lOMoARcPSD| 58737056
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học
ĐỀ TÀI: Những biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và các giải pháp để xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam trong
Giảng viên hướng dẫn
:
Ths Lê Minh Chi
Họ và tên
:
Lương Thị Anh Thư
Lớp
:
HOCLAI
24
MSV
: 25A4011796
Hà Nội, 2025
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học
ĐỀ TÀI: Những biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và các giải pháp để xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
Giảng viên hướng dẫn : Ths Lê Minh Chi
Họ và tên : Lương Thị Anh Thư
Lớp : HOCLAI24
MSV : 25A4011796
Hà Nội, 2025
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................................5
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU.....................................................................................................6
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.............................................................................................6
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CU...............................................6
1. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................6
2. Phương pháp nghiên cứu................................................................................7
III. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.................................................7
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG.................................................................................................8
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG..........................................................................................8
I. Khái niệm gia
đình...........................................................................................8
II. Vị trí của gia đình trong xã hội.....................................................................8
1. Gia đình là tế bào của xã hội........................................................................8
2. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời
sống cá nhân của mỗi thành viên.......................................................................9
3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội.................................................9
III. Chức năng cơ bản của gia đình..................................................................10
1. Chức năng tái sản xuất con người.............................................................10
2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục...............................................................10
3. Chức năng kinh tế và tổ chức êu dùng....................................................10
4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì nh cảm gia đình........11
PHẦN 2: THỰC TRẠNG.............................................................................................11
I. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.............11
1. Cơ sở kinh tế - xã hội..................................................................................11
2. Cơ sở chính trị xã hội.................................................................................11
3. Cơ sở văn hóa.............................................................................................12
4. Chế độ hôn nhân ến bộ............................................................................12
II. Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội....13
1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
………………………………..13
a. Biến đổi quy mô, kết cấu của gia đình....................................................13
b. Biến đổi các chức năng của gia đình.......................................................13
c. Biến đổi chứng năng kinh tế và tổ chức êu dùng.................................13
d. Biến đổi chức năng giáo dục (xã hội hóa)...............................................14
e. Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì nh cảm.....14
f. Sự biến đổi quan hệ gia đình..................................................................14
I. Những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân mà Việt Nam có trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội về vấn đề xây dựng gia đình..........................................15
1. Thành tựu...................................................................................................15
2. Hạn chế.......................................................................................................16
3. Nguyên nhân..............................................................................................16
PHẦN 3: GIẢI PHÁP..................................................................................................17
I. Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.........................................................................17
II. Liên hệ với bản thân...................................................................................18
KẾT LUẬN.....................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................21
LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình từ u đã được coi tế bào nền tảng của hội, nơi nuôi dưỡng, hình
thành nhân cách đạo đức của mỗi con người. Trong truyền thống văn hóa Việt Nam,
gia đình không chỉ là nơi gắn về huyết thống còn là không gian lưu giữ, truyền dạy
các giá trị đạo đức, lối sống bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, cùng với sự vận động mạnh
mẽ của hội, đặc biệt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, hình gia đình
Việt Nam đã đang trải qua nhiều biến đổi sâu sắc. Những thay đổi này chịu tác động
từ nhiều yếu tố như quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, sự phát triển của khoa học
công nghệ, toàn cầu hóa, cũng như các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Gia đình truyền thống với nhiều giá trị tốt đẹp như tinh thần hiếu thảo, sự gắn
giữa các thế hệ, vai trò của người lớn tuổi... ngày nay đang đứng trước nguy cơ mai một
hoặc biến dạng trong một số trường hợp. Trong bối cảnh ấy, việc nhìn nhận đúng đắn về
những biến đổi của gia đình, xác định các nguyên nhân dẫn đến hạn chế, từ đó đề xuất
các giải pháp xây dựng phát triển gia đình Việt Nam phù hợp với thời kỳ mới một
nhiệm vụ quan trọng, không chỉ đối với c nhà hoạch định chính sách còn đối với
mỗi người dân, nhất thế hệ trnhững người sẽ xây dựng gia đình của chính mình
trong tương lai.
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Gia đình tế bào của xã hội, giữ vai trò nền tảng trong việc hình thành, duy trì
phát triển các giá trị n hoá, đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa hội, dưới tác động mạnh mẽ của công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và những biến đổi về kinh tế, xã hội, gia đình Việt Nam đã
và đang nhiều thay đổi sâu sắc về cấu, chức năng, quan hệ giữa các thành viên
những chuẩn mực ng xử. Bên cạnh những biến đổi tích cực góp phần nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của các thành viên gia đình, vẫn tồn tại không ít những hạn chế, tiêu
cực, đòi hỏi cần những giải pháp phù hợp nhằm xây dựng gia đình Việt Nam no ấm,
tiến bộ, hạnh phúc, văn minh theo tinh thần Nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
Việc nghiên cứu đề tài “Những biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội và các giải pháp để xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay”ý nghĩa luận thực tiễn quan trọng. Đề tài không chỉ góp phần
làm những chuyển biến của gia đình Việt Nam dưới tác động của bối cảnh mới mà còn
gợi mở những giải pháp phù hợp nhằm phát huy vai trò, chức năng của gia đình, đáp ứng
yêu cầu xây dựng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
Chính vì những lý do trên, đây là một chủ đề thích hợp để phân tích.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CU
1. Đối tượng nghiên cứu
Đề bài tập trung nghiên cứu:
- Những biến đổi về cơ cấu, chức năng, quan hệ, chuẩn mực ứng xử… của gia đình
Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, dưới tác động của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và các chính sách xã hội.
- Thực trạng những mặt tích cực, hạn chế trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện
nay.
- Các giải pháp nhằm xây dựng phát triển gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc, văn minh, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
2. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của tiểu luận dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về gia
đình. Phương pháp nghiên cứu của tiểu luận sdụng phương pháp luận biện chứng duy
vật, kết hợp cùng với các phương pháp cần thiết khác, như phương pháp phân tích tài
liệu, đánh giá, tổng hợp, khái quát hóa thông tin tổng hợp,...
III. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Trên phương diện luận, đề tài giúp bổ sung, làm sáng tỏ những vấn đề luận
bản về gia đình, đồng thời cung cấp sở khoa học cho việc xây dựng gia đình Việt
Nam phù hợp với yêu cầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội. Trên phương diện
thực tiễn, đề tài góp phần nhận diện rõ những tác động, nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi
chức năng gia đình phản ánh thực trạng một số vấn đề nổi bật của gia đình Việt Nam
hiện nay, qua đó đề xuất những giải pháp khả thi, phù hợp với quá trình xây dựng phát
triển gia đình trong bối cảnh mới.
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG
I. Khái niệm gia đình
Gia đình một cộng đồng người đặc biệt, vai trò quyết định đến sự tồn tại
phát triển của xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen, khi đề cập đến gia đình đã cho rằng: “Quan
hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời
sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở -
đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”. Cơ sở hình thành gia
đình là hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn nhân (vợ và chồng) và quan hệ huyết thống
(cha mẹ con cái...). Những mối quan hệ này tồn tại trong sự gắn bó, liên kết, ràng buộc
và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người, được quy
định bằng pháp lý hoặc đạo lý.
Quan hệ hôn nhân sở, nền tảng hình thành nên các mối quan hệ khác trong
gia đình, sở pháp cho sự tồn tại của mỗi gia đình. Quan hệ huyết thống là quan
hệ giữa những người ng một dòng máu, nảy sinh từ quan hệ hôn nhân. Đây mối quan
hệ tự nhiên, yếu tố mạnh mẽ nhất gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau. Trong
gia đình tất yếu nảy sinh quan hệ nuôi dưỡng, đó sự quan tâm chăm sóc nuôi dưỡng
giữa các thành viên trong gia đình cả về vật chất tinh thần. vừa trách nhiệm,
nghĩa vụ, vừa là một quyền lợi thiêng liêng giữa các thành viên trong gia đình. Trong xã
hội hiện đại, hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc của gia đình được xã hội quan tâm chia sẻ,
xong không thể thay thế hoàn toàn sự chăm sóc, nuôi dưỡng của gia đình. Quan hệ này
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và biến đổi, phát triển phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế và thể chế chính trị-xã hội.
Như vậy, gia đình một hình thức cộng đồng hội đặc biệt, được hình thành,
duy trì củng cố chủ yếu dựa trên sở hôn nhân, quan hệ huyết thống quan hệ nuôi
dưỡng, cùng với những quy định về quyền nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.
II. Vị trí của gia đình trong xã hội
1. Gia đình là tế bào của xã hội
Gia đình là tế bào của xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì, vận hành
và phát triển xã hội. Theo Ph. Ăngghen, trật tự xã hội trong mỗi thời kỳ và mỗi quốc gia
chịu sự quyết định của hai yếu tố: trình độ phát triển của lao động trình độ phát triển
của gia đình. Gia đình không chđảm nhận chức năng sản xuất của cải vật chất còn
thực hiện vai trò tái sản xuất con người, duy trì nòi giống cung cấp nguồn nhân lực
cho xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Gia đình tốt thì hội mới tốt. Hạt nhân
của xã hội chính là gia đình”. Một gia đình yên ấm, hòa thuận sẽ tạo điều kiện để mỗi
nhân yên tâm lao động, sáng tạo cống hiến cho hội, đồng thời đóng góp tích cực
vào sự ổn định và phát triển chung.
Tuy nhiên, mức độ tác động của gia đình đối với hội còn phụ thuộc vào bản
chất chế độ hội, chính sách của giai cấp cầm quyền cũng như kết cấu hình gia
đình trong từng thời kỳ lịch sử. Trong bối cảnh cách mạng hội chủ nghĩa, xây dựng
những gia đình bình đẳng, hạnh phúc, văn minh chính nhiệm vụ thiết yếu, góp phần
xây dựng xã hội phát triển lành mạnh, bền vững.
2. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống
cá nhân của mỗi thành viên
Gia đình gắn với mỗi nhân suốt cuộc đời, môi trường nuôi dưỡng, chăm
sóc, giúp con người trưởng thành phát triển toàn diện. Sự yên ấm, hạnh phúc của gia
đình là điều kiện quan trọng để hình thành nhân cách, trí lực, thể lực tạo động lực để
mỗi người phấn đấu trở thành công dân tốt cho xã hội.
3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội
Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên, nơi mỗi cá nhân được sinh ra, nuôi dưỡng,
học tập các giá trị đạo đức, nhân cách hình thành các quan hệ hội. Đây môi trường
duy nhất thể hiện tình cảm gắn bó thiêng liêng giữa vợ chồng, cha mẹ – con cái, anh chị
em mà không cộng đồng nào thể thay thế. Mỗi cá nhân vừa thành viên của gia đình,
vừa thành viên của hội; gia đình không chỉ đáp ứng nhu cầu xã hội hóa còn
kênh để xã hội tác động, định hướng lối sống, tư tưởng và hành vi của từng ngưi.
