8% các em biết đuợc sau khi nạo phá thai sẽ bị
đau bụng và 23% các em biết sẽ bị nhiễm trùng sau khi nạo phá thai.
Đồng thời, các em cũng có sự nhận thức đúng đắn về việc cần trang bị cho mình
đầy đủ những kiến thức về giới tính, biết phân biệt hành vi nào là đúng đắn, đúng với
chuẩn mực đạo đức xã hội. Cụ thể như: 88,% học sinh đồng ý nên trang bị đầy đủ kiến
thức giới tính cho lứa tuổi vị thành niên; 68,3% đồng ý với nội dung nên để tự bản thân
các em tìm hiểu, và cần trao đổi thẳng thắn các vấn đề có liên quan tới kiến thức giới
tính; 46.7 % cho rằng có quan hệ tình dục ở lứa tuổi trung học cơ sở là điều tồi tệ, trái với
đạo đức, truyền thống văn hóa của người Việt Nam.
Như vậy, đa số học sinh đã có nhận thức khá tốt và cái nhìn tổng quan về giới tính,
các em đã được nghe nói, hay tìm hiểu những nội dung về giới tính. Tuy nhiên sự nhận
thức đó chỉ dừng lại ở mức độ hiểu kiến thức chung về giới tính mà chưa đi sâu tìm hiểu
chi tiết để có nhận thức đúng đắn hơn, cụ thể hơn, tránh đuợc những rủi ro không nên có.
2. Quan diểm của cha mẹ về giáo dục giới tính:
Có rất nhiều quan điểm khác nhau của cha mẹ về giáo dục giới tính. Một phần
nhỏ cha mẹ có quan điểm tích cực và nhận thức đúng đắn là nên giáo dục giới tính cho
con. Tuy nhiên phần lớn cha mẹ lại đưa ra quan điểm không nên giáo dục giới tính cho
con, theo họ việc giáo dục giới tính, giáo
dục tình dục cho trẻ ở tuổi vị thành niên là “vẽ
đường cho hươu chạy” và vô hình dung làm cho trẻ hiểu biết thêm nhiều thứ mà các cháu
chưa đủ tuổi để lĩnh hội. Giáo dục với con trẻ về vấn đề tình dục chỉ khiến chúng trở nên
tò mò hơn và bắt đầu… thử nghiệm xem sao. Chính quan điểm rất sai lầm đó của cha mẹ
đã đẩy con em vào tình trạng thiếu hiểu biết về giới tính, tình dục và dẫn đến những hành
động, việc làm lệch lạc, hậu quả là: mỗi năm nước ta có khoảng 300.000 ca nạo hút thai ở
độ tuổi 15-19, trong đó 60-70% là học sinh, sinh viên, Việt Nam là nước có tỷ lệ nạo phá
thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á và xếp thứ 5 thế giới. Hơn nữa có rất
nhiều bậc cha mẹ còn có quan điểm sai lầm khi cho rằng bố mẹ không nên đóng vai trò
trong việc giáo dục giới tính cho con. Hầu hết họ im lặng và cho rằng bọn trẻ sẽ có được
những thông tin cần thiết cho bản thân về vấn đề này từ trường học hoặc thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng. Một số khác nói rằng: ý kiến này cũng hay nhưng không
biết thực tế sẽ thế nào? ( Ủy ban dân số và kế hoạch hóa gia đình, trung tâm tư vấn về kế
hoạc hoá gia đình năm 2007).

Như vậỵ, phần lớn cha mẹ có quan điểm không đúng khi cho rằng không nên giáo
dục giới tính cho con và vô tình gán trách nhiệm đó cho nhà truờng, chỉ có một phần nhỏ
cha mẹ có quan điểm đúng đắn là nên giáo dục giới tính cho con. Từ quan điểm của cha
mẹ cho ta một nhận định rằng phần lớn cha mẹ đang hổng kiến thức về giới tính hay thiếu
sự hiêu biết về giới tính. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu về giới ngày càng cao, nếu
cha mẹ không sớm nhận ra đuợc sai lầm này, sẽ để lại nhiều hệ lụy cho xã hội, đặc biệt là
đối với lớp thế hệ trẻ như: quan hệ tình dục ở nước ta ngày càng sớm, trong đó học sinh,
sinh viên chiếm phần lớn; tỉ lệ nạo phá thai cũng liên tục gia tăng theo các năm; tội phạm
là trẻ đang ở tuổi vị thành niên ngày càng nhiều và có nhiều hành động táo tợn...
3. Tầm quan trọng của cha mẹ trong việc giáo dục giới tính:
Giáo dục giới tính cho trẻ có thể từ phía nhà trường, gia đình và ngoài xã hội,
nhưng gia đình là môi trường quan trọng nhất. Những nhận biết ban đầu của trẻ chính là
qua tiếp xúc với cha mẹ, trẻ không nói ra được nhưng cảm thụ được mọi chuyện, cảm
nhận được vị trí của mọi người trong gia đình qua hành vi, cách cư xử. Cha mẹ là những
người đầu tiên phát hiện được sự trưởng thành về mặt sinh lý của con mình. Các nhà
nghiên cứu tình dục đều thống nhất là trong sự phát triển tình dục, môi trường gia đình có
vai trò đặc biệt quan trọng. Cha mẹ cần quan sát xem quãng thời gian nào đứa trẻ của
mình hình thành ý thức về giới tính để tiến hành giáo dục. Đồng thời bài báo chỉ ra những
biểu hiện tâm sinh lý của trẻ ở mỗi giai đoạn phát triển, từ đó đưa ra cách tiếp cận của cha
mẹ với con cái về vấn đề giáo dục giới tính như thế nào để đạt hiệu quả Củng có quan .
