











Preview text:
lOMoAR cPSD| 40551442
TIỂU LUẬN HỌC PHẦN MÔN: LUẬT LA MÃ
Đề tài:
Tại sao nói chủ thể (của quyền hay của pháp luật) là con người
nhưng không phải con người nào cũng là chủ thể trong luật La
Mã. Hãy phân tích các điều kiện để một con người được thừa
nhận là chủ thể theo pháp luật La Mã lOMoAR cPSD| 40551442 2 MỤC LỤC
I. MỞ ĐẨU ............................................................................................................... 3
II.NỘI DUNG ........................................................................................................... 3
1. Khái quát về Nhà nước và pháp luật La Mã cổ đại ......................................... 3
2. Điều kiện để cá nhân trở thành chủ thể của pháp luật La Mã ....................... 4
2.1. Chủ thể của pháp luật ....................................................................................... 4
2.2. Các điều kiện để cá nhân trở thành chủ thể pháp luật La Mã ....................... 5
2.2.1. Địa vị tự do (status libertatis) ...................................................................... 6
2.2.2. Địa vị công dân (status civitatis) ................................................................. 7
2.2.3. Địa vị gia đình (status familiae) .................................................................. 8
2.3. Các trường hợp thay đổi năng lực pháp luật ................................................... 9
III. KẾT LUẬN ...................................................................................................... 11 lOMoAR cPSD| 40551442 3 I. MỞ ĐẨU
Nền văn minh La Mã là một trong những nền văn minh rực rỡ nhất trong lịch
sử cổ đại thế giới, đóng góp cho văn minh nhân loại những tài sản vô giá trong đó có
những thành tựu về pháp luật. Có một câu nói được truyền tụng phổ biến, là người
La Mã đã ba lần chinh phục thế giới, bằng quân sự, bằng tôn giáo và bằng pháp luật.
Pháp luật La Mã được coi là một trong những công trình văn hóa vĩ đại nhất trong
lịch sử nhân loại, mặc dù được xây dựng cách đây hàng ngàn năm nhưng vẫn có sức
ảnh hưởng to lớn đến hệ thống pháp luật của phương Tây và nhiều quốc gia trong
thời kỳ hiện đại. Có ý kiến còn cho rằng, nghiên cứu pháp luật phải bắt đầu từ Luật
La Mã, bởi vì “nếu không nghiên cứu Luật La Mã thì tổn phí biết bao công sức một
cách vô ích để tìm thấy cái mà người ta đã tìm thấy từ lâu”. Giá trị của pháp luật La
Mã chủ yếu ở phần pháp luật dân sự với những quy định không hề lạc hậu so với thời
đại ngày nay, vẫn có thể áp dụng để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội dân sự hiện
đại nếu được chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp.
Mặc dù có những điểm rất tiến bộ, nhưng do ra đời trong xã hội chiếm hữu nô
lệ, bản chất pháp luật La Mã là pháp luật chủ nô, do giai cấp chủ nô xây dựng nên và
bảo vệ lợi ích, địa vị của giai cấp chủ nô và xác lập tình trạng vô quyền của người nô
lệ. Đây có thể coi là một hạn chế của pháp luật La Mã khi không phải ai trong xã hội
La Mã cổ đại, nền văn minh phát triển rực rỡ bậc nhất của thế giới, cũng được thụ
hưởng đầy đủ những thành tựu của nền văn minh này. Với mong muốn tìm hiểu
thêm về vấn đề này, em đã chọn đề tài “Tại sao nói chủ thể (của quyền hay của pháp
luật) là con người nhưng không phải con người nào cũng là chủ thể trong luật La
Mã. Hãy phân tích các điều kiện để một con người được thừa nhận là chủ thể theo
pháp luật La Mã” cho tiểu luận kết thúc môn Luật La Mã. II. NỘI DUNG
1. Khái quát về Nhà nước và pháp luật La Mã cổ đại
Lịch sử La Mã bắt đầu từ một ngôi làng nhỏ (có sách nói là gồm 7 ngọn đồi)
ở trung tâm Italy, sau đó phát triển thành thủ phủ, xâm chiếm và kiểm soát một vùng
rộng lớn gồm toàn bộ Italy và hầu như toàn bộ khu vực Địa Trung Hải. Vào thời điểm
bắt đầu công lịch, La Mã bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ, trở thành đế chế hùng lOMoAR cPSD| 40551442 4
mạnh nhất trên thế giới, kiểm soát một vùng lãnh thổ rộng lớn, phía bắc lên tận sông
Ranh, phía nam đến tận sa mạc Sahara, phía đông tiến tới Lưỡng Hà và Địa Trung Hải.
