Tiểu luận lịch sử ra đời và phát triển - Kinh tế chính trị | Trường Đại Học Duy Tân

Sự ra đời của kinh tế chính trị Mác có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn trongmọi lĩnh vực đời sống. Nước ta luôn vận dụng kinh tế chính trị Mác vào thực tiễn để cóđược sự thành trong các lĩnh vực. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA KH XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÁC-LÊNIN.
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN.
GVHD: Cô Nguyễn Thị Hải Lên
LỚP: POS 151H
TÊN THÀNH VIÊN NHÓM: 11A
1. Nguyễn Thị Thanh Bình (27208627629)
2. Trần Đức Cường (27218644065)
3. Nguyễn Thị Phương Hiền (27208601559)
4. Phạm Thành Long (27218629679)
5. Hồ Quang Như (27211242849)
6. Nguyễn Thành Phương 27214335689) (
7. Khương Trung Thiện (29219322137)
Đà Nẵng , tháng 02 năm 2024
PHÂN CHIA CÔNG VIỆC GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM
STT HỌ VÀ TÊN MSSV NỘI DUNG PHÂN
TÍCH
%
1 Nguyễn Thị Thanh Bình 7629 Chương I :1.3,1.4 100%
2 Trần Đức Cường 4065 Chương I:1.2 100%
3 Nguyễn Thị Phương Hiền 1559 Mở đầu ,kết bài
Tổng hợp, chỉnh sửa,
in tiểu luận
100%
4 Phạm Thành Long 9679 Chương II:2.2 100%
5 Hồ Quang Như 2849 Chương II:2.3 100%
6 Nguyễn Thành Phương 5689 Chương I:1.1 100%
7 Khương Trung Thiện 2137 Chương II:2.1 100%
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................4
NỘI DUNG...........................................................................................5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỊCH SỬ RA ĐỜI
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN.....5
1. Kinh tế chính trị là gì...............................................................5
2. Kinh tế chính trị Mác-Lênin.....................................................6
3. Quá trình hình thành và phát triển...........................................9
4. Đặc điểm kinh tế....................................................................12
CHƯƠNG II: Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN.............................................13
1. Vận dụng nghiên cứu kinh tế chính trị Mác-Lênin vào thực
tiễn.................................................................................................13
2. Hạn chế..................................................................................17
3. Đối sinh viên..........................................................................18
KẾT LUẬN.........................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................20
LỜI MỞ ĐẦU
Sự ra đời của kinh tế chính trị Mác có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn trong
mọi lĩnh vực đời sống. Nước ta luôn vận dụng kinh tế chính trị Mác vào thực tiễn để có
được sự thành trong các lĩnh vực. Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, phát
triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những thành tựu quan trọng về lý luận
của Đảng, góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển đường lối đổi mới của
Đảng, đó một phần là nhờ ứng dụng chủ nghĩa Mác. Chính vì thế, em xin chọn đề tài:
“Lịch sử ra đời và phát triển của kinh tế chính trị Mác-Lênin. Ý nghĩa của việc nghiên
cứu kinh tế chính trị Mác-Lênin”.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
1. Kinh tế chính trị là gì
Thuật ngữ khoa học kinh tế chính trị được xuất hiện ở châu Âu năm 1615 trong
tác phẩm Chuyên luận về kinh tế chính trị của nhà kinh tế người Pháp tên là
A.Montchretien. Trong tác phẩm này, tác giả đề xuất môn khoa học mới - môn kinh tế
chính trị. Tuy nhiên, tác phẩm này mới chỉ là phác thảo về môn học kinh tế chính trị.
Tới thế kỷ XVIII, với sự xuất hiện hệ thống lý luận của nhà kinh tế học người Anh tên
là A.Smith, kinh tế chính trị chính thức trở thành môn học với các phạm trù, khái niệm
chuyên ngành. Từ đó, kinh tế chính không ngừng được bổ sung, phát triển cho đến hiện
nay.
Kinh tế chính trị là một lĩnh vực nghiên cứu đa ngành, kết hợp giữa kinh tế học
và khoa học chính trị. Nó tập trung vào việc nghiên cứu và phân tích các quan hệ phức
tạp giữa kinh tế và chính trị, và cách chúng tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau.
Trong kinh tế chính trị, chúng ta nghiên cứu về cách các quyết định chính trị,
chẳng hạn như chính sách thuế, chính sách tiền tệ, chính sách thương mại, ảnh hưởng
đến hoạt động kinh tế. Ví dụ, một quyết định chính trị như tăng thuế có thể ảnh hưởng
đến giá cả, sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế.
Ngược lại, kinh tế cũng có thể ảnh hưởng đến quyết định chính trị. Ví dụ, tình
hình kinh tế suy thoái có thể gây áp lực lên chính phủ để thực hiện các biện pháp kích
thích kinh tế như chi tiêu công cộng hoặc giảm thuế.
Kinh tế chính trị cũng nghiên cứu về các hệ thống kinh tế và chính trị khác nhau
trên thế giới, bao gồm cả các hệ thống kinh tế thị trường, kinh tế hỗn hợp và kinh tế
quốc gia. Nó cũng quan tâm đến cách thức quản lý tài nguyên và phân phối thu nhập
trong một xã hội, và tìm hiểu về các vấn đề xã hội và chính trị liên quan đến kinh tế.
Tổng quan, kinh tế chính trị giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự tương tác phức tạp
giữa kinh tế và chính trị, và cung cấp cơ sở để đưa ra các quyết định chính trị và kinh tế
có ý thức và hiệu quả.
2. Kinh tế chính trị Mác-Lênin
Kinh tế chính trị là một trong ba bộ phận cấu thành của lý luận Mác - Lênin, là
khoa học nghiên cứu về quan hệ sản xuất trong mối liên hệ và sự tác động lẫn nhau với
lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng; nghiên cứu quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất trong xã hội.
Mặc dù ra đời tương đối muộn hơn so với các môn khoa học khác như triết học,
sử học..., nhưng kinh tế chính trị có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội.
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa đã được xác lập
hoàn toàn nhiều nước Tây Âu, những mâu thuẫn vốn của chủ nghĩa bản ngày
càng gay gắt, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống chế độ áp bức bóc lột của
giai cấp tư sản ngày càng lên cao và chuyển từ tự phát sang tự giác, từ đấu tranh kinh tế
đến đấu tranh chính trị, đòi hỏi phải có lý luận cách mạng làm vũ khí tư tưởng cho giai
cấp vô sản chủ nghĩa Mác đã ra đời.
Các Mác (1818-1883) và Phriđrích Ăngghen (1820-1895)người sáng lập chủ
nghĩa Mác với ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội
khoa học dựa trên sở kế thừa có tính phê phán chọn lọc những luận khoa học
của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp.
Mác và Ph. Ăngghen đã làm cuộc cách mạng sâu sắc nhất trong kinh tế chính trị
trên tất cả các phương diện về đối tượng phương pháp nghiên cứu, nội dung, tính
chất giai cấp… của kinh tế chính trị. Kinh tế chính trị do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng
lập sự thống nhất giữa tính khoa học tính cách mạng, dựa vào phép biện chứng
duy vật đứng trên lập trường của giai cấp công nhân để xem xét các hiện tượng
quá trình kinh tế của hội bản. C. Mác đã xây dựng học thuyết giá trị thặng
hòn đá tảng của học thuyết kinh tế mác xít. C. Mác đã vạch sự phát sinh, phát triển
của chủ nghĩa tư bản với những tiến bộ, hạn chế, mâu thuẫn của nó và luận chứng khoa
học về chủ nghĩa bản tất yếu sẽ bị thay thế bởi một phương thức sản xuất mới, cao
hơn và tiến bộ hơn, đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong điều kiện lịch sử mới, V.I. Lênin
(1870-1924) đã tiếp tục bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác lên tầm cao mới. V.I. Lênin
đã sáng tạo ra luận khoa học về chủ nghĩa đế quốc; khởi thảo luận mới về cách
mạng xã hội chủ nghĩa; tính tất yếu khách quan, đặc điểm và nhiệm vụ cơ bản của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội. Đồng thời V.I. Lênin còn vạch ra những quá trình
tính quy luật trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chính sách kinh tế mới (NEP)
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự phát triển của nhân loại.
Kinh tế chính trị Mác Lênin tập trung nghiên cứu, mổ xẻ các quan hệ kinh tế
trong lòng hội bản nghiên cứu sâu về các quy luật của nền sản xuất này, cụ
thể:
1. Đề cập về hàng hóa, sản xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng
hóa (trong chủ nghĩa tư bản)
2. Tập trung mổ xẻ quy luật kinh tế của chủ nghĩa bản cốt lõi việc sản
xuất giá trị thặng dư
3. Phân tích sự vận động của tư bản cá biệt và tái sản xuất tư bản xã hội
4. Xem xét các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dự
5. Nghiên cứu về chủ nghĩa bản độc quyền chủ nghĩa bản độc quyền nhà
nước (phần này do Lenin có công đóng góp rất lớn).