điểm khi cho rằng: việc giáo dục giới tính tốt nhất là từ gia đình, nếp sống của cha mẹ là
tấm gương cho các con, nếu cha mẹ yêu thương, tôn trọng lẫn nhau, đối xử văn minh lịch
sự, biết hòa hợp trong cuộc sống gia đình, biết cởi mở và chân tình với con cái thì sẽ tạo
một ấn tượng tốt đẹp nơi các con. Theo nghiên cứu có 61,6% gia đình thấy cần thiết phải
trao đổi với con cái về vấn đề giới tính. Xét tương quan nam nữ có 56 ,6% ông bố và
64,3% bà mẹ cho rằng cần phải trao đổi về vấn đề này như vậy còn gần một nửa bố mẹ
không nhìn thấy sự cần thiết phải trao đổi với con về giới và giới tính. Bởi bố mẹ là
người định hướng cho con nhưng do những hạn chế về nhận thức của bố mẹ, cách truyền
đạt và sự lảng tránh của bố mẹ đã làm các em hiểu sai vấn đề dẫn tới những hậu quả
nghiêm trọng. Từ đó bài viết hướng tới việc đưa ra một số giải pháp để phòng tránh.
Bên cạnh đó nghiên cứu cũng chỉ ra những sự khác biệt trong việc giáo dục giới
tính ở đô thị và nông thôn, trong cách truyền đạt giữa người cha và người mẹ là khác
nhau, khác nhau trong thông tin truyền đạt. Ngoài ra cũng do những nhận thức hạn chế
của cha mẹ cũng ảnh hưởng tới việc giáo dục giới tính cho con.
Như vậy, ta có thể thấy được giáo dục giới tính cho trẻ là một vấn đề hết sức nhạy
cảm, tế nhị nhưng rất cần thiết và gặp rất nhiều khó khăn. Cùng với sự tiến bộ phát triển
của xã hội, giáo dục giới tính đã được xã hội quan tâm chú ý nghiên cứu nhiều hơn. Tuy
nhiên những nghiên cứu đó chủ yếu tập trung vào nghiên cứu về vấn đề giáo dục giới tính
được thể hiện ở những góc độ khác nhau: thực trạng, nhận thức, thái độ....mà chưa có một
nghiên cứu cụ thể về vai trò của gia đình trong việc giáo dục giới tính cho con ở Việt
Nam nói chung và đặc biệt trên trên địa bàn Xã Tế Lợi, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
CHƯƠNG III: VAI TRÒ CỦA CHA MẸ TRONG GDGT CHO CON CÁI.
I. Nhận thức và thái độ của cha mẹ về giáo dục giới tính cho con
.
1. Nhận thức của cha mẹ về giáo dục giới tính cho con
a)Nhận thức của cha mẹ về tầm quan trọng của việc GDGT cho con:
Nhận thức là cơ sở tạo nên hoạt đông, nhận thức đúng mới có hành động đúng, phù
hợp, đồng thời nhận thức sai sẽ dẫn đến những hành đông sai lệch. Nhận thức của cha mẹ
trong GDGT cho con có đúng thì việc giáo dục cho con mới có chất lượng, tác động vào
suy nghĩ và tâm lý phát triển của trẻ. Để giáo dục tốt về giới tính cho con cái, trước hết
cha mẹ phải phải nhận thức được tầm quan trọng của việc GDGT mà họ sẽ giáo dục. Việc
đánh giá tầm quan trọng của GDGT sẽ giúp cho họ GDGT cho con cái tốt hơn và mức độ
quan tâm của cha mẹ về vấn đề GDGT cho con
Bảng 1: Mức độ quan tâm giữa cha và mẹ về vấn đề GDGT cho con. Cha Mẹ Tầần suầất T l ỷ ệ (%) Tầần suầất T l ỷ ệ (%) Người 13 86.7 15 100 Không 2 13.3 0 0 T ng 15 100 5 100
Qua bảng 1 ta thấy, tỷ lệ giữa người cha và người mẹ quan tâm về GDGT cho con
là khá đồng đều. 100% các mẹ đều quan tâm đến vấn đề GDGT cho con và người cha là
93.3%. Với mức độ quan tâm tuyệt đối của người mẹ về GDGT cho con cho thấy người
mẹ đã nhận thức được vai trò quan trọng của mình trong GDGT cho con. Điều này còn có
thể, bởi đặc thù tính cách của người mẹ là dịu dàng, đảm đang. Ngay từ nhỏ những người
mẹ đã luôn ở bên cạnh bảo ban chăm sóc, kể chuyện, cùng vui đùa với các con quá trình
nuôi dưjng. Các mẹ đều có chung ý kiến là: GDGT cho con để trang bị cho con những
kiến thức cơ bản về giới tính, giúp con biết cách chăm sóc và bảo vệ bản thân. Vì vậy
100% các mẹ đều quan tâm đến vấn đề GDGT cho con là điều dễ hiểu. Đối với người cha
tỷ lệ quan tâm về GDGT là 93.3% có sự chênh nhau không đáng kể so với người mẹ. Có
2 người cha trả lời “không quan tâm”. Lý giải điều này, họ bày tỏ rằng: chọ chỉ quan tâm
giáo dục về đạo đức, lối sống chứ không mấy khi để ý giáo dục con những vấn đề tế nhị
như giới tính. Hơn nữa, họ cũng không có một khái niệm nào về việc giáo dục giới tính
cho con mà chỉ quan tâm giáo dục những nội dung về đạo đức, quan tâm giáo dục con
học hành thế nào chứ chẳng bao giờ để ý đến vấn đó, cũng chẳng biết nó là cái gì. Chứng
tỏ, về nhận thức cũng như kiến thức của họ còn rất hạn chế.
