Tiểu luận Kinh tế chính trị Mác - Lenin về hội nhập kinh tế quốc tế| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Mục lục
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ........................................................................................................... . 2 I.
Cơ sở lý thuyết ..................................................................................................................................... 3 1.
Lý luận chung về nền kinh tế thị trường....................................................................................... 3 a.
Khái niệm: ..................................................................................................................................... 3 b.
Đặc trưng phổ biến của nền kinh tế thị trường: ............................................................................ 3 c.
Ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường: ........................................................................... 4 d.
Một số quy luật kinh tế chủ yếu của nền kinh tế thị trường .......................................................... 6 2.
Lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế ................................................................................... 6 a.
Khái niệm: ..................................................................................................................................... 6 b.
Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế: ................................................................. 7 c.
Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế ................................................................................................ 7 II.
Vận dụng .......................................................................................................................................... 7 1.
Vị trí của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế: .................................................................... 7 2.
Vận dụng của Đảng ta vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ..................... 9 III.
Kết luận chung .............................................................................................................................. 11 IV.
Danh mục tài liệu tham khảo ....................................................................................................... 12 [1]
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu thể hiện sự phát triển vượt bậc
của lực lượng sản xuất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu
rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự
hợp nhất dần dần về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến
nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của khu vực và thế giới nói
chung. Đó là sự phát triển nhảy vọt của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng
trưởng cao trong đó cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi phù hợp với thời đại. Hòa vào xu thế chung đ ,
ó Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối
lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận
lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ trương
của Đảng: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước “, chúng ta sẽ khắc
phục những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Hội nhập kinh tế quốc tế là tất
yếu khách quan đối với Việt Nam. Em xin chọn đề tài: " Vị trí của Việt Nam
trong hội nhập kinh tế quốc tế và vận dụng của Đảng ta vào nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.". Đây là một đề tài rất sâu rộng, mang tính thời sự. D
o hiểu biết còn hạn chế em không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất
mong nhận được những lời góp ý của thầy. Em xin chân thành cảm ơn! [2] I.
Cơ sở lý thuyết
1. Lý luận chung về nền kinh tế thị trường
Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử
mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên
con đường phát triển và nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa chính là nền kinh tế thị
trường phát triển đến trình độ phổ b ế
i n và hoàn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính
là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế Xã hội chủ
nghĩa. Để chuyển lên nấc thang này, nền kinh tế thị trường phải phát triển hết
mức, phải trở thành phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội.
Đây là một kết luận lý luận quan trọng. Nó khái quát quá trình phát triển của
lịch sử nhân loại, trong đó, kinh tế thị trường được xác định là một nấc thang tất
yếu, mang tính phổ biến. Tính phổ biến của kinh tế thị trường thể hiện ở cấu
trúc chung cho mọi nền kinh tế thị trường. a. Khái niệm:
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo các quy luật thị trường. Được
coi là mức độ phát triển cao hơn của nền kinh tế hàng hóa.
b. Đặc trưng phổ biến của nền kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường nói chung bao hàm những yếu tố c ủ h yếu cơ bản như sau:
Thứ nhất, sự đa dạng của các chủ thể trong nền kinh tế với nhiều hình thức sở
hữu. Các chủ thể kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật.
Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực xã
hội thông qua hoạt động của các thị trường như thị trường hàng hóa, thị trường
dịch vụ, thị trường sức lao động, .. .
Thứ ba, hệ thống giá cả được xác lập thông qua tương quan cung-cầu quyết
định sự vận hành của nền kinh tế thị trường.
Thứ tư, là nền kinh tế mở, thị trường trong nước quan hệ mật thiết với thị trường quốc tế
Khi nói đến cạnh tranh tự do, không thể không đề cập đến kinh tế thị trường. Về
bản chất, cơ chế cạnh tranh là cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế thị trường.