Xã hội La Mã với chế độ chiếm hữu nô lệ tồn tại kéo dài trên dưới 1.000 năm
(từ thế kỷ 5 trước Công nguyên đến thế kỷ 5 sau Công nguyên), qua các giai đoạn:
Vương chính là giai đoạn khi xã hội La Mã chuyển từ xã hội thị tộc sang xã hội có
giai cấp, có nhà nước và kéo dài khoảng 2 thế kỷ;chế độ Cộng hòa kéo dài chừng 4
thế kỷ từ thế kỷ 5 trước Công nguyên đến thế kỷ 1 trước Công nguyên; đến chế độ
Đế chế thế kỷ 1 trước Công nguyên đến thế kỷ 5 sau Công nguyên. Với bản chất là
nhà nước chiếm hữu nô lệ, Nhà nước La Mã cổ đại đã xây dựng hệ thống pháp luật
chủ nô, là kiểu pháp luật đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Pháp luật La Mã đã trải qua
các giai đoạn phát triển tương ứng với sự phát triển của xã hội, trong đó Luật 12 bảng
ra đời đầu tiên vào giữa thế kỷ 5 trước Công nguyên là lần pháp điển hóa thứ nhất,
đã có ảnh hưởng to lớn, lâu dài trong suốt thời gian tổn tại của xã hội La Mã cổ đại
và trong các xã hội kéo dài hàng ngàn năm sau. Ngoài lần pháp điển hóa đầu tiên
này, lịch sử pháp luật La Mã cũng ghi nhận những lần pháp điển hóa tiếp theo ở các
giai đoạn phát triển sau này của xã hội La Mã.
Pháp luật La Mã ra đời trong điều kiện cụ thể của xã hội La Mã cổ đại, khi
quan hệ, giao lưu thương mại dựa trên chế độ sở hữu tư nhân rất phát triển ở dạng
thuần túy, lại được một đội ngũ các nhà làm luật đông đảo và có trình độ nghiệp vụ
cao biết sử dụng ngôn ngữ pháp lý để thể hiện các nhu cầu pháp lý của các quan hệ,
giao lưu thương mại, hàng hóa một cách đúng đắn thành các quy định, chế định pháp
lý chặt chẽ, có tính mẫu mực, mang ý nghĩa của một bộ phận tiêu biểu của nền văn
minh La Mã. Xét về bản chất, hệ thống pháp luật chủ nô của La Mã phản ánh ý chí
của giai cấp chủ nô, bảo đảm quyền lợi chủ yếu cho giai cấp chủ nô, và là công cụ
để nhà nước chủ nô bảo vệ, củng cố chế độ chiếm hữu nô lệ, xác lập tình trạng vô
quyền của người nô lệ.
2. Điều kiện để cá nhân trở thành chủ thể của pháp luật La Mã
2.1. Chủ thể của pháp luật
Theo một cách chung nhất, chủ thể pháp luật được hiểu là cá nhân, tổ chức
được pháp luật trao cho năng lực pháp luật. Năng lực pháp luật là khả năng các cá lOMoAR cPSD| 40551442 5
nhân, tổ chức có quyền, nghĩa vụ pháp lý do nhà nước quy định. Theo Giáo trình Lý
luận nhà nước và pháp luật của Đại học Quốc gia, chủ thể pháp luật được giải thích
là “những cá nhân, tổ chức có khả năng trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật, có
những quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở của quy phạm pháp luật”1. Như vậy, để
trở thành chủ thể pháp luật chỉ cần có năng lực pháp luật.