Như vậy, các bậc cha mẹ đều nói rằng có quan tâm đến GDGT cho con nhưng
mức độ tham gia vào quá trình GDGT cho con như thế nào mới là điều chúng ta cần phải
tìm hiểu. Bởi mức độ tham gia sẽ ảnh hưởng đến nội dung và phương pháp cha mẹ
GDGT cho con cái. Đồng thời, mức độ tham gia của cha mẹ vào GDGT cho con cũng thể
hiện một phần nhận thức của cha mẹ thông qua hành động quan tâm đến con cái thường ngày.
Biều đồ 1: Đánh giá mức độ tham gia của cha mẹ trong GDGT cho con Đơn vị: %
( Nguồn: số liệu tháng 6 -2014 tại xã Tế Lợi- huyện Nông Cống)
Trong thực tế điều tra tại biều đồ 2, người cha có tham gia vào GDGT cho con nhưng
ở mức độ không thường xuyên, chỉ ở mức độ “thi thoảng” là 40% và “hiếm khi” là 33,3
%. Với mức độ “thỉnh thoảng”, “hiếm khi” phần lớn người cha nghĩ rằng chỉ khi nào thật
sự cần thiết hoặc ở một thời điểm nào đó cần lắm mới quan tâm đến GDGT cho con. Mặt
khác, do thời gian các con đi học ở trường nhiều, về nhà tối con lại học bài nên thời gian
cha chia sẻ được với con cũng ít đi. Một số người cha “không bao giờ” tham gia vào
GDGT cho con do người cha vì bận rộn với công việc, hơn nữa có người cha đây là
chuyện của người mẹ phải lo. Nguyên nhân có thể do nhận thức còn hạn chế của những
người cha ở đây, cũng có trường hợp do đặc thù công việc mà họ đang làm. Tuy nhiên,
điều đó cũng phản ảnh đúng thực tế là người mẹ tham gia vào GDGT thường xuyên
chiếm 66,7%, trong khi người cha chỉ chiếm 20%. Sở dĩ có sự chệnh lệch như vậy là do,
ảnh hưởng của quan niệm truyền thống thì đa số người mẹ tham gia vào giáo dục cho con
cái, còn người cha luôn gắn với công việc ngoài của xã hội. Người vợ thường có thời
gian ở nhà hơn, người chồng thường vắng nhà nhiều hơn nên tần suất dạy dỗ của người
phụ nữ sẽ cao hơn người đàn ông hay nói cách khác số ngày người phụ nữ dành cho con
cái sẽ nhiều hơn người đàn ông. Theo một bà mẹ 42 tuổi thì “Cha ít tham gia. Đa số là
mẹ đảm nhận vai trò giáo dục cho con. Gia đình bác làm nông nghiệp, chỉ khi nào đến
mùa vụ thì bận vội thôi, nên có nhiều thời gian chăm sóc, chỉ bảo cho con. Lúc nào cũng
giáo dục nhắc nhở con những việc nên làm trong ngày về những vấn đề lien quan đến
giới tính”.
Chính vì vậy mà người mẹ có xu hướng tham gia vào giới tính cho con cái thường xuyên hơn.
Như vậy người đóng vai trò chính trong GDGT cho con chủ yếu là người mẹ, người
cha ít tham gia vào các hoạt động GDGT cho con. Do người cha thường đi làm ăn xa,
bận rộn trong công việc nên đa số đàn ông thường phó trách nhiệm cho người mẹ và nhà
trường. Tuy nhiên xét về tổng thể thì hầu hết cha mẹ đều có ý thưc tham gia vào GDGT
cho con nhưng ở mức độ không thường xuyên.
b) Mức độ đánh giá sự cần thiết của cha mẹ về GDGT cho con:
Thực tế cho thấy khi cha mẹ đánh giá đúng tầm quan trọng của việc GDGT cho con
thì cha mẹ sẽ có cách quan tâm và giáo dục khác nhau. Vậy nhận thức của cha mẹ về vấn
đề GDGT cho con có thật sự được quan tâm không? Để đánh giá nhận thức của cha mẹ,
chúng tôi tiến hành tìm hiểu mức độ đánh giá của cha mẹ về sự cần thiết của việc GDGT
cho con. Sự đánh giá này sẽ cho thấy rõ suy nghĩ của cha và mẹ ở mỗi một bậc thang khác nhau.
Biều đồ 2: Đánh giá của cha mẹ về sự cần thiết của GDGT cho con Đơn vị: %
( Nguồn: số liệu thực tế 2014 – UBND Huyện Nông Cống)
Qua biều đồ 3, thấy rằng tỷ lệ đánh giá mức độ cần thiết của người mẹ luôn đánh
giá cao mức độ cần thiết của việc GDGT cho con hơn người cha. Người cha ít hơn người
mẹ 13,3% chiếm 46.7%. Mẹ đánh giá mức độ “rất cần thiết” chiếm tới 60%. Vì họ cho
rằng với bối cảnh xã hội như hiện nay thì cần thiết phải quan tâm đến giáo dục cho con để
giúp con có những nhận thức đúng đắn về giới tính, tình dục. Điều mà rất nhiều người mẹ
e ngại trong cơn lốc giá trị sống đang nhiều thay đổi, các em tiếp thu một cách thụ động
lối sống từ phương Tây trong tình trạng thiếu kỹ năng sống một cách trầm trọng. Chính vì
vậy mà việc GDGT cho con là rất cần thiết theo quan điểm của nhóm người mẹ này thì
sách báo tràn lan. Gio tư tưởng bọn trẻ khác rồi, thoáng lắm để ý cái gì, tò mò thích thú là
làm luôn. Nên sợ lắm Điều này chứng tỏ ngư .