Do đó, bất kỳ chế độ nào, giai cấp cầm quyền đều chú trọng xây dựng gia đình
phù hợp với yêu cầu hội. Trong hội phong kiến, gia đình được tổ chức theo kiểu
gia trưởng, bất bình đẳng nhằm duy trì trật tự bóc lột, phụ nữ bị áp bức nặng nề. Trong
hội chủ nghĩa, gia đình được xây dựng trên nền tảng bình đẳng, hôn nhân tự nguyện
một vợ một chồng, giải phóng phụ nữ, nlời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nếu không giải
phóng phụ nữ xây dựng chủ nghĩa hội chỉ một nửa”. vậy, gia đình hội chủ
nghĩa mang tính chất tiến bộ, nhân văn, góp phần xây dựng con người mới.
III. Chức năng cơ bản của gia đình
1. Chức năng tái sản xuất con người
Chức năng tái sản xuất con người đặc thù của gia đình, không cộng đồng nào
thay thế được. Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tự nhiên duy trì nòi giống
của gia đình, dòng họ mà còn đảm bảo nguồn lực lao động và sự tồn tại của xã hội. Thực
hiện chức năng này vừa là trách nhiệm của gia đình, vừa vấn đề xã hội, ảnh hưởng đến
mật độ dân cư, chất lượng lao động sự phát triển chung. Do đó, y từng bối cảnh
hội, chức năng này có thể được khuyến khích hoặc hạn chế, đồng thời chịu tác động bởi
trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
Bên cạnh chức năng tái sản xuất, gia đình còn có trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo
dục con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng hội. Đây chức năng
thể hiện tình yêu thương, trách nhiệm của cha mẹ, đồng thời trách nhiệm xã hội quan
trọng, góp phần hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi nhân ngay từ khi sinh
ra. Gia đình là môi trường văn hóa, giáo dục đầu tiên, nơi mỗi thành viên vừa là chủ thể
sáng tạo, giáo dục, vừa là người thụ hưởng, chịu tác động giáo dục của người khác.
Chức năng này có ảnh hưởng sâu sắc, lâu dài đến suốt cuộc đời mỗi người, dù
hội còn các cộng đồng khác như ntrường, đoàn thể hỗ trợ, nhưng không thể thay
thế vai trò giáo dục của gia đình. Giáo dục gia đình và giáo dục hội phải gắn kết chặt
chẽ, bổ sung cho nhau để nhân phát triển toàn diện. Do đó, cha mẹ cần kiến thức,
học vấn và phương pháp giáo dục phù hợp để thực hiện tốt trách nhiệm này.
3. Chức năng kinh tế và tổ chức êu dùng
Gia đình, giống như các đơn vị kinh tế khác, tham gia sản xuất và tái sản xuất của
cải vật chất, nhưng đặc thù là còn sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cho hội. Gia
đình đồng thời là đơn vị tiêu dùng, tổ chức sử dụng thu nhập và thời gian hợp lý để đảm
bảo đời sống vật chất, tinh thần và duy trì môi trường văn hóa lành mạnh.
Chức năng kinh tế của gia đình thay đổi tùy theo hình thức gia đình giai đoạn
phát triển xã hội, ảnh hưởng đến quy mô, cách tổ chức và phân phối sản xuất. Thực hiện
tốt chức năng này giúp đảm bảo đời sống các thành viên, nuôi dạy con cái, phát huy tiềm
năng lao động, vốn, tay nghề, đồng thời đóng góp vào của cải và sự phát triển chung của
xã hội.
4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì nh cảm gia đình
Gia đình có chức năng thường xuyên là thỏa mãn nhu cầu tình cảm, tinh thần, văn
hóa của các thành viên, chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em và duy trì sự cân
bằng tâm lý. Gia đình vừa chỗ dựa vật chất vừa nơi nương tựa tinh thần, góp phần
ổn định quan hệ hội. Bên cạnh đó, gia đình còn giữ vai trò lưu giữ, sáng tạo, truyền
thụ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và thực hiện chức năng chính trị, cầu
nối giữa nhà nước với công dân, tổ chức thực hiện và hưởng lợi từ chính sách, pháp luật
của xã hội.
PHẦN 2: THỰC TRẠNG
I. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1. Cơ sở kinh tế - xã hội
Cơ sở kinh tế - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội sự phát triển của lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất mới, hội chủ nghĩa,
trong đó chế độ sở hữu hội về liệu sản xuất từng bước thay thế chế độ sở hữu
nhân. Việc xóa bỏ chế độ tư hữu liệu sản xuất đã xóa bỏ nguồn gốc áp bức, bóc lột, bất
bình đẳng trong hội gia đình, chấm dứt sự thống trị kinh tế của đàn ông, tạo điều
kiện giải phóng phụ nữ và thiết lập quan hệ bình đẳng trong gia đình.
Theo V.I. Lênin, thủ tiêu chế độ tư hữu về ruộng đất, nhà máy, công xưởng là con
đường duy nhất để giải phóng phụ nữ, chấm dứt “chế độ nô lệ gia đình” và thay thế nền
kinh tế gia đình cá thể bằng nền kinh tế xã hội hóa. Khi tư liệu sản xuất trở thành tài sản
chung, gia đình thể không còn đơn vị kinh tế bản của hội, lao động gia đình
trở thành lao động hội hóa, được hội công nhận đánh giá đúng. Lao động của
phụ nữ, ngoài hội hay trong gia đình, đều góp phần vào sự phát triển chung. Đồng
thời, hôn nhân trthành sự lựa chọn tự nguyện dựa trên tình yêu, chkhông còn bị chi
phối bởi kinh tế hay địa vị xã hội.
2. Cơ sở chính trị xã hội
Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội là
sự thiết lập chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động — nhà nước hội
chủ nghĩa. Đây là lần đầu tiên nhân dân lao động thực hiện quyền lực không phân biệt
nam nữ, xóa bỏ luật lệ cũ lạc hậu, giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Như
V.I. Lênin khẳng định, chính quyền viết chính quyền duy nhất thủ tiêu hoàn toàn
các đặc quyền của đàn ông, xóa bỏ bất bình đẳng giới vốn gắn với chế độ tư hữu.
Nhà nước hội chủ nghĩa thể hiện vai trò trong việc xây dựng gia đình qua hệ
thống pháp luật chính sách hội, tiêu biểu Luật Hôn nhân Gia đình, cùng các
chính sách về bình đẳng giới, dân số, việc làm, y tế, bảo hiểm xã hội… Những chính sách
này vừa định hướng vừa thúc đẩy hình thành gia đình mới phù hợp thời kỳ quá độ. Tuy
nhiên, đâu hệ thống pháp luật chính sách chưa hoàn thiện, việc xây dựng gia đình
và đảm bảo hạnh phúc gia đình vẫn còn nhiều hạn chế.
3. Cơ sở văn hóa
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với những biến đổi chính trị và
kinh tế, đời sống văn hóa – tinh thần cũng thay đổi sâu sắc. Nền tảng văn hóa mới, dựa
trên hệ tư tưởng giai cấp công nhân, dần hình thành, chi phối xã hội, đồng thời loại bỏ
dần những phong tục, tập quán lạc hậu của xã hội cũ.
Sự phát triển giáo dục, khoa học, công nghệ nâng cao dân trí cung cấp cho gia
đình nhận thức, kiến thức mới, hình thành giá trị và chuẩn mực mới, điều chỉnh quan hệ
gia đình theo hướng tiến bộ, phù hợp hội chủ nghĩa. Nếu thiếu sở văn a, hoặc
tách rời cơ sở kinh tế – chính trị, việc xây dựng gia đình sẽ dễ lệch lạc và kém hiệu quả.
4. Chế độ hôn nhân ến bộ
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, hôn nhân tiến bộ được xây dựng trên
cơ sở tình yêu tự nguyện giữa nam và nữ, đảm bảo quyền tự do lựa chọn kết hôn, không
chấp nhận ép buộc, đồng thời tôn trọng vai trò định hướng của gia đình. Hôn nhân tự
nguyện còn bao hàm quyền tự do ly hôn khi tình yêu không còn, nhưng cần hạn chế lạm
dụng quyền này vì hậu quả tiêu cực cho gia đình và xã hội.
Hôn nhân tiến bộ đồng thời khẳng định chế độ một vợ một chồng, bình đẳng giữa
vợ chồng, tôn trọng quyền nghĩa vụ ngang nhau của cả hai về mọi mặt đời sống gia
đình, từ nghề nghiệp, học tập đến nuôi dạy con cái. Quan hệ vợ chồng bình đẳng nền
tảng cho quan hệ bình đẳng giữa cha mẹ – con cái và giữa anh chị em trong gia đình, góp
phần xây dựng gia đình hạnh phúc, hài hòa.
Cuối cùng, hôn nhân cần được đảm bảo về mặt pháp lý, thông qua thủ tục đăng
kết hôn, nhằm thể hiện trách nhiệm của nhân với gia đình xã hội, đồng thời ngăn
chặn việc lợi dụng quyền tự do kết hôn, ly hôn vì mục đích không chính đáng. Việc pháp
hóa hôn nhân không xóa bỏ quyền tự do kết hôn, đảm bảo quyền này được thực
hiện chính đáng, có trách nhiệm.
II. Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
a. Biến đổi quy mô, kết cấu của gia đình
Gia đình Việt Nam hiện nay được coi “gia đình quá độ”, chuyển từ hình
truyền thống sang hiện đại, với xu hướng phổ biến là gia đình hạt nhân thay thế gia đình
nhiều thế hệ. Quy mô gia đình thu nhỏ, chỉ còn 1–2 thế hệ cùng sống, số con ít hơn, phù
hợp với nhu cầu điều kiện hội công nghiệp, đồng thời đề cao bình đẳng giới, tôn
trọng đời sống riêng tư và giảm mâu thuẫn gia đình.
Biến đổi này tác động tích cực, giúp gia đình hội thích nghi với thời đại
mới. Tuy nhiên, cũng gây ra những hệ quả tiêu cực như giảm gắn tình cảm, phai
nhạt giá trị văn hóa truyền thống, các thành viên ít quan m giao tiếp với nhau hơn,
mối quan hệ gia đình trở nên lỏng lẻo do áp lực công việc và mưu sinh.
b. Biến đổi các chức năng của gia đình
Chức năng tái sản xuất ra con người của gia đình hiện nay đã có nhiều thay đổi so
với trước đây. Nhờ thành tựu y học chính sách dân số, việc sinh con trở nên chủ động,
tự giác hơn, chịu sự điều chỉnh bởi nhu cầu xã hội. Từ thập niên 1970–1980, Việt Nam
đã thực hiện kế hoạch hóa gia đình, khuyến khích mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh 1–2 con.