Năng lực pháp luật là khả năng mà pháp luật quy định đối với các cá nhân, tổ
chức có thể được tham gia quan hệ pháp luật nào. Năng lực pháp luật có thể coi là
phần tối thiểu trong năng lực chủ thể. Với năng lực pháp luật, các chủ thể chỉ tham
gia thụ động vào các quan hệ pháp luật. Tính thụ động được thể hiện là chủ thể không
tự tạo ra cũng như không thể tự mình thực hiên được các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Chẳng hạn, đứa trẻ được thừa kế tài sản khi bố, mẹ chết. Xét trong mối quan hệ thừa
kế này, đứa trẻ chỉ có năng lực pháp luật, nó không thể tự mình thực hiện được các hành vi nhất định.
Năng lực pháp luật là thuộc tính không thể tách rời của chủ thể quan hệ pháp
luật vì khi nói tới chủ thể thì trước tiên phải xem xét năng lực pháp luật. Tuy nhiên,
đây không phải tính tự nhiên mà do nhà nước quy định cho chủ thể. Trên thực tế, các
nhà nước khác nhau có thể có quy định khác nhau về năng lực pháp luật của chủ thể pháp luật.
2.2. Các điều kiện để cá nhân trở thành chủ thể pháp luật La Mã
Do Nhà nước La Mã là Nhà nước chiếm hữu nô lệ, pháp luật của Nhà nước
La Mã phản ánh ý chí của giai cấp chủ nô, bảo đảm quyền lợi chủ yếu cho giai cấp
chủ nô, là công cụ để nhà nước chủ nô bảo vệ, củng cố chế độ chiếm hữu nô lệ, xác
lập tình trạng vô quyền của người nô lệ. Một số đặc điểm của pháp luật chủ nô có
ảnh hưởng đến việc đối tượng nào được ghi nhận là chủ thể của pháp luật trong xã
hội chiếm hữu nô lệ La Mã. Cụ thể, pháp luật chủ nô bảo vệ và củng cố chế độ chiếm
hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ, hợp pháp hóa các hình thức bóc lột
của chủ nô đối với nô lệ; ghi nhận và củng cố tình trạng phân biệt đẳng cấp trong xã
hội; và pháp luật chủ nô ghi nhận và củng cố địa vị thống trị của người gia trưởng
đối với các thành viên khác trong gia đình. Những đặc điểm này dẫn tới hệ quả là
1 GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế. (2015). Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội lOMoAR cPSD| 40551442 6
không phải con người nào cũng được coi là chủ thể trong pháp luật La Mã và có sự
phân biệt đối xử đối với những người được coi là chủ thể của pháp luật La Mã2 (năng
lực chủ thể của các cá nhân không giống nhau).
Cá nhân trong xã hội La Mã được phân chia thành các nhóm khác nhau căn
cứ vào 3 địa vị: địa vị tự do (status libertatis); địa vị công dân (status civitatis) và địa
vị gia đình (status familiae). Đây là 3 yếu tố cấu thành năng lực pháp luật của chủ
thể pháp luật La Mã, có nghĩa khả năng các nhóm cá nhân này được hưởng quyền
theo quy định của pháp luật La Mã khác nhau tùy thuộc vào việc họ được hưởng địa
vị pháp lý nào trong các nhóm nêu trên. Và năng lực pháp luật của cá nhân có thể
thay đổi khi địa vị pháp lý của cá nhân thay đổi.
2.2.1. Địa vị tự do (status libertatis)
Xét về địa vị tự do, cá nhân trong xã hội La Mã phân chia thành người tự do
(liberi) và nô lệ (servi).
Người tự do trong xã hội La Mã gồm ingenui, người được sinh ra tự do từ sự
phối ngẫu hợp pháp và libertini, nô lệ được chủ nô trả tự do. Con của nô lệ đã được
trả tự do cũng được coi là người tự do.