ời phụ nữ rất quan tâm đến vai trò giáo dục
giới tính cho con cái. Nhưng đối với người cha dường như họ cho rằng những vấn đề như
giáo dục đạo đức, giáo dục tri thức mới là điều quan trọng. Còn giáo dục giới tính là vấn
đề không cần thiết phải quan tâm. Nhưng khi so sánh tỷ lệ nhận thức giữa người cha với
nhau thì có 46.7% người cha chọn mức độ “rất cần thiết” lại chiếm tỷ lệ cao, đánh giá về
sự “cần thiết” người cha chiếm 33,3. Người mẹ chỉ có 13.3%, tương đương với sự lựa
chọn “bình thường” của người cha. Những người mẹ cho vấn đề này là bình thường vì họ
tin là con mình đủ nhận thức về giáo dục giới tính nên không cần thiết phải quan tâm quá
nhiều. Không có 1 người mẹ nào đánh giá “không cần thiết”. Bởi họ cho rằng: “Dạo này
đi đâu cũng nghe người ta cảnh báo tệ nạn trẻ yêu sớm và hàng loạt vụ lạm dụng tình
dục trẻ em. Nên là cô chú rất lưu tâm tới vấn đề này”
Và chỉ có 1 người cha duy nhất
cho rằng GDGT cho con là “không cần thiết”. Điều này có thể giải thích rằng: do trình độ
học vấn còn hạn chế, bên cạnh đó do tính chất công việc chiếm gần hết số thời gian của
họ nên khi trở về nhà họ chỉ muốn nghỉ ngơi và không quan tâm đến giáo dục cho con.
Như vậy, theo kết quả đánh giá người mẹ vẫn hiểu sự cần thiết của việc GDGT
cho con hơn người cha. Nhưng nếu nhìn nhận một cách khách quan thì rõ ràng qua biểu
đồ trên thể hiện rõ khác nhau trong nhận thức về sự cần thiết của việc GDGT cho con giữa cha và mẹ.
c) Nhận thức của cha mẹ về độ tuổi giáo dục giới tính cho con.
Nhận thức của cha mẹ sẽ được thể hiện rõ ràng và có cách giáo dục tốt hơn nếu
cha mẹ lựa chọn đúng thời điểm thích hợp để GDGT cho con.
Biểu đồ 3: Độ tuổi giáo dục giới tính cho con Mẫu: 30 Đơn vị: %
( Nguồn: số liệu điều tra thực tế 2014 tại Xã Tế lợi)
Qua biểu đồ 3 cho thấy, hầu hết các bậc cha mẹ cho rằng giáo dục giới tính nên bắt
đầu khi trẻ bước vào học ở bậc tiểu học và lên cấp II. Có đến 60% người cha cho rằng
nên GDGT ở độ tuổi khi con đang học THCS và 53.3% người mẹ đồng ý với ý kiến
GDGT cho con ở độ tuổi THCS. Có thể các cha mẹ cho rằng đây là giai đoạn quá độ từ
trẻ con sáng người lớn, là đặc trưng của dấu hiệu tuổi dậy thì giữa nam và nữ. Các con
của họ có thể bị chi phối bởi những cảm xúc trong giao tiếp với bạn bà và người lớn.
Đồng thời, theo cha mẹ GDGT cho con ở độ tuổi này bởi đây là độ tuổi dậy thì đang phát
triển mạnh mẽ cơ cấu sinh học và ý thức rõ về sự thay đổi của cơ thể, trẻ lại rất tò mò.
Hơn nữa, trẻ còn được nhà trường GDGT thông qua môn học trên lớp, kết hợp với nhà
trường tránh những lỗi truyền đạt không hiệu quả khi con tiếp thu kiến thức từ phía nhà
trường. “Tôi nghĩ nên bắt đầu với độ tuổi từ 10 – 15 tuổi, khi con đang học cấp 2 là thích
hợp nhất, bởi đây là độ tuổi dậy thì đang có sự thay đổi về cơ thể. Được biết nhà trường
cũng có GDGT cho con thông qua môn học trên lớp nên cần chú ý GDGT cho con, tránh

những lỗi truyền đạt không hiệu quả khi con tiếp thu kiến thức từ phía thầy cô và bạn
bè”.
Vì vậy, ở lứa tuổi này các bậc cha mẹ rất chú trọng vào việc GDGT cho các em. Qua
đó, chúng ta thấy rằng cha mẹ đã có nhận thức tương đối chính xác về GDGT cho các em
ở giai đoan này. Ở độ tuổi này hay còn gọi là lứa tuổi thiếu niên là độ tuổi khó giáo dục
nhất. Do lứa tuổi này có những biến đổi về sự mất cân bằng tâm, sinh lý tậm thời. Chính
vì cha mẹ luôn chú ý giáo dục cho con ở lứa tuổi này.
Tiếp đến là độ tuổi nên GDGT ở bậc “tiểu học” có 40% người mẹ đồng ý giáo dục
cho con ở độ tuổi “tiểu học” và chiếm tỷ lệ 20% theo ý kiến người cha. Lý do mà các bậc
cha mẹ đưa ra là trẻ tuổi này tính hiếu kì, trẻ liên tục hỏi cha mẹ về hiện tượng xung
quanh, nếu không có những câu trả lời thỏa đáng, trẻ sẽ tự mình tìm hiểu, suy đoán linh
tinh và tìm các kênh thông tin sai lệch để tìm hiểu. Cũng có một số ý kiến của người mẹ
cho rằng nên GDGT cho trong độ tuổi “Tiểu hoc”. Đối với người cha độ tuổi “Tiểu học”
là độ tuổi còn ngây dại, dễ bị lạm dụng nên giáo dục giới tính cho con ngay từ khi con
nhận biết được sự thay đổi cơ thể của bản thân mình. Độ tuổi đang học THPT, có 13.3%
người cha lựa chọn và người mẹ chiếm 6.7%. Mặc dù ở độ tuổi THPT cả cha và mẹ đều ít
chú trong GDGT ở độ tuổi này. Nhưng so tỷ lệ giữa cha và mẹ thì người cha quan tâm
giáo dục cho con ở độ tuổi này hơn. Đặc biệt đối với con trai. Sau khi tốt nghiệp THPT
có 1 người cha lựa chọn chiếm 6.7%. Các bậc cha mẹ còn lại có quan điểm “Con cái ở
tuổi này lớn rồi cần gì phải GDGT cho con. Nó lớn, nó tự biết cách tìm hiểu”.