Đến nay, trước tình trạng già hóa dân số, thông điệp mới khuyến khích sinh đủ hai con.
Trong gia đình truyền thống, quan niệm “càng đông con càng tốt” và “phải con
trai” rất phổ biến, nhưng ngày nay đã thay đổi: mức sinh giảm, ít coi trọng chuyện sinh
con trai. Hôn nhân hiện đại coi trọng các yếu tố tâm lý, tình cảm, kinh tế hơn chuyện
có hay không có con, hay có con trai hay không như trước kia.
c. Biến đổi chứng năng kinh tế và tổ chức êu dùng
Kinh tế gia đình Việt Nam đã trải qua hai bước chuyển lớn: từ kinh tế tự cấp tự túc
sang kinh tế hàng hóa phục vụ hội, từ phục vụ thị trường quốc gia sang tham gia
nền kinh tế thị trường toàn cầu. Hiện nay, kinh tế gia đình là bộ phận quan trọng của nền
kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập cạnh tranh toàn cầu, kinh tế gia đình còn
gặp khó khăn do quy mô nhỏ, lao động ít, chủ yếu tự sản xuất, khó chuyển sang sản xuất
chuyên sâu. Dù vậy, sự phát triển của kinh tế hàng hóa thu nhập tăng giúp gia đình trở
thành đơn vị tiêu dùng lớn, ngày càng sử dụng nhiều hàng hóa và dịch vụ xã
hội.
d. Biến đổi chức năng giáo dục (xã hội hóa)
Trong hội truyền thống, giáo dục gia đình nền tảng của giáo dục hội,
nhưng hiện nay giáo dục hội lại chi phối định hướng giáo dục gia đình, cả hai
vẫn chung mục tiêu đề cao sự hy sinh vì cộng đồng. Gia đình ngày nay đầu tư nhiều hơn
cho giáo dục con cái, không chỉ chú trọng đạo đức, ứng xử truyền thống mà còn trang bị
kiến thức hiện đại để hòa nhập quốc tế.
Tuy nhiên, vai trò giáo dục của gia đình giảm dần do hệ thống giáo dục hội phát
triển áp lực kinh tế, trong khi niềm tin của cha mẹ vào nhà trường lại giảm do nhiều
hiện tượng tiêu cực. Mâu thuẫn này chưa có lời giải hiệu quả, khiến chức năng giáo dục,
hội hóa của gia đình bị suy yếu. Các vấn đề như trẻ em hỏng, bỏ học, nghiện ma
túy, mại dâm… phản ánh sự bất lực của cả xã hội lẫn gia đình trong việc chăm sóc, giáo
dục thế hệ trẻ.
e. Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì nh cảm
Trong xã hội hiện đại, độ bền vững của gia đình không chỉ dựa vào nghĩa vụ, trách
nhiệm giữa các thành viên mà còn phụ thuộc nhiều vào tình cảm hòa hợp, hạnh phúc
nhân và tự do chính đáng của mỗi người. Gia đình dần chuyển từ đơn vị kinh tế sang đơn
vị tình cảm, khiến nhu cầu tâm –tình cảm gia tăng, đặc biệt quan trọng với trẻ em
người cao tuổi. Tuy nhiên, tỷ lệ gia đình ít con, thậm chí chỉ có một con, khiến đời sống
tình cảm của cả trẻ em lẫn người lớn có nguy cơ thiếu hụt, lạnh nhạt.
Công nghiệp a toàn cầu hóa làm gia tăng phân hóa giàu–nghèo: một số gia
đình trở nên giàu có, nhưng đa số lao động nghèo mất đất, không ch lũy được tài sản.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ hộ nghèo, thu hẹp khoảng cách. Đồng thời, cần thay
đổi quan niệm truyền thống thiên vị con trai, xây dựng bình đẳng giới trong chăm sóc
cha mẹ, thờ cúng tổ tiên.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản, củng cố vai trò
hội hóa của gia đình, đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục gia đình để cha mẹ định
hướng tốt hơn cho con cái. Ngoài ra, cần giải quyết các mâu thuẫn giữa tự do, tiến bộ của
phụ nữ với trách nhiệm truyền thống, giữa cha mẹ và con cái, giữa các thế hệ… để hình
thành những chuẩn mực mới, hài hòa lợi ích gia đình và xã hội.
f. Sự biến đổi quan hệ gia đình
Trong bối cảnh chế thị trường, công nghệ hiện đại toàn cầu hóa, hôn nhân
và gia đình Việt Nam đang trải qua nhiều biến đổi sâu sắc, phải đối mặt với những thách
thức lớn. Quan hệ vợ chồng – gia đình trở nên lỏng lẻo, tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình,
sống thử, sinh con ngoài giá thú gia tăng, kèm theo đó nhiều bi kịch như bạo lực gia
đình, xâm hại tình dục, trẻ em ích kỷ, người gđơn. Các giá trị truyền thống dần bị
coi nhẹ, mô hình gia đình truyền thống bị phá vỡ, thay thế bằng nhiều hình thức mới như
hộ đơn thân, độc thân, kết hôn đồng tính… Trong quan niệm hiện đại, không còn duy
nhất mô hình đàn ông làm chủ gia đình, mà xuất hiện thêm mô hình phụ nữ làm chủ hoặc
cả hai vợ chồng cùng chia sẻ quyền chủ động, với tiêu chí gắn liền năng lực, đóng góp
kinh tế và uy tín trong gia đình.
Bên cạnh đó, quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình cũng biến đổi mạnh mẽ.
Trẻ em ít được ông bà, cha mẹ trực tiếp dạy dỗ như trước mà chủ yếu trông chờ vào nhà
trường, còn người cao tuổi thiếu sự chăm sóc, trở nênđơn, thiếu thốn tình cảm. Mâu
thuẫn thế hệ gia tăng, khi người già thiên về giá trị truyền thống, xu hướng bảo thủ,
áp đặt, trong khi người trẻ lại hướng tới lối sống hiện đại, dễ phủ nhận truyền thống. Gia
đình nhiều thế hệ cùng chung sống thường dễ xảy ra xung đột. Ngoài ra, những hiện
ợng tiêu cực như bạo lực gia đình, ly hôn, ngoại tình, sống thử, trẻ em lang thang,
nghiện hút, buôn bán người… cũng ngày càng phổ biến, đe dọa sự ổn định, bền vững của
gia đình, khiến gia đình Việt Nam ngày nay trở nên mong manh, dễ tan vỡ hơn.
I. Những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân mà Việt Nam có trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội về vấn đề xây dựng gia đình
1. Thành tựu
Sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đạt nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế – xã
hội, góp phần nâng cao đời sống các gia đình. GDP bình quân đầu người tăng 2,7 lần, đạt
2.700 USD năm 2019; hơn 45 triệu người thoát nghèo, tỷ lệ nghèo giảm từ hơn 70%
xuống dưới 6%. Kinh tế hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc dân,
phong trào “Gia đình văn hóa” phát triển mạnh mẽ, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc.
Hệ thống chính sách về gia đình ngày càng hoàn thiện, hỗ trợ tốt cho các hộ nghèo,
gia đình có công và vùng khó khăn. Các giá trị như bình đẳng giới, quyền trẻ em, vai trò
phụ nữ ngày càng được đề cao. Ngày 28/6 được chọn làm Ngày Gia đình Việt Nam thể
hiện sự quan tâm của xã hội đối với gia đình.
Cùng với gia tăng dân số là quá trình hạt nhân hóa gia đình, với số hộ tăng từ 12,9
triệu năm 1989 lên 26,87 triệu năm 2019, gấp 2,07 lần. c loại nh gia đình mới như
đơn thân, sống chung không kết hôn xuất hiện ngày càng nhiều. Tuổi kết hôn trung bình
cũng tăng: năm 2019, nam kết hôn trung bình tuổi 27,2 nữ 23,1, cho thấy xu hướng
kết hôn muộn ngày càng rõ rệt.
Những thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực y học, đã góp
phần quan trọng vào công tác gia đình Việt Nam. Nhiều tiến bộ y học đạt được trong
những năm qua giúp nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe, kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ
tử vong mẹ và trẻ em. Đồng thời, công nghệ hỗ trợ sinh sản đã mang lại hy vọng và hạnh
phúc cho nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn, góp phần xây dựng gia đình bền vững và hạnh
phúc.
2. Hạn chế
Sau nhiều năm triển khai, công tác xây dựng gia đình ở một số nơi vẫn mang tính
hình thức, thiếu hiệu quả bền vững. Nhiều chỉ tiêu chưa thực sự đạt nhu cầu thực tế,
đặc biệt trong bối cảnh đô thị hóa và phát triển công nghiệp nơi cơ cấu sản xuất thay đổi
nhanh chóng.
Vấn nạn tiêu cực trong gia đình như bạo lực gia đình (đặc biệt của chồng đối với
vợ), hôn nhân cận huyết thống, tảo hôn, ly hôn tăng cao, chung sống không đăng ký vẫn
tồn tại đáng lo ngại. Hthống hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình còn lỏng lẻo, can thiệp
thiếu đồng bộ và không kịp thời.
Công tác quản nhà nước triển khai chính sách về gia đình còn yếu, đặc biệt
vùng sâu, vùng xa. Việc thực thi luật như Luật Hôn nhân Gia đình, Luật Bình đẳng
giới còn dừng tuyên truyền, chưa kết quhành động ràng. Hệ thống dịch vụ hỗ
trợ, tư vấn, các đội ngũ cán bộ chuyên trách còn thiếu, năng lực yếu, chưa đáp ứng được
nhu cầu thực tế.
Gia đình hiện nay đối mặt với nhiều thách thức hội như gia đình hạt nhân, gia
tăng di cư, khiến mối liên kết giữa các thế hệ bị giảm; phụ nữ gánh chịu áp lực kép, vẫn
chưa thật sự bình đẳng; trẻ em và người cao tuổi thiếu sự chăm sóc đầy đủ khi các thành
viên đi làm xa.
Ngoài ra, sự phân ly gia đình do di cư nội – ngoại tỉnh lan rộng, cha mẹ thiếu thời
gian chăm sóc con, người cao tuổi sống cô lập, thậm chí đối mặt với bạo lực về thể chất,
tinh thần và kinh tế từ chính con cháu.