Do vậy, nó còn được gọi là “bàn tay vô hình”. Cơ chế này giúp nền kinh tế tái
lập sự cân bằng mỗi khi bị trục trặc.
Thứ năm, vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước [3]
Thị trường có những khuyết tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại trong
việc giải quyết một số vấn đề phát triển, ví dụ như khủng hoảng, đói nghèo,
công bằng xã hội, môi trường, v.v. Để khắc phục chúng và tránh khỏi thất bại
thị trường, nhà nước phải tham gia quản lý, điều tiết sự vận hành nền kinh tế.
Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế thị trường vừa với tư cách là bộ
máy quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành kinh tế. Với
các tư cách đó, nhà nước thực hiện ba chức năng:
- Quản lý, định hướng và hỗ trợ phát triển;
- Phân phối lại thu nhập quốc dân. - Bảo vệ môi trường.
Năm yếu tố nói trên là 5 yếu tố cấu thành cơ bản khung cấu tạo chung của mọi
nền kinh tế thị trường. Chúng hình thành một tổng thể, quy định lẫn nhau.
Thiếu bất cứ yếu tố nào trong số đó đều khó có thể có nền kinh tế thị trường
bình thường và vận hành một cách hiệu quả. Tuy nhiên, trong mỗi nền kinh tế
thị trường, tuỳ theo các điều kiện cụ thể m
à vai trò, vị trí và chức năng của từng
yếu tố không hoàn toàn giống nhau. Điều này tạo nên đặc thù riêng của các mô
hình kinh tế thị trường và nền kinh tế thị trường ở những quốc gia cụ thể. Ở
Việt Nam, với đặc thù là một nước đi theo mô hình xã hội chủ nghĩa nên nền
kinh tế thị trường ở nước ta mang đậm tính chất của chủ nghĩa xã hội.
c. Ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường:
Nền kinh tế thị trường có nhiều ưu thế, tuy nhiên cũng có những khuyết tật.
Về ưu thế của nền kinh tế thị trường:
Đầu tiên, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực cho sự sáng tạo của các
chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể luôn có cơ hội tìm ra
động lực cho sự sáng tạo của mình. Thông qua thị trường mà nền kinh tế thị
trường trở thành phương thức hữu hiệu kích thích tính sáng tạo trong hoạt động
của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Nhờ
đó mà năng suất lao động tăng, hiệu quả sản xuất được nâng cao và nền kinh tế
hoạt động năng động và hiệu quả.
Hai là, nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể,
các vùng, miền cũng như lợi thế của quốc gia. [4]
Trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế đều có thể đ ợc ư phát huy
và đều có thể là lợi ích đóng góp cho xã hội. Thông qua vai trò gắn kết của thị
trường mà nền kinh tế thị trường trở thành phương thức hiệu quả hơn hẳn so với
nền kinh tế tự cấp, tự túc hay nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để t ỏ h a mãn tối đa nhu
cầu của con người, từ đó thúc đẩy sự văn minh, tiến bộ của xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, các thành viên của xã hội luôn có thể tìm thấy cơ
hội tối đa để thỏa mãn nhu cầu của mình. Với tác động từ các quy luật thi
trường, nền kinh tế luôn tạo ra được sự phù hợp giữa khối lượng, cơ cấu sản
xuất với khối lượng, cơ cấu nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Nhờ đó, nhu cầu đối
với các loại mặt hàng và dịch vụ khác nhau được đáp ứng kịp thời.
Về khuyết tật của nền kinh tế thị trường:
Một là, trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn rủi ro khủng hoảng.
Do tính vận động liên tục mà cơ chế thị trường không phải lúc nào cũng tạo ra
được những cân đối, vì vậy nên luôn tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng.
Khủng hoảng có thể diễn ra cục bộ ở một số ngành, lĩnh vực hoặc trên phạm vi
tổng thể của cả nền kinh tế. Các quốc gia sẽ rất khó khăn để dự báo chính xác
thời điểm xảy ra khủng hoảng. Nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục những rủi ro này.