Trong khi
đó không một người mẹ, người cha nào lựa chọn đô tuổi mầm non để giáo dục giới tính
cho con. Bởi theo họ đây là độ tuổi “còn non”, nhận thức kém nếu giáo dục quá sớm cha
mẹ sợ sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ. Một số ý kiến lại cho rằng: GDGT cho ở độ tuổi
này sẽ kích thích tính tò mò của trẻ và dễ có nhận thức sai lầm “vẽ đường cho hươu chạy”
khi những thông tin trẻ tiếp nhận được chưa đủ tuổi để tiếp thu. Đây là quan điểm thể
hiện sự nhận thức của cha mẹ còn hạn chế. Nhiều người cho rằng GDGT nghĩa là chờ trẻ
bước vào độ tuổi dậy thì rồi mới đề cập, dạy dỗ. Thực tế cho thấy, trẻ tiếp cận với kiến
thức giới tính từ những sinh hoạt hàng ngày, những điều mình thấy hoặc được trải
nghiệm. Trẻ có thể dậy thì trước tuổi, nếu không có sự chăm sóc đầy đủ, không có những
kiến thức về GDGT để giáo dục cho con đúng độ tuổi sẽ khiến các em không biết rõ về
sự phát triển của cơ thể, thay đổi bản than. Liệu rằng, ý kiến nên giáo dục cho con ở độ
tuổi sau khi tốt nghiệp THPT có phải là quá muộn?. Nhiều phụ huynh thường gặp những
sai lầm trong việc GDGT cho trẻ nhỏ mà nguyên nhân xuất phát từ việc họ nhận thức sai
về độ tuổi nên GDGT cho con. Tóm lại, việc giáo dục con cái về sinh lý trong gia đình
nên được bắt đầu từ tuổi ấu thơ. Mục đích của việc giáo dục này không chỉ trang bị kiến
thức, xây dựng ý thức về giới tính, tình dục mà điều quan trọng là xây dựng những quan
niệm, nhận thức đúng đắn của các con về giới tinh, tình dục.
2) Thái độ của cha mẹ trong giáo dục giới tính cho con:
Mỗi đứa trẻ đều nhận thức được sự thay đổi về cơ thể, tâm tư nguyện vọng tuổi mới
lớn, trẻ thường tò mò, thắc mắc những hiện tượng xảy ra xung quanh chúng. Nếu không
có câu trả lời thỏa đáng giải đáp các thắc mắc của chúng, không có sự hướng dẫn cụ thể
giúp trẻ nhận biết đúng vấn đề sẽ làm cho trẻ có những suy nghĩ lung tung, tự trả lời cho
câu hỏi của mình, khiến trẻ có những sai lệc trong nhận thức. Và thái độ của cha mẹ có
ảnh hưởng rất lớn đễn quá trình tiếp thu và phát triển nhận thức của trẻ về giới tính.
Thực tế cho thấy, có hơn 40% người cha thường co thái độ cấm đoán con khi con hỏi
về những vấn đề GDGT, 26,6 % người cha cảm thấy bực tức, không thoải mái khi con
nhắc tới những vấn đề được cho là nhạy cảm như tình dục, 20% các ông bố vui vẻ trả lời
những câu hỏi của các con vì họ cho rằng “đó là chuyện bình thường, chẳng có gì phải
dấu con”. Chỉ có duy nhất 1 người cha thường lảng tránh trước những thắc mắc của con
bởi họ không biết phải nói với con như thế nào và bắt đầu từ đâu? Ngược lại, có tới 7
người mẹ (trong 15 người mẹ được hỏi) tỏ ra lúng túng chiếm 46 ,7% trước vấn đề con
chia sẻ và 26,6% người mẹ thường lảng tránh trước những câu hỏi của con. Một điều
đáng ngạc nhiên rằng ngay cả những người mẹ cũng lên án cấm đoán, đe dọa con không
cho con được phép hỏi hoặc tìm hiểu những vấn đề về giới tính, tình dục chiếm 20%.
Trong khi, xã hội luôn nhìn nhận tích cực vai trò của người phụ nữ trong việc chăm sóc
sức khỏe gia đình và giáo dục nhân cách cho con. Vì người phụ nữ là người có tính cách
hiền dịu và có suy nghĩ sâu sắc, ôn hòa hơn người cha nên sẽ có cách giáo dục nhẹ nhàng
nhất, có thể giúp con giải đáp những thắc mắc, đồng thời giáo dục cho con hiểu ở tuổi
nên con mới đủ độ chín đề biết về vấn đề đó, mặt khác giúp con trạng bị được kiến thức
đầy đủ hơn về GDGT. Rất ít cha mẹ có thái độ tự nhiên ôn hòa, vui vẻ trả lời những thắc mắc của con.