Kinh tế chính trị Mác Lênin có những chức năng sau đây:
Thứ nhất: Chức năng nhận thức
Kinh tế chính trị Mác Lênin cũng giống các ngành khoa học khác, đưa đến
những vấn đề về nhận thức, khám phá. Chức năng này của kinh tế chính trị được thể
hiện ở chỗ nó cần phát hiện bản chất của các hiện tượng, quá trình kinh tế của đời sống
hội, tìm ra quy luật chi phối sự vận động của chúng, giúp con người vận dụng các
quy luật kinh tế một cách có ý thức vào hoạt động kinh tế nhằm đạt được hiệu quả kinh
tế, xã hội cao.
Thứ hai: Chức năng thực tiễn
Giống như các môn khoa học khác, chứcng nhận thức của kinh tế chính trị
không mục đích tự thân. Nhận thức không chỉ để nhận thức nhận thức còn để
phục vụ cho hoạt động thực tiễn hiệu quả. Đó chức năng thực tiễn của kinh tế
chính trị.
Hai chức năng trên của kinh tế chính trị Mác Lênin có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Đường lối, chính sách biện pháp kinh tế dựa trên những luận cứ khoa học
đúng đắn của các chính sách, biện pháp kinh tế kiểm nghiệm những kết luận
kinh tế chính trị đã cung cấp trước đó. Thực tiễn vừa nơi xuất phát vừa là nơi kiểm
nghiệm tính đúng đắn của lý luận kinh tế. Căn cứ để đánh giá tính đúng đắn của lý luận
kinh tế sự phát triển của nền sản xuất hội, tính đúng đắn của luận kinh tế
sự phát triển của nền sản xuất xã hội, tính hiệu quả của hoạt động kinh tế.
Thứ ba: Chức năng tư tưởng
Trong các xã hội có giai cấp, chức năng tư tưởng của kinh tế chính trị thể hiện ở
chỗ các quan điểm lý luận của nó xuất phát từ lợi ích và bảo vệ lợi ích của các giai cấp
hoặc các tầng lớp hội nhất định. luận kinh tế Chính trị của giai cấp sản đều
phục vụ cho việc củng cố sự thống trị của giai cấp sản, biện hộ cho sự bóc lột của
chủ nghĩa tư bản.
Thứ tư: Chức năng phương pháp luận
Kinh tế chính trị là nền tảng lý luận cho tổ hợp các khoa học kinh tế. Những kết
luận của kinh tế chính trị biểu hiện các phạm trù quy luật kinh tế tính chất
chung sở luận của các môn kinh tế chuyên ngành các môn kinh tế chức
năng. Đồng thời, kinh tế chính trị cũng sở luận cho một số các môn học khác
như: địa lý kinh tế, dân số học, lịch sử kinh tế quốc dân, lý thuyết quản lý,...
3. Quá trình hình thành và phát triển
Tới thế kỷ XVIII, với sự xuất hiện luận của A. Smith- một nhà kinh tế học
người Anh- thì kinh tế chính trị mới trở thành môn học tính hệ thống trở thành
môn khoa học và được phát triển cho đến ngày nay.
* Sự phát triển tư tưởng kinh tế của loài người
1. Giai đoạn thứ nhất: Từ thời cổ đại đến cuối thế kỷ XVIII
+ Những tư tưởng kinh tế thời cổ, trung đại (từ thời cổ đại đến thế kỷ XV)
+ Chủ nghĩa trọng thương ( Thế kỷ XV đến TK XVII ở Anh, Pháp, Italia)
+ Chủ nghĩa trọng nông- Pháp ( giữa thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII)
+ Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh ( giữa thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII)
2. Giai đoạn thứ hai, từ sau thế kỷ thứ XVIII đến nay
thuyết kinh tế chính trị của C.Mác (1818-1883) kế thừa những giá trị khoa
học của kinh tế chính trị sản cổ điển Anhxây dựng hệ thống luận kinh tế một
cách khoa học, toàn diện về nền sản xuất TBCN, tìm ra những quy luật chi phối sự
hình thành, phát triển và luận chứng vai trò lịch sử của phương thức sản xuất TBCN.
luận kinh tế chính trị của C.Mác Ph.Ănghen được thể hiện động
nhất trong bộ Tư bản. Trong đó C.Mác đã trình bày một cách khoa học và chỉnh thể về
các về các phạm trù cơ bản của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa như hàng hóa, tiền tệ, giá
trị thặng dư, địa tô, cạnh tranh và các quy luật kinh tế cơ bản cũng như các quan hệ
hội giữa các giai cấp trong nền kinh tế hàng hóa- kinh tế thị trường. Với học thuyết giá
trị thặng nói riêng bộ bản nói chung đã xây dựng sở khoa học cách mạng
cho sự hình thành chủ nghĩa Mác nói chung nền tảng tưởng của giai cấp công
nhân.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh được hình thành và phát triển trong thời kỳ từ cuối
thế kỷ thứ XVIII đến nửa đầu thế kỷ thứ XIX, mở đầu là các quan điểm lý luận của
W.Petty, tiếp đến A.Smith kết thúc hệ thống luận nhiều giá trị khoa học
của D.Ricardo.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong quá trình tái
sản xuất, trình bày một cách hệ thống (đặc biệt từ A.Smith - một tiền bối lớn nhất
nhiều công trình nghiên cứu đồ sộ với nhiều luận điểm giá trị khoa học D.Ricardo
kế thừa) các phạm trù kinh tế chính trị như phân công lao động, hàng hóa, giá trị, tiền
tệ, giá cả, giá cả thị trường, tiền lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô,bản... dể rút ra các
quy luật kinh tế. luận kinh tế chính trị cổ điển Anh đã rút ra được giá trị do hao
phí lao dộng tạo ra, giá trị khác với của cải... Đó những đóng góp khoa học rất lớn
của các đại biểu kinh tế chính trị cồ điển Anh vào lĩnh vực lý luận kinh tế chính trị của
nhân loại, thể hiện sự phát triển vượt bậc so với hệ thống luận của chủ nghĩa trọng
nông.
Như vậy, có thể rút ra: Kinh tế chỉnh trị là môn khoa học kinh tế nghiên cứu các
quan hệ kinh tế để tìm ra các quy luật chi phối sự vận động của các hiện tượng và quá
trình hoạt động kinh tế của con người tưng ứng với những trình độ phát, triển nhất định
của nên sản xuất xã hội.
Kể từ sau A.Smith, lý luận kinh tế chính trị chia thành hai dòng chính:
1) Dòng thuyết khai thác các luận điểm của A.Smith khái quát dựa trên
các quan sát mang tính tâm lý, hành vi để xây dựng thành các lý thuyết kinh tế mới;
không tiếp tục đi sâu vào phân tích, luận giải các quan hộ xã hội trong nền sản xuất.
Từ đó, tạo sở cho việc y dựng các thuyết kinh tế về hành vi của người tiêu
dùng, người sản xuất hoặc các đại lượng lớn của nền kinh tế. Dòng lý thuyết này được
không ngừng bổ sung phát triển bởi rất nhiều nhà kinh tế nhiều trường phái
thuyết ở các quốc gia châu Âu, Bắc Mỹ cho đến hiện nay.
2) Dòng lý thuyết thể hiện từ D.Ricardo kế thừa những giá trị trong lý luận
khoa học của A.Smith, tiếp tục bô sung, hoàn chỉnh nội dung luận giải về các phạm
trù kinh tế chính trị, đi sâu vào phân tích các quan hệ xã hội trong nên sản xuất, tạo
ra những giá trị luận khoa học chuẩn xác. C.Mác (1818-1883) đã kế thừa trực
tiếp những thành quả lý luận khoa học đó của D.Ricardo để phát triển thành lý luận
lý luận kinh tế chính trị mang tên ông về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Dựa trên sự kế thừa một cáchphê phán lý luận kinh tế chính trị cổ điển, trực tiếp
của D.Ricardo, C.Mác đã thực hiện xây dựng hệ thống lỷ luận kinh tế chính trị mang
tính cách mạng, khoa học, toàn diện về nền sản xuất bàn chủ nghĩa, tìm ra những
quy luật kinh tế chi phối sự hình thành, phát triển luận chúng vai trò lịch sử của
phương thức sàn xuất bản chủ nghĩa. Cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen(1820-1895)
cũng là người có công lao vĩ đại trong việc công bố lý luận kinh tế chính trị, một trong
ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác.
Lý luận Kinh tế chính trị của C.Mác và Ph.Ăngghen được thề hiện tập trung
cô đọng nhất trong bộ Tư bản. Trong đó, C.Mác trình bày một cách khoa học và chỉnh
thề các phạm trù cơ bản của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như: hàng hóa, tiên
tệ, bàn, giá trị thặng dư, tích lũy, tuần hoàn, chu chuyển, lợi nhuận, lợi tức, địa tô,
cạnh tranh... rút ra các quy luật kinh tế cơ bản cũng như các quan hệ hội giữa các
giai cấp trong nền kinh tế thị trường dưới bối cảnh nền sản xuất bản chủ nghĩa.
C.Mác đã tạo ra bước nháy vọt về luận khoa học so với D.Ricardo khi phát hiện ra
tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, tạo tiền đề cho việc luận giải một cách
khoa học về lý luận giá trị thặng dư.