Nô lệ chiếm một số lượng rất lớn trong xã hội La Mã, là lực lượng lao động
chủ yếu, đóng vai trò quan trọng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Họ có thể là tù
binh chiến tranh hoặc người tự do nhưng phạm tội và bị tước bỏ địa vị tự do (ví dụ
như trường hợp nợ tiền không thanh toán đúng hạn và con nợ không đáp ứng được
phán quyết của tòa án thì chủ nợ có quyền thu nạp con nợ thành nô lệ hoặc phụ nữ
nếu chung sống với nô lệ của một chủ nô bất chấp sự phản đối của chủ nô thì sẽ trở
thành nô lệ…). Con cái của nô lệ nữ đương nhiên là nô lệ, bất kể địa vị pháp lý của
người cha đứa trẻ. Đa phần nô lệ trong xã hội La Mã là tù binh chiến tranh. Sau các
cuộc chiến tranh thắng lợi của La Mã, từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, một số
lượng lớn nô lệ đã đến La Mã, dẫn đến việc buôn bán nô lệ và gia tăng bóc lột nô lệ.
Kể từ đó, nô lệ chỉ được coi như đồ vật (res) - servi pro nullis habentur. Sở dĩ địa vị
pháp lý của nô lệ được xác định như vậy do trên thực tế, nô lệ không được coi là một
chủ thể mà là một đối tượng của pháp luật. Chủ nô có quyền sở hữu đối với nô lệ, có
thể bán nô lệ, dùng nô lệ để cầm cố, nhưng không được làm hại hoặc giết nô lệ. Nếu
2 Pháp luật La Mã ghi nhận hai nhóm chủ thể là cá nhân và pháp nhân, tuy nhiên, nội dung tiểu luận này chỉ nghiên cứu về chủ thế pháp luật là cá nhân. lOMoAR cPSD| 40551442 7
một người làm nô lệ của người khác bị thương, chủ nhân của nô lệ có thể khởi kiện
và yêu cầu được bảo vệ quyền lợi. Trong hệ thống luật pháp La Mã, nô lệ không được
sở hữu tài sản, không có tư cách chủ nợ hoặc con nợ, cũng như không có người thừa
kế. Nô lệ không có gia đình. Quan hệ phối ngẫu giữa nô lệ với nô lệ không được thừa
nhận là hôn nhân (matrimonium), mà là một cuộc sống chung không có hệ quả pháp lý (contubernium).
2.2.2. Địa vị công dân (status civitatis)
Xét về địa vị công dân, cư dân La Mã được chia thành hai nhóm: những người
sinh ra đã được hưởng địa vị công dân La Mã (cives) (địa vị công dân được xác lập
tự nhiên) hoặc những người được ban thưởng địa vị công dân (xác lập theo quy định
pháp lý) gồm người Latinh (Latini) và người ngoại tộc (peregrini).
Công dân La Mã là những người được hưởng địa vị công dân đầy đủ nhất. Họ
là những cá nhân sinh ra từ cuộc hôn nhân hợp pháp giữa người cha và mẹ là người
La Mã và sẽ được hưởng quyền công dân từ khi sinh ra. Công dân La Mã được hưởng
những quyền sau: quyền kết hôn hợp pháp (quyền này chỉ áp dụng cho công dân La
Mã và trong một số trường hợp, luật pháp La Mã cấm kết hôn như quan lại hàng tỉnh
không kết hôn với người sở tại, người giám hộ không kết hôn với người được giám
hộ); quyền giao dịch thương mại; quyền thừa kế; quyền gia trưởng (patria familias)
và quyền với họ tên. Ngoài ra công dân La Mã còn được hưởng một số quyền quan
trọng trong pháp luật công như quyền tham gia phục vụ quân đội, quyền bầu cử, quyền ứng cử.
Về người Latinh được hưởng địa vị công dân La Mã, ban đầu nhóm người này
gồm những cư dân của Latium, vùng đất xung quanh La Mã, sau đó được mở rộng
đối với cư dân các khu vực khác, đặc biệt là thuộc địa của La Mã. Địa vị công dân
đã được mở rộng trao cho tất cả người Latinh trong đế chế La Mã vào thế kỷ thứ 1
trước Công nguyên. Hình thức xác lập địa vị công dân này được gọi là Jus Latii,
thường được gọi là quyền Latinh, theo đó người Latinh được hưởng quyền giao dịch
thương mại và hưởng địa vị ngang bằng với công dân La Mã trong các giao dịch này;
có quyền kết hôn theo quy định pháp luật; quyền di cư; quyền bầu cử nếu cư trú tại
La Mã nhưng không có quyền ứng cử.