Như vậy, cha mẹ vẫn né tránh khi nói về tình dục, giới tính. Phần lớn các bậc cha
mẹ đều rất ngại khi đề cập với con về vấn đề giới tính vì nói ra sợ con mình cảm thấy xấu
hổ. Nhiều phụ huynh thường tỏ ra lúng túng, ngại ngùng, phân vân mỗi khi đụng chạm
đến vấn đề giới tính của con. Thậm chí một số người còn xem đó là điều xấu xa nên tỏ vẻ
bực bội khi nghe con trẻ bày tỏ những thắc mắc về chuyện giới tính, tình yêu. Khi được
hỏi: có khi nào bác chủ động nói chuyện với các con về vấn đề tình dục, giới tính? Cha
mẹ không biết rằng trẻ em thường hiếu kỳ, rất hay hỏi, biểu hiện nguyện vọng và hứng
thú mạnh để nhận biết thế giới bên ngoài.trẻ có những thay đổi về tâm sinh lý và có
những tò mò và thắc mắc về những điều mà các em chưa biết. Và con cái rất muốn hỏi
những thắc mắc cùng cha mẹ chúng xoay quanh các vấn đề liên quan đến những biểu
hiện về tâm sinh lý của bản thân. Thậm chí nó mượn những vấn đề của bạn chúng thông
quan đó nói lên vấn đề của mình. Tuy nhiên, tất cả những suy nghĩ của các em đều bị
“chặn”ngay từ đầu bởi những câu nói của chính cha mẹ “lo học hành đi ở đó hỏi những
chuyện vớ vẫn, đâu đâu”. Thực tế cho thấy các em tiế cận từ rất nhiều kênh thông thông
tin khác nhau về giới tính và không phân biệt được đâu là kênh chính thống và phù hợp.
Cũng chính vì vậy mà trẻ trong giai đoạn mới lớn lại tìm đến những “người bạn” khác đó
chính là phim ảnh, sách báo với nội dung không lành mạnh. Vì vậy, cha mẹ càng cấm
đoán, càng lảng tránh thì các em càng có xu hướng tìm hiểu, hành động ngược lại với sự
cấm đoán của cha mẹ để thảo mãn sự tò mò của mình.
Từ những điều trên, một câu hỏi đặt ra là tại sao họ quan tâm đến GDGT cho con và
cần thiết phải GDGT cho con những khi con hỏi lại có thái độ cấm đoán con. Sự thiếu
quan tâm giáo dục là hiện tượng dễ thấy, dễ hiểu. Hiện tượng khó hiểu lại là sự quá chu
đáo thận trọng. Trong thực tế, sự ngăn chặn cấm đoán đã từng tạo ra sự phát triển bất
hạnh cho nhiều đứa trẻ. Bởi bên cạnh những kiến thức cha mẹ, nhà trường trang bị cho trẻ
thì trẻ em và thanh thiếu niên rất cần được giáo dục, định hướng về thái độ đối với vấn đề giới tính, tình dục.
II. Nội dung giáo dục giới tính cho con của cha mẹ.
1. Nội dung cha mẹ ưu tiên giáo dục giới tính cho con cái:
1.1. Nội dung người cha giáo dục giới tính cho con trai và con gái:
Trong quan niệm truyền thống phương Đông “đàn ông ngoại giao kiếm tiền, phụ nữ
nội trợ, nuôi dạy con cái”. Vậy nên suy nghĩ ở các ông bố rằng việc giáo dục con cái là
của người mẹ vẫn rất phổ biến. Nhưng trên thực tế vai trò, trách nhiệm của người cha và
người mẹ trong gia đình là như nhau, con trẻ không thể thiếu được sự dạy dỗ và tình
thương yêu của cha hay của mẹ. Đối với người cha ở Xã Tế Lợi, do đặc thù tính chất
công việc hay phải đi làm xa nhà thì việc tham gia vào GDGT được thể hiện ra sao? Liệu
những nội dung người cha lựa chọn giáo dục cho con có được đám bảo và đáp ứng được nguyện vọng của con.
Biều đồ 5: Nội dung người cha lựa chọn GDGT cho con gái và con trai Đơn vị: %
Nguồn: Số liệu điều tra thực tế 2014 từ UBND Huyện Nông Cống
Theo kết quả điều tra tại bảng 4, đối với việc giáo dục cho con trai hay con gái,
người cha thường chú trọng nội dung “giáo dục lối sống lành mạnh” đối với cả con gái và
con trai. Tuy nhiên, so sánh tỷ lệ lựa chọn của người cha trong nội dung này thì người cha
có quan tâm giáo dục cho con trai nhiều hơn con gái (60% với con trai và với con gái là
40%). Đặc biệt là với con trai..
1.2 Nội dung người mẹ giáo dục giới tính cho con trai và con gái:
Đối với người mẹ nội dung giáo dục giới tính cho cả con trai và con gái được thực hện
giáo dục khá đồng đều, không có sự chênh lệch giữa những nội dung người mẹ giáo dục
cho con trai và con gái. Các nội dung người mẹ giáo dục thường xuyên cho hai con như
“sức khỏe & vệ sinh cơ thể”, “tâm lý tuổi dậy thì” và nội dung “tình bạn, tình yêu” và
“lối sống lành mạnh” được mẹ giáo dục cho cả con trai và con gái với tỷ lệ cao. Nhóm
người mẹ cho rằng con gái và con trai đều cần thiết nội dung này như nhau. Cũng giống
như người cha, trong nội dung “Tinh dục, hệ lụy của tinh dục và các bệnh lây truyền
người mẹ có cùng ý kiến với người cha là cần chú trọng nội dung này hơn đối với con
trai. Tuy nhiên, nội dung này cũng chỉ được người mẹ thực hiện giáo dục ở mức độ thấp.
Tỷ lệ chỉ là 16.7% đối với con trai và 6.7% đối với con gái.