Hai là, nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt
tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Do phần lớn các chủ thể sản xuất kinh doanh luôn đặt mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận nên luôn tạo ra ảnh hưởng tiềm ẩn với nguồn lực tài nguyên và suy thoái
môi trường. Họ có thể vi phạm nguyên tắc đạo đức và nguyên tắc kinh doanh để
chạy vì mục tiêu lợi nhuận.
Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa xã hội về thu nhập, về cơ hội
là tất yếu. Bản thân nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được khía
cạnh này. Các quy luật của thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại
hình hoạt động tham gia thị trường, cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn
đến sự phân hóa như một tất yếu. Đây là một khuyết tật của nền kinh tế thị
trường mà cần có sự bổ sung và điều tiết của Nhà nước. [5]
d. Một số quy luật kinh tế chủ yếu của nền kinh tế thị trườn g
Vì kinh tế thị trường được coi là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, các
quy luật của nền kinh tế hàng hóa cũng có tác dụng trong nền kinh tế thị trường.
Một số quy luật điển hình trong nền kinh tế thị trường là:
Về quy luật giá trị, đây là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa. Ở đâu
có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị yêu cầu việc trao đổi và sản xuất hàng hóa phải được tiến hành
trên cơ sở của hao phí lao động xã hội cần thiết. Quy luật giá trị hoạt động và
phát huy tác dụng thông qua sự tác động của quan hệ cung - cầu.
Về quy luật cung – cầu, đây là quy luật kinh tế nhằm điều tiết quan hệ g ữ i a bên
bán và bên mua hàng hóa trên thị trường. Trên thị trường, cung – cầu có mối
quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực
tiếp đến giá cả. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả sẽ cao hơn giá trị của hàng hóa
và ngược lại, cung lớn hơn cầu thì giá cả sẽ nhỏ hơn giá trị của hàng hóa. Nếu
cung bằng cầu thì giá cả sẽ bằng giá trị của hàng hóa. Đây là sự tác động theo
nhiều hướng và có nhiều mức độ khác nhau.
Về quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật này yêu cầu việc lưu thông tiền tệ phải
căn cứ trên yêu cầu của lưu thông hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa số lượng tiền
cần thiết vào lưu thông trong mỗi thời kỳ phải có sự phù hợp và thống nhất với
lưu thông hàng hóa. Nếu số t ề
i n đưa vào lưu thông quá lớn hoặc quá nhỏ,
không cân đối với lưu thông hàng hóa có thể dẫn tới lạm phát hoặc giảm phát.
Về quy luật cạnh tranh, đây là quy luật kinh tế nhằm điều tiết một cách khách
quan mối quan hệ ganh đua kinh tế giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi
hàng hóa. Quy luật cạnh tranh quy định rằng khi đã tham gia thị trường, các chủ
thể sản xuất kinh doanh luôn phải chấp nhận sự cạnh tranh với các chủ thể kinh
tế khác. Cạnh tranh là yếu tố ganh đua không thể thiếu giữa những chủ thể kinh
tế với nhau nhằm có được những ưu thế về sản xuất cũng như tiêu thụ và thông
qua đó tối đa hóa lợi ích.
2. Lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế a. Khái niệm:
Là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết giữa các
nền kinh tế của các quốc gia với nhau dựa trên sự sẻ chia nguồn lực và lợi ích
trên cơ sở tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các chế định hoặc tổ chức quốc tế. [6]
b. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế:
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa tuy
diễn ra trên nhiều phương diện như kinh tế, chính trị, văn hóa, … nhưng nổi bật
nhất là toàn cầu hóa kinh tế. Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, hội
nhập kinh tế quốc tế trở thành tất yếu khách quan vì các yếu tố sản xuất được
lưu thông trên phạm vi toàn cầu. Do đó, nếu không hội nhập kinh tế quốc tế,
các nước không thể đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các
nước, đặc biệt là các quốc gia đang và kém phát triển. Việc hội nhập kinh tế
quốc tế đem lại cơ hội để các quốc gia này tiếp cận và sử dụng các nguồn lực từ
bên ngoài như tài chính, khoa học – công nghệ, … Vì vậy, có thể n ậ h n định
rằng hội nhập kinh tế quốc tế là con đường giúp cho các nước đang và kém phát
triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến, khắc phục nguy cơ thụt lùi, tụt hậu.
c. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, cần chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập hiệu quả và thành
công. Các điều kiện sẵn sàng về tư tưởng, sự tham gia toàn xã hội, sự hoàn
thiện của nguồn nhân lực và sự am hiểu môi trường quốc tế, … là những điều
kiện chủ yếu để thực hiện hội nhập thành công.
Thứ hai, cần thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc
tế. Tiến trình hội nhập có thể được chia thành các mức độ cơ bản từ thấp tới cao
là: Thỏa thuận thương mại ưu đãi (Preferential Trade Agreement - PTA), Khu
vực mậu dịch tự do (Free Trade Area – FTA), Liên minh thuế quan (Custom
Union), Thị trường chung, …
II. Vận dụng
1. Vị trí của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế:
Từ khi Đổi mới 1986 tới nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn
của Đảng ta trong công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam hiện đại, văn minh
và giàu đẹp. Vì vậy, có thể nói, hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện đã trở thành
động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cũng như tạo ra sức mạnh
tổng hợp nhằm nâng cao sức cạnh tranh và khẳng định vị thế của Việt Nam trên nền kinh tế thế giới. [7]
Trong bối cảnh xuất phát điểm của nước ta ở mức trung bình – thấp, hội nhập
kinh tế quốc tế là con đường nhanh nhất để thu hẹp khoảng cách với các nước
khác trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, tại Đại hội VI, Đảng ta đã đề ra
đường lối đổi mới mà trọng tâm là đổi mới chính sách kinh tế, trong đó, hội
nhập kinh tế quốc tế là một nội dung quan trọng. Đảng chủ trương tranh thủ tận
dụng những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế trong khu vực và trên thế giới
nhằm phát triển nền kinh tế ở nước ta.
Trong những năm qua, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã đạt được một
số thành tựu quan trọng, đóng góp chung vào công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. N ớc ư
ta đã và đang tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự
do (FTA) trong khuôn khổ khu vực và thế giới, song phương và đa phương.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập được quan hệ thương mại tự do với hầu hết các
nước đối tác quan trọng, tạo cơ sở vững chắc cho việc tăng cường và thúc đẩy
trao đổi thương mại cũng như đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế trên phạm vi khu vực và toàn cầu.
Đặc biệt, kể từ dấu mốc năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của WTO mở ra rất nhiều cơ hội cho nước ta. Sự kiện này đã để lại nhiều dấu
ấn tích cực trên hành trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
trong hơn một thập kỷ qua. Dấu ấn WTO ghi nhận rõ nét trong việc Việt Nam
trở thành một nền kinh tế có độ mở và tính năng động cao. Theo Tổng cục
Thống kê, nếu năm 2006, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước chỉ ở mức
84,7 tỷ USD thì tới năm 2021, con số đó đạt tới 668,5 tỷ USD, tăng hơn 7 lần
so với 2006. Mặc dù phải chịu ảnh hưởng từ dịch bệnh Covid-19, nhưng cán
cân thương mại nước ta vẫn luôn đạt thặng dư với mức xuất siêu tăng dần qua các năm.