Hệ thống luận kinh tế chính trị của C.Mác nêu trên được trình bày dưới hình
thức các học thuyết lớn như học thuyết giá trị, học thuyết giá trị thặng dư, học thuyết
tích lũy, học thuyết về lợi nhuận, học thuyết về địa tô... Với học thuyết giá trị thặng dư
nói riêng và Bộ Tư bản nói chung, C.Mác đã xây dựng cơ sở khoa học, cách mạng cho
sự hình thành chủ nghĩa Mác như một chỉnh thể làm nền tảng tưởng cho giai cấp
công nhân nhân dân lao động. Học thuyết giá trị thặng của C.Mác đồng thời
cũng sở khoa học luận chứng về vai trò lịch sử của phương thức sán xuất bản
chủ nghĩa.
Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen qua đời, V.I.Lênin tiếp tục kế thừa, bổ sung, phát
triển lý luận kinh tế chính trị theo phương pháp luận của C.Mácnhiều đóng góp
khoa học rất lớn. Trong đó, nồi bật là kết quả nghiên cứu, chỉ ra những đặc điểm kinh
tế của độc quyền, độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa bản giai đoạn cuối thế kỷ
XIX, đẩu thể kỳ XX, những vấn đc kinh chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội... Với ý nghĩa đó, dòng thuyết kinh tế chính trị này được định danh với tên
gọi kinh tế chinh trị Mác - Lênin.
Sau khi V.I.Lênin qua đời, các nhà nghiên cứu kinh tế của các Đảng Cộng sản
trên thế giới tiếp tục nghiên cứu bổ sung, phát triển kinh tế chính trị Mác - Lênin
cho đến ngày nay. Cùng với luận của các Đảng Cộng sản, hiện nay, trên thế giới có
rất nhiều nhà kinh tế nghiên cứu kinh tế chính trị theo cách tiếp cận của kinh tế chính
trị của C.Mác với nhiều công trình được công bố trên khắp thế giới. Các công trình
nghiên cứu đó được xếp vào nhánh Kinh tế chính trị mácxít (maxist - những người theo
chủ nghĩa Mác).
Bên cạnh đó, cũng trong giai đoạn từ thê ký thứ XV đến thế kỳ thứ XIX, còn
một số thuyết kinh tế chính trị của các nhà tường hội chủ nghĩa không tường
(thế kỷ XV-XIX) kinh tế chính trị tiểu sản (cuối thế kỷ thứ XIX). Các thuyết
này hướng vào phê phán những khuyết tật của chủ nghĩa bản song nhìn chung các
quan điểm dựa trên sở tình cảm nhân, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân đạo,
không chỉ ra được các quy luật kinh tế bản của nền kinh tế thị trường bản chủ
nghĩa do đó không luận chứng được vai trò lịch sử của chủ nghĩa bản trong quá
trình phát triển của nhân loại.
4. Đặc điểm kinh tế
Kinh tế chính trị Mác - Lênin do C.Mác Ăng-ghen sáng lập Lênin phát
triển trong điều kiện lịch sử mới.
Học thuyết kinh tế Mác - Lênin là sự kết thừa những tinh hoa của nhân loại
Những tư tưởng kinh tế xuất hiện rất sớm, ngay từ thời cổ đại và nó không ngừng được
phát triển, đến chủ nghĩa bản những tưởng này phát triển trở thành những học
thuyết kinh tế: trọng thương, trọng nông, sản cổ điển, tiểu sản, không tưởng…
những học thuyết này nhiều thành tựu đồng thời cũng nhiều hạn chế. Mác,
Ăngghen, Lênin đã kế thừa những thành tựu của họ khắc phục những hạn chế để
xây dựng lện học thuyết kinh tế chính trị Mác - Lênin.
Học thuyết kinh tế Mác - Lênin dựa trên phương pháp luận khoa học
Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu kinh tế chính trị Mácxít: Biện chứng duy vật,
đồng thời còn sử dụng một loạt các phương pháp khác như: phương pháp trừu tượng
hóa khoa học, logic và lịch sư, phân tích, tổng hợp…
Với những phương pháp nghiên cứu như trên đã khắc phục được những hạn chế
của các phương pháp nghiên cứu của các nhà kinh tế đi trước (quan sát, duy tâm khách
quan, duy tâm chủ quan…) đi vào nghiên cứu các hiện tượng, các quá trình kinh tế
từ trong quá trình sản xuất vật chất, quá trình vận động phát triển, và trong mối quan hệ
tác động qua lại lẫn nhau.
Học thuyết kinh tế Mác -Lênin là sự khái quát thực tiễn sinh động của chủ nghĩa
tư bản
Những nhà kinh tế trước Mác sống trong thời kỳ chủ nghĩa tư đang trên đà phát
triển theo chiều hướng tiến bộ chưa bộc lộ những mâu thuẫn và chưa bộc lộ đày đủ bản
chất của nên những học thuyết của họ còn nhiều mặt hạn chế. Đến Mác, Ăngghen,
Lênin thì chủ nghĩa bản đã hoàn thành cách mạng công nghiệp quá trình công
nghiệp hóa. Thực tiễn đó đã cho phép Mác tiếp đó Lênin đã phân tích một cách
sâu sắc và đầy đủ về bản chất và quá trình vận động của chủ nghĩa tư bản.
Học thuyết kinh tế Mác - Lênin là nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin gồm ba bộ phận cấu thành: Triết học Mác-Lênin; Kinh tế chính
trị Mác-Lênin; Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Mỗi bộ phận có vị trí, vai trò và nội dung riêng, trong đó kinh tế chính trị là môn
khoa học nghiên cứu mặt xã hội của quá trình sản xuất.
CHƯƠNG II: Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU KINH TẾ
CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
1. Vận dụng nghiên cứu kinh tế chính trị Mác-Lênin vào thực tiễn
Trong việc tiếp thu vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn của Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng về tinh thần độc lập, tự chủ
sáng tạo. Hệ thống quan điểm của Người được thể hiện qua các nội dung bản:
Quan niệm về quốc tế quan hệ chính trị quốc tế; về mục tiêu đối ngoại; về tập hợp
lực lượng trong quan hệ quốc tế; về phương châm đối ngoại, phương pháp nghệ
thuật ngoại giao... Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại
hoạt động ngoại giao Việt Nam phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết. Phương
châm đối ngoại của Người “dĩ bất biến ứng vạn biến”, trong đó, thực hiện mục tiêu
của chủ nghĩahội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong giai
đoạn hiện nay cái “bất biến”. Cái “vạn biến” phải linh hoạt, khôn khéo trong bối
cảnh tình hình thế giới đang nhiều biến động. Trong quan hệ quốc tế, Chủ tịch Hồ
Chí Minh quan niệm đối ngoại một mặt trận, “muốn làm cách mạng thắng lợi thì
phải... thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”. Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
“Nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới,
tình hình thế giới cũng quan hệ đến nước ta”, nhưng phải độc lập, tự chủ, phải
khôn khéo, phải những biện pháp của riêng mình, “muốn người ta giúp cho, thì
trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. chính sách đối ngoại rộng mở, hợp tác, hòa
bình quan hệ tốt; tránh đối đầu, khôngy thù oán với một ai. Trong quan hệ với
các nước ,các tổ chức quốc tế, cần tăng điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, khai thác
mọi khả năngthể để phát huy sức mạnh của thời đại. Trong quan hệ với bên ngoài,
cần “phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ”, tỉnh táo để những đối sách khôn khéo trước
mắt lâu dài. Đây những nội dung quan trọng giúp chúng ta vận dụng sáng tạo
trong việc nhìn nhận và đánh giá cục diện quan hệ quốc tế, giải quyết những vấn đề cấp
bách của thực tiễn thời đại đất nước hiện nay. Mục tiêu thực hiện Chỉ thị nhằm
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thực sự hiệu quả, thiết thực trong việc học tập, nghiên
cứu, vận dụng phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới; nâng cao bản
lĩnh chính trị,ng lực duy luận, năng lực tổng kết chỉ đạo thực tiễn để giải
quyết hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra; thường xuyên bồi dưỡng tưởng cách
mạng, xây dựng đạo đức, lối sống theo tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ. Đồng thời, góp phần xây dựng, chỉnh
đốn Ðảng , nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của tổ chức đảng, xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Trong việc tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác -
Lê-nin vào thực tiễn của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng
về tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo. Hệ thống quan điểm của Người được thể hiện
qua các nội dung bản: Quan niệm về quốc tế quan hệ chính trị quốc tế; về mục
tiêu đối ngoại; về tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế; về phương châm đối ngoại,
phương pháp nghệ thuật ngoại giao... Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đường lối đối ngoại hoạt động ngoại giao Việt Nam phải đặt lợi ích quốc gia, dân
tộc lên trên hết. Phương châm đối ngoại của Người là “dĩ bất biến ứng vạn biến”, trong
đó, thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” trong giai đoạn hiện nay là cái “bất biến”. Cái “vạn biến” là phải linh
hoạt, khôn khéo trong bối cảnh tình hình thế giới đang có nhiều biến động. Trong quan
hệ quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đối ngoại một mặt trận, “muốn làm
cách mạng thắng lợi thì phải... thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù” Bên cạnh đó, theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có
ảnh hưởng đến thế giới, tình hình thế giới cũng quan hệ đến nước ta”, nhưng
phải độc lập, tự chủ, phải khôn khéo, phải những biện pháp của riêng mình,
“muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Có chính sách đối
ngoại rộng mở, hợp tác, hòa bình và quan hệ tốt; tránh đối đầu, không gây thù oán với
một ai. Trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, cần tăng điểm tương đồng,
hạn chế bất đồng, khai thác mọi khả năng thể để phát huy sức mạnh của thời đại.