3. Nguyên nhân
Một là, chính sách an sinh hội hướng theo nhân còn hạn chế, chưa tiếp
cận theo hộ gia đình một cách toàn diện. Mặc dù nhiều chính sách dành cho các nhóm
như hộ nghèo hoặc gia đình công, phần lớn chương trình an sinh hướng tới từng
nhân chứ không gắn kết năng lực hỗ trợ theo gia đình. Do vậy, hiệu quả sử dụng nguồn
lực chưa cao, tính bền vững của các chính sách chưa đạt yêu cầu.
Hai là, các thiết chế an sinh truyền thống suy giảm, nhưng các thiết chế hiện đại
chưa được hoàn thiện. Mạng lưới htrợ hội tại cộng đồng gia đình bị yếu, thiếu
đồng bộ chưa đủ sở hành lang pháp lý, dẫn đến khả năng can thiệp khi gia đình gặp
khó khăn bị hạn chế.
Ba là, mâu thuẫn gia đình gia tăng, xuất phát từ xu hướng đề cao cá nhân và sự
xung đột thế hệ. Giá trị truyền thống bị mai một, “cái tôi” nhân lên ngôi thiếu sự
giáo dục điều độ, dẫn đến bạo lực gia đình, ly hôn, hôn nhân không đăng ký… Tỷ lệ ly
hôn tăng từ 1,3% (1989) lên 2,3% (2016), hiện khoảng 2,6% dân số (2024), cho thấy xu
hướng mối liên kết gia đình yếu dần.
Bốn là, giáo dục gia đình thiếu sự đồng bộ thông tin hướng dẫn còn yếu,
đặc biệt với giới trẻ. Nhiều vấn đề như thiếu hiểu biết về pháp luật hôn nhân, giao tiếp
gia đình, kỹ năng nuôi dạy con…, khiến mish hiểu và xung đột gia đình tăng.
Năm là, tác động tiêu cực từ văn hóa hiện đại công nghệ số. Các mối liên
kết truyền thống bị suy yếu, thời gian dành cho gia đình giảm, sự lập, sống đơn độc
hoặc gia đình đơn thân, sống chung không đăng kết hôn ngày càng phổ biến. Điều này
làm suy giảm tính kết nối giữa các thành viên trong gia đình.
PHẦN 3: GIẢI PHÁP
I. Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của hội về
xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam
Đẩy mạnh tuyên truyền để các cấp, ngành nhận thức rõ vai trò quan trọng của gia
đình trong phát triển bền vững đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng
thời, đưa mục tiêu xây dựng, phát triển gia đình vào chiến lược, kế hoạch kinh tế - xã hội
hằng năm của các bộ, ngành, địa phương.
Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế
hộ gia đình
Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội nhằm
ổn định nâng cao kinh tế hộ gia đình, đặc biệt ưu tiên hỗ trợ cho các gia đình chính
sách, dân tộc thiểu số, hộ nghèo, vùng sâu vùng xa. Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ
kịp thời cho các hộ sản xuất kinh doanh, phát triển sản phẩm mới, sản phẩm địa phương
và tham gia xuất khẩu. Ngoài ra, cần tạo điều kiện thuận lợi cho hộ gia đình vay vốn để
giảm nghèo, chuyển đổi cơ cấu sản xuất và phát triển kinh tế trang trại.
Thứ ba, kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống đồng thời tiếp thu những
tiến bộ của nhân loại về gia đình trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay
Gia đình truyền thống Việt Nam cả mặt tích cực lẫn hạn chế trong bối cảnh hiện
đại. vậy, Nhà nước các quan liên quan cần giữ gìn, phát huy giá trị tốt đẹp
khắc phục những hủ tục cũ. Việc xây dựng gia đình hiện nay cần hướng đến mô hình hiện
đại, phù hợp với công nghiệp a, hiện đại hóa hội nhập quốc tế, đồng thời kết hợp
hài hòa giữa truyền thống và tiến bộ để gia đình trở thành tế bào lành mạnh của xã hội và
tổ ấm của mỗi người.
Thứ tư, tiếp tục phát triển nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình
văn hóa
Gia đình văn hóa là mô hình gia đình tiến bộ, hướng đến sự ấm no, hòa thuận, tiến
bộ và hạnh phúc, được nhiều gia đình Việt Nam phấn đấu đạt được. Phong trào xây dựng
gia đình văn hóa bắt đầu từ thập niên 1960 tại Hưng Yên và đã lan rộng trên toàn quốc,
góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống giữ gìn các giá trị đạo đức truyền thống.
Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tiếp tục phát triển hình này theo
hướng thực chất, tránh chạy theo thành tích, với tiêu chí phù hợp, minh bạch, công bằng
và gắn với đời sống thực tế của người dân.
II. Liên hệ với bản thân
một sinh viên đang học tập trong thời kỳ đất nước bước vào giai đoạn quá độ
lên chủ nghĩa hội, em nhận thức vai trò trung tâm nền tảng của gia đình trong
quá trình phát triển toàn diện con người và xã hội. Gia đình không chỉ là nơi sinh thành,
nuôi dưỡng mà còn là môi trường giáo dục đầu tiên, đặt nền móng cho nhân cách, tư duy
và lý tưởng sống của mỗi cá nhân. Trong bối cảnh xã hội đang có nhiều biến đổi sâu sắc
về kinh tế, công nghệ và văn hóa, những giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam như
lòng hiếu thảo, sự thủy chung, yêu thương, đùm bọc… vẫn cần được gìn giữ, phát huy
và thích nghi với những yêu cầu mới của thời đại.
Từ góc độ cá nhân, em hiểu rằng, với tư cách là một người trẻ đang trong quá trình
hoàn thiện bản thân, mỗi hành động, mỗi suy nghĩ của em đều có thể tác động trở lại gia
đình và hội. Việc nghiêm túc học tập, rèn luyện đạo đức, giữ gìn lối sống lành mạnh,
tiết kiệm, trách nhiệm không chỉ là để phục vụ mục tiêu cá nhân mà còn là cách thể hiện
sự tri ân đóng góp thiết thực vào sự ổn định, phát triển của gia đình mình. Trong thời
kỳ hiện đại, hình gia đình đang dần thay đổi theo hướng thu nhỏ, đa dạng hơn (như
gia đình hạt nhân, gia đình đơn thân…), đòi hỏi mỗi thành viên, đặc biệt thế hệ trẻ,
phải chủ động thích nghi, linh hoạt nhưng vẫn giữ được những chuẩn mực đạo đức căn
bản.
Đặc biệt, sinh viên, em điều kiện tiếp cận nhiều kiến thức mới, các nền văn
hóa khác nhau qua môi trường học đường mạng hội.vậy, em càng cần bản
lĩnh, biết chọn lọc thông tin, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không chạy theo lối sống
thực dụng hay cá nhân chủ nghĩa. Em cũng nhận thấy mình cần phải quan m nhiều hơn
đến các vấn đề hội như bình đẳng giới, vai trò của phụ nữ, bảo vệ trẻ em, người cao
tuổi trong gia đình – đó chính là cách để em thể hiện trách nhiệm công dân và xây dựng
ý thức xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn cuộc sống hằng ngày.
Cuối cùng, em tin rằng sự phát triển bền vững của mỗi gia đình chính là nền tảng
vững chắc để xây dựng một hội tiến bộ, văn minh, công bằng đúng theo tưởng
của chủ nghĩa xã hội mà đất nước ta đang hướng tới.
KẾT LUẬN
Những biến đổi trong cấu trúc chức năng của gia đình Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, phản ánh những chuyển động lớn
của xã hội dưới tác động của đổi mới, phát triển kinh tế hội nhập toàn cầu. Bên cạnh
những mặt tích cực như sự chủ động trong tổ chức cuộc sống, vai trò ngày càng được
khẳng định của phụ nữ, khả năng thích ứng linh hoạt của thế hệ trẻ, vẫn còn tồn tại
nhiều vấn đề đáng lo ngại như sự suy giảm các giá trị đạo đức truyền thống, tình trạng ly
hôn gia tăng, thiếu sự gắn kết giữa các thế hệ, và những ảnh hưởng tiêu cực của mặt trái
công nghệ lên đời sống gia đình.
Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng gia đình Việt Nam cần phải được đặt trong
tổng thể chiến lược phát triển bền vững đất ớc, gắn với mục tiêu phát triển con người
toàn diện. Muốn làm được điều đó, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật chính
sách liên quan đến gia đình, tăng cường tuyên truyền, giáo dục đạo đức, kỹ năng sống,
giá trị sống cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt thanh thiếu niên. Đồng thời, mỗi
nhân cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mình trong việc y dựng tổ ấm hạnh
phúc, tôn trọng các giá trị văn hóa dân tộc thích ứng với những chuẩn mực mới của xã
hội hiện đại.
Gia đình không chỉ là nơi sinh sống, mà còn là nơi bắt đầu mọi hành trình trưởng
thành, cống hiến phát triển của mỗi con người. thế, việc bảo tồn những giá trị truyền
thống qu, đồng thời tiếp thu chọn lọc những yếu tố mới, tiến bộ từ hội hiện
đại sẽ giúp gia đình Việt Nam thực sự trở thành bệ đỡ vững chắc cho một hội văn
minh, nhân ái và phát triển bền vững trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí Cộng sản. (n.d). Xây dựng gia đình Việt Nam: Những thành tựu nổi bật,
vấn đề đặt ra và giải pháp chính sách. Truy cập ngày 22/07/2025, từ
https://www.tapchicongsan.org.vn/van_hoa_xa_hoi/-/2018/825283/xay-dunggia-
dinh-viet-nam--nhung-thanh-tuu-noi-bat%2C-van-de-dat-ra-va-giai-phapchinh-
sach.aspx
2. Tạp chí Phụ nữ Việt Nam. (n.d). Thách thức đối với việc xây dựng gia đình Việt
Nam tiến bộ. Truy cập ngày 22/07/2025, từ https://phunuvietnam.vn/thachthuc-
doi-voi-viec-xay-dung-gia-dinh-viet-nam-tien-bo-
20221129120053952.htm
3. Bộ Văn hóa, Thông tin và Du lịch. (n.d). Những hạn chế trong công tcas xây
dựng gia đình (Đánh giá trong công việc thực iện Chỉ thị số 49-CT/TW). Truy
cập ngày 22/07/2025, từ https://giadinh.bvhttdl.gov.vn/nhung-han-che-
trongcong-tac-xay-dung-gia-dinh-danh-gia-trong-viec-thuc-hien-chi-thi-so-49-
ct-tw
4. Hệ thống tư liệu - văn kiện Đảng. (n.d). Quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen
về gia đình trong mối quan hệ với sự phát triển kinh tế - xã hội. Truy cập ngày
22/07/2025, từ https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-
hochi-minh/c-mac/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/quan-niem-cua-c-mac-va-
phangghen-ve-gia-dinh-trong-moi-quan-he-voi-su-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-
3191
5. Báo Phụ nữ Thủ đô. (n.d). Thiết chế gia đình Việt đang “lung lay”. Truy cập
ngày 22/07/2025, từ https://baophunuthudo.vn/hon-nhan-gia-dinh/thiet-che-
giadinh-viet-dang-lung-lay-7686.html
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (n.d). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2018.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58737056 HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học
ĐỀ TÀI: Những biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và các giải pháp để xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Giảng viên hướng dẫn
: Ths Lê Minh Chi Họ và tên
: Lương Thị Anh Thư Lớp
: HOCLAI 24 MSV : 25A4011796 Hà Nội, 2025 HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học
ĐỀ TÀI: Những biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và các giải pháp để xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Giảng viên hướng dẫn : Ths Lê Minh Chi Họ và tên
: Lương Thị Anh Thư Lớp : HOCLAI24 MSV : 25A4011796 Hà Nội, 2025 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................................5
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU.....................................................................................................6 I.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.............................................................................................6 II.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...............................................6
1. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................6
2. Phương pháp nghiên cứu................................................................................7 III.
Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.................................................7
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG.................................................................................................8
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG..........................................................................................8 I. Khái niệm gia
đình
...........................................................................................8 II.