Người ngoại tộc là cư dân những nước có ký kết hiệp ước liên minh với đế
quốc La Mã mà những người này không phải là người Latinh. Địa vị pháp lý của lOMoAR cPSD| 40551442 8
người ngoại tộc rất hạn chế, họ không có quyền chính trị như công dân La Mã. Họ
cũng không có quyền kết hôn hoặc quyền giao dịch thương mại, không thể bảo vệ
quyền tài sản của mình. Người ngoại tộc cũng có thể trở thành công dân La Mã trong
trường hợp pháp luật có quy định đặc biệt hoặc theo con đường tự nhiên. Dưới thời
Hoàng đế Justinian, việc mở rộng trao địa vị công dân La Mã cho cư dân các vùng
đất, quốc gia khác được đẩy mạnh, dẫn tới địa vị người ngoại tộc chỉ còn áp dụng
cho những trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Như vậy, người Latinh và người ngoại tộc tuy cũng được hưởng địa vị công
dân nhưng có phần hạn chế hơn so với công dân La Mã.
2.2.3. Địa vị gia đình (status familiae)
Xét về địa vị gia đình, cá nhân được chia thành người phụ thuộc và người độc
lập. Trong gia đình, người cha là người có quyền và mọi thành viên trong gia đình
phải tuân theo ý chí của người cha và do vậy có sự phân chia thành người phụ thuộc
và người độc lập (người cha và là chủ gia đình). Phụ nữ trong xã hội La Mã được xác
định là người phụ thuộc và do vậy năng lực pháp luật của họ có hạn chế so với nam
giới. Phụ nữ La Mã phải phụ thuộc người cha và sau khi kết hôn thì phụ thuộc chồng.
Trường hợp không có cha hoặc chồng, phụ nữ phải phụ thuộc vào người giám hộ là
nam giới, người này sẽ quản lý toàn bộ tài sản và thay mặt người phụ nữ thực hiện
các giao dịch pháp lý. Ngoài ra, về mặt pháp luật công, phụ nữ không có quyền bầu
cử, ứng cử. Các nhà làm luật thời đó quan niệm rằng, những quy định như trên là hợp
lý do những quan niệm được chấp nhận rộng rãi thời bấy giờ. Phụ nữ được xem là
phái yếu, không đủ nhận thức, quan tâm đến các vấn đề pháp lý và không có khả
năng phân tích, nhận định vấn đề. Do năng lực hạn chế, phụ nữ không thể đảm nhận
vai trò là người chủ gia đình. Nếu chồng chết, họ không thể nhận con nuôi hoặc đảm
nhận quyền giám hộ đối với các thành viên khác trong gia đình, trong đó có chính
con cái của họ. Mặc dù vậy, phụ nữ La Mã được sinh ra tự do có thể yêu cầu được
hưởng một số quyền công dân như sở hữu tài sản, định đoạt tài sản theo ý muốn,
tham gia vào các hợp đồng và quản lý tài sản của họ, trừ trường hợp phát sinh hành
vi pháp lý cần sự can thiệp của người giám hộ.
Như vậy, có thể thấy chủ thể của luật La Mã rất hạn chế, ban đầu chỉ có người
tự do và công dân La Mã mới được thừa nhận là chủ thể pháp luật. Cùng với thời lOMoAR cPSD| 40551442 9
gian, địa vị công dân đã được mở rộng ra cho người Latinh và người ngoại tộc. Tuy
nhiên, quyền lợi của những nhóm người này cũng hạn chế so với công dân La Mã.
Ở nhóm công dân La Mã, người phụ thuộc cũng có quyền lợi hạn chế hơn so với
người chủ gia đình. Để một cá nhân được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi thì cá nhân
đó phải đáp ứng cả ba điều kiện: là người tự do, là công dân La Mã và là người độc
lập (hay là người chủ gia đình).
2.3.Các trường hợp thay đổi năng lực pháp luật
Sự tiến bộ của pháp luật La Mã thể hiện ở chỗ có quy định cho phép thay đổi
năng lực pháp luật của các cá nhân, trong phạm vi tiểu luận chỉ đề cập đến quy định
mở rộng năng lực pháp luật cho thủ thể (không đề cập việc hạn chế năng lực pháp
luật của chủ thể). Cụ thể, có 2 trường hợp, một là thay đổi địa vị tự do, theo đó nô lệ
trở thành người tự do nếu chủ nô giải phóng nô lệ và hai là thay đổi địa vị công dân
La Mã, theo đó Người Latinh, người ngoại tộc được ban thưởng địa vị công dân La Mã.