Trong quan hệ với bên ngoài, cần “phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ”, tỉnh táo để
những đối sách khôn khéo trước mắt lâu dài. Đây những nội dung quan trọng
giúp chúng ta vận dụng sáng tạo trong việc nhìn nhận đánh giá cục diện quan hệ
quốc tế, giải quyết những vấn đề cấp bách của thực tiễn thời đại và đất nước hiện nay.
Về hội, Đảng Nhà nước chú trọng thực hiện tiến bộ công bằng hội ngay
trong từng bướctừng chính sách phát triển.“ Đảng và Nhà nước chăm lo xây dựng,
đào tạo, bồi dưỡng giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ngày càng
lớn mạnh, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm
cho các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp nhau
cùng tiến bộ; coi trọng phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất tinh thần, xóa
đói, giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa, tiếng
nói, chữ viết truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; thực hiện nhất quán chính sách
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công
dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật” Về công tác tư tưởng, Đảng
ta đã thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền, thuyết
phục và vận động quần chúng. Trong thực tế, kết quả của công tác tư tưởng thể hiện
chỗ: Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, người dân ngày càng được biết nhiều hơn về
các chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước. Cùng với việc dân biết, dân cũng
được bàn bạc tham gia ý kiến vền hiều việc quan trọng. Nhờ vậy, các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước nhận được sự đồng tình, ủng hộ của quảng đại quần
chúng nhân dân. hệ giữa Nhà nước và nhân dân có nhiều tiến bộ trên một số mặt, dần
dần thể hiện đúng Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Các quan nhà nước đã từng bước đổi mới tổ chức hoạt động, thích ứng tổ
chức tốt hơn yêu cầu chuyển đổi cấu kinh tế, mở cửa, hội nhập phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Trong những năm qua, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa đã có những tiến bộ nhất định trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Quốc hội có những đổi mới quan trọng trong công tác lập pháp, đã thông qua
một số lượng lớn luật, bộ luật, pháp lệnh mới với chất lượng ngày càng được nâng cao,
tạo sở pháp cho hoạt động quản nhà nước thực hành dân chủ. Nhà nước
luôn quan tâm thực hiện chính sách dân tộc, bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Công
tác dân vận được chú trọng, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân
dân được củng cố, phát huy. Các quan báo chí, xuất bản đã làm tốt hơn nhiệm vụ
thông tin, tuyên truyền. Hệ thống pháp luật, chế, chính sách về quản tài nguyên,
bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục được hoàn thiện. Công tác
kiểm tra, thanh tra việc thực thi xử vi phạm được chú trọng. Tăng cường một
bước tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, tránh được tình trạng ôm đồm, cồng
kềnh quan liêu trước đây, thực hiên sự phân cấp, giảm bớt phiền trong bộ máy
hành chính. Dần dần thực hiện được tưởng quan trọng tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn mật thiết với nhân dân, thực
hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Chúng ta
đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để bảo đảm dân chủ gắn với kỷ
luật, kỷ cương; đồng thời, chỉ có thực hành dân chủ mới xây dựng được Nhà nước
pháp quyền thực sự của dân, do dân dân .Cùng với kinh tế, phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ, công bằng hội đạt được những kết quả tích cực. Chính sách an
sinh xã hội được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trên các lĩnh vực lao động, việc làm, bảo
hiểm hội, bảo hiểm y tế, người công bảo trợ hội. An sinh hội bản
được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Nhận thức
của người dân về tự bảo đảm an sinh xã hội có tiến bộ, huy động nguồn lực xã hội cho
chính sách hội tốt hơn. Đã hoàn thành trước thời hạn nhiều mục tiêu Phát triển
Thiên niên kỷ. Mở rộng đối tượng thụ hưởng, nâng mức hỗ trợ thực hiện đồng bộ
nhiều chính sách đối với người có công, giảm nghèo, trợ giúp hội, hỗ trợ nhà ở, tạo
việc làm, đào tạo nghề, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ tín dụng cho học sinh, sinh viên nghèo…
2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được vẫn còn 1 số hạn chế : Trong
chế độ dân chủ pháp quyền thì quyền lực nhà nước không phải quyết định tự
của Nhà nước, quyền lực đó được nhân dân ủy quyền, giao quyền. Quyền lực nhà
nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước, giao cho những con người cụ thể,
con người cụ thể khi các dục vọng, thói quen nổi lên thì khả năng sai lầm trong
việc thực thi quyền lực càng lớn. Không thể khẳng định người được ủy quyền luôn làm
đúng, làm đủ những gì mà nhân dân ủy quyền.
vậy, phải kiểm soát quyền lực nhà nước để hạn chế sự lộng quyền, lạm
quyền. Muốn kiểm soát quyền lực nhà nước thì phải thực hành dân chủ rộng rãi.
Nhưng dân chủ chưa được thực hành rộng rãi nên vẫn còn sự lộng quyền, lạm quyền,
vẫn còn tình trạng quan liêu, cửa quyền, phiền đối với nhân dân, chưa khắc phục
được bệnh tham ô, lãng phí, Nhà nước còn chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng
về dân chủ thành pháp luật, thành quy chế, nên các chủ trương của Đảng đi vào cuộc
sống rất chậm làm ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.
Chưa chế bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực,
trên thực tế, quyền lực vẫn thuộc về các quan nhà nước. Việc nhân n giám sát
chính quyền cũng chưa chế ràng, trên thực tế, việc giám sát này còn rất mờ
nhạt. Tình trạng quan liêu của bộ máy hành chính làm cho yêu cầu quản các quá
trình kinh tế - xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân chưa thật nhanh, nhạy và
hiệu quả cao. Trong nhiều trường hợp, “hành chính” trở thành “hành dân là chính”.
3. Đối sinh viên
Bản thân mỗi sinh viên việc kết hợp sức mạnh của bản thân, chủ động trước tình
thế của đất nước trong quá trình hội nhập, dựa vào sức mình chính” ý nghĩa
quan trọng trong việc học tập tìm kiếm hội trong tướng lai. Bản thân mỗi sinh
viên cần tích cực học tập ý thức được vai trò trách nhiệm của bản thân trong việc xây
dựng đất nước.
Không được lại, trông chờ vào người khác phải tích cực học tập rèn luyện,
củng cố ý thức để nâng cao hiểu biết. Nỗ lực phát huy sức mạnh điểm mạnh bản thân
mỗi người để phát huy sức mạnh vốn có của mình ; đồng thời kết hợp thường xuyên
tích cực giao lưu học hỏi với bạn bè xung quanh , bạn bè quốc tế để phát huy toàn diện
khả năng tiềm ẩn trong bản thân mỗi chúng ta. Ý thức được tránh nhiệm cần làm gì để
phát huy được khả năng của mình tốt nhất. Trong cuộc sống mỗi người đều điều
kiện sống khác nhau hoàn cảnh riêng, từ đó hình thành những, suy nghĩ khác nhau.
tính cách. Dựa vào chính mình chính để hình thành nên tính cách mỗi người. Tích
cực phát huy trau dồi kinh nghiệm, năng sống rèn luyện các năng cần thiết như :
năng ngoại ngữ, năng giao tiếp, trình độ công nghệ thông tin... để đáp ứng được
nhu cầu của xã hội. Tóm lại mỗi sinh viên đã thấy rõ được tầm quan trọng của phương
châm trong quá trình kháng chiến, sức mạnh to lớn việc giành được thành công, cũng
như ý nghĩa sâu sa cửa phương châm. Phương châm đã để lại bài học ý nghĩa đối với
mỗi sinh viên; đem lại ý nghĩa quan trọng để sinh viên ý thức về trách nhiệm của bản
thân mình đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
KẾT LUẬN
Như vậy, kinh tế chính trị Mác - Lênin một trong những dòng thuyết kinh
tế chính trị nằm trong dòng chảy tư tưởng kinh tế phát triền liên tục trên thế giới, được
hình thành, xây dựng bởi C.Mác - Ph.Ăngghen và V.I. Lênin, dựa trên cơ sở kế thừa và
phát triển những giá trị khoa học kinh tế chính trị của nhân loại trước đó, trực tiếp
những giá trị khoa học của kinh tế chính trị tư sản cồ điển Anh. Kinh tế chính trị Mác -
Lênin có quá trình phát triền không ngừng kể từ giữa thếthứ XIX đến nay. Kinh tế
chính trị Mác - Lênin một môn khoa học trong hệ thống các môn khoa học kinh
cùa nhân loại. Trong bối cảnh mới, Việt Nam cần phát huy sức mạnh tổng hợp của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại Cách mạng công nghiệp
4.0. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đối tác hòa bình, thịnh vượng phát
triển bền vững, với phương châm kết nối, liên kết, hợp tác, hòa giải và cùng phát triển.
