
































































Preview text:
Trần Ngọc Tuyền- Nhóm 14  MSSV 221A040180 
Đề tài: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LEENIN VỀ NỀN KINH TẾ HÀNG 
HÓA, THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ VẬN DỤNG NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA THỊ  TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, loài người không ngừng tìm kiếm những 
mô hình thể chế kinh tế thích hợp để đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Một trong 
những mô hình thể chế kinh tế như thế là mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của 
Nhà nước. Kinh tế thị trường là nấc thang phát triển cao hơn kinh tế hàng hóa, khi mà 
các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều được thực hiện thông qua thị 
trường. Sự phát triển của sản xuất hàng hóa làm cho phân công lao động xã hội ngày 
càng sâu sắc, chuyên môn hóa, hợp tác hóa ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các 
ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ. Hơn nữa, những nhà sản xuất kinh doanh muốn 
chiếm được ưu thế trên thị trường phải năng động, nhạy bén, không ngừng cải tiến kỹ 
thuật và hợi lý hóa sản xuất. Từ đó làm tăng năng xuất lao động xã hội, thúc đẩy lực 
lượng sản xuất phát triển. Phát triển sản xuất hàng hóa với quy mô lớn sẽ thúc đẩy quá 
trình tích tụ và tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế ở trong nước và ngoài 
nước, hội nhập nên kinh tế thế giới. 
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ 
nghĩa nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, lạc hậu, khả năng cạnh tranh hạn chế. 
Trong khi đó thị trường thế giới và khu vực đã được phân chia bởi hầu hết các nhà sản 
xuất và phân phối lớn; ngay cả thị trường nội địa cũng chịu sự phân chia này. Xuất 
phát từ nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế xã hội, để ổn đinh kinh tế trong nước và 
hội nhập quốc tế ta phải xây dựng một nên kinh tế mới, một nền kinh tế nhiều thành 
phần, đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Phát triển kinh tế thị trường có vai trò rất 
quan trọng, đối với nước ta muốn chuyển từ sản suất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ 
nghĩa thì phải phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan.              Phần 1 
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA-KINH 
TẾ THỊ TRƯỜNG   
Sản xuất hàng hóa 
Khái niệm sản xuất hàng hóa 
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm được sản xuất ra để 
trao đổi hoặc mua bán trên thị trường. 
Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi đủ hai điều kiện sau đây: 
Phân công lao động xã hội 
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra thành các ngành, nghề 
khác nhau của nền sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn 
hoá lao động, do đó dẫn đến chuyên môn hoá sản xuất thành những ngành nghề khác 
nhau. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một 
vài loại sản phẩm nhất định. Song, cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều loại 
sản phẩm khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu đòi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc 
vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau. 
b. Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất 
Sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thuỷ là 
chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là 
người sở hữu sản phẩm lao động. Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu 
sản xuất đã làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm 
trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và 
tiêu dùng. Trong điều kiện ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác 
phải thông qua sự mua - bán hàng hoá, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng  hoá. 
Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu một 
trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hoá và sản phẩm lao động không  mang hình thái hàng hoá. 
Đặc trưng của sản xuất hàng hóa 
Đặc trưng của sản xuất hàng hóa 
Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi mua bán. 
Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa có tính tư nhân, vừa có tính xã hội. 
Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, lợi nhuận chứ không phải giá trị sử dụng. 
Ưu, nhược điểm của sản xuất hàng hóa  Ưu điểm   
Thúc đẩy sự phân công lao động và phát triển kinh tế. 
Kích thích cải tiến khoa học-kĩ thuật, thúc đẩy LLSX phát triển nhanh. 
Thúc đẩy tính năng động của người sản xuất, nâng cao năng suất , chất lượng, hiệu  quả kinh tế. 
Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. 
Nhược điểm: phân hóa giàu nghèo, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng, phá hoại  môi trường sinh thái…  Hàng hóa  Khái niệm 
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người 
thông qua trao đổi, mua bán. 
Hai thuộc tính của hàng hóa 
Giá trị sử dụng 
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con 
người. Là phạm trù vĩnh viễn.  Giá trị 
Giá trị trao đổi là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng của loại này được trao đổi 
với những giá trị sử dụng loại khác. 
Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Là  phạm trù lịch sử. 
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa 
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp  chuyên môn nhất định. 
Lao động trừu tượng là lao động hao phí đồng nhất của con người. 
Thời gian lao động xã hội cần thiết. 
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hóa trong 
nhưng điều kiện sản xuất trung bình xã hội với một trình độ trung bình, cường độ lao 
động trung bình của người sản xuất.   
Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một loại hàng hóa có 
xu hướng nghiêng về thời gian lao động cá biệt của người sản xuất mà họ cung cấp 
phần lớn loại hàng hóa đó trên thị trường. 
Hai nhân tố ảnh hưởng đến thời gian lao động cần thiết là năng suất lao động và  cường độ lao động. 
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao đông hay sức sản xuất của lao 
động. Giá trị của hàng hóa thay đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. 
Cường độ lao động là mức độ tiêu hao về lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho 
biết mức độ khẩn trương của lao động. 
Lao động giản đơn và lao động phức tạp. 
Lao động giản đơn là sự tiêu hao sức lực giản đơn mà bất kỳ một người bình thường 
nào, không cần biết đến tài nghệ đặc biệt đều có thể tiến hàng được để sản xuất ra  hàng hóa. 
Lao động phức tạp là loại lao động phải đòi hỏi đào tạo tỷ mỉ, công phu và có sự khéo 
léo, tài nghệ, phải có sự tích lũy lao động. Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động 
phức tạp sang tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Vì vậy lao động phức tạp là 
bội số của lao động giản đơn. 
Lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. 
Kinh tế hàng hóa 
Kinh tế hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản 
xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán để trao đổi trên thị trường. Kinh tế hàng hóa ra 
đời sau kinh tế tự nhiên và có thể chia làm hai giai đoạn là kinh tế hàng hóa giản đơn 
và kinh tế hàng hóa phát triển hay còn gọi là kinh tế thị trường. 
Kinh tế hàng hóa đối lập với kinh tế tự nhiên và kinh tế chỉ huy. Khi sản xuất hàng 
hóa, lượng sản phẩm hàng hóa lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào, phong 
phú, thị trường được mở rộng, khái niệm thị trường được hiểu ngày càng đầy đủ hơn. 
Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hóa thông qua tiền tệ làm môi giới. Ở đây người mua và 
người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa lưu  thông trên thị trường. 
Thị trường và cơ chế thi trường 
Khái niệm thị trường 
Thị trường là lĩnh vực trao đổi trên đó các chủ thể kinh tế tác động với nhau nhằm xác 
định giá cả và sản lượng hàng hóa.    Phân loại 
Trong quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường, thị trường đã xuất 
hiện từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, bao gồm nhiều loại thị trường khác 
nhau. Hiện nay trên thế giới cũng như ở nước ta đang có nhiều cách phân chia thị 
trường khác nhau. Nhìn chung, có ba cách phân chia chủ yếu sau: 
Dựa vào thuộc tính hàng hóa. 
Dựa vào khu vực lưu thông hàng hóa. 
Dựa vào trình tự thời gian lưu thông hàng hóa. 
Trên cơ sở phân chia thị trường theo thuộc tính hàng hóa, trong nền kinh tế thị trường 
hiện đại có các loại thị trường cơ bản như sau: 
Thị trường hàng hóa và dịch vụ.  Thị trường lao động. 
Thi trường bất động sản.  Thị trường tài chính. 
Thị trường khoa học công nghệ. 
Xu hướng và chức năng  Xu hướng 
Thị trường phát triển cùng với sự phát triển của SXHH. 
Sự phát triển của thị trường do SXHH quyết định. 
Thị trường tác động trở lại đối với SXHH (thúc đẩy hoặc kìm hãm SXHH)       
Chức năng của thị trường  Chức năng thừa nhận. 
Chức năng cung cấp thông tin. 
Chức năng kích thích hoặc hạn chế sản xuất và tiêu dùng. 
Cơ chế thị trường   
Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó các vấn đề kinh tế được 
giải quyết thông qua thị trường (mua bán và trao đổi hàng hóa), cơ chế thị trường 
hoàn toàn đối lập với nền kinh tế tự nhiên. Trong cơ chế thị trường người sản xuất và 
người tiêu dùng thường tác động lẫn nhau để giải quyết ba vấn đề trung tâm của một 
tổ chức kinh tế: Sản xuất ra cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? 
Trong thị trường có 3 yếu tố chính: hàng hóa, tiền tệ, người mua bán. Động lực hoạt 
động của con người trong cơ chế thị trường là lợi nhuận, nó bị chi phối bởi một số 
quy luật như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ.    PHẦN II 
SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN VỀ KINH TẾ 
HÀNG HÓA - KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là xu hướng phát triển tất yếu 
Việt Nam- một dân tộc giàu truyền thống văn hiến, những còn là một quốc gia nghèo 
nàn và lạc hậu, lại liên tục bị các thế lực ngoại bang gây chiến tranh xâm lực tàn phá 
nặng nề. Kể từ khi có Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc 
đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mĩ. Nhưng cũng từ đây, chúng ta càng hiểu sâu 
sắc hơn hai hiểm họa thường trực đối với đất nước là hiểm họa nghèo nàn, lạc hậu và 
hiểm họa giặc ngoại xâm. Hơn nữa, giữa chúng lại có mối liên hệ tương hỗ với nhau: 
vì nghèo nàn, lạc hậu mà giặc ngoại xâm luôn rình rập, đe dọa và cũng vì chiến tranh 
mà nước ta càng chìm đắm trong tình trạng chậm phát triển. Và, để thoát khỏi tình 
trạng đó thì đất nước ta phải tiến lên xây dựng thành công CNXH. Nhưng đang là một 
quốc gia nghèo nàn và lạc hậu làm thế nào Việt Nam mơi có thể xây dựng thành công 
CNXH phát triển và giàu mạnh? Bởi những lý do lịch sử nhất định, Việt Nam đã từng 
xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Đó là sự vận 
dụng chủ nghĩa Mac-Lênin có phần giáo điều, cứng nhắc, thiếu tôn trọng quy luật 
khách quan, xa rời thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, mô hình kinh tế này đã góp phần 
đáp ứng được các yêu cầu huy động tập chung mọi nguồn lực của toàn dân tộc cho 
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhưng cũng chiến tranh đã chep lấp và làm trầm 
trọng thêm những nhược điểm vốn có của mô hình này, nó tiếp tục được duy trì trong 
suốt thời gian dài hòa bình xây dựng đất nước sau chiến tranh. Điều này đã gây lên 
những hậu quả không lường, tạo ra một cuộc khủng hoảng vô cùng sâu sắc. 
Qua nhiều lần nghiên cứu đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng 
Cộng Sản Việt Nam (4-2001) lần đầu tiên đưa ra mô hình kinh tế tổng quá của nước ta 
trong thời kỳ quá độ lên CNXH là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Đây là kết quả của sự tổng kết thực tiến ở nước ta qua hơn 20 năm đổi mới kết hợp 
với tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường quốc tế. Đây còn 
là kết quả của sự phát triển và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của học thuyết 
Mac-Lênin, quy luật chung của phát triển kinh tế thị trường vào hoàn cảnh cụ thể Việt 
Nam. Đây là nền kinh tế tuân theo những quy luật thị trường, đồng thời lại dựa trên cơ 
sở và được dẫn dắt, chi phối bởi những nguyên tắc mang bản chất CNXH nhằm mục 
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. 
Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 
Thứ nhất, về chế độ sở hữu. Cơ chế thị trường trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa luôn 
hoạt động trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư   
bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Cơ chế thị 
trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN lại hoạt động trong môi trường 
của sự đa dạng các quan hệ sở hữu, trong đó chế độ công hữu giữ vai trò là nền tảng 
của nền kinh tế quốc dân, với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tính định hướng 
XHCN đòi hỏi trong khi phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần phải củng cố 
và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế có 
khả năng điều tiết, hướng dẫn sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Kinh tế 
nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh 
vực an ninh - quốc phòng, ở các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết... mà các thành phần 
kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không sinh lời hoặc ít lãi. 
Thứ hai, về tính giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý của nhà nước. Trong cơ 
chế thị trường TBCN, sự can thiệp của nhà nước luôn mang tính chất tư sản và trong 
khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo đảm môi trường kinh tế - xã hội 
thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột 
TBCN. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, 
thì sự can thiệp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền 
lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu, dân giàu, nước 
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 
Thứ ba, về cơ chế vận hành. Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng 
XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng 
Cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó bảo đảm tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế nhiều 
thành phần hướng tới đích XHCN theo phương châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị 
trường hướng dẫn doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở các mặt cơ bản: Một là, Nhà 
nước XHCN là nhân tố đóng vai trò “nhân vật trung tâm” và điều tiết nền kinh tế vĩ 
mô. Hai là, cơ chế thị trường là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, đóng vai trò “trung 
gian” giữa Nhà nước và doanh nghiệp. 
Thứ tư, về mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã hội. 
Trong sự phát triển của kinh tế thị trường TBCN, vấn đề công bằng xã hội chỉ được 
đặt ra khi mặt trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra nguy 
cơ bùng nổ xã hội, đe dọa sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Song, vấn đề đó không bao 
giờ và không thể nào giải quyết được triệt để trong chế độ TBCN. Mục đích giải 
quyết các vấn đề xã hội của các chính phủ tư sản chỉ giới hạn trong khuôn khổ của 
chủ nghĩa tư bản, chỉ được xem là phương tiện để duy trì chế độ TBCN. Trong nền 
kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước chủ động ngay từ đầu việc giải quyết 
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội 
không chỉ là phương tiện để phát triển nền kinh tế thị trường mà còn là mục tiêu của 
chế độ xã hội mới. Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN   
không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi 
tầng lớp dân cư đều được nâng lên, y tế, giáo dục đều phát triển, khoảng cách giàu 
nghèo được thu hẹp, đạo đức, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ vững, 
môi trường sinh thái được bảo vệ. 
Thứ năm, về phân phối thu nhập. Sự thành công của nền kinh tế thị trường định 
hướng XHCN không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn không ngừng 
nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng 
trong xã hội. Đặc trưng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thể 
hiện: Một là, xác định các chỉ tiêu hiệu quả cần đạt được, như tốc độ tăng GDP/người; 
các chỉ tiêu về phát triển giáo dục, y tế, việc làm; về xóa đói, giảm nghèo; về văn hóa 
- xã hội; bảo vệ môi trường sinh thái,... Hai là, nâng cao chức năng xã hội của Nhà 
nước XHCN trong chế độ bảo hiểm xã hội, trong chính sách phân phối thu nhập, đồng 
thời có chính sách bảo đảm xã hội đối với những đối tượng đặc biệt (gia đình có công 
với cách mạng, thương binh, người tàn tật,...).       
Thực trạng kinh tế thị trường nước ta hiện nay 
Những thành tựu 
Thị trường hàng hóa và dịch vụ 
Bằng đường lối đổi mới, mà một trong những đổi mới quan trọng là thực hiện cơ chế 
thị trường, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đó là một thành tựu 
rất quan trọng, cho phép đất nước mở ra một thời kỳ mới, một thời kỳ mà con đường 
tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa dễ dàng hơn, lòng tin của nhân dân vào Đảng ngày càng  được củng cố. 
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, liên tục ổn định. 
Bảng 3.1 Tốc độ tăng trưởng GDP và CPI bình quân từ năm 2007 đến năm 2013 
(Đơn vị %)    Năm  2007 2008 2009  2010  2011  2012  2013  Tốc độ tăng GDP bình  8,48  6,32  5,32  6,78  5,89  5,03  5,42  quân 
Tốc độ tăng CPI bình quân 12,6 22,97 6,88  11,75 18,13 6,81  6,04 
(Nguồn: Tổng cục thống kê) 
Các số liệu thống kê cho thấy, GDP nước ta trong giai đoạn 2007-2013 tốc độ tăng 
trung bình là 7,21%, Cao nhất năm 2007 đạt mức 8,48% sau đó sụt giảm năm 2008 ở   
mức 6,32% và 2009 là 5,32%, năm 2010 lại tăng lên 6,78%, hai năm tiếp theo 2011 
và 2012 lại tiếp tục sụt giảm và ở mức 5,89% và 5,03%. Sau đó năm 2013 tăng nhẹ và 
ở mức 5,42%. Các tỷ lệ nợ công, nợ nước ngoài và nợ công nước ngoài, theo đánh giá 
của Bộ Tài chính, trong giai đoạn từ 2007 đến 2013 tiếp tục gia tăng nhưng vẫn ở  ngưỡng an toàn. 
CPI nước ta trong giai đoạn 2007-2013 có tốc độ tăng trung bình là 14,2%. Cao nhất 
vào năm 2008, trong giai đoạn từ 207-2012 CPI nước ta biến động theo chu kì “hai 
năm cao một năm thấp”. Năm 2013 là năm đầu tiên CPI phá vỡ chu kỳ “hai năm cao, 
một năm thấp” đã diễn ra trong 9 năm trước đây đó thành công nổi bật của năm 2013, 
điều đó lại càng có ý nghĩa khi tăng trưởng kinh tế cũng cao hơn năm 2012, theo mục 
tiêu tổng quát mà Nghị quyết của Quốc hội đề ra (lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao  hơn năm trước). 
Bảng 3.2 Tốc độ tăng tỉ trọng bình quân các ngành từ năm 2007 đến năm 2013 
(Đơn vị: %)          200     201  201  Năm  2007  2008 9  2010 2011 2  3  Tăng GDP ngành nông                nghiệp  3,40  3,79  1,83 2,78  4,01  2,72 2,71  Tăng GDP ngành công                nghiệp  10,60 6,33  5,52 7,70  5,53  4,52 4,27  Tăng GDP ngành dịch vụ  8,68  7,20  6,63 7,52  6,99  6,42 7,14 
(Ngồn: Tổng cục thống kê) 
Nhìn chung, GDP từng ngành tăng theo các năm. Tuy nhiên, mức độ tăng trưởng theo 
các ngành không đều, cao nhất là ngành dịch vụ, sau đó là công nghiệp và nông 
nghiệp, đó là kết quả của quá trình chuyển đổi cơ cấu thành phần các ngành kinh tế 
theo hướng công nghiệp hóa. Mặc dù, các nguồn lực sản xuất nông nghiệp đang bị 
chuyển dần sang các ngành công nghiệp và dịch vụ nhưng do khoa học kĩ thuật phát 
triên, nhà nước có các chính sách khuyến khích hợp lý nên ngành nông nghiệp vẫn 
tăng trưởng tương đối nhanh và bền vững. Điển hình là Việt Nam đã trở thành nước 
xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới. 
Bảng 3.3 Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ các năm 
(Đơn vị: nghìn tỷ đồng)    Năm  2007 2008  2009  2010  2011  2012  2013  Tổng mức bán lẻ  726,   1197,  1561,  2004,  2324,  2617,  hàng hóa và dịch vụ  1  968,1 5  6  4  4  3 
(Nguồn: Tổng cục thống kê) 
Dựa vào bảng số liệu, ta thấy từ năm 2007 đến năm 2013, tổng mức bán lẻ hàng hóa 
và dịch vụ đều tăng so với năm trước. Năm 2007, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch 
vụ là 726,1 nghìn tỷ đồng. Năm 2013 tăng đến 2617,3 nghìn tỷ đồng.   
Thị trường lao động 
Do Việt Nam đang trong thơi kì “dân số vàng” nên thị trường lao động Việt Nam là 
một thị trường lớn và đang trên đà phát triển về cả chất và lượng. Cục thể, tính đến 
01/01/2014 lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 53,65 triệu người, tăng 864,3 nghìn 
người so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động nam chiếm 51,5%; lao động 
nữ chiếm 48,5%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 47,49 triệu người, tăng 
409,2 nghìn người so với cùng thời điểm năm 2013, trong đó nam chiếm 53,9%; nữ 
chiếm 46,1%. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 
2013 ước tính 52,40 triệu người, tăng 1,36% so với năm 2012. Lao động từ 15 tuổi trở 
lên đang làm việc năm 2013 của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 46,9% 
tổng số, giảm 0,5 điểm phần trăm so với năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng 
chiếm 21,1%, giảm 0,1 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 32,0%, tăng 0,6 điểm  phần trăm. 
Thị trường bất động sản 
Thời điểm trước năm 2011 thị trường bất động sản phát triển rất mạnh mẽ, có những 
thời điểm “sốt” của thị trường bất động sản. Sau đó, do các nguyên nhân chủ quan và 
khác quan như khủng hoảng kinh tế thế giới nên thị trường bất động sản bị “đóng 
bang”. Tính đến cuối năm 2013, thị trường BĐS còn tồn kho gần 30.000 căn hộ và 
hơn 1 triệu m2 đất nền, tập trung chủ yếu ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh với giá trị tồn 
kho ước tính trên hàng chục ngàn tỷ đồng. 
Thị trường tài chính 
Thị trường tài chính Việt Nam trong những năm qua tương đối ổn định, lãi suất ngân 
hàng được điểu chỉnh phù hợp với điều kiện của nền kinh tế. Trong năm 2013, là một 
năm thành công về ổn định tỷ giá khi chung cuôc NHNN chỉ phải tăng 1% tỷ giá bình 
quân liên ngân hàng, đặc biệt là nguồn lực dự trữ ngoại hối tiếp tục được củng cố ước 
tính đạt trên 25 tỷ USD, tăng khoảng 6 tỷ USD so với năm 2012 và 16 tỷ USD so với   
năm 2011. Tính đến thời điểm ngày 31/12/2013, NHNN đã đấu thầu thành công 69,9 
tấn vàng qua đó góp phần bình ổn giá vàng, không còn những cơn “sốt” vàng ngay cả 
khi giá vàng thế giới liên tục biến động, tình trạng “vàng hóa” trong hệ thống ngân 
hàng đã chấm dứt, mức độ chênh lệch giá vàng thế giới với giá vàng trong nước đã  giảm. 
Thị trường khoa học công nghệ 
Thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam chưa được phát triển mạnh mẽ nhưng 
cũng đã đạt một số thành công nhất định. Trong tương lai với các chính sách khuyến 
khích của nhà nước như sửa đổi luật khoa học công nghệ (có hiệu lực từ 1/1/2014), 
đầu tư nhiều dự án, chương trình nhằm thúc đẩy nguồn cung sản phẩm KHCN do các 
viện nghiên cứu, trường đại học hoặc doanh nghiệp tạo ra. Đặc biệt, việc chuyển đổi 
các tổ chức KHCN công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm… 
Thị trường khoa học công nghệ nước ta sẽ có triển vọng hơn. 