Vị trí của gia đình trong xã hội.....................................................................8
1. Gia đình là tế bào của xã hội........................................................................8
2. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời
sống cá nhân của mỗi thành viên.......................................................................9
3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội.................................................9 III.
Chức năng cơ bản của gia đình..................................................................10
1. Chức năng tái sản xuất con người.............................................................10
2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục...............................................................10
3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng....................................................10
4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình........11
PHẦN 2: THỰC TRẠNG.............................................................................................11 I.
Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.............11
1. Cơ sở kinh tế - xã hội..................................................................................11
2. Cơ sở chính trị xã hội.................................................................................11
3. Cơ sở văn hóa.............................................................................................12
4. Chế độ hôn nhân tiến bộ............................................................................12
II. Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội....13
1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
………………………………..13
a. Biến đổi quy mô, kết cấu của gia đình....................................................13
b. Biến đổi các chức năng của gia đình.......................................................13
c. Biến đổi chứng năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng.................................13
d. Biến đổi chức năng giáo dục (xã hội hóa)...............................................14
e. Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm.....14 f.
Sự biến đổi quan hệ gia đình..................................................................14 I.
Những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân mà Việt Nam có trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội về vấn đề xây dựng gia đình..........................................15
1. Thành tựu...................................................................................................15
2. Hạn chế.......................................................................................................16
3. Nguyên nhân..............................................................................................16
PHẦN 3: GIẢI PHÁP..................................................................................................17 I.
Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
.........................................................................17 II.
Liên hệ với bản thân...................................................................................18
KẾT LUẬN.....................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................21 LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình từ lâu đã được coi là tế bào nền tảng của xã hội, nơi nuôi dưỡng, hình
thành nhân cách và đạo đức của mỗi con người. Trong truyền thống văn hóa Việt Nam,
gia đình không chỉ là nơi gắn bó về huyết thống mà còn là không gian lưu giữ, truyền dạy
các giá trị đạo đức, lối sống và bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, cùng với sự vận động mạnh
mẽ của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mô hình gia đình
Việt Nam đã và đang trải qua nhiều biến đổi sâu sắc. Những thay đổi này chịu tác động
từ nhiều yếu tố như quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, sự phát triển của khoa học –
công nghệ, toàn cầu hóa, cũng như các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Gia đình truyền thống với nhiều giá trị tốt đẹp như tinh thần hiếu thảo, sự gắn bó
giữa các thế hệ, vai trò của người lớn tuổi... ngày nay đang đứng trước nguy cơ mai một
hoặc biến dạng trong một số trường hợp. Trong bối cảnh ấy, việc nhìn nhận đúng đắn về
những biến đổi của gia đình, xác định các nguyên nhân dẫn đến hạn chế, từ đó đề xuất
các giải pháp xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam phù hợp với thời kỳ mới là một
nhiệm vụ quan trọng, không chỉ đối với các nhà hoạch định chính sách mà còn đối với
mỗi người dân, nhất là thế hệ trẻ – những người sẽ xây dựng gia đình của chính mình trong tương lai.
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU I.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Gia đình là tế bào của xã hội, giữ vai trò nền tảng trong việc hình thành, duy trì và
phát triển các giá trị văn hoá, đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới tác động mạnh mẽ của công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và những biến đổi về kinh tế, xã hội, gia đình Việt Nam đã
và đang có nhiều thay đổi sâu sắc về cơ cấu, chức năng, quan hệ giữa các thành viên và
những chuẩn mực ứng xử. Bên cạnh những biến đổi tích cực góp phần nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của các thành viên gia đình, vẫn tồn tại không ít những hạn chế, tiêu
cực, đòi hỏi cần có những giải pháp phù hợp nhằm xây dựng gia đình Việt Nam no ấm,
tiến bộ, hạnh phúc, văn minh theo tinh thần Nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
Việc nghiên cứu đề tài “Những biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội và các giải pháp để xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay”
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Đề tài không chỉ góp phần
làm rõ những chuyển biến của gia đình Việt Nam dưới tác động của bối cảnh mới mà còn
gợi mở những giải pháp phù hợp nhằm phát huy vai trò, chức năng của gia đình, đáp ứng
yêu cầu xây dựng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
Chính vì những lý do trên, đây là một chủ đề thích hợp để phân tích. II.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Đề bài tập trung nghiên cứu:
- Những biến đổi về cơ cấu, chức năng, quan hệ, chuẩn mực ứng xử… của gia đình
Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới tác động của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và các chính sách xã hội.
- Thực trạng những mặt tích cực, hạn chế trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
- Các giải pháp nhằm xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc, văn minh, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của tiểu luận dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về gia
đình. Phương pháp nghiên cứu của tiểu luận sử dụng phương pháp luận biện chứng duy
vật, kết hợp cùng với các phương pháp cần thiết khác, như phương pháp phân tích tài
liệu, đánh giá, tổng hợp, khái quát hóa thông tin tổng hợp,... III.
Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Trên phương diện lý luận, đề tài giúp bổ sung, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
cơ bản về gia đình, đồng thời cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng gia đình Việt
Nam phù hợp với yêu cầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên phương diện
thực tiễn, đề tài góp phần nhận diện rõ những tác động, nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi
chức năng gia đình và phản ánh thực trạng một số vấn đề nổi bật của gia đình Việt Nam
hiện nay, qua đó đề xuất những giải pháp khả thi, phù hợp với quá trình xây dựng và phát
triển gia đình trong bối cảnh mới. CHƯƠNG 2: NỘI DUNG
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG I.
Khái niệm gia đình
Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trò quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen, khi đề cập đến gia đình đã cho rằng: “Quan
hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời
sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở -
đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”. Cơ sở hình thành gia
đình là hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn nhân (vợ và chồng) và quan hệ huyết thống
(cha mẹ và con cái...). Những mối quan hệ này tồn tại trong sự gắn bó, liên kết, ràng buộc
và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người, được quy
định bằng pháp lý hoặc đạo lý.
Quan hệ hôn nhân là cơ sở, nền tảng hình thành nên các mối quan hệ khác trong
gia đình, là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của mỗi gia đình. Quan hệ huyết thống là quan
hệ giữa những người cùng một dòng máu, nảy sinh từ quan hệ hôn nhân. Đây là mối quan
hệ tự nhiên, là yếu tố mạnh mẽ nhất gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau. Trong
gia đình tất yếu nảy sinh quan hệ nuôi dưỡng, đó là sự quan tâm chăm sóc nuôi dưỡng
giữa các thành viên trong gia đình cả về vật chất và tinh thần. Nó vừa là trách nhiệm,
nghĩa vụ, vừa là một quyền lợi thiêng liêng giữa các thành viên trong gia đình. Trong xã
hội hiện đại, hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc của gia đình được xã hội quan tâm chia sẻ,
xong không thể thay thế hoàn toàn sự chăm sóc, nuôi dưỡng của gia đình. Quan hệ này
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và biến đổi, phát triển phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế và thể chế chính trị-xã hội.
Như vậy, gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành,
duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi
dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.
II.
Vị trí của gia đình trong xã hội
1. Gia đình là tế bào của xã hội
Gia đình là tế bào của xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì, vận hành
và phát triển xã hội. Theo Ph. Ăngghen, trật tự xã hội trong mỗi thời kỳ và mỗi quốc gia
chịu sự quyết định của hai yếu tố: trình độ phát triển của lao động và trình độ phát triển
của gia đình. Gia đình không chỉ đảm nhận chức năng sản xuất của cải vật chất mà còn
thực hiện vai trò tái sản xuất con người, duy trì nòi giống và cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân
của xã hội chính là gia đình”. Một gia đình yên ấm, hòa thuận sẽ tạo điều kiện để mỗi cá
nhân yên tâm lao động, sáng tạo và cống hiến cho xã hội, đồng thời đóng góp tích cực
vào sự ổn định và phát triển chung.
Tuy nhiên, mức độ tác động của gia đình đối với xã hội còn phụ thuộc vào bản
chất chế độ xã hội, chính sách của giai cấp cầm quyền cũng như kết cấu và mô hình gia
đình trong từng thời kỳ lịch sử. Trong bối cảnh cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
những gia đình bình đẳng, hạnh phúc, văn minh chính là nhiệm vụ thiết yếu, góp phần
xây dựng xã hội phát triển lành mạnh, bền vững.
2. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống
cá nhân của mỗi thành viên
Gia đình gắn bó với mỗi cá nhân suốt cuộc đời, là môi trường nuôi dưỡng, chăm
sóc, giúp con người trưởng thành và phát triển toàn diện. Sự yên ấm, hạnh phúc của gia
đình là điều kiện quan trọng để hình thành nhân cách, trí lực, thể lực và tạo động lực để
mỗi người phấn đấu trở thành công dân tốt cho xã hội.
3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội
Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên, nơi mỗi cá nhân được sinh ra, nuôi dưỡng,
học tập các giá trị đạo đức, nhân cách và hình thành các quan hệ xã hội. Đây là môi trường
duy nhất thể hiện tình cảm gắn bó thiêng liêng giữa vợ chồng, cha mẹ – con cái, anh chị
em mà không cộng đồng nào có thể thay thế. Mỗi cá nhân vừa là thành viên của gia đình,
vừa là thành viên của xã hội; gia đình không chỉ đáp ứng nhu cầu xã hội hóa mà còn là
kênh để xã hội tác động, định hướng lối sống, tư tưởng và hành vi của từng người.
