Tiểu luận Kinh tế chính trị - Cạnh tranh| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP LỚN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Đề 2: Cạnh tranh là gì? Vì sao trong nền kinh tế thị trường cần
phải bảo vệ cạnh tranh và hạn chế độc quyền? Liên hệ với thực tiễn Việt Nam
Họ tên: Trịnh Minh Phương MSV: 11206643
Lớp: Đầu tư tài chính (BFI) Hà Nội, 2021 0 PHẦN MỞ ĐẦU
Khi thực hiện chuyển đổi kinh tế từ nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, Việt Nam phải chấp nhận một số quy luật mà nền kinh tế thị trường
mang lại. Và trong các quy luật đó, cạnh tranh là một quy luật khách quan, cần thiết trong
quá trình phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một cơ chế vận
hành chủ yếu, là động lực thúc đẩy kinh tế. Nhiều nước trên thế giới đã vận hành tốt quy
luật này và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Từ đổi
mới kinh tế, đất nước ta đã áp dụng quy luật này và đạt một số thành tựu nhất định như
kinh tế ổn định, đời sống nhân dân, xã hội được cải thiện,... Những thành tựu ấy tuy chưa
phải quá lớn lao nhưng đã góp phần định hướng phát triển kinh tế cho đất nước. Bên cạnh
đó, nền kinh tế của nước ta vẫn phải đối mặt với những khó khăn, thách thức to lớn. Một
trong số đó chính là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu, dẫn đến cạnh tranh
không hoàn hảo, không lành mạnh và sinh ra hiện tượng độc quyền.
Độc quyền là sự chi phối, kiểm soát của một, nhiều công ty hay tổ chức kinh tế nào đó về
một loại sản phẩm trên một đoạn thị trường nhất định. Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự
do nhưng không thủ tiêu được cạnh tranh tự do mà trái lại còn làm cho cạnh tranh trở nên
gay gắt hơn. Trong nền kinh tế thị trường, độc quyền và cạnh tranh luôn tồn tại xen kẽ lẫn nhau. PHẦN NỘI DUNG 1 I.
Khái niệm cạnh tranh và sự cần thiết của việc bảo vệ cạnh tranh trong
nền kinh tế thị trường
1. Cạnh tranh là gì?
Cạnh tranh là một khái niệm gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường khi cung
- cầu hàng hóa và giá cả hàng hóa là yếu tố quyết định. Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh
tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện
thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích
nhất cho mình. Cạnh tranh còn có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp
trong việc dành một nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình
trên thị trường hướng đến mục tiêu kinh doanh cụ thể như lợi nhuận doanh số hoặc thị phần, v.v…
2. Tại sao cần bảo vệ cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Cạnh tranh có tác động rất lớn đối với các doanh nghiệp, người tiêu dùng, và cả nền kinh
tế thị trường của một quốc gia
● Đối với doanh nghiệp hay chủ thể sản xuất, cạnh tranh đóng vai trò lựa chọn và
đào thải doanh nghiệp. Vì vậy, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải tự
nâng cao khả năng của mình trên thị trường. Hay nói cách khác, cạnh tranh buộc
các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đưa ra các sản
phẩm có chất lượng cao hơn, đáp ứng được nhu cầu không ngừng thay đổi của
người tiêu dùng. Muốn làm được điều đó, các doanh nghiệp hay chủ thể sản xuất
phải không ngừng tìm kiếm và ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, công
nghệ mới vào sản xuất, nâng cao trình độ tay nghề, tri thức của người lao động.
Kéo theo đó, cạnh tranh tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội.
● Đối với người tiêu dùng, cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu xã hội.
Thông qua quy luật cung cầu, cạnh tranh có khả năng nhanh nhạy trong việc phát 2
hiện và đáp ứng mọi nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Sự lựa chọn và sức
tiêu thụ hàng hoá của họ là thước đo chính xác cho yêu cầu về chất lượng và độ
phù hợp của một sản phẩm. Cạnh tranh gây tác động liên tục đến giá cả sản phẩm
trên thị trường, buộc các doanh nghiệp phải phản ứng tự phát để chọn phương án
kinh doanh sao cho chi phí nhỏ hiệu quả cao, hàng hóa đa dạng, phong phú, chất
lượng cũng như giá thành tốt để phù hợp với mong muốn của người tiêu dùng. Bởi
vậy, trong điều kiện có cạnh tranh, người tiêu dùng là trung tâm thị trường quyết
định sự sống còn của sản phẩm, buộc các nhà kinh doanh phải thỏa mãn nhu cầu của họ.