Những hạn chế ảnh hưởng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa ở Việt Nam 
Thứ nhất, vẫn chậm trễ và tồn tại sự bảo thủ trong đổi mới tư duy lý luận về kinh tế 
thị trường và chủ nghĩa xã hội, mang nặng tư duy lý luận của thời kỳ kinh tế kế hoạch 
hóa tập chung và chủ nghĩa xã hội phi thị trường. Nhiều tư duy theo lối mòn vẫn được 
duy trì mang tính áp đặt như: muốn phát triển kinh tế thị trường hội nhập vào kinh tế 
quốc tế nhưng lại muốn tạo ra một thị trường có sự khác biệt tương đối; lấy nguyện 
vọng chính trị thay cho quy luật kinh tế thị trường; vẫn tồn tại tâm lý trì trệ và thỏa 
mãn, thiếu quyết tâm, lúng túng để tiếp tục đi tới con đường đổi mới, trước hết là đổi 
mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội. 
Thứ hai, thể chế mới của nền kinh tế thị trường còn chưa được xác lập hoàn chỉnh và 
vững chắc, mà cơ chế quan liêu vẫn còn tồn tại dai dẳng và tái lập lại dưới nhiều hình 
thức khác nhau. Vẫn chưa tách bạch rạch ròi giữa chức năng quản lý nhà nước về 
kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh, dẫn đến sự can thiệp quá sâu, mang tính 
hành chính-quan liêu của các cơ quan nhà nước vào hoạt động kinh doanh của cơ sở. 
Không hiếm trường hợp cán bộ công quyền năng lực, phẩm chất kém và thiếu công 
tâm, lạm dụng chức quyền để “hành dân” hơn là phục vụ nhân dân. Đây là nguyên 
nhân làm suy yếu vai trò và sức mạnh của nhà nước pháp quyền, phát triển tệ nạn 
tham nhũng và cửa quyền đang làm nhức nhối xã hội và mất lòng tin của nhân dân. 
Thứ ba, duy trì khu vực kinh tế nhà nước cồng kềnh, yếu kém. Tuy khối doanh nghiệp 
nhà nước và sở hữu nhà nước đã qua nhiều lần cải tổ và cơ cấu lại, nhưng vẫn còn 
cồng kềnh, chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. Hơn nữa khu vực 
doanh nghiệp nhà nước đang chưa nhiều căn bệnh nan y như: quản lý yếu kém, vô   
trách nhiệm, làm ăn thua lỗ… đây là miếng đất màu mỡ cho tệ nạn tham nhũng, quan 
liêu và cơ chế xin- cho tiếp tục bám rễ và phát triển. 
Thứ tư, hệ thống các thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa chưa được hiện diện rõ nét và chưa được xây dựng đồng bộ. Trình độ phát triển 
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn hết sức thấp không chỉ xét 
về những mặt lực lượng sản xuất, quy mô thị trường và dung lượng trao đổi; mà xét 
cả về mặt xây dựng các thể chế thị trường cơ bản và nền tảng của chúng cũng còn 
thiếu vắng. Các loại hình thị trường riêng chưa phát triển đồng bộ. Các bộ phận và 
khu vực còn yếu và chưa gắn bó với nhau trong hệ thống thị trường quốc gia thống 
nhất, lại càng chưa gắn kế và hội nhập với hệ thống thị trường quốc tế. 
Thứ năm, hạ tầng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn yếu 
kém và lạc hậu. Đây là nguyên nhân làm cho môi trường kinh doanh và đầu tư kém 
hấp dẫn, nền kinh tế vận hành kém hiệu quả. Ví dụ, thủ tục hải quan chậm trễ và dịch 
vụ cảng biển khó tiếp cận đã làm tăng các chi phí, có chi phí không chính thức cũng 
như đánh mất cơ hội kinh doanh. Giá điện cao và các chi phí do cắt điện, mất điện gây 
ra cũng làm tăng các chi phí đầu vào của sản xuất doanh nghiệp. 
Thứ sáu, tuy có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn 
chưa đảm bảo chất lượng, hiệu quả, sự phát triển thiếu bền vững và năng lực cạnh 
tranh còn yếu. Chất lượng tăng trưởng được phản ánh chủ yếu thông qua các chỉ tiêu 
giá trị gia tăng của nền kinh tế và năng suất tổng hợp.       
Những giải pháp cụ thể 
Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá các chế độ sở hữu, tạo điều kiện phát triển 
mạnh nền kinh tế hàng hoá ở nước ta 
Cơ sở tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là sự tách biệt về kinh 
tế do chế độ sở hữu khác nhau, về tư liệu sản xuất quy định. Vì vậy, để phát triển kinh 
tế thị trường phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu trong nền kinh tế. Đối với nước ta 
quá trình đa dạng hoá được thể hiện bằng việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều 
thành phần như các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII đã chỉ ra. 
Đó là phát triển kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, 
kinh tế tư nhân và tư bản nước ngoài. 
Thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta. Khu 
vực kinh tế Nhà nước cần phải sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý,   
kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện vai 
trò chủ đạo và chức năng của một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đối với 
những cơ sở không cần giữ hình thức kinh tế Nhà nước cần chuyển sang hình thức sở 
hữu khác hoặc giải thể, đồng thời giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động. 
Đối với kinh tế hợp tác, cần phải có sự tổng kết, rút kinh nghiệm về bài học hợp tác 
xã kiểu cũ và xây dựng mô hình kinh tế hợp tác và hợp tác xã kiểu mới đang được 
phát triển hiện nay, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động có hiệu quả thiết thực, 
phát triển rộng rãi và đa dạng trong các ngành nghề, với quy mô hợp tác hoá khác 
nhau để huy động nguồn lực vào phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường ở nước  ta. 
Đối với loại hình sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán 
nhỏ. Một mặt, thông qua cơ chế, chinh sách và hướng dẫn phát triển của Nhà nước 
khuyến khích sự phát triển của thành phần kinh tế này. Mặt khác cần tăng cường công 
tác quản lý để xây dựng nề nếp sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật. 
Đối với thành phần tư bản tư nhân. Cần có chính sách khuyến khích thành phần kinh 
tế này để các nhà tư bản yên tâm và mạnh dạng đầu tư vào nền kinh tế, đặc biệt trong 
lĩnh vực sản xuất hàng hoá tiêu dùng xuất khẩu. 
Đối với thành phần kinh tế Nhà nước. Nhà nước cần phải có chính sách khuyến khích 
thành phần kinh tế này phát triển kể cả với tư bản Nhà nước trong nước và tư bản nhà 
nước nước ngoài. Vận dụng các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước là phương thức để 
chúng ta huy động sức mạnh dân tộc của các thành phần kinh tế khác. 
Muốn vậy ta phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, vai trò điều tiết, quản lý 
của Nhà nước pháp quyền XHCN và nhân tố quyết định vận động thành công 
KTTBCN ở Việt Nam. Cần xây dựng hệ thống pháp luật rõ ràng, nhất quán, phù hợp 
với tập quán quốc tế, đủ sức hẫp dẫn nhưng công bằng nghiêm minh. 
Thực tế nước ta hiện nay ở vùng nông thôn và đặc biệt là vùng núi còn tồn tại khá 
nặng nền sản xuất tính chất của nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc. Vì vậy, cần có 
chính sách thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất hàng hoá ở các vùng này, đặc 
biệt phải chú ý tới việc xây dựng các cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh lưu thông hàng hoá với 
các vùng phát triển trong nước. 
Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội ở nước ta 
Phân công lao động xã hội là điều kiện của sản xuất hàng hoá, của phát triển KTTT. 
Vì vậy, quá trình phát triển KTTT ở nước ta đòi hỏi phải đẩy mạnh phân công lại lao 
động xã hội. Muốn khai thác mọi nguồn lực cần phải phát triển nhiều ngành nghề, sử 
dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao động.   
Phân công lại lao động giữa các ngành theo hướng chuyên môn hoá sản xuất, hợp tác 
hoá, lao động công nghiệp và dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối, lao động nông 
nghiệp giảm tuyệt đối giữa lao động và tài nguyên, bảo vệ và phát triển môi trường 
sinh thái. Cùng với mở rộng phân công lao động trong nước tiếp tục mở rộng phân 
công và hợp tác lao động quốc tế. 
Tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường 
Đây là biểu hiện và tiền đề quan trọng nhất để phát triển KTTT. Thị trường là sản 
phẩm tất yếu của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sản xuất và lưu thông hàng hoá 
phát triển thị trường càng mở rộng. Sản xuất, lưu thông hàng hoá quyết định thị 
trường, song thị trường cũng tác động trở lại, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng 
hoá. Để mở rộng thị trường và tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường cần tôn trọng 
quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, đảm bảo sự cạnh tranh bình 
đẳng giữa các thành phần kinh tế, xây dựng thị trường thống nhất và thông suốt cả 
nước; phát triển mạnh thị trường hàng hoá và dịch vụ, trên cơ sở tìm hiểu nhu cầu mà 
tăng quy mô, chủng loại, nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh của hàng tiêu dùng 
để thoả mãn nhu cầu trong nước và mở rộng kim ngạch xuất khẩu. 
Ngoài ra phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để tăng năng suất lao 
động, hạ giá thành sản phẩm, tạo điều kiện giảm giá cả hàng hoá, tăng thu nhập, tăng 
sức mua, làm cho dung lượng thị trường nhất là thị trường nông thôn tăng lên. 
Hình thành và phát triển thị trường sức lao động, vốn, tiền tệ, chứng khoán. Để các thị 
trường này phát triển cần triệt để xoá bỏ bao cấp, thực hiện nguyên tắc tự do hoá giá 
cả, tiền tệ hoá tiền lương, mở rộng cao loại thị trường, thực hiện giao lưu hàng hoá 
thông suốt cả nước, lành mạnh hoá thị trường, khắc phục tình trạng kinh tế ngầm, 
kiểm soát và xử lý nghiêm minh các vi phạm thị trường. 
Đẩy mạnh cách mạng khoa học công nghệ, nhằm phát triển nền kinh tế theo 
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá 
Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh tranh nếu 
thường xuyên tổ chức lại sản xuất, đổi mới thiết bịi, công nghệ nhằm tăng năng suất 
lao động, hạ thấp chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy, phải đẩy 
mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới của cách mạng khoa học - 
công nghệ vào sản xuất và lưu thông, đảm bảo cho hàng hoá đủ sức cạnh tranh trên 
thị trường tiếnhành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tạo điều kiện cho kinh tế thị  trường phát triển. 
Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước   
Để nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, nhất thiết phải coi trọng vai trò - 
quản lý vĩ mô của Nhà nước. 
Trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, cần phải tiếp tục đổi mới 
các công cụ, chính sách vĩ mô, đặc biệt là hệ thống tài chính tín dụng lưu thông tiền 
tệ, chính sách phân phối thu nhập và kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội. Việc đổi 
mới này vừa phải theo quy tắc phù hợp với những phương thức quản lý của nền kinh 
tế thị trường, đồng thời, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng mà Đảng  đã chọn. 
Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới chính sách 
tài chính tiền tệ giá cả 
Đây là những nhân tố quan trọng để phát tiển KTTT, để các nhà sản xuất kinh doanh 
trong và ngoài nước yên tâm đầu tư. Nhà nước cần hạn chế can thiệp trực tiếp vào sản 
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, mà tập trung làm tốt các chức năng tạo môi 
trường, hướng dẫn, hỗ trợ những yếu tố cần thiết để doanh nghiệp phát triển. Nhà 
nước cần tăng cường kiểm soát việc sử dụng mọi nguồn lực nhằm bảo toàn và phát 
triển những tài sản quốc gia. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ là 
công cụ rất quan trọng để quản lý nền KTTT nhiều thành phần. Nó tạo hành lang pháp 
lý cho tất cả mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong và ngoài 
nước. Với hệ thống pháp luật đồng bộ, các doanh nghiệp chỉ có thể làm giàu trên cơ 
sở tuân thủ pháp luật. 
Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh giỏi 
Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con người vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng 
kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội. Con người bao giờ cũng là lực lượng sản xuất 
cơ bản nhất của xã hội. Con người vừa là kết quả, vừa là điều kiện để sản xuất phát 
triển. Mỗi cơ chế quản lý có đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh tương ứng. Chúng ta 
cần đẩy mạnh việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, kinh doanh 
cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Cần sử dụng bồi 
dưỡng, đãi ngộ đúng đắn với đội ngũ cán bộ nhằm nâng cao nghiệp vụ của họ. Cơ cấu 
đội ngũ cán bộ cần chú trọng đảm bảo cán bộ quản lý lẫn cán bộ kinh doanh cả ở 
phạm vi vĩ mô lẫn vi mô. 
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế thị trường 
Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, mọi quốc gia muốn thúc đẩy KTTT phát 
triển phải hoà nhập kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới (mở rộng thị trường 
ngoài nước, mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài).   
Muốn vậy phải đa dạng hoá hình thức, đa phương hoá đối tác, phải quán triệt nguyên 
tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và phân không 
biệt chế độ chính trị - xã hội phải triệt để khai thác lợi thế so sánh của đất nước trong 
quan hệ kinh tế nhằm khai thác tiềm năng lao động, tài nguyên thiên nhiên của đất 
nước, tăng xuất khẩu để nhập khẩu, thu hút vốn kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh  nghiệm quản lý. 
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp 
cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay. Việc đó không 
nhằm ngoài mục tiêu giải phóng sức sản xuất, động viên tới mức cao nhất mọi nguồn 
lực bên trong và ngoài nước phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, 
trên cơ sở đó mà nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế xã hội nhằm mục tiêu 
tối thượng là cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, 
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Thực hiện mục tiêu đó chính là giữ vững 
định hướng XHCN trong công cuộc đổi mới nền kinh tế nước nhà.    KẾT LUẬN 
Chúng ta khẳng định tính tất yếu của công cuộc đổi mới, đặc biệt là đổi mới về kinh 
tế, nhưng cũng thấy mặt trái của nhiệm vụ này. Việc chuyển nền kinh tế tập trung 
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế 
thị trường có sự quản lý của nhà nước là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết để giải 
phóng và phát huy các tiềm năng sản xuất trong xã hội. Nhưng sẽ sai lầm nếu cho 
rằng nền kinh tế thị trường là liều thuốc vạn năng. Cùng với sự kích thích sản xuất 
phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi cho việc nảy sinh và phát 
triển nhiều loại tiêu cực xã hội. Đã xuất hiện khuynh hướng làm giàu bằng bất cứ giá 
nào, kể cả lừa đảo, gây tội ác vi phạm pháp luật sẵn sàng chà đạp lên lương tâm và 
nhân phẩm, lối sống trụy lạc, chạy theo những thị hiếu thấp hèn, văn hoá không lành 
mạnh và những hủ tục mê tín, dị đoan đang phục hồi và phát triển. 
Trong thế hệ trẻ có một bộ phận phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng. 
Một bộ phận không ít cán bộ, đảng viên có chức có quyền, trong đó có cả những 
người đã từng đóng góp đáng kể cho cách mạng, cũng bị sa ngã và thoái hoá, biến  chất... 
Tóm lại, phát triển kinh tế hàng nhiều thành phần trong nền kinh tế thị trường mở 
không phải không có những hạn chế và tiêu cực nhưng những thành tựu đạt được đặc 
biệt là động lực phát triển được tạo ra là không thể phủ nhận. Hơn nữa việc phát triển 
kinh tế thị trường ở nước ta không phải là tự phát và sao chép cứng nhắc mà là phát 
triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Có thể nói đây không phải là mô hình 
có sẵn trong lịch sử mà đây là một sự khám phá mới, được xem như sự đột phá về mặt 
lý luận vốn đang cần được bổ sung trong thời kỳ quá độ hiện nay. 
Trong bối cảnh đó việc tăng cường nghiên cứu, tìm tòi những căn cứ khoa học và thực 
tiễn làm cơ sở cho việc xác định những thành phần kinh tế và do đó là việc hoàn thiện 
chính sách kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là việc làm có ý nghĩa cả về lý luận và  thực tiễn hiện nay. 
Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất trong việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở 
nước ta là thiếu hụt trong nhân tố con người. Nhân tố con người càng quan trọng bao 
nhiêu thì sự yếu kém trong nhân tố con người càng gây hậu quả tiêu cực bấy nhiêu. Vì 
vậy phải đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, con người là mục tiêu và 
người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, con người là mục tiêu và động lực của 
phát triển. Cần phải coi con người là vốn tức là coi như một thứ tài nguyên, nhưng là 
một thứ tài nguyên đặc biệt, một vốn quý nhất của đất nước. Điều đặc biệt quan trọng 
ở đây là phải đưa khái niệm nguồn lực con người thành một khái niệm công cụ cơ bản   
để điều hành sự phát triển kinh tế xã hội, xem như sự phát triển con người là chỉ số 
quan trọng để xác minh trình độ phát triển của một đất nước. 
Như vậy, vấn đề con người là vấn đề trung tâm được quán xuyến và xuyên suốt và 
trong toàn bộ nội dung và chiến lược phát triển kinh tế xã hội do đại hội Đảng toàn 
quốc lần thứ VII đã đề ra. 
Từ những điều đã nói ở trên, rút ra kết luận rằng: Việc Đảng và Nhà nước ta chủ 
trương thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị 
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN hoàn toàn không phải là 
một kiểu “bắt cá hai tay” hay là “một sự lựa chọn theo hệ tư tưởng... do Đảng áp đặt 
lên toàn xã hội” như có người bài bác. Trái lại, đó là một chủ trương đúng đắn, một sự 
lựa chọn có khoa học được rút ra từ toàn bộ quá trình phát triển kinh tế hàng hoá, kinh 
tế thị trường trên thế giới từ trước đến nay. 
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là chủ trương chiến lược lâu dài trong 
thời kỳ quá độ góp phần phát huy quyền làm chủ, khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo 
của dân, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá, tạo ra sự cạnh 
tranh sống động trên thị trường. 
Với chủ trương đó, chúng ta sử dụng cơ chế thị trường - một thành quả của nền văn 
minh nhân loại - làm phương tiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo điều kiện cải 
thiện đời sống nhân dân. Nhưng chúng ta quyết không theo mô hình kinh tế thị trường 
tự do tư bản chủ nghĩa, không để cho cơ chế thị trường tự điều tiết nền kinh tế theo 
quy luật của thế giới hoang dã “cá lớn nuốt cá bé”, dẫn đến chỗ “loại trừ xã hội đối 
với một bộ phận ngày càng lớn nhân dân lao động”, như chính như nhiều nhà khoa 
học có đầu óc khách quan ở các nước tư bản đã chỉ ra. 
Trong hoàn cảnh cụ thể nước ta hiện nay, chúng ta coi trọng vai trò quản lý và điều 
tiết vĩ mô của Nhà nước đối với kinh tế thị trường để đảm bảo định hướng XHCN của 
chiến lược phát triển và mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. 
Để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay thì phải phát triển nền 
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là một tất yếu khách quan. 
Để thực hiện tốt ta phải không ngừng phát huy nhân tố con người đồng thời áp dụng 
có hiệu quả những thành tựu khoa học kỹ thuật để công nghiệp hoá và hiện đại hoá  đất nước. 
Chắc chắn còn nhiều khó khăn và thử thách trên con đường đi tới mục tiêu trên. Song 
những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng trong những 
năm qua cho chúng ta cơ sở để tin rằng mục tiêu đó nhất định sẽ thực hiện được.  Lý Thị Cẩm Tú    MSSV: 221A040183       
ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ KINH TẾ HÀNG 
HOÁ, THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ 
HÀNG HOÁ, THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM    PHẦN I 
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA-KINH 
TẾ THỊ TRƯỜNG   
1. Lý luận về kinh tế hàng hoá của chủ nghĩa Mác: 
1.1. Khái niệm sản xuất hàng hóa: 
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm được sản xuất ra để 
trao đổi hoặc mua bán trên thị trường. Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi đủ hai điều  kiện sau đây: 
+Phân công lao động xã hội 
+Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất 
1.2. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa 
1.2.1. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi mua 
bán. Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa có tính tư nhân, vừa có tính xã hội. 
Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, lợi nhuận chứ không phải giá trị sử dụng. 
1.2.2. Ưu, nhược điểm của sản xuất hàng hóa Ưu điểm Thúc đẩy sự phân công lao 
động và phát triển kinh tế. Kích thích cải tiến khoa học-kĩ thuật, thúc đẩy LLSX phát 
triển nhanh. Thúc đẩy tính năng động của người sản xuất, nâng cao năng suất , chất 
lượng, hiệu quả kinh tế. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Nhược 
điểm: phân hóa giàu nghèo, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng, phá hoại môi 
trường sinh thái… 2. Hàng hóa 
2.1. Khái niệm Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó 
của con người thông qua trao đổi, mua bán. 
2.2. Hai thuộc tính của hàng hóa   
2.2.1. Giá trị sử dụng Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu 
cầu nào đó của con người. Là phạm trù vĩnh viễn. 
2.2.2. Giá trị Giá trị trao đổi là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng của loại này 
được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. Giá trị là lao động xã hội của người 
sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Là phạm trù lịch sử. 
2.3. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa lao động cụ thể là lao động có ích 
dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Lao động 
trừu tượng là lao động hao phí đồng nhất của con người. 
-Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hóa 
trong nhưng điều kiện sản xuất trung bình xã hội với một trình độ trung bình, cường 
độ lao động trung bình của người sản xuất. Thông thường thời gian lao động xã hội 
cần thiết để sản xuất ra một loại hàng hóa có xu hướng nghiêng về thời gian lao động 
cá biệt của người sản xuất mà họ cung cấp phần lớn loại hàng hóa đó trên thị trường. 
Hai nhân tố ảnh hưởng đến thời gian lao động cần thiết là năng suất lao động và  cường độ lao động. 
-Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao đông hay sức sản xuất của lao 
động. Giá trị của hàng hóa thay đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. Cường 
độ lao động là mức độ tiêu hao về lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho biết 
mức độ khẩn trương của lao động. 
-Lao động giản đơn là sự tiêu hao sức lực giản đơn mà bất kỳ một người bình thường 
nào, không cần biết đến tài nghệ đặc biệt đều có thể tiến hàng được để sản xuất ra  hàng hóa. 