Việc tuân thủ các cam kết hội nhập cũng giúp Việt Nam cải thiện nhiều chỉ số
xếp hạng quốc tế quan trọng khác. Theo đánh giá và xếp hạng của Diễn đàn
Kinh tế thế giới (WEF), chỉ số “năng lực cạnh tranh toàn cầu” của Việt Nam đã
cải thiện mạnh khi trong 10 năm (2007-2017), chỉ số của Việt Nam tăng 13 bậc
từ hạng 68/131 lên 55/137 và chuyển từ nhóm nửa dưới vào nhóm nửa trên của
bảng xếp hạng. Trước khi dịch Covid-19 bùng phát trên thế giới, Việt Nam
được coi là quốc gia có nền kinh tế ổn định, tăng trưởng nhanh thuộc tốp đầu
khu vực và thế giới, được IMF đánh giá nằm trong số 20 nền kinh tế có đóng
góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu năm 2019. [8]
Đến nay, nước ta đã được 90 nước công nhận là nền kinh tế thị trường và đạt
được những thành tựu nổi bật về tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua, đồng
thời vẫn tiếp tục có khả năng giữ được đà tăng trưởng cao trong tương lai nhờ
vào các chính sách tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài, cũng như hoạt động
khởi sự kinh doanh. Những kết quả đạt được nói trên cho thấy Việt Nam là một
đất nước có nền kinh tế năng động sau khi tích cực tham gia vào các tổ chức
quốc tế. Những thành tựu này là kết tinh của quá trình nỗ lực bền bỉ lâu dài và
kiên định với các chính sách và đường lối, chủ trương của Đảng trong công
cuộc đổi mới nền kinh tế, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước.
Có thể nói, vị trí của Việt Nam trong nền kinh tế thế giới ngày càng được nâng cao và k ẳ
h ng định chắc chắn, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay.
2. Vận dụng của Đảng ta vào nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
Tại Đại hội IX (năm 2001), khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” được Đảng ta chính thức đề cập đến và coi đó là mô hình tổng quát,
là đường lối chiến lược nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội hướng tới các mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng
và văn minh”. Đến nay, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được xác định ngày càng sâu sắc.
Thứ nhất, Nhà nước hiện thực hóa các chủ trương của Đảng thành các chiến
lược, chương trình, kế hoạch để chủ động và tích cực đưa nền kinh tế nước hội
nhập nền kinh tế quốc tế.
Nhằm chủ động và tích cực hội nhập, phát huy tốt các thế mạnh và nội lực của
đất nước, đồng thời phát huy tốt năng lực ngoại giao, một trong những điều
quan trọng cần phải làm là xây dựng được nội dung chương trình, kế hoạch
hoặc chiến lược phù hợp, đúng đắn và linh hoạt, đồng thời thực hiện triển khai
các kế hoạch một cách hiệu quả trong thực tiễn.
Thứ hai, Nhà nước tăng cường chỉ đạo mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối
ngoại và tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, đồng thời cam kết
tuân thủ các thông lệ quốc tế và xây dựng các chế định quốc tế để c ủ h động và tích cực hội nhập. [9]
Mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại là một nội dung quan trọng, tạo cơ
hội đưa nền kinh tế ở nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào thể chế kinh tế
toàn cầu. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế thị trường ở nước ta dưới sự điều tiết
của Nhà nước, những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã không ngừng triển khai
các chính sách mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đẩy mạnh thiết lập quan hệ lâu
dài với các quốc gia trong khu vực và trên thế g ới
i trên nguyên tắc phù hợp với
chủ trương của Đảng là “xây dựng và đổi mới nền kinh tế nước ta – kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong quan hệ là một bộ phận của nền kinh
tế quốc tế trong bối cảnh hội nhập hiện nay”.