Theo đó, Việt Nam phát huy vị thế chiến lược về địa - chính trị, địa - kinh tế, địa - công
nghệ…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị,
Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,2018
2. Trần Quang. Từ Bài báo “Dân Vận” của Bác Hồ 65 năm trước
.http://www.nhandan.org.vn, ngày 03/7/2014.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.49.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.84-85.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Ban chỉ đạo tổng kết luận: Báo cáo tổng kết một
số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới(1986-2006). Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội 2005, tr.86.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.166-167.
| 1/20

Preview text:

ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA KH XÃ HỘI & NHÂN VĂN BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN.
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN.
GVHD: Cô Nguyễn Thị Hải Lên LỚP: POS 151H
TÊN THÀNH VIÊN NHÓM: 11A

1. Nguyễn Thị Thanh Bình (27208627629)
2. Trần Đức Cường (27218644065)
3. Nguyễn Thị Phương Hiền (27208601559)
4. Phạm Thành Long (27218629679)
5. Hồ Quang Như (27211242849)
6. Nguyễn Thành Phương 27214335689)
(
7. Khương Trung Thiện (29219322137)
Đà Nẵng , tháng 02 năm 2024
PHÂN CHIA CÔNG VIỆC GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM STT HỌ VÀ TÊN MSSV NỘI DUNG PHÂN % TÍCH 1 Nguyễn Thị Thanh Bình 7629 Chương I :1.3,1.4 100% 2 Trần Đức Cường 4065 Chương I:1.2 100% 3 Nguyễn Thị Phương Hiền 1559 Mở đầu ,kết bài 100% Tổng hợp, chỉnh sửa, in tiểu luận 4 Phạm Thành Long 9679 Chương II:2.2 100% 5 Hồ Quang Như 2849 Chương II:2.3 100% 6 Nguyễn Thành Phương 5689 Chương I:1.1 100% 7 Khương Trung Thiện 2137 Chương II:2.1 100% MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................4
NỘI DUNG...........................................................................................5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỊCH SỬ RA ĐỜI
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN.....5
1.
Kinh tế chính trị là gì...............................................................5 2.
Kinh tế chính trị Mác-Lênin.....................................................6 3.
Quá trình hình thành và phát triển...........................................9 4.
Đặc điểm kinh tế....................................................................12
CHƯƠNG II: Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN.............................................13
1.
Vận dụng nghiên cứu kinh tế chính trị Mác-Lênin vào thực
tiễn.................................................................................................13 2.
Hạn chế..................................................................................17 3.
Đối sinh viên..........................................................................18
KẾT LUẬN.........................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................20
LỜI MỞ ĐẦU
Sự ra đời của kinh tế chính trị Mác có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn trong
mọi lĩnh vực đời sống. Nước ta luôn vận dụng kinh tế chính trị Mác vào thực tiễn để có
được sự thành trong các lĩnh vực. Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, phát
triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những thành tựu quan trọng về lý luận
của Đảng, góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển đường lối đổi mới của
Đảng, đó một phần là nhờ ứng dụng chủ nghĩa Mác. Chính vì thế, em xin chọn đề tài:
“Lịch sử ra đời và phát triển của kinh tế chính trị Mác-Lênin. Ý nghĩa của việc nghiên
cứu kinh tế chính trị Mác-Lênin”. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
1. Kinh tế chính trị là gì
Thuật ngữ khoa học kinh tế chính trị được xuất hiện ở châu Âu năm 1615 trong
tác phẩm Chuyên luận về kinh tế chính trị của nhà kinh tế người Pháp tên là
A.Montchretien. Trong tác phẩm này, tác giả đề xuất môn khoa học mới - môn kinh tế
chính trị. Tuy nhiên, tác phẩm này mới chỉ là phác thảo về môn học kinh tế chính trị.
Tới thế kỷ XVIII, với sự xuất hiện hệ thống lý luận của nhà kinh tế học người Anh tên
là A.Smith, kinh tế chính trị chính thức trở thành môn học với các phạm trù, khái niệm
chuyên ngành. Từ đó, kinh tế chính không ngừng được bổ sung, phát triển cho đến hiện nay.
Kinh tế chính trị là một lĩnh vực nghiên cứu đa ngành, kết hợp giữa kinh tế học
và khoa học chính trị. Nó tập trung vào việc nghiên cứu và phân tích các quan hệ phức
tạp giữa kinh tế và chính trị, và cách chúng tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau.
Trong kinh tế chính trị, chúng ta nghiên cứu về cách các quyết định chính trị,
chẳng hạn như chính sách thuế, chính sách tiền tệ, chính sách thương mại, ảnh hưởng
đến hoạt động kinh tế. Ví dụ, một quyết định chính trị như tăng thuế có thể ảnh hưởng
đến giá cả, sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế.
Ngược lại, kinh tế cũng có thể ảnh hưởng đến quyết định chính trị. Ví dụ, tình
hình kinh tế suy thoái có thể gây áp lực lên chính phủ để thực hiện các biện pháp kích
thích kinh tế như chi tiêu công cộng hoặc giảm thuế.
Kinh tế chính trị cũng nghiên cứu về các hệ thống kinh tế và chính trị khác nhau
trên thế giới, bao gồm cả các hệ thống kinh tế thị trường, kinh tế hỗn hợp và kinh tế
quốc gia. Nó cũng quan tâm đến cách thức quản lý tài nguyên và phân phối thu nhập
trong một xã hội, và tìm hiểu về các vấn đề xã hội và chính trị liên quan đến kinh tế.
Tổng quan, kinh tế chính trị giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự tương tác phức tạp
giữa kinh tế và chính trị, và cung cấp cơ sở để đưa ra các quyết định chính trị và kinh tế
có ý thức và hiệu quả.
2. Kinh tế chính trị Mác-Lênin
Kinh tế chính trị là một trong ba bộ phận cấu thành của lý luận Mác - Lênin, là
khoa học nghiên cứu về quan hệ sản xuất trong mối liên hệ và sự tác động lẫn nhau với
lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng; nghiên cứu quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất trong xã hội.
Mặc dù ra đời tương đối muộn hơn so với các môn khoa học khác như triết học,
sử học..., nhưng kinh tế chính trị có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội.
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được xác lập
hoàn toàn ở nhiều nước Tây Âu, những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày
càng gay gắt, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống chế độ áp bức bóc lột của
giai cấp tư sản ngày càng lên cao và chuyển từ tự phát sang tự giác, từ đấu tranh kinh tế
đến đấu tranh chính trị, đòi hỏi phải có lý luận cách mạng làm vũ khí tư tưởng cho giai
cấp vô sản chủ nghĩa Mác đã ra đời.
Các Mác (1818-1883) và Phriđrích Ăngghen (1820-1895) là người sáng lập chủ
nghĩa Mác với ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội
khoa học dựa trên cơ sở kế thừa có tính phê phán và chọn lọc những lý luận khoa học
của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Mác và Ph. Ăngghen đã làm cuộc cách mạng sâu sắc nhất trong kinh tế chính trị
trên tất cả các phương diện về đối tượng và phương pháp nghiên cứu, nội dung, tính
chất giai cấp… của kinh tế chính trị. Kinh tế chính trị do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng
lập là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng, dựa vào phép biện chứng
duy vật và đứng trên lập trường của giai cấp công nhân để xem xét các hiện tượng và
quá trình kinh tế của xã hội tư bản. C. Mác đã xây dựng học thuyết giá trị thặng dư –
hòn đá tảng của học thuyết kinh tế mác xít. C. Mác đã vạch rõ sự phát sinh, phát triển
của chủ nghĩa tư bản với những tiến bộ, hạn chế, mâu thuẫn của nó và luận chứng khoa
học về chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bởi một phương thức sản xuất mới, cao
hơn và tiến bộ hơn, đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong điều kiện lịch sử mới, V.I. Lênin
(1870-1924) đã tiếp tục bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác lên tầm cao mới. V.I. Lênin
đã sáng tạo ra lý luận khoa học về chủ nghĩa đế quốc; khởi thảo lý luận mới về cách
mạng xã hội chủ nghĩa; tính tất yếu khách quan, đặc điểm và nhiệm vụ cơ bản của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời V.I. Lênin còn vạch ra những quá trình có
tính quy luật trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chính sách kinh tế mới (NEP)
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự phát triển của nhân loại.
Kinh tế chính trị Mác Lênin tập trung nghiên cứu, mổ xẻ các quan hệ kinh tế
trong lòng xã hội tư bản và nghiên cứu sâu về các quy luật của nền sản xuất này, cụ thể:
1. Đề cập về hàng hóa, sản xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng
hóa (trong chủ nghĩa tư bản)
2. Tập trung mổ xẻ quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản mà cốt lõi là việc sản xuất giá trị thặng dư
3. Phân tích sự vận động của tư bản cá biệt và tái sản xuất tư bản xã hội
4. Xem xét các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dự
5. Nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước (phần này do Lenin có công đóng góp rất lớn).
Kinh tế chính trị Mác Lênin có những chức năng sau đây:
Thứ nhất: Chức năng nhận thức
Kinh tế chính trị Mác Lênin cũng giống các ngành khoa học khác, đưa đến
những vấn đề về nhận thức, khám phá. Chức năng này của kinh tế chính trị được thể
hiện ở chỗ nó cần phát hiện bản chất của các hiện tượng, quá trình kinh tế của đời sống
xã hội, tìm ra quy luật chi phối sự vận động của chúng, giúp con người vận dụng các
quy luật kinh tế một cách có ý thức vào hoạt động kinh tế nhằm đạt được hiệu quả kinh tế, xã hội cao.