- Lao động phức tạp là loại lao động phải đòi hỏi đào tạo tỷ mỉ, công phu và có sự 
khéo léo, tài nghệ, phải có sự tích lũy lao động. Trong cùng một đơn vị thời gian, lao 
động phức tạp sang tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. 
Vì vậy lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn. Lượng giá trị của hàng hóa 
được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. 
3. Kinh tế hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của 
sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán để trao đổi trên thị trường. 
Kinh tế hàng hóa ra đời sau kinh tế tự nhiên và có thể chia làm hai giai đoạn là kinh tế 
hàng hóa giản đơn và kinh tế hàng hóa phát triển hay còn gọi là kinh tế thị trường. 
Khi sản xuất hàng hóa, lượng sản phẩm hàng hóa lưu thông trên thị trường ngày càng 
dồi dào, phong phú, thị trường được mở rộng, khái niệm thị trường được hiểu ngày 
càng đầy đủ hơn. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hóa thông qua tiền tệ làm môi giới. Ở   
đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng 
hàng hóa lưu thông trên thị trường. 
4. Thị trường và cơ chế thi trường 
4.1. Khái niệm thị trường: 
Thị trường là lĩnh vực trao đổi trên đó các chủ thể kinh tế tác động với nhau nhằm xác 
định giá cả và sản lượng hàng hóa.  4.2. Phân loại 
Trong quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường, thị trường đã xuất 
hiện từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, bao gồm nhiều loại thị trường khác 
nhau. Hiện nay trên thế giới cũng như ở nước ta đang có nhiều cách phân chia thị 
trường khác nhau. Nhìn chung, có ba cách phân chia chủ yếu sau: 
+Dựa vào thuộc tính hàng hóa 
+Dựa vào khu vực lưu thông hàng hóa 
+Dựa vào trình tự thời gian lưu thông hàng hóa 
Trên cơ sở phân chia thị trường theo thuộc tính hàng hóa, trong nền kinh tế thị trường 
hiện đại có các loại thị trường cơ bản như sau: 
+Thị trường hàng hóa và dịch vụ  +Thị trường lao động 
+Thị trường bất động sản  +Thị trường tài chính 
+Thị trường khoa học công nghệ. 
4.3. Xu hướng và chức năng:  -Xu hướng: 
Thị trường phát triển cùng với sự phát triển của SXHH. Sự phát triển của thị trường 
do SXHH quyết định. Thị trường tác động trở lại đối với SXHH (thúc đẩy hoặc kìm  hãm SXHH)  -Chức năng:  +Chức năng thừa nhận 
+Chức năng cung cấp thông tin   
+Chức năng kích thích hoặc hạn chế sản xuất và tiêu dùng. 
4.4. Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó các vấn đề kinh tế 
được giải quyết thông qua thị trường (mua bán và trao đổi hàng hóa), cơ chế thị 
trường hoàn toàn đối lập với nền kinh tế tự nhiên. 
Trong cơ chế thị trường người sản xuất và người tiêu dùng thường tác động lẫn nhau 
để giải quyết ba vấn đề trung tâm của một tổ chức kinh tế: Sản xuất ra cái gì? Sản 
xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Trong thị trường có 3 yếu tố chính: hàng hóa, tiền  tệ, người mua bán. 
Động lực hoạt động của con người trong cơ chế thị trường là lợi nhuận, nó bị chi 
phối bởi một số quy luật như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông  tiền tệ.  PHẦN II 
SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN VỀ KINH TẾ 
HÀNG HÓA - KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là xu hướng phát triển tất yếu: 
- Việt Nam là một dân tộc giàu truyền thống văn hiến, những còn là một quốc gia 
nghèo nàn và lạc hậu, lại liên tục bị các thế lực ngoại bang gây chiến tranh xâm lực 
tàn phá nặng nề. Kể từ khi có Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết dưới ngọn cờ giải phóng 
dân tộc đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mĩ. Nhưng cũng từ đây, chúng ta càng 
hiểu sâu sắc hơn hai hiểm họa thường trực đối với đất nước là hiểm họa nghèo nàn, 
lạc hậu và hiểm họa giặc ngoại xâm. Hơn nữa, giữa chúng lại có mối liên hệ tương hỗ 
với nhau: vì nghèo nàn, lạc hậu mà giặc ngoại xâm luôn rình rập, đe dọa và cũng vì 
chiến tranh mà nước ta càng chìm đắm trong tình trạng chậm phát triển. Và, để thoát 
khỏi tình trạng đó thì đất nước ta phải tiến lên xây dựng thành công CNXH. Nhưng 
đang là một quốc gia nghèo nàn và lạc hậu làm thế nào Việt Nam mơi có thể xây dựng 
thành công CNXH phát triển và giàu mạnh? Bởi những lý do lịch sử nhất định, Việt 
Nam đã từng xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Đó 
là sự vận dụng chủ nghĩa Mac-Lênin có phần giáo điều, cứng nhắc, thiếu tôn trọng 
quy luật khách quan, xa rời thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, mô hình kinh tế này đã 
góp phần đáp ứng được các yêu cầu huy động tập chung mọi nguồn lực của toàn dân 
tộc cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Điều này đã gây lên những hậu quả không 
lường, tạo ra một cuộc khủng hoảng vô cùng sâu sắc. 
Qua nhiều lần nghiên cứu đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng 
Cộng Sản Việt Nam (4-2001) lần đầu tiên đưa ra mô hình kinh tế tổng quá của nước ta 
trong thời kỳ quá độ lên CNXH là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.   
Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 
Thứ nhất, về chế độ sở hữu. Cơ chế thị trường trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa 
luôn hoạt động trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công 
ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế 
Thứ hai, về tính giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý của nhà nước. 
Thứ ba, về cơ chế vận hành. Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng 
XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng  Cộng sản Việt Nam. 
Thứ tư, về mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã hội. 
Thứ năm, về phân phối thu nhập.   
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị  quốc gia, Hà Nội, 2005. 
Nguyễn Văn Thường: Kinh tế Việt Nam: Những rào cản tăng trưởng, Nxb. Lý luận 
chính trị, Hà Nội, 2005. 
Nguyễn Viết Thông (chủ biên): Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa 
Mac-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013. 
Vũ Đình Bách (chủ biên): Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt 
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. 
Vũ Văn Phúc: Tính đặc thù theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị 
trường ở nước ta. Tạp chí cộng sản 18/9/2013. 
Tổng cục thống kê: Thông tin kinh tế hàng tháng, 
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=413&thangtk=12/2013, Truy cập ngày  24/3/2014. 
Nguyễn Huỳnh Thanh Trúc 
Mssv : 221A050728      Đề Tài 
LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VỀ KINH TẾ HÀNG HOÁ , THỊ 
TRƯỜNG VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ HÀNG 
HOÁ , THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM   
Phần 1 : Lý luận về kinh tế hàng hoá của chủ nghĩa Mác 
1 . Sản xuất hàng hoá 
1.1 . Khái niệm sản xuất hàng hoá 
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm được sản xuất ra để 
trao đổi hoặc mua bán trên thị trường 
1.2 . Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá 
- Điều kiện thứ nhất : Phân công lao động   
- Điều kiện thứ hai : Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của cac s chủ thể sản xuất  2 . Hàng hoá  2.1 . Khái niệm hàng hoá 
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người 
thông qua trao đổi,mua bán. 
2.2. Thuộc tính của hàng hoá 
- Giá trị sử dụng : là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con 
người.Là phạm trù vĩnh viễn. 
- Giá trị : là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.Là  phạm trù lịch sử. 
2.3 . Lượng giá trị và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hoá 
- Thời gian lao động xã hội cần thiết là khoảng thời gian lao động cần phải tiêu tốn để 
sản xuất ra một hàng hoá nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã 
hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình 
và một cường độ lao động trung bình trong xã hội ở thời điểm đó. Thời gian lao động 
xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa sẽ quyết định đại lượng hàng hoá đó. 
- Đơn vị đo lường lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng lượng lao động tiêu hao 
để sản xuất ra hàng hoá 
- Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hoá  + Năng suất lao động 
+ Mức độ giản đơn hay phức tạp cùa lao động 
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá  + Lao động cụ thể  + Lao động trừu tượng  2.4 Tiền tệ 
- Nguồn gốc tiền tệ và lịch sử ra đời 
Giá trị của hàng hoá rất trừu tượng, nó chỉ bộc lộ ra ngoài qua giá trao đổi, giá trị của 
hàng hoá biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả. Tiền dường như là kết quả của một quá 
trình dài của Từ sản xuất và trao đổi hàng hoá. Đó là: hình thái giá trị giản đơn hoặc   
ngẫu nhiên> hình thái giá trị toàn phần hoặc giá trị mở rộng> hình thái giá trị chung> 
Tiền tệ được ra đời. 
Bản chất của tiền tệ chính là vật ngang giá chung, là hàng hoá đặc biệt thể hiện mối 
quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.  Chức năng của tiền 
Theo chủ nghĩa Mác tiền có chức năng sau :  + Thước đo giá trị  + Phương tiện Lưu thông  + Phương tiện cất giữ  + Phương tiện thanh toán  + Tiền tệ thế giới 
3. Kinh tế hàng hoá 
- Kinh tế hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của 
sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán để trao đổi trên thị trường . Kinh tế hàng hóa 
ra đời sau kinh tế tự nhiên và có thể chia làm hai giai đoạn là kinh tế hàng hóa giản 
đơn và kinh tế hàng hóa phát triển hay còn gọi là kinh tế thị trường   
4. Thị trường là cơ chế thị trươngf 
4.1 Khái niệm về thị trường 
Thị trường là lĩnh vực trao đổi trên đó các chủ thể kinh tế tác động với nhau nhằm xác 
định giá cả và sản lượng hàng hóa  4.2 Vai trò thị trường 
- Môjt là thị trường vừa là điều kiện vừa là môi trươngf cho sản xuất phát triển 
- Hai là thị trường là nơi quan trọng để đánh giá kiểm định năng lực của các chủ thể  kinh tế 
- Ba là thị trường là thành tố gắn kết nền kinh tế thành môjt chỉnh thể từ sản xuất phân 
phối lưu thông trao đổi tiêu dùng gắn kết nền sản xuất trong nước với nền kinh tế thế  giơi  4.3 Cơ chế thị trường   
Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó các vấn đề kinh tế được 
giải quyết thông qua thị trường , cơ chế thị trường hoàn toàn đối lập với nền kinh tế tự 
nhiên. Trong cơ chế thị trường người sản xuất và người tiêu dùng thường tác động lẫn 
nhau để giải quyết ba vấn đề trung tâm của một tổ chức kinh tế : Sản xuất ra cái gì  Sản xuất như thế nào  Sản xuất cho ai 
4.4 Những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường 
- ưu thế của kinh tế thị trường : 
+ Tạo ra lực lượng sản xuất lớn đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng: Vì nguồn cung 
lớn nên giúp cho kinh tế thị trường đã tạo ra rất nhiều sản phẩm, dịch vụ giúp thỏa 
mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng. 
+ Là động lực để cho doanh nghiệp phát triển: Trong kinh tế thị trường, khi cầu lớn 
hơn cung thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên. Kéo theo đó là lợi nhuận cũng sẽ tăng theo. 
Và đây là động lực rất lớn để doanh nghiệp phát triển, không ngừng đổi mới, mở rộng  thị trường. 