Nhìn chung, trong gia đình hiên nay thì cả cha và mẹ đều đã tham gia vào GDGT
cho con, trách nhiệm tham gia vào giáo dục, chăm sóc con không còn là trách nhiệm
riêng của người mẹ. Nội dung mà người cha và người mẹ giáo dục cho con cái là khác
nhau, nhưng họ đều mong muốn cho con mình phát triển một cách toàn diện, có các mối
quan hệ tình bạn, tình yêu lành mạnh và hướng dẫn cho con biết vai trò của mình để các
con có một lối sống lành mạnh tránh xa các tệ nạn xã hội, làm một công dân có ích. Tuy
nhiên, những hình thức giáo dục này còn chưa thể hiện rõ nội dung GDGT. Nội dung
kiến thức còn sơ sài, tập trung chủ yếu ở những nội dung có tính chất tâm lý, sinh lý cơ
thể. Các nội dung thể hiện rõ hình thứ GDGT thì cha mẹ lại có xu hướng ít đề cập tới.
2. Phương pháp giáo dục giới tính chủ yếu cho con của cha và mẹ.
Giáo dục là hoạt động có tính liên tục và hệ thống giữa nội dung và hình thức
truyền đạt. Chính vì vậy việc cha mẹ lựa chọn các phương pháp giáo dục hiệu quả là rất
quan trọng. Tuy nhiên, việc lựa chọn phương pháp sao cho hiệu quả lại là một vấn đề
không hề dễ cho các bậc phụ huynh do ở mỗi đứa trẻ lại có những tính cách khác nhau,
cách bộc lộ tâm tình khác nhau. Do vậy cha mẹ phải có phương pháp giáo dục tốt nhất để
có thể truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm của bản thân đến các con.
Kết quả nghiên cứu về phương pháp cha mẹ lựa chọn để GDGT cho thấy hầu hết các
bậc cha mẹ lựa chọn phương pháp “tự cha mẹ giáo dục giới tính cho con” vì cho rằng đây
là phương pháp hiệu quả nhất. Có đến 76.7% mẹ GDGT cho con bằng phương pháp “tự
cha mẹ thực hiện GDGT cho con”. Vì theo các bậc cha mẹ, cha mẹ là người nuôi dưjng
và gần gũi con trong suốt quá trình phát triển hình thành, phát triển về mọi mặt của con là
người định hướng cho con nên các bậc cha mẹ thấy tự mình giáo dục GT cho con là
phương pháp tốt nhất. Người cha có sử dụng phương pháp này (60%) nhưng ít hơn người
mẹ có thể là do người cha ngại nói, ngại giáo dục về vấn đề này nên.
Như vậy phương pháp chiếm ưu thế là phương pháp “tự cha mẹ thực hiện GDGT cho
con” với nhiều hình thức khác nhau như: sử dụng hành vi gương mẫu của cha me, sử
dụng kinh nghiệm bản thân, lắng nghe con chia sẻ. Và bên cạnh đó các phương pháp cha
mẹ ngày nay đã có rất nhiều phương pháp để GDGT cho con. Nhưng cha mẹ ở các vùng
nông thôn do không có điều kiện để tham gia vào các lớp tấp huấn về GDGT cũng như là
các kênh thông tin hỗ trợ để GDGT cho con nên các phương pháp mà các gia đình đang
áp dụng đều do tự mày mò, tự giáo dục bằng kiến thức, kinh nghiệm họ có mà chưa có
phương pháp, chương trình giáo dục thống nhất, cụ thể. Vì vậy, để việc giáo dục giới tính
có hiệu quả, nhà trường và gia đình cần có mối quan hệ chặt chẽ hơn nữa, quan tâm đến
những diễn biến sinh lý, tìm hiểu tâm tư, tình cảm của các em nhằm hướng dẫn các em đi đúng hướng.
3. Một số khó khăn của cha mẹ trong việc giáo dục giới tính cho con:
Giáo dục giới tính cho con là cả một quá trình quan sát, tìm hiểu và thực hiện giáo
dục từ phía cha mẹ. GDGT cho con với một số người là dễ dàng, nhưng với đa số cha mẹ
ở Xã Tế Lợi, quá trình GDGT cho con gặp rất nhiều khó khăn.
Đa phần cha mẹ gặp phải rất nhiều khó khăn khác nhau khi giáo dục giới tính cho con
như: là vấn đề tế nhị, khó nói không biết phải giáo dục cho con như thế nào, hay trình độ
học vấn kiến thức về giới tính còn hạn chế, nghề nghiệp và sự chênh lệch về tuổi tác giữa
cha mẹ và con cái, hay không đủ thời gian giáo dục cho con do phải đi làm ăn xa, ít khi
về nhà…Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất đó là trình độ học vấn của cha mẹ (86.7%).Và có
một số phụ huynh biết những lại không muốn nói quá nhiều về vấn đề GDGT, có tới
73.3% cha mẹ cho rằng đây là vấn đề khó nói. Bên cạnh đó một trong những khó khăn có
ảnh hưởng rất lớn đến quá trình nhận thức và giáo dục giới tính cho con mà cha mẹ ở
nông thôn đang gặp phải là không rõ phương pháp giáo dục cho con (43.3%). Khó khăn
từ chính nghề nghiệp của cha mẹ là 36.7%. Mặt khác, sự khác nhau về quan điểm (20%)
và cha mẹ không đủ thời gian để chăm sóc con chiếm 23.3%. Ở một khía cạnh khác, khó
khăn gặp phải là gia đình đông con thiếu sự chăm sóc chu đáo cho từng con (3.3%). Và
không có gia đình nào gặp phải khó khăn trong trường hợp “gia đình không hạnh phúc”.
Ngoài ra các yếu tố liên quan đền giáo dục như: tình trạng văn hoá xã hội thấp, gia đình
có người có thai trước hôn nhân (mẹ,chị…).Cha mẹ li hôn…cũng là khó khăn trong
GDGT cho con của cha mẹ. Trong đó khó khăn lớn nhất mà nhóm người mẹ gặp phải
thường là do trình độ học vấn, kiến thức về giới tính còn hạn chế, hay là vấn đề tế nhị,
khó nói hay trong quan điểm giáo dục giữa hai vợ chồng…Nhóm người cha gặp trở ngại
lớn nhất đó là không có thời gian tham gia chăm sóc, giáo dục con nhiều. Đôi lúc, việc đề
cập tới tình dục dường như không thể thực hiện được. Bậc phụ huynh có thể quá ngượng
ngùng do đây là vấn đề nhay cảm khó nói.