Sự thay đổi có tầm quan trọng nhất là thay đổi địa vị giữa người tự do và nô
lệ (capitus deminutio maxima) khi chủ nô giải phóng nô lệ, và nô lệ trở thành người
tự do. Quy định về giải phóng nô lệ thay đổi khác nhau tùy từng thời kỳ, nhìn chung
có 3 trường hợp giải phóng nô lệ: (i) Người chủ nô ghi danh tư cách công dân cho nô
lệ mà người này muốn giải phóng trong danh sách điều tra thống kê của chính quyền
(manumissio censu); (ii) Giải phóng nô lệ thông qua nghi thức tuyên bố trước pháp
quan: một số công dân chạm vào nô lệ cần được giải phóng bằng một cây gậy
(vindicta), và tuyên bố nô lệ là một người tự do. Nếu chủ nô không phản đối yêu cầu,
pháp quan sẽ xác nhận quyền tự do của nô lệ; (iii) Giải phóng nô lệ thông qua di
chúc, trong đó chủ nô yêu cầu trả tự do cho nô lệ (Manumissio testament) hoặc giải
phóng nô lệ thông qua một tuyên bố trước mặt bạn bè (Manumissio inter amicos)
hoặc tuyên bố trước mặt giám mục (Manumissio in ecclesia). Theo luật La Mã, những
nô lệ được trả tự do trở thành công dân La Mã (libertini) có ít quyền hơn so với những
công dân La Mã được sinh ra tự do. Chủ cũ của nô lệ giờ đã trở thành người bảo trợ
của anh ta (patronus), và người được phóng thích vẫn có nghĩa vụ đối với patronus
(điều này đã được pháp luật quy định). Người được phóng thích phải vâng lời và tôn
trọng người bảo trợ của mình, phải đến thăm chủ cũ khi cần thiết, bỏ phiếu cho chủ lOMoAR cPSD| 40551442 10
cũ, và trong một số trường hợp, trả cho chủ cũ một phần của tất cả số tiền kiếm được.
Người được phóng thích không được khởi kiện patronus. Người bảo trợ có quyền về
nhân thân và tài sản đối người được phóng thích; có quyền đòi hỏi nô lệ đã được
phóng thích thực hiện một số công việc nhất định. Nếu người được phóng thích qua
đời mà không để lại di chúc, tài sản của anh ta sẽ tự động thuộc về người bảo trợ còn
sống của anh ta; nếu anh ta lập di chúc, anh ta cần để lại cho chủ cũ một phần di sản
của mình. Người bảo trợ cũng có quyền được người được phóng thích phụng dưỡng.
Tóm lại, người nô lệ được giải phóng theo quy định của pháp luật trở thành một công
dân với các quyền công dân bị hạn chế và có nhận xét cho rằng “Chỉ khi người chủ
nô trước đây chết đi, được tổ chức tang lễ trọng thể và được chôn cất an toàn thì
người nô lệ được phóng thích mới có thể thực sự hít thở bầu không khí của tự do”.