Thứ hai: Chức năng thực tiễn
Giống như các môn khoa học khác, chức năng nhận thức của kinh tế chính trị
không có mục đích tự thân. Nhận thức không chỉ để nhận thức mà nhận thức còn để
phục vụ cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Đó là chức năng thực tiễn của kinh tế chính trị.
Hai chức năng trên của kinh tế chính trị Mác Lênin có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Đường lối, chính sách và biện pháp kinh tế dựa trên những luận cứ khoa học
đúng đắn của các chính sách, biện pháp kinh tế và kiểm nghiệm những kết luận mà
kinh tế chính trị đã cung cấp trước đó. Thực tiễn vừa là nơi xuất phát vừa là nơi kiểm
nghiệm tính đúng đắn của lý luận kinh tế. Căn cứ để đánh giá tính đúng đắn của lý luận
kinh tế là sự phát triển của nền sản xuất xã hội, tính đúng đắn của lý luận kinh tế là ở
sự phát triển của nền sản xuất xã hội, tính hiệu quả của hoạt động kinh tế.
Thứ ba: Chức năng tư tưởng
Trong các xã hội có giai cấp, chức năng tư tưởng của kinh tế chính trị thể hiện ở
chỗ các quan điểm lý luận của nó xuất phát từ lợi ích và bảo vệ lợi ích của các giai cấp
hoặc các tầng lớp xã hội nhất định. Lý luận kinh tế Chính trị của giai cấp tư sản đều
phục vụ cho việc củng cố sự thống trị của giai cấp tư sản, biện hộ cho sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Thứ tư: Chức năng phương pháp luận
Kinh tế chính trị là nền tảng lý luận cho tổ hợp các khoa học kinh tế. Những kết
luận của kinh tế chính trị biểu hiện ở các phạm trù và quy luật kinh tế có tính chất
chung là cơ sở lý luận của các môn kinh tế chuyên ngành và các môn kinh tế chức
năng. Đồng thời, kinh tế chính trị cũng là cơ sở lý luận cho một số các môn học khác
như: địa lý kinh tế, dân số học, lịch sử kinh tế quốc dân, lý thuyết quản lý,...
3. Quá trình hình thành và phát triển
Tới thế kỷ XVIII, với sự xuất hiện lý luận của A. Smith- một nhà kinh tế học
người Anh- thì kinh tế chính trị mới trở thành môn học có tính hệ thống và trở thành
môn khoa học và được phát triển cho đến ngày nay.
* Sự phát triển tư tưởng kinh tế của loài người
1. Giai đoạn thứ nhất: Từ thời cổ đại đến cuối thế kỷ XVIII
+ Những tư tưởng kinh tế thời cổ, trung đại (từ thời cổ đại đến thế kỷ XV)
+ Chủ nghĩa trọng thương ( Thế kỷ XV đến TK XVII ở Anh, Pháp, Italia)
+ Chủ nghĩa trọng nông- Pháp ( giữa thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII)
+ Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh ( giữa thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII)
2. Giai đoạn thứ hai, từ sau thế kỷ thứ XVIII đến nay
Lý thuyết kinh tế chính trị của C.Mác (1818-1883) kế thừa những giá trị khoa
học của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh và xây dựng hệ thống lý luận kinh tế một
cách khoa học, toàn diện về nền sản xuất TBCN, tìm ra những quy luật chi phối sự
hình thành, phát triển và luận chứng vai trò lịch sử của phương thức sản xuất TBCN.
Lý luận kinh tế chính trị của C.Mác và Ph.Ănghen được thể hiện và cô động
nhất trong bộ Tư bản. Trong đó C.Mác đã trình bày một cách khoa học và chỉnh thể về
các về các phạm trù cơ bản của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa như hàng hóa, tiền tệ, giá
trị thặng dư, địa tô, cạnh tranh và các quy luật kinh tế cơ bản cũng như các quan hệ xã
hội giữa các giai cấp trong nền kinh tế hàng hóa- kinh tế thị trường. Với học thuyết giá
trị thặng dư nói riêng và bộ tư bản nói chung đã xây dựng cơ sở khoa học cách mạng
cho sự hình thành chủ nghĩa Mác nói chung và nền tảng tư tưởng của giai cấp công nhân.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh được hình thành và phát triển trong thời kỳ từ cuối
thế kỷ thứ XVIII đến nửa đầu thế kỷ thứ XIX, mở đầu là các quan điểm lý luận của
W.Petty, tiếp đến là A.Smith và kết thúc ở hệ thống lý luận có nhiều giá trị khoa học của D.Ricardo.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong quá trình tái
sản xuất, trình bày một cách hệ thống (đặc biệt từ A.Smith - một tiền bối lớn nhất có
nhiều công trình nghiên cứu đồ sộ với nhiều luận điểm giá trị khoa học mà D.Ricardo
kế thừa) các phạm trù kinh tế chính trị như phân công lao động, hàng hóa, giá trị, tiền
tệ, giá cả, giá cả thị trường, tiền lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, tư bản... dể rút ra các
quy luật kinh tế. Lý luận kinh tế chính trị cổ điển Anh đã rút ra được giá trị là do hao
phí lao dộng tạo ra, giá trị khác với của cải... Đó là những đóng góp khoa học rất lớn
của các đại biểu kinh tế chính trị cồ điển Anh vào lĩnh vực lý luận kinh tế chính trị của
nhân loại, thể hiện sự phát triển vượt bậc so với hệ thống lý luận của chủ nghĩa trọng nông.
Như vậy, có thể rút ra: Kinh tế chỉnh trị là môn khoa học kinh tế nghiên cứu các
quan hệ kinh tế để tìm ra các quy luật chi phối sự vận động của các hiện tượng và quá
trình hoạt động kinh tế của con người tưng ứng với những trình độ phát, triển nhất định
của nên sản xuất xã hội.
Kể từ sau A.Smith, lý luận kinh tế chính trị chia thành hai dòng chính:
1) Dòng lý thuyết khai thác các luận điểm của A.Smith khái quát dựa trên
các quan sát mang tính tâm lý, hành vi để xây dựng thành các lý thuyết kinh tế mới;
không tiếp tục đi sâu vào phân tích, luận giải các quan hộ xã hội trong nền sản xuất.
Từ đó, tạo cơ sở cho việc xây dựng các lý thuyết kinh tế về hành vi của người tiêu
dùng, người sản xuất hoặc các đại lượng lớn của nền kinh tế. Dòng lý thuyết này được
không ngừng bổ sung và phát triển bởi rất nhiều nhà kinh tế và nhiều trường phái lý
thuyết ở các quốc gia châu Âu, Bắc Mỹ cho đến hiện nay.
2) Dòng lý thuyết thể hiện từ D.Ricardo kế thừa những giá trị trong lý luận
khoa học của A.Smith, tiếp tục bô sung, hoàn chỉnh nội dung luận giải về các phạm
trù kinh tế chính trị, đi sâu vào phân tích các quan hệ xã hội trong nên sản xuất, tạo
ra những giá trị lý luận khoa học chuẩn xác. C.Mác (1818-1883) đã kế thừa trực
tiếp những thành quả lý luận khoa học đó của D.Ricardo để phát triển thành lý luận
lý luận kinh tế chính trị mang tên ông về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Dựa trên sự kế thừa một cách có phê phán lý luận kinh tế chính trị cổ điển, trực tiếp là
của D.Ricardo, C.Mác đã thực hiện xây dựng hệ thống lỷ luận kinh tế chính trị mang
tính cách mạng, khoa học, toàn diện về nền sản xuất tư bàn chủ nghĩa, tìm ra những
quy luật kinh tế chi phối sự hình thành, phát triển và luận chúng vai trò lịch sử của
phương thức sàn xuất tư bản chủ nghĩa. Cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen(1820-1895)
cũng là người có công lao vĩ đại trong việc công bố lý luận kinh tế chính trị, một trong
ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác.
Lý luận Kinh tế chính trị của C.Mác và Ph.Ăngghen được thề hiện tập trung và
cô đọng nhất trong bộ Tư bản. Trong đó, C.Mác trình bày một cách khoa học và chỉnh
thề các phạm trù cơ bản của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như: hàng hóa, tiên
tệ, tư bàn, giá trị thặng dư, tích lũy, tuần hoàn, chu chuyển, lợi nhuận, lợi tức, địa tô,
cạnh tranh... rút ra các quy luật kinh tế cơ bản cũng như các quan hệ xã hội giữa các
giai cấp trong nền kinh tế thị trường dưới bối cảnh nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
C.Mác đã tạo ra bước nháy vọt về lý luận khoa học so với D.Ricardo khi phát hiện ra
tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, tạo tiền đề cho việc luận giải một cách
khoa học về lý luận giá trị thặng dư.