● Đối với nền kinh tế thị trường, cạnh tranh được coi là tất yếu của nền kinh tế, là
môi trường, động lực thúc đẩy sự phát triển mọi thành phần trong nền kinh tế thị
trường, góp phần xóa bỏ độc quyền, bất bình đẳng trong kinh doanh, đảm bảo thúc
đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân công lao động xã hội ngày càng
sâu sắc. Mặt khác, mọi hoạt động của chủ thể kinh tế hoạt động trong nền kinh tế
thị trường đều nhằm mục đích đạt lợi nhuận tối đa. Muốn vậy, ngoài việc hợp tác,
họ cũng cạnh tranh với nhau trong sản xuất và kinh doanh để thu về được lợi
nhuận cao nhất. Thông qua đó, cạnh tranh làm cho nền kinh tế quốc dân vững
mạnh hơn, tạo điều kiện cho các chú thể sản xuất vươn ra thị trường nước ngoài. II.
Khái niệm độc quyền và sự cần thiết của việc hạn chế độc quyền trong
nền kinh tế thị trường
1. Độc quyền là gì?
Độc quyền là thuật ngữ trong kinh tế học chỉ về trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một
người bán và sản xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi. Đây là một trong
những dạng của thất bại thị trường, là trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh
tranh. Mặc dù trên thực tế hầu như không thể tìm được trường hợp đáp ứng hoàn hảo hai 3
tiêu chuẩn của độc quyền và do đó độc quyền thuần túy có thể coi là không tồn tại nhưng
những dạng độc quyền không thuần túy đều dẫn đến sự phi hiệu quả của lợi ích xã hội.
Độc quyền có thể được coi là kết quả cực đoan của chủ nghĩa tư bản và thị trường tự do
kinh tế khi không có bất kỳ hạn chế hoặc rào cản nào. Nhờ thế, một công ty hoặc một
nhóm các doanh nghiệp có thể tự do phát triển, câu kết với nhau, trở nên đủ lớn chiếm vị
trí độc tôn trong việc cung cấp sản phẩm nhất định nào đó, cho phép họ kiểm soát trọn
vẹn giá cả sản phẩm để thu lợi nhuận tối đa và ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh khác thâm nhập thị trường.
2. Tại sao cần hạn chế độc quyền trong nền kinh tế thị trường
Độc quyền là hậu quả tất yếu của quá trình cạnh tranh không được định hướng và điều
chỉnh: từ cạnh tranh lành mạnh chuyển sang cạnh tranh không lành mạnh dẫn tới cạnh
tranh mang tính độc quyền và cuối cùng xuất hiện độc quyền. Độc quyền làm tê liệt cạnh
tranh lành mạnh, kìm hãm sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi người
tiêu dùng, tác động xấu đến công bằng xã hội, gây sức ì đối với chính bản thân các doanh
nghiệp độc quyền. Độc quyền trong kinh doanh sẽ dẫn đến hình thành giá cả độc quyền,
giá cả lũng đoạn cao, làm ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Với thế độc quyền,
người sản xuất không cần quan tâm đến cải tiến kĩ thuật, công nghệ sản xuất và phương
thức quản lí mà vẫn thu được lợi nhuận đặc biệt cao. Độc quyền trong kinh doanh là yếu
tố hạn chế tự do kinh doanh và văn minh thương mại
Độc quyền và cạnh tranh là hai hiện tượng có liên quan chặt chẽ với nhau. Khi có chủ
trương thúc đẩy cạnh tranh để phát triển thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và đem lại lợi ích cho người
tiêu dùng thì độc quyền cần phải được loại bỏ. Tuy nhiên, trong thực tế của tất cả các
quốc gia, độc quyền vẫn tồn tại trong một số ngành và ở một mức độ nhất định và nó là
yếu tố đảm bảo cho cạnh tranh phát triển và duy trì được hiệu quả kinh tế của toàn xã hội. 4 III.
Liên hệ thực tiễn
Hiện nay việc nhận thức về cạnh tranh và độc quyền kinh doanh ở nước ta chưa nhất
quán, chưa nhận thấy vai trò quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế, vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước nên chưa có quan điểm dứt khoát về ủng hộ cạnh tranh lành mạnh
và chống độc quyền trong kinh doanh. Nhà nước chưa có những quy định cụ thể, những
cơ quan chuyên trách theo dõi giám sát các hành vi liên quan đến cạnh tranh và độc
quyền. Do đó, thực trạng về cạnh tranh và độc quyền tại Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều bất cập
1. Thực trạng cạnh tranh tại Việt Nam
Cạnh tranh bất bình đẳng xảy ra giữa các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước với
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, giữa các doanh nghiệp trong nước
với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp nhà nước được hưởng
nhiều ưu đãi từ phía nhà nước như: các ưu đãi về vốn đầu tư, thuế, vị trí địa lý, thị trường
tiêu thụ,… Ngoài ra các doanh nghiệp này còn tập trung trong tay một lượng lớn các
ngành nghề quan trọng: điện, nước, than, dầu lửa, bưu chính viễn thông, giao thông vận
tải…; các doanh nghiệp tư nhân không được coi trọng. Các doanh nghiệp nước ngoài
hoạt động theo một quy chế riêng, không được ưu đãi từ nhà nước. Điều này gây thiệt hại
lớn về kinh tế, bởi một số doanh nghiệp nhà nước làm ăn hiệu quả, chây ì, trông chờ vào
nhà nước gây ra lãng phí nguồn lực xã hội, trong khi các công ty tư nhân hoạt động năng
nổ và hiệu quả hơn. Ngoài ra, những quy định không hợp lý trong hoạt động của các
doanh nghiệp nước ngoài và trong nước dẫn đến sự e ngại về đầu tư vào nước ta.