Thứ ba, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện khung hệ thống pháp luật phù hợp để
tạo môi trường thuận lợi cho việc chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Xác định rõ ràng tính cần thiết của việc xây dựng và hoàn thiện hệ t ố h ng pháp
luật đối với quá trình thúc đẩy nền kinh tế chủ động tham gia vào tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, những năm qua, Nhà nước đã không ngừng đổi mới tư
duy sáng tạo và nỗ lực, hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các văn bản
pháp luật dưới dạng Bộ luật, luật, … đặc biệt là các văn bản quy phạm pháp
luật trong lĩnh vực kinh tế theo hướng thích ứng với những thay đổi và yêu cầu
của tiến trình hội nhập, trong đó nhiều văn bản có liên quan trực tiếp tới vấn đề
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế như Luật đầu tư nước ngoài, Luật
đầu tư, Luật thương mại quốc tế, … và hàng loạt các Pháp lệnh, Nghị định, Quy
định hỗ trợ về mặt pháp lý trong các hoạt động thương mại quốc tế như Pháp
lệnh trọng tài thương mại, Pháp lệnh ngoại hối, Nghị định về quản lý xuất – nhập khẩu …
Những nỗ lực trên của Nhà nước đã và đang góp phần tích cực tới môi trường
pháp lý ở nước ta ngày càng phù hợp với các chuẩn mực, các quy định của các
thể chế liên kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, góp phần tạo “sân chơi an toàn”
cho các hoạt động đầu tư kinh doanh, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và dần
hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. [10]
III. Kết luận chung
Tham gia vào quá trình chung của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và tận
dụng những điều kiện thuận lợi khách quan là một đường lối đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiện tại, giá trị của đường lối hội nhập này vẫn ngày
càng chứng minh giá trị của mình thông qua các thành tựu và đóng góp ngày
một nhiều cho sự phát triển chung của nền kinh tế nước ta.
Trong thời kỳ phát triển hội nhập, với xu hướng chung của thế giới là sự mở
cửa giao thương giữa các quốc gia, các cơ hội lúc nào cũng hiện hữu và nhiệm
vụ của ta là tận dụng tốt các cơ hội đó, đồng thời tìm cách hạn chế các khuyết
điểm để phát triển nền kinh tế một cách tối ưu nhất.
Sau hơn ba thập kỷ Đổi mới và hội nhập nền kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn và toàn diện trên nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực
khác nhau không chỉ về kinh tế mà còn trên mặt xã hội và chính trị - an ninh.
Những thành tựu này càng khẳng định đường lối và tư duy đúng đắn của Đảng
ta, góp phần khích lệ và tạo động lực cho sự ổn định của chính trị - xã hội, tiếp
tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới và đưa đất nước lên những nấc thang mới của sự phát triển. [11]
IV. Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, 2021, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật.
2. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh cục diện kinh tế thế
giới mới, 2019, Tạp chí viện hàn lâm, số 7, tạp chí Viện khoa học Hàn lâm.
https://www.vass.gov.vn/tap-chi-vien-han-lam/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-
viet-nam-trong-boi-canh-cuc-dien-kinh-t - e the-gioi-moi-20
3. Khẳng định vị thế của Việt Nam trên đại lộ hội nhập quốc tế, 2021, Báo Vietnamplus.
https://www.vietnamplus.vn/khang-dinh-v -
i the-cua-viet-nam-tren-dai-l - o hoi- nhap-quoc-te/721281.vnp
4. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, 2021, Tạp chí cộng sản.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/823673/mot-s - o
van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-nen-kinh-t -
e thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu- nghia-o-viet-nam.aspx
5. Vai trò của Nhà nước trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam hiện nay, Hoàng Thị Kim Oanh, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
https://hcma.vn/Uploads/2015/1/4/hoang_thi_kim_oanh_la.pdf
6. Dấu ấn tích cực trên hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam, 2022, Báo chính phủ.
https://baochinhphu.vn/dau-an-tich-cuc-tren-hanh-trinh-doi-moi-va-hoi-nhap-
quoc-te-cua-viet-nam-102220110083625022.htm
7. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm Đổi mới, 2019,
Hội đồng lý luận trung ương.
http://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-
nam-trong-nhung-nam-doi-moi.html [12]