Trường hợp thứ hai dẫn đến thay đổi năng lực pháp luật cho chủ thể là thay
đổi địa vị công dân (capitus deminutio media) của người Latinh, người ngoại tộc khi
những nhóm người này được ban thưởng địa vị công dân La Mã. Khi đế quốc La
Mã bành trướng lãnh thổ ra bên ngoài, vấn đề đặt ra là có nên trao địa vị công dân
cho những cộng đồng dân cư bên ngoài La Mã hay không. Việc trao địa vị công dân
La Mã cho người dân vốn không phải dân bản địa sẽ giúp củng cố niềm tin, lòng
trung thành của cư dân các vùng lãnh thổ này với nhà nước La Mã, nhưng ít nhiều
ảnh hưởng tới vấn đề bản sắc dân tộc trong việc công nhận tư cách công dân La Mã,
và nhiều người dân La Mã không ủng hộ việc này. Do vậy, dân cư ở những vùng đất
mà đế quốc La Mã bành trướng và thôn tính cảm thấy bất bình trước sự phân biệt đối
xử, khi họ phải gánh vác trọng trách về quân sự với nhà nước La Mã nhưng không
được nhìn nhận, đối xử xứng đáng. Kết quả là nhiều cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị
của La Mã đã nổ ra, dẫn tới nhà nước La Mã phải ban hành quy định trao địa vị công
dân cho những người chống lại các cuộc nổi dậy này hoặc những người tham gia nổi
dậy nhưng sẵn sàng hạ vũ khí. Dưới thời cai trị của Julius Caesar vào thế kỷ thứ nhất
trước Công nguyên, quyền công dân La Mã lần đầu tiên được mở rộng ra ngoài phạm
vi nước Ý La Mã với việc xác lập địa vị công dân La Mã cho các thuộc địa và tự trị
ở vùng Cisalpine Gaul (miền bắc nước Ý) (xác lập địa vị công dân theo quyền
Latinh). Đến năm 212 sau Công nguyên, địa vị công dân La Mã đã được trao cho gần
như tất cả các dân tộc thuộc đế chế La Mã. lOMoAR cPSD| 40551442 11 III. KẾT LUẬN
IV.Khi nói về năng lực pháp luật của chủ thể trong xã hội, người La Mã dùng khái
niệm khá độc đáo “persona”. Nguồn gốc của từ persona là chiếc mặt nạ, hay để chỉ
một nhân vật trong các tác phẩm nghệ thuật được trình diễn trước công chúng, chỉ
vai diễn của người nghệ sỹ. Về sau nghĩa của từ “persona” được mở rộng để chỉ
những vai trò trong cuộc sống của một cá nhân và là hình ảnh ẩn dụ để chỉ một cá
nhân thông qua vai trò mà cá nhân đó gánh vác trong xã hội. Năng lực pháp luật của
cá nhân cũng giống như chiếc mặt nạ hoặc vai diễn của người diễn viên trên sân khấu.
Chiếc mặt nạ “persona” và con người vật chất của cá nhân là không hoàn toàn đồng
nhất, tức là không phải con người tự nhiên nào là con người cũng là cá nhân được
hưởng quyền. Việc hưởng quyền, hay nói cách khác năng lực pháp luật của cá nhân
phụ thuộc vào “chiếc mặt nạ” mà anh ta được mang, cụ thể ở đây là các địa vị mà
pháp luật quy định. Yếu tố chính quyết định địa vị pháp lý của một cá nhân là địa vị
tự do và địa vị công dân, do vậy sự phân biệt căn bản nhất trong quy định về con
người (Law of persons) trong pháp luật La Mã là giữa người tự do và nô lệ, tiếp theo
đó là sự phân biệt giữa công dân La Mã và người Latinh và người ngoại tộc. Cuối
cùng, có sự phân biệt giữa người độc lập và người phụ thuộc gia đình. Tư duy pháp
lý của người La Mã cũng rất tiến bộ ở chỗ có những quy định cho phép thay đổi năng
lực pháp luật của các chủ thể, theo đó trong một số trường hợp, cá nhân có thể được
trao địa vị tự do và địa vị công dân để có có tư cách hưởng quyền gắn với những địa vị pháp lý này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế. (2015). Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp
luật, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
2. TS. Nguyễn Minh Tuấn.(2016). Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật thế
giới, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
3. TS. Nguyễn Ngọc Điện. Giáo trình Luật La Mã, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
4. Edgar S.Shumway. Feedom and Slavery in Roman Law
5. Rafael Domingo – Emory University/University of Navarra. The Family in
Ancient Roman Law https://www.researchgate.net/publication/ lOMoAR cPSD| 40551442 12
317999401_The_Family_in_Ancient_Roman_Law 6. George Long, M.A., Fellow of Trinity College. Ingenui
https://penelope.uchicago.edu/Thayer/E/Roman/Texts/secondary/SMIGRA*/
Ingenui.html#:~:text=Freemen%20(liberi)%20were%20either%20ingenui,ar e
%20manumitted%20from%20legal%20slavery
7. Will Durant. Caesar and Christ (The Story of Civilization #3) 8. Wikipedia