+ Tạo công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết thất nghiệp: Cùng với động 
lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Kinh tế thị trường còn gián tiếp tạo ra nhiều việc 
làm hơn cho thị trường lao động.  Nhước điểm 
+ Gia tăng khoảng cách giàu nghèo, dẫn đến bất bình đẳng trong xã hội: Cạnh tranh 
đã trở thành điều tất yếu trong sản xuất, kinh doanh hiện nay. Nếu không chịu đổi 
mới, những nhà sản xuất nhỏ lẻ sẽ bị nhà sản xuất lớn hơn thôn tính. Vô hình chung 
điều này đã dẫn tới tình trạng phân chia giai cấp, gây bất bình đẳng xã hội. Và tình 
trạng độc quyền chi phối sẽ xuất hiện. 
+ Gây mất cân bằng cung cầu khiến nền kinh tế rơi vào khủng hoảng: Không phải lúc 
nào cơ chế hoạt động của kinh tế thị trường cũng tạo ra sự cân đối về giá cả và hàng 
hóa. Vốn dĩ thị trường có rất nhiều biến động như chiến tranh, dịch bệnh, thiện tai, 
cấm vận…Rất cả những điều này có thể là nguyên nhân dẫn tới Khủng Hoảng Kinh 
Tế . Ngoài ra, vì mục tiêu lợi nhuận, các doanh nghiệp sẽ mở rộng sản xuất, kinh 
doanh. Khi tình trạng cung lớn hơn cầu kéo dài sẽ khiến khủng hoảng kinh tế.   
Phần 2 : Sự vận dụng trong xây dựng nền kinh tế hàng hóa, thị trường ở Việt Nam. 
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm phát 
triển của các quốc gia trên thế giới và từ thực tiễn phát triển Việt Nam, Đảng ta đã đề 
ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCH. Đây là bước phát triển 
mới về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo của Đảng ta trong quá trình 
đổi mới và là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH 
và con đường đi lên CNXH, đặc biệt là những chỉ dẫn của Lê-nin trong chính sách  kinh tế mới. 
Với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành 
tựu, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn chiến tranh, bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống 
nhất đất nước. Tuy nhiên, sau khi thống nhất đất nước, cả nước đi lên CNXH, mô 
hình kinh tế này đã bộc lộ nhiều hạn chế. Trước tình trạng sản xuất đình đốn, thương 
mại trì trệ, năng suất lao động thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất thấp, lực lượng sản 
xuất lạc hậu... Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa 
Mác - Lênin vào thực tiễn nước ta, quyết tâm từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập 
trung, quan liêu, bao cấp để chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 
Ở Việt Nam, mặc dù đã có quan điểm manh nha về kinh tế thị trường từ Đại hội VI 
khi xác định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tuy nhiên đến Đại hội 
IX, thuật ngữ “phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN” mới chính thức được 
ngoài được xác lập trong nền kinh tế nước ta. Vị trí, vai trò của từng thành phần kinh 
tế trong nền kinh tế quốc dân đã được nhận thức rõ ràng và xác định cụ thể. 
Đến Đại hội XI của Đảng (2011) đã phát triển và hoàn thiện thêm một bước đặc trưng 
kinh tế của CNXH, trong đó Đảng ta xác định: “Nền kinh tế với nhiều hình thức sở 
hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. 
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng 
của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh 
tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng 
được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành 
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những 
động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát 
triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh 
tế đa dạng ngày càng phát triển”. 
Trên cơ sở kế thừa nhận thức của các đại hội trước, Đại hội XII của Đảng đã có những 
bổ sung đáng kể với sự hiện diện khá toàn diện và cụ thể các thành tố cấu thành nền   
kinh tế, thể hiện bước tiến trong nhận thức lý luận của Đảng về mô hình kinh tế Việt  Nam.        Trương Thị Bích Tuyền  MSSV : 221A310209 
Đề tài: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA , 
THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NÊN KINH TẾ HÀNG 
HÓA THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY  Bài Làm 
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về kinh tế hàng hóa  SẢN XUẤT HÀNG HÓA 
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó , những người sản xuất 
ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi ,mua bán  Ưu điểm 
Việc áp dụng sản xuất hàng hóa ở Việt Nam đã và đang khai thác điều kiện tự nhiên 
thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên vốn có để sản xuất sản phẩm ứng cho người tiêu 
dùng. Đây là ưu điểm bật của hoạt động sản xuất ở nước ta 
Ví dụ: Làng nghề tơ tầm Vọng Nguyệt- làng nghề ươm tơ , người dân đã tận dụng quy 
luật phát triển của sinh vật tằm trong tự nhiên để sản xuất ra vải . 
Góp phần hình thành nên đội ngũ lao động có tay nghề cao và chuyên mô theo đó sẽ 
tạo ra những sản phẩm chất lượng và hiện đại. 
Phát triển sản xuất hàng hóa ở Việt Nam đã đem lại đời sống vật chất và tinh thần 
ngày càng được nâng cao, đa dạng và phong phú.  Nhược điểm : 
Sản xuất hàng hóa phát triển thúc đẩy sự phân hóa đời sống dân cư , phân hóa giàu  nghèo. 
Cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường 
Sức khỏe bị ảnh hưởng do làm việc trong môi trường độc hại.  Giải pháp   
Các nhà sản xuất phải hiểu được ý nghĩa , giá trị thực sự mà mặt hàng mình đang sản  xuất 
Sản phẩm phải chất lượng để đúng với mục đích là đáp ứng đúng với nhu cầu tiêu  dùng . 
-> Sản xuất hàng hóa được xem là quan hệ sản xuất mới , tạo điều kiện cho lực lượng 
phát triể.Nó có vai trò quan trọng thúc đẩy nên kinh hàng hóa của nhà nước  HÀNG HÓA 
Khái niệm hàng hóa : là sản phẩm của lao động có thể thõa mãn nhu cầu nào đó của 
con người thông qua trao đổi, mua bán. 
Hàng hóa có hai thuộc tính : Giá trị sử dụng và giá của hàng hóa là công cụ của sản 
phẩm , có thể thõa mãn nhu cầu nào đó của con người.Nhu cầu đó có thể là về nhu 
cầu về vật chất lẫn tinh thần, có thể là cho một cá nhân hoặt cho nhà sản xuất.Sản xuất 
phát triển, sản phẩm càng đa dạng thì hàng hóa có nhiều giá trị sử dụng  LAO ĐỘNG 
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp 
chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng lao động, công cụ, 
phương pháp lao động riêng và kết quả riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng  của hàng . 
Lao động trừu tượng là lao dộng xã hội của người sản xuất hàng hoá không kề đến 
hình thức cụ thể của nó; đó là sự hao phí sức lao động nói chung của người sản xuất 
hàng hoá về cơ bắp, thần kinh, trí óc. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa. 
Các nhân to ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa  Năng xuất lao động 
Năng suất lao động là là năng lực sản xuất của người lao động, được tính hằng số 
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hay số lượng thời gian hao phí 
để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. 
Năng suất lao động tăng lên sẽ làm giảm lượng thời gian hao phí lao động cần thiêt 
trong một đơn vị hàng hóa. 
Tính chất phức tạp của lao động 
Lao động giàn đơn là lao động không đòi hỏi có quá trình đào tạo một cách hệ thống, 
chuyên sâu về chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác được.   
Lao động phức tạp là những hoạt dộng lao dộng yêu cầu phải trải qua một quá trình 
đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất  định.  TIỀN TỆ 
Tiền, về bản chất, là một loại hàng hóa đặc biệt, là kốt quà của quá trình phát triển của 
sản xuât và trao đôi hàng hóa, tiền xuất hiện là yêu tô ngang giá chung cho thế giới 
hàng hóa. Tiền là hình thái biểu hiện giá trị của hàng hóa. Tiền phán ánh lao động xã 
hội và mối quan hệ giữa nhũng người sán xuất và trao đổi hàng hóa. Hình thái giản 
đơn là mầm mống sơ khai của tiền  Chức năng  Thước đo giá trị  Phương tiên lưu thông  Phương tiện cất  Phương tiện thanh toán  Tiền tệ thế 
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 
Về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Phát triển lực lượng 
sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu, nước 
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. “Mục đích của nền kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây 
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”(1). 
Đặc trưng về sở hữu: Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một chế độ sở hữu về 
tư liệu sản xuất là chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể). Từ khi 
tiến hành đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận trên thực tế có nhiều 
hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm cả công hữu và tư hữu. 
Đặc trưng về cơ cấu kinh tế: Là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, trong đó 
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác là bộ phận hợp 
thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một 
động lực quan trọng của nền kinh tế. 
Đặc trưng về phân phối: Thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, 
mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa trên các nguyên tắc của 
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, từ chỗ coi Nhà nước là chủ thể quyết   
định phân phối chuyển dần sang xác định thị trường quyết định phân phối lần đầu và 
Nhà nước thực hiện phân phối lại. 
Về cơ chế vận hành của nền kinh tế: Kết hợp giữa cơ chế thị trường với vai trò quản 
lý, điều hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm các mục tiêu phát 
triển kinh tế - xã hội. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa X, tháng 3-2008, Đảng ta 
khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền 
kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật 
kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Đây cũng là nền kinh tế có tổ chức, có kế hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng 
sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa vừa phát huy những ưu thế của kinh tế thị trường và kinh tế 
kế hoạch, vừa loại bỏ những khuyết tật của hai nền kinh tế đó, nhằm thực hiện mục 
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích cực, chủ động, 
sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước quản lý bằng chính 
sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch; sử dụng cơ chế thị trường để giải phóng sức 
sản xuất. Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm định hướng và 
tạo môi trường pháp lý cho sự phát triển các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế. 
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hộI chủ nghĩa, không phải thị trường điều 
tiết hoàn toàn mà còn có sự điều chỉnh, quản lý của Nhà nước để đạt các mục tiêu 
phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến 
bộ và công bằng xã hội, khắc phục những bất cập, khuyết tật của cơ chế thị trường. 
Về phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, thực hiện công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá. Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước sử dụng như một công cụ, 
phương tiện, một động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ chế vận hành của kinh tế 
thị trường là một cơ chế mở, bị điều tiết bởi các quy luật kinh tế cơ bản: giá trị, cạnh 
tranh, cung cầu nên kinh tế thị trường tạo ra khả năng kết nối hình thành chuỗi giá trị 
cho nền sản xuất toàn cầu. 
SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NÊN KINH TẾ HÀNG HÓA THỊ TRƯỜNG  Ở VIỆT NAM 
Thứ nhất, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng 
chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. “Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử 
phát triển của kinh tế thị trường”(2); là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin 
và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam; tiếp thu có 
chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.   
Thứ hai, trên cơ sở tổng kết thực tiễn 35 năm đổi mới, lý luận về kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nhất là về nội hàm của kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hoàn thiện và phát triển. Đó chính là sự 
gắn kết hữu cơ và biện chứng giữa tính thị trường với tính xã hội chủ nghĩa; giữa tính 
nhân loại, hiện đại với đặc thù phát triển riêng có của Việt Nam trong nền kinh tế. 
Thứ ba, những thành công trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội 
chủ nghĩa ở Việt Nam sau hơn 35 năm đổi mới đã và đang cho thấy lý luận về kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được hiện thực hóa. 