Hiện nay nước ta chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh cho cạnh tranh nên việc xác định,
vậy nên việc xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là khó khăn. Điều đó tạo
điều kiện cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng phát triển mạnh. Một số
hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: 5
● Nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng được tung ra thị trường. Việc hàng
giả, hàng nhái bán trên thị trường sẽ gây thiệt hại cho người tiêu dùng, làm giảm
uy tín của các công ty làm ăn chân chính có sản phẩm bị làm nhái.
● Các hình thức quảng cáo gian dối, thổi phồng ưu điểm của hàng hoá mình làm
giảm ưu điểm của các hàng hoá khác cùng loại, rồi đưa ra những mức giá cao hơn
so với mức giá thực tế của sản phẩm. Điều này cũng gây thiệt hại cho người tiêu
dùng và những doanh nghiệp sản xuất chân chính.
● Các hành vi thông đồng với cơ quan quản lý nhà nước để cản trở hoạt động của
các đối thủ trong các ký kết hợp đồng , hối lộ các giao dịch kinh tế, lôi kéo lao
động lành nghề, những chuyên gia giỏi của các doanh nghiệp Nhà nước một cách
không chính đáng còn phổ biến trong nền kinh tế.
2. Độc quyền tại Việt Nam
Hiện nay , nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
tập trung sang nền kinh tế thị trường . Một số yếu tố bất hợp lý của mô hình kinh tế trước
đây vẫn còn tồn tại và đòi hỏi cần phải có những giải pháp cụ thể để giải quyết trong thời
gian tới. Một trong những vấn đề cần giải quyết là tình trạng độc quyền.
Độc quyền Việt Nam chủ yếu là độc quyền nhà nước. Với sức mạnh kinh tế của mình,
các công ty nhà nước dễ dàng chiếm lĩnh thị trường. Sự tồn tại quá nhiều doanh nghiệp
nhà nước kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân trong cùng một lĩnh vực.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trước đây, chúng ta chỉ thừa nhận hình
thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân không tồn tại trong thời gian đó.
Chế độ công hữu này đã tạo ra sự độc quyền nhà nước trong tất cả các ngành kinh tế.
Tình trạng này hiện đang nổi lên vấn đề vận dụng độc quyền để vụ lợi, biến độc quyền
nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp tự ý thay đổi giá cả của hàng hóa, dịch vụ đã để
lại hậu quả: kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân trong cùng một lĩnh vực,
tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tính trên vốn đầu tư của Việt Nam bị suy giảm… 6
Ngoài ra độc quyền nhà nước còn thể hiện ở việc kết hợp và về nhân sự giữa tổ chức độc
quyền và bộ máy nhà nước. Các tổ chức độc quyền đã cử người của họ tham gia vào bộ
máy chính phủ với những hương vị khác nhau. Mặt khác các quan chức và nhân viên
chính phủ được mời tham gia vào hội đồng quản trị hoặc đỡ đầu cho các tổ chức độc
quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này đã tạo ra những biểu hiện mới trong bước quan hệ
giữa các tổ chức độc quyền và cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Như vậy, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu do các doanh nghiệp nhà nước độc quyền nắm
giữ. Các doanh nghiệp độc quyền nhà nước này được xây dựng trên chủ trương của chính
phủ, được sự đầu tư, bảo hộ của chính phủ, do đó không có gì ngạc nhiên khi họ có một
vị thế, tầm ảnh hưởng to lớn trong nền kinh tế. IV.
Chính sách cạnh tranh và chống độc quyền tại Việt Nam
Tại Việt Nam, Luật Cạnh tranh lần đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004,
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/ 2005. Đây được coi là văn bản pháp luật quan trọng,
điều chỉnh mối quan hệ cạnh tranh giữa các chủ thể hoạt động kinh doanh trên thị trường.