Hệ thống lý luận kinh tế chính trị của C.Mác nêu trên được trình bày dưới hình
thức các học thuyết lớn như học thuyết giá trị, học thuyết giá trị thặng dư, học thuyết
tích lũy, học thuyết về lợi nhuận, học thuyết về địa tô... Với học thuyết giá trị thặng dư
nói riêng và Bộ Tư bản nói chung, C.Mác đã xây dựng cơ sở khoa học, cách mạng cho
sự hình thành chủ nghĩa Mác như một chỉnh thể làm nền tảng tư tưởng cho giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác đồng thời
cũng là cơ sở khoa học luận chứng về vai trò lịch sử của phương thức sán xuất tư bản chủ nghĩa.
Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen qua đời, V.I.Lênin tiếp tục kế thừa, bổ sung, phát
triển lý luận kinh tế chính trị theo phương pháp luận của C.Mác và có nhiều đóng góp
khoa học rất lớn. Trong đó, nồi bật là kết quả nghiên cứu, chỉ ra những đặc điểm kinh
tế của độc quyền, độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản giai đoạn cuối thế kỷ
XIX, đẩu thể kỳ XX, những vấn đc kinh tê chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội... Với ý nghĩa đó, dòng lý thuyết kinh tế chính trị này được định danh với tên
gọi kinh tế chinh trị Mác - Lênin.
Sau khi V.I.Lênin qua đời, các nhà nghiên cứu kinh tế của các Đảng Cộng sản
trên thế giới tiếp tục nghiên cứu và bổ sung, phát triển kinh tế chính trị Mác - Lênin
cho đến ngày nay. Cùng với lý luận của các Đảng Cộng sản, hiện nay, trên thế giới có
rất nhiều nhà kinh tế nghiên cứu kinh tế chính trị theo cách tiếp cận của kinh tế chính
trị của C.Mác với nhiều công trình được công bố trên khắp thế giới. Các công trình
nghiên cứu đó được xếp vào nhánh Kinh tế chính trị mácxít (maxist - những người theo chủ nghĩa Mác).
Bên cạnh đó, cũng trong giai đoạn từ thê ký thứ XV đến thế kỳ thứ XIX, còn có
một số lý thuyết kinh tế chính trị của các nhà tư tường xã hội chủ nghĩa không tường
(thế kỷ XV-XIX) và kinh tế chính trị tiểu tư sản (cuối thế kỷ thứ XIX). Các lý thuyết
này hướng vào phê phán những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản song nhìn chung các
quan điểm dựa trên cơ sở tình cảm cá nhân, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân đạo,
không chỉ ra được các quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa và do đó không luận chứng được vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong quá
trình phát triển của nhân loại.
4. Đặc điểm kinh tế
Kinh tế chính trị Mác - Lênin do C.Mác và Ăng-ghen sáng lập và Lênin phát
triển trong điều kiện lịch sử mới.
Học thuyết kinh tế Mác - Lênin là sự kết thừa những tinh hoa của nhân loại
Những tư tưởng kinh tế xuất hiện rất sớm, ngay từ thời cổ đại và nó không ngừng được
phát triển, đến chủ nghĩa tư bản những tư tưởng này phát triển trở thành những học
thuyết kinh tế: trọng thương, trọng nông, tư sản cổ điển, tiểu tư sản, không tưởng…
những học thuyết này có nhiều thành tựu đồng thời cũng có nhiều hạn chế. Mác,
Ăngghen, Lênin đã kế thừa những thành tựu của họ và khắc phục những hạn chế để
xây dựng lện học thuyết kinh tế chính trị Mác - Lênin.
Học thuyết kinh tế Mác - Lênin dựa trên phương pháp luận khoa học
Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu kinh tế chính trị Mácxít: Biện chứng duy vật,
đồng thời còn sử dụng một loạt các phương pháp khác như: phương pháp trừu tượng
hóa khoa học, logic và lịch sư, phân tích, tổng hợp…
Với những phương pháp nghiên cứu như trên đã khắc phục được những hạn chế
của các phương pháp nghiên cứu của các nhà kinh tế đi trước (quan sát, duy tâm khách
quan, duy tâm chủ quan…) và đi vào nghiên cứu các hiện tượng, các quá trình kinh tế
từ trong quá trình sản xuất vật chất, quá trình vận động phát triển, và trong mối quan hệ
tác động qua lại lẫn nhau.
Học thuyết kinh tế Mác -Lênin là sự khái quát thực tiễn sinh động của chủ nghĩa tư bản
Những nhà kinh tế trước Mác sống trong thời kỳ chủ nghĩa tư đang trên đà phát
triển theo chiều hướng tiến bộ chưa bộc lộ những mâu thuẫn và chưa bộc lộ đày đủ bản
chất của nó nên những học thuyết của họ còn nhiều mặt hạn chế. Đến Mác, Ăngghen,
Lênin thì chủ nghĩa tư bản đã hoàn thành cách mạng công nghiệp và quá trình công
nghiệp hóa. Thực tiễn đó đã cho phép Mác và tiếp đó là Lênin đã phân tích một cách
sâu sắc và đầy đủ về bản chất và quá trình vận động của chủ nghĩa tư bản.
Học thuyết kinh tế Mác - Lênin là nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin gồm ba bộ phận cấu thành: Triết học Mác-Lênin; Kinh tế chính
trị Mác-Lênin; Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Mỗi bộ phận có vị trí, vai trò và nội dung riêng, trong đó kinh tế chính trị là môn
khoa học nghiên cứu mặt xã hội của quá trình sản xuất.
CHƯƠNG II: Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU KINH TẾ
CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
1. Vận dụng nghiên cứu kinh tế chính trị Mác-Lênin vào thực tiễn
Trong việc tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn của Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng về tinh thần độc lập, tự chủ
và sáng tạo. Hệ thống quan điểm của Người được thể hiện qua các nội dung cơ bản:
Quan niệm về quốc tế và quan hệ chính trị quốc tế; về mục tiêu đối ngoại; về tập hợp
lực lượng trong quan hệ quốc tế; về phương châm đối ngoại, phương pháp và nghệ
thuật ngoại giao... Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại và
hoạt động ngoại giao Việt Nam phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết. Phương
châm đối ngoại của Người là “dĩ bất biến ứng vạn biến”, trong đó, thực hiện mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong giai
đoạn hiện nay là cái “bất biến”. Cái “vạn biến” là phải linh hoạt, khôn khéo trong bối
cảnh tình hình thế giới đang có nhiều biến động. Trong quan hệ quốc tế, Chủ tịch Hồ
Chí Minh quan niệm đối ngoại là một mặt trận, “muốn làm cách mạng thắng lợi thì
phải... thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”. Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
“Nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới,
mà tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”, nhưng phải độc lập, tự chủ, phải
khôn khéo, phải có những biện pháp của riêng mình, vì “muốn người ta giúp cho, thì
trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Có chính sách đối ngoại rộng mở, hợp tác, hòa
bình và quan hệ tốt; tránh đối đầu, không gây thù oán với một ai. Trong quan hệ với
các nước ,các tổ chức quốc tế, cần tăng điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, khai thác
mọi khả năng có thể để phát huy sức mạnh của thời đại. Trong quan hệ với bên ngoài,
cần “phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ”, tỉnh táo để có những đối sách khôn khéo trước
mắt và lâu dài. Đây là những nội dung quan trọng giúp chúng ta vận dụng sáng tạo
trong việc nhìn nhận và đánh giá cục diện quan hệ quốc tế, giải quyết những vấn đề cấp
bách của thực tiễn thời đại và đất nước hiện nay. Mục tiêu thực hiện Chỉ thị là nhằm
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thực sự hiệu quả, thiết thực trong việc học tập, nghiên
cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới; nâng cao bản
lĩnh chính trị, năng lực tư duy lý luận, năng lực tổng kết và chỉ đạo thực tiễn để giải
quyết hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra; thường xuyên bồi dưỡng lý tưởng cách
mạng, xây dựng đạo đức, lối sống theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ. Đồng thời, góp phần xây dựng, chỉnh
đốn Ðảng , nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Trong việc tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác -
Lê-nin vào thực tiễn của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng
về tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo. Hệ thống quan điểm của Người được thể hiện
qua các nội dung cơ bản: Quan niệm về quốc tế và quan hệ chính trị quốc tế; về mục
tiêu đối ngoại; về tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế; về phương châm đối ngoại,
phương pháp và nghệ thuật ngoại giao... Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đường lối đối ngoại và hoạt động ngoại giao Việt Nam phải đặt lợi ích quốc gia, dân
tộc lên trên hết. Phương châm đối ngoại của Người là “dĩ bất biến ứng vạn biến”, trong
đó, thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” trong giai đoạn hiện nay là cái “bất biến”. Cái “vạn biến” là phải linh
hoạt, khôn khéo trong bối cảnh tình hình thế giới đang có nhiều biến động. Trong quan
hệ quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đối ngoại là một mặt trận, “muốn làm
cách mạng thắng lợi thì phải... thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù” Bên cạnh đó, theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có
ảnh hưởng đến thế giới, mà tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”, nhưng
phải độc lập, tự chủ, phải khôn khéo, phải có những biện pháp của riêng mình, vì
“muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Có chính sách đối
ngoại rộng mở, hợp tác, hòa bình và quan hệ tốt; tránh đối đầu, không gây thù oán với
một ai. Trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, cần tăng điểm tương đồng,
hạn chế bất đồng, khai thác mọi khả năng có thể để phát huy sức mạnh của thời đại.