Hơn nữa trong vấn đề giáo dục giới tính cho con, không chỉ gặp phải những khó khăn
từ phía gia đình mà còn có khó khăn từ phía xã hội như: thông tin đại chúng thường tránh
né các vấn đề về tình dục vị thành niên dẫn đến những thông tin nhiều mâu thuẫu không
rõ ràng, sự quản lý chưa đúng cách từ phía gia đình, nhà trường và xã hội. Vì vậy những
thông tin mà trẻ nhận được không đáp ứng được nhu cầu của lứa tuổi vị thành niên và sức
khoẻ sinh sản hơn nữa nhà trương và xã hội cũng là tác nhân dẫn đến thực trạng này, ta
thấy được khó khăn lớn nhất gặp phải từ phía xã hội khi giáo dục giới tính cho con là do
mạng internet (76.7%) và phim ảnh (63.3%).
Ngoài ra, sự quản lý không đúng cách của gia đình, nhà trường và xã hội, hay cách
truyền đạt không hiệu quả từ phía bạn bè, thầy cô, xã hội, hay môi trường sống không
lành mạnh cũng là một trở ngại từ phía xã hội. Ngoài ra, sự quản lý không đúng cách của
gia đình, nhà trường và xã hội, hay cách truyền đạt không hiệu quả từ phía bạn bè, thầy
cô, xã hội, môi trường sống không lành mạnh cũng tạo trở ngại không hề nhỏ trong quá trình GDGT cho con.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Nhìn chung, trong gia đình hiên nay thì cả cha và mẹ đều đã tham gia vào GDGT
cho con, trách nhiệm tham gia vào giáo dục, chăm sóc con không còn là trách nhiệm
riêng của người mẹ. Phần lớn cha mẹ đều quan tâm đến GDGT cho con, nhưng đánh giá
mức độ tham gia vào giáo dục thì người người mẹ là người đảm nhận công việc này là
chính. Nhận thức giữa cha và mẹ về tầm quan trọng của vệc giáo dục giới tính cho con thì
người mẹ vẫn đánh giá sự cần thiết của việc GDGT cho con hơn người cha.
Nội dung kiến thức còn sơ sài
, tập trung chủ yếu ở những nội dung có tính chất tâm lý,
sinh lý cơ thể. Các nội dung thể hiện rõ hình thứ GDGT thì cha mẹ lại có xu hướng ít đề
cập tới. Mặt khác cũng có thể do chịu ảnh hưởng từ xã hội truyền thống vấn đề giới tính,
tình dục căn bản là vấn đề tế nhị, thầm kín, mặt khác có thể do cha mẹ có kiến thức hạn
chế về các vấn đề giới tính nên việc giáo dục giới tính ở gia đình học sinh gần như chưa
được thực hiện và ta thấy rằng các bậc cha mẹ có rất nhiều phương pháp để GDGT cho
con tuy nhiên các phương pháp mà các gia đình đang áp dụng đều do tự mày mò, tự giáo
dục bằng kiến thức họ có mà chưa có phương pháp, chương trình giáo dục thống nhất.
Với kiến thức về GDGT còn hạn chế nên những phương pháp mà cha mẹ giáo dục cho
con phần nhiều đều là tự mày mò và đúc rút kinh nghiệm trải nghiệm từ bản thân cha mẹ
để đưa vào giáo dục cho con. Điều này vừa có những tích cực lại vừa tạo ra những hạn
chế. Tích cực là từ kinh nghiệm bản thân cha mẹ, cha mẹ có thể hiểu và nhận biết được
sự thay đổi và những nhu cầu về tâm sinh lý của con, có thể dễ dàng chia sẻ với con.
Ngược lại những tư tưởng còn lạc hậu, bảo thủ trong suy nghĩ là những ảnh hưởng không
hề nhỏ trong quá trình con lĩnh hội những kiến thức về giới tính. Không đáp ứng được
những mong muốn của con cái.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Bùi Ngọc Oánh (2006), Tâm lí học giới tính và giáo dục giới tính, Nxb Giáo dục.
2. Dương Thị Như Mơ (2010). Thái độ của phụ huynh học sinh trung học phổ thông
ở trường THPT Nguyễn Thượng Hiền đối với giáo dục giới tính.
3. Đào Thị Vân Anh (2011), Cha mẹ với việc giáo dục giới tính trong gia đình.
4. Đinh Thị Thanh Nga( 2013), Tìm hiểu thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi
của học sinh THPT về sức khoẻ sinh sản, trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
5. Lê Thị Qúy (2009), Giáo trình xã hội học giới, Nhà xuất bản: giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
6. Ngọc Tuyết (2014), Giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên trong nông thôn.
7. Nguyễn Quang Huy (2010). Vai trò của gia đình trong giáo dục giới tính.
8. Nguyễn Thị Tố Quyên (2005), về vấn đề giáo dục giới tính cho trẻ em trong gia đình.
9. Tầm quan trọng của việc giáo dục giới tính. 10. http://thanhhoa.gov .vn/portal/Pages/default.aspx 11. http://nongcong.gov .vn/web/ 12. http://teloi.nongcong.gov .vn/web/
13. http://doc.edu.vn/tai-lieu/de-tai-vai-tr
o-cua-nguoi-me-trong-giao-duc-con-cai- nghien
cuu-tai-phuong-hoi-hop-thanh-pho-vinh-yen-tinh-vinh-phuc-40597
14. http://www.gopfp.gov.vn/so 115