Thứ tư, lý luận về xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng 
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói chung từng bước được hoàn thiện cùng 
với những thành công trong hiện thực hóa lý luận này trong hơn 35 năm đổi mới đã 
tạo nền tảng cho việc đưa ra chiến lược phát triển của đất nước trong 10 năm tới, mở 
ra một giai đoạn mới cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Đây là giai đoạn 
phát triển với thế và lực mới, với tầm nhìn và mục tiêu đặt ra cụ thể hơn và khát vọng 
hơn về phát triển đất nước phồn vinh và hạnh phúc; là giai đoạn phát triển mang tính 
bền vững hơn, bao trùm hơn, dựa nhiều hơn vào nâng cao hiệu quả các nguồn lực và 
đổi mới sáng tạo trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều thay đổi nhanh, mạnh và  khó lường. 
HỌ VÀ TÊN : Lê Thị Kiều Trinh  MSSV : 221A170516  Nhóm : 14 
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA, THỊ 
TRƯỜNG VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ HÀNG 
HÓA, THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
PHẦN 1: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA,  THỊ TRƯỜNG  1. Sản xuất hàng hóa 
1.1. Khái niệm sản xuất hàng hóa: 
- Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm được sản xuất ra để 
trao đổi hoặc mua bán trên thị trường. 
- Sản xuất hàng háo chỉ ra đời khi đủ hai điều kiện sau đây: 
+ Phân công lao động xã hội 
+ Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất   
1.2. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa 
1.2.1. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa 
- Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi mua bán 
- Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa có tính tư nhân, vừa có tính xã hội 
- Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, lợi nhuận chứ không phải giá trị sử dụng 
1.2.2. Ưu, nhược điểm của sản xuất hàng hóa  *Ưu điểm: 
-Thúc đẩy sự phân công lao động và phát triển kinh tế 
- Kích thích cải tiến khoa học-kĩ thuật, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh 
- Thúc đẩy tính năng động của người sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu  quả kinh tế. 
- Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của xã hội  *Nhược điểm: 
- Phân hóa giàu nghèo, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng, phá hoại môi trường  sinh thái,…  2. Hàng hóa  2.1. Khái niệm 
-Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người 
thông qua trao đổi,mua bán. 
2.2. Hai thuộc tính của hàng hóa 
- Giá trị sử dụng:là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con 
người.Là phạm trù vĩnh viễn. 
- Giá trị:là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.Là  phạm trù lịch sử.  3. Kinh tế hàng hóa 
-Kinh tế hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của 
sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán để trao đổi trên thị trường.Kinh tế hàng hóa ra 
đời sau kinh tế tự nhiên và có thể chia làm hai giai đoạn là kinh tế hàng hóa giản đơn 
và kinh tế hàng hóa phát triển hay còn gọi là kinh tế thị trường.   
4. Thị trường và cơ chế thị trường  4.1. Khái niệm 
- Thị trường là lĩnh vực trao đổi trên đó các chủ thể kinh tế tác động với nhau nhằm 
xác định giá cả và sản lượng hàng hóa.  4.2. Phân loại 
- Hiện nay trên thế giới cũng như ở nước ta đang có nhiều cách phân chia thị trường 
khác nhau.Nhìn chung, có ba cách phân chia chủ yếu sau: 
+ Dựa vào thuộc tính hàng hóa 
+ Dựa vào khu vực lưu thông hàng hóa 
+ Dựa vào trình tự thời gian lưu thông hàng hóa. 
-Trên cơ sở phân chia thị trường theo thuộc tính hàng hóa, trong nền kinh tế thị 
trường hiện đại có các loại thị trường cơ bản sau: 
+ Thị trường hàng hóa và dịch vụ  + Thị trường lao động 
+ Thị trường bất động sản  + Thị trường tài chính 
+ Thị trường khoa học công nghệ 
4.3. Cơ chế thị trường 
- Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó các vấn đề kinh tế được 
giải quyết thông qua thị trường , cơ chế thị trường hoàn toàn đối lập với nền kinh tế tự 
nhiên. Trong cơ chế thị trường người sản xuất 
PHẦN 2 : Sự vận dụng trong xây dựng nền kinh tế hàng hóa, thị trường ở Việt Nam. 
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm phát 
triển của các quốc gia trên thế giới và từ thực tiễn phát triển Việt Nam, Đảng ta đã đề 
ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCH. Đây là bước phát triển 
mới về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo của Đảng ta trong quá trình 
đổi mới và là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH 
và con đường đi lên CNXH, đặc biệt là những chỉ dẫn của Lê-nin trong chính sách  kinh tế mới.   
Với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành 
tựu, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn chiến tranh, bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống 
nhất đất nước. Tuy nhiên, sau khi thống nhất đất nước, cả nước đi lên CNXH, mô 
hình kinh tế này đã bộc lộ nhiều hạn chế. Trước tình trạng sản xuất đình đốn, thương 
mại trì trệ, năng suất lao động thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất thấp, lực lượng sản 
xuất lạc hậu... Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa 
Mác - Lênin vào thực tiễn nước ta, quyết tâm từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập 
trung, quan liêu, bao cấp để chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 
Ở Việt Nam, mặc dù đã có quan điểm manh nha về kinh tế thị trường từ Đại hội VI 
khi xác định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tuy nhiên đến Đại hội 
IX, thuật ngữ “phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN” mới chính thức được 
sử dụng trong Văn kiện của Đảng. 
Đến Đại hội X của Đảng (2006), 5 thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế 
tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 
được xác lập trong nền kinh tế nước ta. Vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế 
trong nền kinh tế quốc dân đã được nhận thức rõ ràng và xác định cụ thể. 
Đến Đại hội XI của Đảng (2011) đã phát triển và hoàn thiện thêm một bước đặc trưng 
kinh tế của CNXH, trong đó Đảng ta xác định: “Nền kinh tế với nhiều hình thức sở 
hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. 
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng 
của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh 
tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng 
được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành 
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những 
động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát 
triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh 
tế đa dạng ngày càng phát triển”. 
Trên cơ sở kế thừa nhận thức của các đại hội trước, Đại hội XII của Đảng đã có những 
bổ sung đáng kể với sự hiện diện khá toàn diện và cụ thể các thành tố cấu thành nền 
kinh tế, thể hiện bước tiến trong nhận thức lý luận của Đảng về mô hình kinh tế Việt  Nam. 
Nguyễn Phùng Thiên Tú - 221A370556  ĐỀ TÀI   
" LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA, THỊ 
TRƯỜNG VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA, 
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY " 
Lý luận của Chủ Nghĩa Mác-LêNin về kinh tế hàng hóa, thị trường  Kinh tế hàng hóa: 
- Kinh tế hàng hóa là nền kinh tế có sự phân công lao động và trao đổi hàng hóa, dịch 
vụ giữa người này với người khác. Nó trái với nền kinh tế tự cung tự cấp trong đó 
người ta tự sản xuất sản phẩm và tự tiêu dùng  Sản xuất hàng hóa: 
Khái niệm sản xuất hàng hóa: 
Theo C. Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó, 
những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán 
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa: 
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội loài 
người. Nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển khi có các điều kiện: 
- Một là, phân công lao động xã hội. 
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các 
ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người 
sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người thực hiện sản xuất 
một hoặc một số loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của họ lại yêu cầu nhiều loại 
sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu những người sản xuất 
phải trao đổi sản phẩm với nhau 
- Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất 
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho những người 
sản xuất độc lập với nhau có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này 
muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua 
bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa. C. Mác viết: “Chỉ có sản 
phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện 
với nhau như là những hàng hóa”. Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản 
xuất là điều kiện đủ để nền sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển.   
Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất xuất hiện khách 
quan dựa trên sự tách biệt về sở hữu. Xã hội loài người càng phát triển, sự tách biệt về 
sở hữu càng sâu sắc, hàng hóa được sản xuất ra càng phong phú. 
Khi còn sự tồn tại của hai điều kiện nêu trên, con người không thể dùng ý chí 
chủ quan mà xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa. Việc cố tình xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa 
sẽ làm cho xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoảng. Với ý nghĩa đó, cần khẳng 
định, nền sản xuất hàng hóa có ưu thế tích cực vượt trội so với nền sản xuất tự cấp, tự  túc. 
Ưu điểm và nhược điểm của kinh tế hàng hóa  Ưu điểm: 
- Là điều kiện để thúc đẩy các hoạt động sản xuất 
- Phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, các vùng miền cũng như lợi thế quốc 
gia trong mối quan hệ với thế giới. 
- Tạo động lực để con người thoã sức sáng tạo. 
- Kinh tế hàng hoá cung cấp nhiều việc làm hơn.  Nhược điểm: 
- Dễ dẫn đến mất cân bằng cung cầu dẫn đến khủng hoảng kinh tế. 
- Tạo ra xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, gây ra sự suy thoái môi 
trường tự nhiên, môi trường xã hội. 
Kinh tế hàng hóa – Quy luật vận động và các nhân tố tạo thành 
Các nhân tố của kinh tế hàng hóa  Hàng hóa: 
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con 
người thông qua trao đổi mua bán 
Sản phẩm của lao động được gọi là hàng hoá khi được đưa ra trao đổi, mua bán 
trên thị trường. Hàng hoá có cả hai dạng là vật thể và phi vật thể 
* Thuộc tính của hàng hóa: 
- Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. 
+ Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của sản phẩm, có thể thoả   
mãn một nhu cầu nào đó của con người. Giá trị sử dụng của hàng hoá 
được quyết định trước hết do thuộc tính tự nhiên của hàng hoá đó. Nói 
cách khác, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Một sản phẩm đã là 
hàng hóa thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng. Nhưng không phải bất cứ 
vật gì có giá trị sử dụng cũng là hàng hóa (vì hàng hóa phải là sản phẩm 
lao động của con người) 
+ Giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất bỏ ra để tạo 
nên hàng hoá kết tinh trong hàng hoá ấy. Giá trị hàng hóa là phạm trù 
lịch sử. Theo C.Mác muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị 
trao đổi. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị 
hàng hoá. Có thể nói trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào giá trị, có nghĩa 
là: hai hàng hóa trao đổi với nhau phải ngang nhau về mặt giá trị.  Tiền tệ: 
Tiền là một loại hàng hoá đặc biệt, là yếu tố ngang giá chung cho thế giới hàng 
hoá. Giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá 
* Chức năng của tiền tệ: 
Tiền bao gồm 5 chức năng chính: 
- Là thước đo giá trị. 
- Phương tiện lưu thông. 
- Phương tiện cất trữ. 
- Phương tiện thanh toán.  - Tiền tệ thế giới 
Quy luật vận động của kinh tế hàng hóa:  Quy luật giá trị: 
Quy luật giá trị trong kinh tế chính trị Marx-Lenin là quy luật kinh tế cơ bản của nền 
sản xuất hàng hóa, quy định bản chất và là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản 
xuất hàng hóa, nó quy định mặt chất và sự vận động về mặt lượng của giá trị hàng 
hoá, theo đó, việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải căn cứ vào hao phí lao động xã   
hội cần thiết cũng như trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Trong nền kinh tế thị 
trường, quy luật giá trị được biểu hiện thông qua giá cả hàng hóa, đó là sự biểu hiện 
bằng tiền của giá trị hàng hóa, Quy luật giá trị hoạt động thể hiện ở sự vận động của 
giá cả xoay xung quanh trục giá trị  Quy luật cạnh tranh: 
Cạnh tranh trong nội bộ ngành làm hình thành giá trị thị trường giá trị xã hội 
của từng loại hàng hóa. 