Theo đó, Luật luật cạnh tranh 2004 là hành lang pháp lý quan trọng giúp tạo lập và duy
trì môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh, từ đó tạo điều kiện phát triển kinh tế đất
nước, phân bổ hiệu quả các nguồn lực xã hội và đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng.
Mặc dù đạt được một số thành tựu nhất định nhưng kết quả hơn 14 năm thi hành Luật
Cạnh tranh 2004 không được như kỳ vọng. Số lượng vụ việc được điều tra và xử lý chưa
nhiều, chưa phản ánh đúng thực tế cạnh tranh trên thị trường.
Nhằm khắc phục những hạn chế và bất cập này, ngày 12/06/2018, Quốc hội đã thông qua
Luật Cạnh tranh (sửa đổi, bổ sung) năm 2018 (Luật Cạnh tranh 2018), có hiệu lực thi
hành từ 01/07/2019 với nhiều nội dung được sửa đổi, bổ sung so với Luật Cạnh tranh
2004. Theo đó, Luật cạnh tranh 2018 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp
dụng bất cứ một hành vi, một thỏa thuận hay một giao dịch mua bán sáp nhập nào xảy ra
ở bất cứ nơi đâu, kể cả trong lãnh thổ Việt Nam hay ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng có 7
khả năng tác động gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể tới thị trường Việt Nam thì
đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh tranh 2018.
Ngoài ra, luật đã sửa đổi, bổ sung và làm rõ những hành vi bị cấm đối với cơ quan nhà
nước lợi dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp trái pháp luật vào hoạt động cạnh tranh.
Đây là điểm mới nhằm nâng cao hiệu quả thực thi của Luật Cạnh tranh một cách toàn
diện với tất cả chủ thể, của tổ chức, cá nhân mà thực hiện hành vi được coi là có tác động
bất lợi đến cạnh tranh trên thị trường. Điểm đặc biệt nhất có lẽ chính là luật quy định
thành lập Ủy ban Cạnh tranh quốc gia, trên cơ sở tổ chức lại các cơ quan quản lý cạnh
tranh theo Luật Cạnh tranh 2004, bao gồm cơ quan quản lý cạnh tranh (hiện là Cục Cạnh
tranh và bảo vệ người tiêu dùng) và Hội đồng Cạnh tranh…
Có thể thấy, pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền tại Việt Nam đã dần được hoàn thiện theo thời gian. PHẦN KẾT LUẬN 8
Cạnh tranh là một quy luật, là một phần của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh cũng có
những mặt trái của nó, cạnh tranh thường dẫn đến độc quyền và nó được đánh dấu bằng
sự phá sản của một bên tham gia cạnh tranh, gây ra thất nghiệp tạo gánh nặng cho xã hội.
Tuy nhiên xét trong một quá trình lâu dài và dựa vào toàn bộ lợi ích của xã hội thì cạnh
tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế với nhau sẽ làm nguồn lực của xã hội được phân bố và sử dụng hiệu quả
hơn. Những mặt trái của cạnh tranh đem lại là điều không đáng ngại nếu như chúng ta có
chính sách cạnh tranh và chống độc quyền hợp lý. Nhiều nước trên thế giới đã áp dụng
chính sách cạnh tranh trong phát triển kinh tế và được hiệu quả cao.
Đối với Việt Nam, thực trạng hiện nay cho thấy môi trường cạnh tranh và chống độc
quyền nước ta còn nhiều hạn chế còn nhiều tồn tại cần tháo gỡ. Đối với chúng ta còn
nhiều việc phải làm để có một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Pháp luật về cạnh tranh
và chống độc quyền của Việt Nam theo thời gian đã dần được hoàn thiện. Song so với
nhiều nước trên thế giới đặc biệt là Cộng đồng Châu Âu, pháp luật cạnh tranh và chống
độc quyền của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Trong đó đặc biệt vấn đề chống độc quyền,
mô hình tổ chức, hoạt động, thẩm quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh… Do đó, Việt
Nam vẫn cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh với
xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và đặc biệt là sự phát triển của công nghệ số,
các hình thức kinh doanh nói chung và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói riêng
ngày càng phức tạp, đa dạng và khó đoán định.
Tóm lại, cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một con dao hai lưỡi. Nó có là động
lực cho sự phát triển kinh tế hay không còn phụ thuộc vào sự vận dụng quy luật này ở
mỗi nước. Nếu có chính sách hợp lý thì nước đó sẽ có rất nhiều lợi ích mà cạnh tranh
đem lại bằng không nó sẽ là một cỗ máy nghiền nát kinh tế. Việt Nam sẽ thành công nếu
như biết vận dụng quy luật cạnh tranh. 9