Trong quan hệ với bên ngoài, cần “phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ”, tỉnh táo để có
những đối sách khôn khéo trước mắt và lâu dài. Đây là những nội dung quan trọng
giúp chúng ta vận dụng sáng tạo trong việc nhìn nhận và đánh giá cục diện quan hệ
quốc tế, giải quyết những vấn đề cấp bách của thực tiễn thời đại và đất nước hiện nay.
Về xã hội, Đảng và Nhà nước chú trọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển.“ Đảng và Nhà nước chăm lo xây dựng,
đào tạo, bồi dưỡng giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ngày càng
lớn mạnh, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm
cho các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp nhau
cùng tiến bộ; coi trọng phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa
đói, giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng
nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; thực hiện nhất quán chính sách
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công
dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật” Về công tác tư tưởng, Đảng
ta đã thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền, thuyết
phục và vận động quần chúng. Trong thực tế, kết quả của công tác tư tưởng thể hiện ở
chỗ: Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, người dân ngày càng được biết nhiều hơn về
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cùng với việc dân biết, dân cũng
được bàn bạc và tham gia ý kiến vền hiều việc quan trọng. Nhờ vậy, các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước nhận được sự đồng tình, ủng hộ của quảng đại quần
chúng nhân dân. hệ giữa Nhà nước và nhân dân có nhiều tiến bộ trên một số mặt, dần
dần thể hiện đúng Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Các cơ quan nhà nước đã từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động, thích ứng và tổ
chức tốt hơn yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mở cửa, hội nhập và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Trong những năm qua, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa đã có những tiến bộ nhất định trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Quốc hội có những đổi mới quan trọng trong công tác lập pháp, đã thông qua
một số lượng lớn luật, bộ luật, pháp lệnh mới với chất lượng ngày càng được nâng cao,
tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước và thực hành dân chủ. Nhà nước
luôn quan tâm thực hiện chính sách dân tộc, bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Công
tác dân vận được chú trọng, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân
dân được củng cố, phát huy. Các cơ quan báo chí, xuất bản đã làm tốt hơn nhiệm vụ
thông tin, tuyên truyền. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quản lý tài nguyên,
bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục được hoàn thiện. Công tác
kiểm tra, thanh tra việc thực thi và xử lý vi phạm được chú trọng. Tăng cường một
bước tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, tránh được tình trạng ôm đồm, cồng
kềnh và quan liêu trước đây, thực hiên sự phân cấp, giảm bớt phiền hà trong bộ máy
hành chính. Dần dần thực hiện được tư tưởng quan trọng là tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực
hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Chúng ta
đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để bảo đảm dân chủ gắn với kỷ
luật, kỷ cương; đồng thời, chỉ có thực hành dân chủ mới xây dựng được Nhà nước
pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân .Cùng với kinh tế, phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được những kết quả tích cực. Chính sách an
sinh xã hội được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trên các lĩnh vực lao động, việc làm, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, người có công và bảo trợ xã hội. An sinh xã hội cơ bản
được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Nhận thức
của người dân về tự bảo đảm an sinh xã hội có tiến bộ, huy động nguồn lực xã hội cho
chính sách xã hội tốt hơn. Đã hoàn thành trước thời hạn nhiều mục tiêu Phát triển
Thiên niên kỷ. Mở rộng đối tượng thụ hưởng, nâng mức hỗ trợ và thực hiện đồng bộ
nhiều chính sách đối với người có công, giảm nghèo, trợ giúp xã hội, hỗ trợ nhà ở, tạo
việc làm, đào tạo nghề, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ tín dụng cho học sinh, sinh viên nghèo… 2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được vẫn còn 1 số hạn chế : Trong
chế độ dân chủ và pháp quyền thì quyền lực nhà nước không phải là quyết định tự có
của Nhà nước, mà quyền lực đó được nhân dân ủy quyền, giao quyền. Quyền lực nhà
nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước, giao cho những con người cụ thể,
mà ở con người cụ thể khi các dục vọng, thói quen nổi lên thì khả năng sai lầm trong
việc thực thi quyền lực càng lớn. Không thể khẳng định người được ủy quyền luôn làm
đúng, làm đủ những gì mà nhân dân ủy quyền.
Vì vậy, phải kiểm soát quyền lực nhà nước để hạn chế sự lộng quyền, lạm
quyền. Muốn kiểm soát quyền lực nhà nước thì phải thực hành dân chủ rộng rãi.
Nhưng dân chủ chưa được thực hành rộng rãi nên vẫn còn sự lộng quyền, lạm quyền,
vẫn còn tình trạng quan liêu, cửa quyền, phiền hà đối với nhân dân, chưa khắc phục
được bệnh tham ô, lãng phí, Nhà nước còn chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng
về dân chủ thành pháp luật, thành quy chế, nên các chủ trương của Đảng đi vào cuộc
sống rất chậm làm ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.
Chưa có cơ chế bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực,
trên thực tế, quyền lực vẫn thuộc về các cơ quan nhà nước. Việc nhân dân giám sát
chính quyền cũng chưa có cơ chế rõ ràng, trên thực tế, việc giám sát này còn rất mờ
nhạt. Tình trạng quan liêu của bộ máy hành chính làm cho yêu cầu quản lý các quá
trình kinh tế - xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân chưa thật nhanh, nhạy và
hiệu quả cao. Trong nhiều trường hợp, “hành chính” trở thành “hành dân là chính”. 3. Đối sinh viên
Bản thân mỗi sinh viên việc kết hợp sức mạnh của bản thân, chủ động trước tình
thế của đất nước trong quá trình hội nhập, “ dựa vào sức mình là chính” có ý nghĩa
quan trọng trong việc học tập và tìm kiếm cơ hội trong tướng lai. Bản thân mỗi sinh
viên cần tích cực học tập ý thức được vai trò trách nhiệm của bản thân trong việc xây dựng đất nước.
Không được ỉ lại, trông chờ vào người khác phải tích cực học tập rèn luyện,
củng cố ý thức để nâng cao hiểu biết. Nỗ lực phát huy sức mạnh điểm mạnh bản thân
mỗi người để phát huy sức mạnh vốn có của mình ; đồng thời kết hợp thường xuyên
tích cực giao lưu học hỏi với bạn bè xung quanh , bạn bè quốc tế để phát huy toàn diện
khả năng tiềm ẩn trong bản thân mỗi chúng ta. Ý thức được tránh nhiệm cần làm gì để
phát huy được khả năng của mình tốt nhất. Trong cuộc sống mỗi người đều có điều
kiện sống khác nhau hoàn cảnh riêng, từ đó hình thành những, suy nghĩ khác nhau.
tính cách. Dựa vào chính mình là chính để hình thành nên tính cách mỗi người. Tích
cực phát huy trau dồi kinh nghiệm, kĩ năng sống rèn luyện các kĩ năng cần thiết như :
kĩ năng ngoại ngữ, kĩ năng giao tiếp, trình độ công nghệ thông tin... để đáp ứng được
nhu cầu của xã hội. Tóm lại mỗi sinh viên đã thấy rõ được tầm quan trọng của phương
châm trong quá trình kháng chiến, sức mạnh to lớn việc giành được thành công, cũng
như ý nghĩa sâu sa cửa phương châm. Phương châm đã để lại bài học ý nghĩa đối với
mỗi sinh viên; đem lại ý nghĩa quan trọng để sinh viên ý thức về trách nhiệm của bản
thân mình đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. KẾT LUẬN
Như vậy, kinh tế chính trị Mác - Lênin là một trong những dòng lý thuyết kinh
tế chính trị nằm trong dòng chảy tư tưởng kinh tế phát triền liên tục trên thế giới, được
hình thành, xây dựng bởi C.Mác - Ph.Ăngghen và V.I. Lênin, dựa trên cơ sở kế thừa và
phát triển những giá trị khoa học kinh tế chính trị của nhân loại trước đó, trực tiếp là
những giá trị khoa học của kinh tế chính trị tư sản cồ điển Anh. Kinh tế chính trị Mác -
Lênin có quá trình phát triền không ngừng kể từ giữa thế ký thứ XIX đến nay. Kinh tế
chính trị Mác - Lênin là một môn khoa học trong hệ thống các môn khoa học kinh té
cùa nhân loại. Trong bối cảnh mới, Việt Nam cần phát huy sức mạnh tổng hợp của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại Cách mạng công nghiệp
4.0. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, là đối tác vì hòa bình, thịnh vượng và phát
triển bền vững, với phương châm kết nối, liên kết, hợp tác, hòa giải và cùng phát triển.
Theo đó, Việt Nam phát huy vị thế chiến lược về địa - chính trị, địa - kinh tế, địa - công nghệ… TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị,
Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,2018 2.
Trần Quang. Từ Bài báo “Dân Vận” của Bác Hồ 65 năm trước
.http://www.nhandan.org.vn, ngày 03/7/2014. 3.
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.49. 4.
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.84-85. 5.
Đảng Cộng sản Việt Nam. Ban chỉ đạo tổng kết lý luận: Báo cáo tổng kết một
số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới(1986-2006). Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005, tr.86. 6.
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.166-167.