Do đó, ở bất kỳ chế độ nào, giai cấp cầm quyền đều chú trọng xây dựng gia đình
phù hợp với yêu cầu xã hội. Trong xã hội phong kiến, gia đình được tổ chức theo kiểu
gia trưởng, bất bình đẳng nhằm duy trì trật tự bóc lột, phụ nữ bị áp bức nặng nề. Trong
xã hội chủ nghĩa, gia đình được xây dựng trên nền tảng bình đẳng, hôn nhân tự nguyện
một vợ một chồng, giải phóng phụ nữ, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nếu không giải
phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”
. Vì vậy, gia đình xã hội chủ
nghĩa mang tính chất tiến bộ, nhân văn, góp phần xây dựng con người mới. III.
Chức năng cơ bản của gia đình
1. Chức năng tái sản xuất con người
Chức năng tái sản xuất con người là đặc thù của gia đình, không cộng đồng nào
thay thế được. Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tự nhiên và duy trì nòi giống
của gia đình, dòng họ mà còn đảm bảo nguồn lực lao động và sự tồn tại của xã hội. Thực
hiện chức năng này vừa là trách nhiệm của gia đình, vừa là vấn đề xã hội, ảnh hưởng đến
mật độ dân cư, chất lượng lao động và sự phát triển chung. Do đó, tùy từng bối cảnh xã
hội, chức năng này có thể được khuyến khích hoặc hạn chế, đồng thời chịu tác động bởi
trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
Bên cạnh chức năng tái sản xuất, gia đình còn có trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo
dục con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Đây là chức năng
thể hiện tình yêu thương, trách nhiệm của cha mẹ, đồng thời là trách nhiệm xã hội quan
trọng, góp phần hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi cá nhân ngay từ khi sinh
ra. Gia đình là môi trường văn hóa, giáo dục đầu tiên, nơi mỗi thành viên vừa là chủ thể
sáng tạo, giáo dục, vừa là người thụ hưởng, chịu tác động giáo dục của người khác.
Chức năng này có ảnh hưởng sâu sắc, lâu dài đến suốt cuộc đời mỗi người, dù xã
hội còn có các cộng đồng khác như nhà trường, đoàn thể hỗ trợ, nhưng không thể thay
thế vai trò giáo dục của gia đình. Giáo dục gia đình và giáo dục xã hội phải gắn kết chặt
chẽ, bổ sung cho nhau để cá nhân phát triển toàn diện. Do đó, cha mẹ cần có kiến thức,
học vấn và phương pháp giáo dục phù hợp để thực hiện tốt trách nhiệm này.
3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Gia đình, giống như các đơn vị kinh tế khác, tham gia sản xuất và tái sản xuất của
cải vật chất, nhưng đặc thù là còn sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội. Gia
đình đồng thời là đơn vị tiêu dùng, tổ chức sử dụng thu nhập và thời gian hợp lý để đảm
bảo đời sống vật chất, tinh thần và duy trì môi trường văn hóa lành mạnh.
Chức năng kinh tế của gia đình thay đổi tùy theo hình thức gia đình và giai đoạn
phát triển xã hội, ảnh hưởng đến quy mô, cách tổ chức và phân phối sản xuất. Thực hiện
tốt chức năng này giúp đảm bảo đời sống các thành viên, nuôi dạy con cái, phát huy tiềm
năng lao động, vốn, tay nghề, đồng thời đóng góp vào của cải và sự phát triển chung của xã hội.
4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình
Gia đình có chức năng thường xuyên là thỏa mãn nhu cầu tình cảm, tinh thần, văn
hóa của các thành viên, chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em và duy trì sự cân
bằng tâm lý. Gia đình vừa là chỗ dựa vật chất vừa là nơi nương tựa tinh thần, góp phần
ổn định quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, gia đình còn giữ vai trò lưu giữ, sáng tạo, truyền
thụ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và thực hiện chức năng chính trị, là cầu
nối giữa nhà nước với công dân, tổ chức thực hiện và hưởng lợi từ chính sách, pháp luật của xã hội.
PHẦN 2: THỰC TRẠNG I.
Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1. Cơ sở kinh tế - xã hội
Cơ sở kinh tế - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa,
trong đó chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất từng bước thay thế chế độ sở hữu tư
nhân. Việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư liệu sản xuất đã xóa bỏ nguồn gốc áp bức, bóc lột, bất
bình đẳng trong xã hội và gia đình, chấm dứt sự thống trị kinh tế của đàn ông, tạo điều
kiện giải phóng phụ nữ và thiết lập quan hệ bình đẳng trong gia đình.
Theo V.I. Lênin, thủ tiêu chế độ tư hữu về ruộng đất, nhà máy, công xưởng là con
đường duy nhất để giải phóng phụ nữ, chấm dứt “chế độ nô lệ gia đình” và thay thế nền
kinh tế gia đình cá thể bằng nền kinh tế xã hội hóa. Khi tư liệu sản xuất trở thành tài sản
chung, gia đình cá thể không còn là đơn vị kinh tế cơ bản của xã hội, lao động gia đình
trở thành lao động xã hội hóa, được xã hội công nhận và đánh giá đúng. Lao động của
phụ nữ, dù ở ngoài xã hội hay trong gia đình, đều góp phần vào sự phát triển chung. Đồng
thời, hôn nhân trở thành sự lựa chọn tự nguyện dựa trên tình yêu, chứ không còn bị chi
phối bởi kinh tế hay địa vị xã hội.
2. Cơ sở chính trị xã hội
Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
sự thiết lập chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động — nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Đây là lần đầu tiên nhân dân lao động thực hiện quyền lực không phân biệt
nam nữ, xóa bỏ luật lệ cũ lạc hậu, giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Như
V.I. Lênin khẳng định, chính quyền Xô viết là chính quyền duy nhất thủ tiêu hoàn toàn
các đặc quyền của đàn ông, xóa bỏ bất bình đẳng giới vốn gắn với chế độ tư hữu.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa thể hiện vai trò trong việc xây dựng gia đình qua hệ
thống pháp luật và chính sách xã hội, tiêu biểu là Luật Hôn nhân và Gia đình, cùng các
chính sách về bình đẳng giới, dân số, việc làm, y tế, bảo hiểm xã hội… Những chính sách
này vừa định hướng vừa thúc đẩy hình thành gia đình mới phù hợp thời kỳ quá độ. Tuy
nhiên, ở đâu hệ thống pháp luật và chính sách chưa hoàn thiện, việc xây dựng gia đình
và đảm bảo hạnh phúc gia đình vẫn còn nhiều hạn chế. 3. Cơ sở văn hóa
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với những biến đổi chính trị và
kinh tế, đời sống văn hóa – tinh thần cũng thay đổi sâu sắc. Nền tảng văn hóa mới, dựa
trên hệ tư tưởng giai cấp công nhân, dần hình thành, chi phối xã hội, đồng thời loại bỏ
dần những phong tục, tập quán lạc hậu của xã hội cũ.
Sự phát triển giáo dục, khoa học, công nghệ nâng cao dân trí và cung cấp cho gia
đình nhận thức, kiến thức mới, hình thành giá trị và chuẩn mực mới, điều chỉnh quan hệ
gia đình theo hướng tiến bộ, phù hợp xã hội chủ nghĩa. Nếu thiếu cơ sở văn hóa, hoặc
tách rời cơ sở kinh tế – chính trị, việc xây dựng gia đình sẽ dễ lệch lạc và kém hiệu quả.
4. Chế độ hôn nhân tiến bộ
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hôn nhân tiến bộ được xây dựng trên
cơ sở tình yêu tự nguyện giữa nam và nữ, đảm bảo quyền tự do lựa chọn kết hôn, không
chấp nhận ép buộc, đồng thời tôn trọng vai trò định hướng của gia đình. Hôn nhân tự
nguyện
còn bao hàm quyền tự do ly hôn khi tình yêu không còn, nhưng cần hạn chế lạm
dụng quyền này vì hậu quả tiêu cực cho gia đình và xã hội.
Hôn nhân tiến bộ đồng thời khẳng định chế độ một vợ một chồng, bình đẳng giữa
vợ chồng, tôn trọng quyền và nghĩa vụ ngang nhau của cả hai về mọi mặt đời sống gia
đình, từ nghề nghiệp, học tập đến nuôi dạy con cái. Quan hệ vợ chồng bình đẳng là nền
tảng cho quan hệ bình đẳng giữa cha mẹ – con cái và giữa anh chị em trong gia đình, góp
phần xây dựng gia đình hạnh phúc, hài hòa.
Cuối cùng, hôn nhân cần được đảm bảo về mặt pháp lý, thông qua thủ tục đăng
ký kết hôn, nhằm thể hiện trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội, đồng thời ngăn
chặn việc lợi dụng quyền tự do kết hôn, ly hôn vì mục đích không chính đáng. Việc pháp
lý hóa hôn nhân không xóa bỏ quyền tự do kết hôn, mà đảm bảo quyền này được thực
hiện chính đáng, có trách nhiệm. II.
Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
a. Biến đổi quy mô, kết cấu của gia đình
Gia đình Việt Nam hiện nay được coi là “gia đình quá độ”, chuyển từ mô hình
truyền thống sang hiện đại, với xu hướng phổ biến là gia đình hạt nhân thay thế gia đình
nhiều thế hệ. Quy mô gia đình thu nhỏ, chỉ còn 1–2 thế hệ cùng sống, số con ít hơn, phù
hợp với nhu cầu và điều kiện xã hội công nghiệp, đồng thời đề cao bình đẳng giới, tôn
trọng đời sống riêng tư và giảm mâu thuẫn gia đình.
Biến đổi này có tác động tích cực, giúp gia đình và xã hội thích nghi với thời đại
mới. Tuy nhiên, nó cũng gây ra những hệ quả tiêu cực như giảm gắn bó tình cảm, phai
nhạt giá trị văn hóa truyền thống, các thành viên ít quan tâm và giao tiếp với nhau hơn,
mối quan hệ gia đình trở nên lỏng lẻo do áp lực công việc và mưu sinh.
b. Biến đổi các chức năng của gia đình
Chức năng tái sản xuất ra con người của gia đình hiện nay đã có nhiều thay đổi so
với trước đây. Nhờ thành tựu y học và chính sách dân số, việc sinh con trở nên chủ động,
tự giác hơn, chịu sự điều chỉnh bởi nhu cầu xã hội. Từ thập niên 1970–1980, Việt Nam
đã thực hiện kế hoạch hóa gia đình, khuyến khích mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh 1–2 con.
Đến nay, trước tình trạng già hóa dân số, thông điệp mới khuyến khích sinh đủ hai con.
Trong gia đình truyền thống, quan niệm “càng đông con càng tốt” và “phải có con
trai” rất phổ biến, nhưng ngày nay đã thay đổi: mức sinh giảm, ít coi trọng chuyện sinh
con trai. Hôn nhân hiện đại coi trọng các yếu tố tâm lý, tình cảm, kinh tế hơn là chuyện
có hay không có con, hay có con trai hay không như trước kia.
c. Biến đổi chứng năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Kinh tế gia đình Việt Nam đã trải qua hai bước chuyển lớn: từ kinh tế tự cấp tự túc
sang kinh tế hàng hóa phục vụ xã hội, và từ phục vụ thị trường quốc gia sang tham gia
nền kinh tế thị trường toàn cầu. Hiện nay, kinh tế gia đình là bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh toàn cầu, kinh tế gia đình còn
gặp khó khăn do quy mô nhỏ, lao động ít, chủ yếu tự sản xuất, khó chuyển sang sản xuất
chuyên sâu. Dù vậy, sự phát triển của kinh tế hàng hóa và thu nhập tăng giúp gia đình trở
thành đơn vị tiêu dùng lớn, ngày càng sử dụng nhiều hàng hóa và dịch vụ xã hội.
d. Biến đổi chức năng giáo dục (xã hội hóa)
Trong xã hội truyền thống, giáo dục gia đình là nền tảng của giáo dục xã hội,
nhưng hiện nay giáo dục xã hội lại chi phối và định hướng giáo dục gia đình, dù cả hai
vẫn chung mục tiêu đề cao sự hy sinh vì cộng đồng. Gia đình ngày nay đầu tư nhiều hơn
cho giáo dục con cái, không chỉ chú trọng đạo đức, ứng xử truyền thống mà còn trang bị
kiến thức hiện đại để hòa nhập quốc tế.
Tuy nhiên, vai trò giáo dục của gia đình giảm dần do hệ thống giáo dục xã hội phát
triển và áp lực kinh tế, trong khi niềm tin của cha mẹ vào nhà trường lại giảm do nhiều
hiện tượng tiêu cực. Mâu thuẫn này chưa có lời giải hiệu quả, khiến chức năng giáo dục,
xã hội hóa của gia đình bị suy yếu. Các vấn đề như trẻ em hư hỏng, bỏ học, nghiện ma
túy, mại dâm… phản ánh sự bất lực của cả xã hội lẫn gia đình trong việc chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ.
e. Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm
Trong xã hội hiện đại, độ bền vững của gia đình không chỉ dựa vào nghĩa vụ, trách
nhiệm giữa các thành viên mà còn phụ thuộc nhiều vào tình cảm hòa hợp, hạnh phúc cá
nhân và tự do chính đáng của mỗi người. Gia đình dần chuyển từ đơn vị kinh tế sang đơn
vị tình cảm, khiến nhu cầu tâm lý–tình cảm gia tăng, đặc biệt quan trọng với trẻ em và
người cao tuổi. Tuy nhiên, tỷ lệ gia đình ít con, thậm chí chỉ có một con, khiến đời sống
tình cảm của cả trẻ em lẫn người lớn có nguy cơ thiếu hụt, lạnh nhạt.
Công nghiệp hóa và toàn cầu hóa làm gia tăng phân hóa giàu–nghèo: một số gia
đình trở nên giàu có, nhưng đa số lao động nghèo mất đất, không tích lũy được tài sản.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ hộ nghèo, thu hẹp khoảng cách. Đồng thời, cần thay
đổi quan niệm truyền thống thiên vị con trai, xây dựng bình đẳng giới trong chăm sóc
cha mẹ, thờ cúng tổ tiên.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản, củng cố vai trò
xã hội hóa của gia đình, đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục gia đình để cha mẹ định
hướng tốt hơn cho con cái. Ngoài ra, cần giải quyết các mâu thuẫn giữa tự do, tiến bộ của
phụ nữ với trách nhiệm truyền thống, giữa cha mẹ và con cái, giữa các thế hệ… để hình
thành những chuẩn mực mới, hài hòa lợi ích gia đình và xã hội.
f. Sự biến đổi quan hệ gia đình
Trong bối cảnh cơ chế thị trường, công nghệ hiện đại và toàn cầu hóa, hôn nhân
và gia đình Việt Nam đang trải qua nhiều biến đổi sâu sắc, phải đối mặt với những thách
thức lớn. Quan hệ vợ chồng – gia đình trở nên lỏng lẻo, tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình,
sống thử, sinh con ngoài giá thú gia tăng, kèm theo đó là nhiều bi kịch như bạo lực gia
đình, xâm hại tình dục, trẻ em ích kỷ, người già cô đơn. Các giá trị truyền thống dần bị
coi nhẹ, mô hình gia đình truyền thống bị phá vỡ, thay thế bằng nhiều hình thức mới như
hộ đơn thân, độc thân, kết hôn đồng tính… Trong quan niệm hiện đại, không còn duy
nhất mô hình đàn ông làm chủ gia đình, mà xuất hiện thêm mô hình phụ nữ làm chủ hoặc
cả hai vợ chồng cùng chia sẻ quyền chủ động, với tiêu chí gắn liền năng lực, đóng góp
kinh tế và uy tín trong gia đình.
Bên cạnh đó, quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình cũng biến đổi mạnh mẽ.
Trẻ em ít được ông bà, cha mẹ trực tiếp dạy dỗ như trước mà chủ yếu trông chờ vào nhà
trường, còn người cao tuổi thiếu sự chăm sóc, trở nên cô đơn, thiếu thốn tình cảm. Mâu
thuẫn thế hệ gia tăng, khi người già thiên về giá trị truyền thống, có xu hướng bảo thủ,
áp đặt, trong khi người trẻ lại hướng tới lối sống hiện đại, dễ phủ nhận truyền thống. Gia
đình nhiều thế hệ cùng chung sống thường dễ xảy ra xung đột. Ngoài ra, những hiện
tượng tiêu cực như bạo lực gia đình, ly hôn, ngoại tình, sống thử, trẻ em lang thang,
nghiện hút, buôn bán người… cũng ngày càng phổ biến, đe dọa sự ổn định, bền vững của
gia đình, khiến gia đình Việt Nam ngày nay trở nên mong manh, dễ tan vỡ hơn. I.
Những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân mà Việt Nam có trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội về vấn đề xây dựng gia đình
1. Thành tựu
Sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đạt nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế – xã
hội, góp phần nâng cao đời sống các gia đình. GDP bình quân đầu người tăng 2,7 lần, đạt
2.700 USD năm 2019; hơn 45 triệu người thoát nghèo, tỷ lệ nghèo giảm từ hơn 70%
xuống dưới 6%. Kinh tế hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc dân,
phong trào “Gia đình văn hóa” phát triển mạnh mẽ, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Hệ thống chính sách về gia đình ngày càng hoàn thiện, hỗ trợ tốt cho các hộ nghèo,
gia đình có công và vùng khó khăn. Các giá trị như bình đẳng giới, quyền trẻ em, vai trò
phụ nữ ngày càng được đề cao. Ngày 28/6 được chọn làm Ngày Gia đình Việt Nam thể
hiện sự quan tâm của xã hội đối với gia đình.
Cùng với gia tăng dân số là quá trình hạt nhân hóa gia đình, với số hộ tăng từ 12,9
triệu năm 1989 lên 26,87 triệu năm 2019, gấp 2,07 lần. Các loại hình gia đình mới như
đơn thân, sống chung không kết hôn xuất hiện ngày càng nhiều. Tuổi kết hôn trung bình
cũng tăng: năm 2019, nam kết hôn trung bình ở tuổi 27,2 và nữ là 23,1, cho thấy xu hướng
kết hôn muộn ngày càng rõ rệt.
Những thành tựu khoa học và công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực y học, đã góp
phần quan trọng vào công tác gia đình ở Việt Nam. Nhiều tiến bộ y học đạt được trong
những năm qua giúp nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe, kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ
tử vong mẹ và trẻ em. Đồng thời, công nghệ hỗ trợ sinh sản đã mang lại hy vọng và hạnh
phúc cho nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn, góp phần xây dựng gia đình bền vững và hạnh phúc. 2. Hạn chế
Sau nhiều năm triển khai, công tác xây dựng gia đình ở một số nơi vẫn mang tính
hình thức, thiếu hiệu quả và bền vững. Nhiều chỉ tiêu chưa thực sự đạt nhu cầu thực tế,
đặc biệt trong bối cảnh đô thị hóa và phát triển công nghiệp nơi cơ cấu sản xuất thay đổi nhanh chóng.
Vấn nạn tiêu cực trong gia đình như bạo lực gia đình (đặc biệt của chồng đối với
vợ), hôn nhân cận huyết thống, tảo hôn, ly hôn tăng cao, chung sống không đăng ký vẫn
tồn tại đáng lo ngại. Hệ thống hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình còn lỏng lẻo, can thiệp
thiếu đồng bộ và không kịp thời.
Công tác quản lý nhà nước và triển khai chính sách về gia đình còn yếu, đặc biệt
ở vùng sâu, vùng xa. Việc thực thi luật như Luật Hôn nhân – Gia đình, Luật Bình đẳng
giới còn dừng ở tuyên truyền, chưa có kết quả hành động rõ ràng. Hệ thống dịch vụ hỗ
trợ, tư vấn, các đội ngũ cán bộ chuyên trách còn thiếu, năng lực yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Gia đình hiện nay đối mặt với nhiều thách thức xã hội như gia đình hạt nhân, gia
tăng di cư, khiến mối liên kết giữa các thế hệ bị giảm; phụ nữ gánh chịu áp lực kép, vẫn
chưa thật sự bình đẳng; trẻ em và người cao tuổi thiếu sự chăm sóc đầy đủ khi các thành viên đi làm xa.
Ngoài ra, sự phân ly gia đình do di cư nội – ngoại tỉnh lan rộng, cha mẹ thiếu thời
gian chăm sóc con, người cao tuổi sống cô lập, thậm chí đối mặt với bạo lực về thể chất,
tinh thần và kinh tế từ chính con cháu. 3. Nguyên nhân
Một là, chính sách an sinh xã hội hướng theo cá nhân còn hạn chế, chưa tiếp
cận theo hộ gia đình một cách toàn diện. Mặc dù có nhiều chính sách dành cho các nhóm
như hộ nghèo hoặc gia đình có công, phần lớn chương trình an sinh hướng tới từng cá
nhân chứ không gắn kết năng lực hỗ trợ theo gia đình. Do vậy, hiệu quả sử dụng nguồn
lực chưa cao, tính bền vững của các chính sách chưa đạt yêu cầu.
Hai là, các thiết chế an sinh truyền thống suy giảm, nhưng các thiết chế hiện đại
chưa được hoàn thiện. Mạng lưới hỗ trợ xã hội tại cộng đồng và gia đình bị yếu, thiếu
đồng bộ và chưa đủ cơ sở hành lang pháp lý, dẫn đến khả năng can thiệp khi gia đình gặp khó khăn bị hạn chế.
Ba là, mâu thuẫn gia đình gia tăng, xuất phát từ xu hướng đề cao cá nhân và sự
xung đột thế hệ. Giá trị truyền thống bị mai một, “cái tôi” cá nhân lên ngôi mà thiếu sự
giáo dục điều độ, dẫn đến bạo lực gia đình, ly hôn, hôn nhân không đăng ký… Tỷ lệ ly
hôn tăng từ 1,3% (1989) lên 2,3% (2016), hiện khoảng 2,6% dân số (2024), cho thấy xu
hướng mối liên kết gia đình yếu dần.
Bốn là, giáo dục gia đình thiếu sự đồng bộ và thông tin hướng dẫn còn yếu,
đặc biệt với giới trẻ. Nhiều vấn đề như thiếu hiểu biết về pháp luật hôn nhân, giao tiếp
gia đình, kỹ năng nuôi dạy con…, khiến mish hiểu và xung đột gia đình tăng.
Năm là, tác động tiêu cực từ văn hóa hiện đại và công nghệ số. Các mối liên
kết truyền thống bị suy yếu, thời gian dành cho gia đình giảm, sự cô lập, sống đơn độc
hoặc gia đình đơn thân, sống chung không đăng ký kết hôn ngày càng phổ biến. Điều này
làm suy giảm tính kết nối giữa các thành viên trong gia đình. PHẦN 3: GIẢI PHÁP I.
Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của xã hội về
xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam
Đẩy mạnh tuyên truyền để các cấp, ngành nhận thức rõ vai trò quan trọng của gia
đình trong phát triển bền vững đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng
thời, đưa mục tiêu xây dựng, phát triển gia đình vào chiến lược, kế hoạch kinh tế - xã hội
hằng năm của các bộ, ngành, địa phương.
Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế hộ gia đình
Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội nhằm
ổn định và nâng cao kinh tế hộ gia đình, đặc biệt ưu tiên hỗ trợ cho các gia đình chính
sách, dân tộc thiểu số, hộ nghèo, vùng sâu vùng xa. Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ
kịp thời cho các hộ sản xuất kinh doanh, phát triển sản phẩm mới, sản phẩm địa phương
và tham gia xuất khẩu. Ngoài ra, cần tạo điều kiện thuận lợi cho hộ gia đình vay vốn để
giảm nghèo, chuyển đổi cơ cấu sản xuất và phát triển kinh tế trang trại.
Thứ ba, kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống đồng thời tiếp thu những
tiến bộ của nhân loại về gia đình trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay
Gia đình truyền thống Việt Nam có cả mặt tích cực lẫn hạn chế trong bối cảnh hiện
đại. Vì vậy, Nhà nước và các cơ quan liên quan cần giữ gìn, phát huy giá trị tốt đẹp và
khắc phục những hủ tục cũ. Việc xây dựng gia đình hiện nay cần hướng đến mô hình hiện
đại, phù hợp với công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đồng thời kết hợp
hài hòa giữa truyền thống và tiến bộ để gia đình trở thành tế bào lành mạnh của xã hội và
tổ ấm của mỗi người.
Thứ tư, tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa
Gia đình văn hóa là mô hình gia đình tiến bộ, hướng đến sự ấm no, hòa thuận, tiến
bộ và hạnh phúc, được nhiều gia đình Việt Nam phấn đấu đạt được. Phong trào xây dựng
gia đình văn hóa bắt đầu từ thập niên 1960 tại Hưng Yên và đã lan rộng trên toàn quốc,
góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và giữ gìn các giá trị đạo đức truyền thống.
Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tiếp tục phát triển mô hình này theo
hướng thực chất, tránh chạy theo thành tích, với tiêu chí phù hợp, minh bạch, công bằng
và gắn với đời sống thực tế của người dân. II.
Liên hệ với bản thân
Là một sinh viên đang học tập trong thời kỳ đất nước bước vào giai đoạn quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, em nhận thức rõ vai trò trung tâm và nền tảng của gia đình trong
quá trình phát triển toàn diện con người và xã hội. Gia đình không chỉ là nơi sinh thành,
nuôi dưỡng mà còn là môi trường giáo dục đầu tiên, đặt nền móng cho nhân cách, tư duy
và lý tưởng sống của mỗi cá nhân. Trong bối cảnh xã hội đang có nhiều biến đổi sâu sắc
về kinh tế, công nghệ và văn hóa, những giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam như
lòng hiếu thảo, sự thủy chung, yêu thương, đùm bọc… vẫn cần được gìn giữ, phát huy
và thích nghi với những yêu cầu mới của thời đại.
Từ góc độ cá nhân, em hiểu rằng, với tư cách là một người trẻ đang trong quá trình
hoàn thiện bản thân, mỗi hành động, mỗi suy nghĩ của em đều có thể tác động trở lại gia
đình và xã hội. Việc nghiêm túc học tập, rèn luyện đạo đức, giữ gìn lối sống lành mạnh,
tiết kiệm, trách nhiệm không chỉ là để phục vụ mục tiêu cá nhân mà còn là cách thể hiện
sự tri ân và đóng góp thiết thực vào sự ổn định, phát triển của gia đình mình. Trong thời
kỳ hiện đại, mô hình gia đình đang dần thay đổi theo hướng thu nhỏ, đa dạng hơn (như
gia đình hạt nhân, gia đình đơn thân…), đòi hỏi mỗi thành viên, đặc biệt là thế hệ trẻ,
phải chủ động thích nghi, linh hoạt nhưng vẫn giữ được những chuẩn mực đạo đức căn bản.
Đặc biệt, là sinh viên, em có điều kiện tiếp cận nhiều kiến thức mới, các nền văn
hóa khác nhau qua môi trường học đường và mạng xã hội. Vì vậy, em càng cần có bản
lĩnh, biết chọn lọc thông tin, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và không chạy theo lối sống
thực dụng hay cá nhân chủ nghĩa. Em cũng nhận thấy mình cần phải quan tâm nhiều hơn
đến các vấn đề xã hội như bình đẳng giới, vai trò của phụ nữ, bảo vệ trẻ em, người cao
tuổi trong gia đình – đó chính là cách để em thể hiện trách nhiệm công dân và xây dựng
ý thức xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn cuộc sống hằng ngày.
Cuối cùng, em tin rằng sự phát triển bền vững của mỗi gia đình chính là nền tảng
vững chắc để xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh, công bằng – đúng theo lý tưởng
của chủ nghĩa xã hội mà đất nước ta đang hướng tới. KẾT LUẬN
Những biến đổi trong cấu trúc và chức năng của gia đình Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, phản ánh những chuyển động lớn
của xã hội dưới tác động của đổi mới, phát triển kinh tế và hội nhập toàn cầu. Bên cạnh
những mặt tích cực như sự chủ động trong tổ chức cuộc sống, vai trò ngày càng được
khẳng định của phụ nữ, và khả năng thích ứng linh hoạt của thế hệ trẻ, vẫn còn tồn tại
nhiều vấn đề đáng lo ngại như sự suy giảm các giá trị đạo đức truyền thống, tình trạng ly
hôn gia tăng, thiếu sự gắn kết giữa các thế hệ, và những ảnh hưởng tiêu cực của mặt trái
công nghệ lên đời sống gia đình.
Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng gia đình Việt Nam cần phải được đặt trong
tổng thể chiến lược phát triển bền vững đất nước, gắn với mục tiêu phát triển con người
toàn diện. Muốn làm được điều đó, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính
sách liên quan đến gia đình, tăng cường tuyên truyền, giáo dục đạo đức, kỹ năng sống,
giá trị sống cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh thiếu niên. Đồng thời, mỗi cá
nhân cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mình trong việc xây dựng tổ ấm hạnh
phúc, tôn trọng các giá trị văn hóa dân tộc và thích ứng với những chuẩn mực mới của xã hội hiện đại.
Gia đình không chỉ là nơi sinh sống, mà còn là nơi bắt đầu mọi hành trình trưởng
thành, cống hiến và phát triển của mỗi con người. Vì thế, việc bảo tồn những giá trị truyền
thống quý báu, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những yếu tố mới, tiến bộ từ xã hội hiện
đại sẽ giúp gia đình Việt Nam thực sự trở thành bệ đỡ vững chắc cho một xã hội văn
minh, nhân ái và phát triển bền vững trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí Cộng sản. (n.d). Xây dựng gia đình Việt Nam: Những thành tựu nổi bật,
vấn đề đặt ra và giải pháp chính sách. Truy cập ngày 22/07/2025, từ
https://www.tapchicongsan.org.vn/van_hoa_xa_hoi/-/2018/825283/xay-dunggia-
dinh-viet-nam--nhung-thanh-tuu-noi-bat%2C-van-de-dat-ra-va-giai-phapchinh- sach.aspx
2. Tạp chí Phụ nữ Việt Nam. (n.d). Thách thức đối với việc xây dựng gia đình Việt
Nam tiến bộ. Truy cập ngày 22/07/2025, từ https://phunuvietnam.vn/thachthuc-
doi-voi-viec-xay-dung-gia-dinh-viet-nam-tien-bo- 20221129120053952.htm
3. Bộ Văn hóa, Thông tin và Du lịch. (n.d). Những hạn chế trong công tcas xây
dựng gia đình (Đánh giá trong công việc thực iện Chỉ thị số 49-CT/TW). Truy
cập ngày 22/07/2025, từ https://giadinh.bvhttdl.gov.vn/nhung-han-che-
trongcong-tac-xay-dung-gia-dinh-danh-gia-trong-viec-thuc-hien-chi-thi-so-49- ct-tw
4. Hệ thống tư liệu - văn kiện Đảng. (n.d). Quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen
về gia đình trong mối quan hệ với sự phát triển kinh tế - xã hội. Truy cập ngày
22/07/2025, từ https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-
hochi-minh/c-mac/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/quan-niem-cua-c-mac-va-
phangghen-ve-gia-dinh-trong-moi-quan-he-voi-su-phat-trien-kinh-te-xa-hoi- 3191
5. Báo Phụ nữ Thủ đô. (n.d). Thiết chế gia đình Việt đang “lung lay”. Truy cập
ngày 22/07/2025, từ https://baophunuthudo.vn/hon-nhan-gia-dinh/thiet-che-
giadinh-viet-dang-lung-lay-7686.html
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (n.d). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2018.