Cạnh tranh giữa các ngành: Các doanh nghiệp tự do chuyển nguồn lực của 
mình từ ngành này sang ngành khác, vào các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau 
SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA, THỊ 
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
Theo quan điểm của Marx, kinh tế hàng hóa không phải là một 
phương thức sản xuất độc lập mà là một hình thức tổ chức kinh doanh. 
Với phạm vi và mức độ khác nhau, mặc dù đều là nền kinh tế hàng hóa 
nhưng bản chất của xã hội quy định đặc điểm nền kinh tế hàng hóa xã 
hội này. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa nên vai trò chủ đạo 
của nhà nước là chỉ đạo, quản lý nền kinh tế hàng hóa theo chủ nghĩa  xã hội ở Việt Nam 
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm phát 
triển của các quốc gia trên thế giới và từ thực tiễn phát triển Việt Nam, Đảng ta đã đề 
ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCH. Đây là bước phát triển 
mới về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo của Đảng ta trong quá trình 
đổi mới và là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH 
và con đường đi lên CNXH, đặc biệt là những chỉ dẫn của Lê-nin trong chính sách  kinh tế mới. 
Với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành 
tựu, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn chiến tranh, bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống 
nhất đất nước. Tuy nhiên, sau khi thống nhất đất nước, cả nước đi lên CNXH, mô 
hình kinh tế này đã bộc lộ nhiều hạn chế. Trước tình trạng sản xuất đình đốn, thương 
mại trì trệ, năng suất lao động thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất thấp, lực lượng sản 
xuất lạc hậu... Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa   
Mác - Lênin vào thực tiễn nước ta, quyết tâm từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập 
trung, quan liêu, bao cấp để chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 
Kết quả của sự vận dụng: 
Đảng ta đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển quản lý hàng hóa đa 
ngành theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đời sống người dân hết sức khó 
khăn từ khi nước ta áp dụng nền kinh tế bao cấp trì trệ bị cấm vận.Sau gần 30 cải cách 
phát triển, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nền kinh tế nước ta đã có những khởi 
sắc, tạo tiền đề cho thế kỷ phát triển của đất nước. Nhân dân ta có thể tự hào khi 
khẳng định kinh tế của nước nhà đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong 30 năm vừa qua 
- Một là, đất nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế phát triển 
vượt bậc, Cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày càng được cải thiện, mức sống của các tầng 
lớp nhân dân không ngừng được nâng cao. 
- Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa, gắn sản xuất với thị trường. Về cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển 
dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nông nghiệp Có một thay đổi quan 
trọng là chuyển từ độc canh cây lúa năng suất thấp, khan hiếm sang gạo đủ tiêu dùng 
trong nước, sang xuất khẩu gạo với số lượng lớn, đứng thứ hai thế giới và góp phần 
đảm bảo an ninh lương thực quốc tế; Việc xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu 
và thủy sản với số lượng lớn là rất quan trọng trên toàn thế giới. Các ngành dịch vụ 
ngày càng đa dạng và ngày càng đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và đời sống: du 
lịch, bưu chính, viễn thông có chỉ số phát triển nhanh; Dịch vụ tài chính, ngân hàng, 
tư vấn pháp luật; ... có một bước phát triển 
- Ba là, Thực hiện có hiệu quả chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, sử 
dụng tối ưu tiềm năng của các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước đang được tổ 
chức lại, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả và tập trung mạnh hơn vào các ngành 
then chốt, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Cơ chế hành chính đối với công ty nhà 
nước được đổi mới, một bước quan trọng theo hướng xóa bỏ bao cấp, thực hiện đổi 
mới mô hình kinh doanh và phát huy quyền. Tự chủ kinh doanh và chịu trách nhiệm. 
Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân, huy động tốt hơn các nguồn lực 
và tiềm năng trong nhân dân là động lực tăng trưởng và phát triển rất quan trọng. 
Điều này góp phần cải thiện giao thông đa quốc gia, chuyển giao công nghệ, tăng 
lượng lớn tiền bạc cho ngân sách nhà nước và giải quyết việc làm cho người dân 
- Thứ tư, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình 
thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định. Sau hơn 25 năm đổi mới, hệ thống luật pháp, 
chính sách và cơ chế của nền kinh tế thị trường đã có tính đồng bộ. Hoạt động của các 
loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý nhà   
nước được cải cách là một việc làm vô cùng quan trọng. Với phương hướng tiến bộ, 
hiệu quả của chính sách hội nhập kinh tế quốc tế tích cực, chủ động, quan hệ kinh tế 
của Việt Nam với các tổ chức quốc tế 
- Thứ năm, kết cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội cần được phát triển theo hướng hiện đại  hóa, công nghiệp hóa. 
- Thứ sáu: đổi mới cách thức lãnh đạo của Đảng, cách thức quản lý của Nhà nước, cải 
cách thủ tục hành chính quốc gia. Đổi mới phương thức quản lý vĩ mô của Nhà nước, 
đặc biệt là xây dựng chính sách phân phối thu nhập qua đó giúp xã hội tiến bộ và  công bằng hơn  Kết luận 
Đất nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ về chủ nghĩa xã hội, đó là một thời kỳ 
phức tạp và đầy biến động, thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội để 
hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ. Với xuất phát điểm thấp, điều kiện kinh tế khó 
khăn, nhiều trở ngại, muốn phát triển nền kinh tế ổn định ta cần thực hiện nền kinh tế 
hàng hóa như một bước ngoặt quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế . Tuy 
nhiên, trong quá trình hiện thực hóa có tiềm ẩn nhiều khó khăn phức tạp và ảnh hưởng 
đến xã hội nói chung. Để hạn chế tác động này, cần hướng nền kinh tế phát triển và 
buộc nó phải đi theo con đường mà chúng ta lựa chọn. Lựa chọn là xây dựng chủ 
nghĩa xã hội. Vì vậy, một chính sách phát triển đa nhanh theo định hướng xã hội chủ  nghĩa là điều kiện 
tiên quyết cần thực hiện. Sự cần thiết và hợp lý của quy luật phát triển thể hiện tư duy 
tiến bộ của đảng. Trong quá trình từng bước thực hiện chuyển đổi này, chúng ta phải 
tuân theo định hướng xã hội chủ nghĩa để hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế 
Huỳnh Lê Phương Uyên 
Mssv: 221A370393   
ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ KINH TẾ HÀNG 
HOÁ, THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ 
HÀNG HOÁ, THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 
I Lý luận về kinh tế hàng hoá của chủ nghĩa Mác:  1 Kinh tế hàng hoá:   
Kinh tế hàng hóa là nền kinh tế có sự phân công lao động và trao đổi hàng hóa, dịch 
vụ giữa người này với người khác. Nó trái với nền kinh tế tự cung tự cấp trong đó 
người ta tự sản xuất sản phẩm và tự tiêu dùng. 
1.1 Cách sản xuất hàng hoá ra đời và nó tồn tại như thế nào: 
Kinh tế hàng hóa ra đời và tồn tại dưới nhiều hình thái kinh tế - xã hội gắn liền với hai  tiền đề: 
Thứ nhất, tồn tại sự phân công lao động trong xã hội. Phân công lao động xã hội 
thuộc về việc chuyên môn hoá sản xuất. Nhưng nhu cầu tất yếu của cuộc sống đòi hỏi 
nhiều loại sản phẩm khác nhau. Do đó người sản xuất này phải phụ thuộc vào người 
sản xuất khác và phải trao đổi sản phẩm. Ví dụ, một nông dân sản xuất gạo và một thợ 
dệt sản xuất vải. Nông dân cũng cần vải và thợ dệt cần gạo. Để đáp ứng nhu cầu của 
họ, họ phải hỗ trợ lẫn nhau, trao đổi sản phẩm với nhau. Phân công lao động xã hội là 
biểu hiện của sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm tăng năng suất lao động, trao 
đổi sản phẩm là tất yếu. Tuy nhiên, theo Marx, đó mới là điều kiện cần chứ chưa phải 
điểu kiện đủ để xuất hiện và tồn tại sản xuất hàng hoá. 
Thứ hai: Chế độ tư hữu hoặc tư liệu sản xuất hàng hoá, sản phẩm khác nhau làm cho 
người sản xuất hàng hoá độc lập với nhau và mọi người đều có quyền trao đổi sản 
phẩm của mình với người khác. Đây là điều kiện đủ để sản xuất hàng hoá ra đời và 
tồn tại. Vậy: Công tác xã hội làm cho những người sản xuất lệ thuộc vào nhau và tư 
hữu phân chia họ, làm cho họ độc lập với nhau, đó là mâu thuẫn. Tuy nhiên, sản xuất 
hàng hoá chỉ có thể phát sinh nếu có cả hai điều kiện: Nếu thiếu một trong hai điều 
kiện này thì không có sản xuất hàng hoá và sản phẩm lao động không trở thành hàng  hoá. 
1.2 Điểm riêng biệt và lợi thế của kinh tế hàng hoá:  Điểm riêng biệt 
Để trao đổi và mua bán được, ta cần sản xuất hàng hóa. 
Công việc của nhà sản xuất vừa mang tính chất tư nhân vừa mang tính xã hội. 
Sản xuất hàng hóa đem lại giá trị, lợi nhuận.  Lợi thế  ∙ Lợi thế 
Sản xuất hàng hoá tồn tại và tiếp tục phát triển ở nhiều xã hội là sản phẩm của lịch sử 
phát triển sản xuất của loài người. Do đó, nó có nhiều ưu điểm và là một loại hình 
hoạt động kinh tế tiên tiến hơn nhiều. So với sản xuất tự cung tự cấp, sản xuất theo   
chiều sâu, hợp tác chặt chẽ, các hình thức kinh tế, các mối quan hệ và sự phụ thuộc 
lẫn nhau của những người sản xuất hình thành nên thị trường quốc gia và thế giới. Nó 
thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, là cơ sở để thúc đẩy dân chủ 
hoá, bình đẳng và tiến bộ xã hội. Nền kinh tế thị trường chỉ khác nhau về trình độ phát 
triển. Kinh tế thị trường là hình thức kinh tế hàng hóa phát triển nhất. Kinh tế hàng 
hóa đang phát triển, có nghĩa là phạm trù hàng hóa, tiền tệ và thị trường đang phát 
triển và mở rộng. Hàng hóa không chỉ bao gồm sản phẩm của sản xuất mà còn bao 
gồm cả tư liệu sản xuất. Dung lượng và cấu trúc thị trường đang được hoàn thiện và 
mở rộng. Mọi mối quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hóa. Lúc đó nền kinh 
tế thương mại được gọi là nền kinh tế thị trường. 
2 Kinh tế hàng hóa – Quy luật vận động và các nhân tố tạo thành: 
2.1 Các nhân tố quan trọng cấu thành nên kinh tế hàng hóa:  2.1.1 Hàng hóa: 
Hàng hóa có bản chất là thành phẩm của việc lao động, nhu cầu của người tham gia 
trao đổi mua bán sẽ được thỏa mãn qua hàng hóa. 
*Hàng hóa gồm có hai đặc trưng là giá trị sử dụng (sử dụng/ đem tiêu dùng) và giá trị  (mua bán/ đem trao đổi). 
Giá trị sử dụng là công dụng của một vật có thể thoả mãn những nhu cầu nhất định 
của con người, thể hiện ở hình thức sử dụng và tiêu dùng. Giá trị sử dụng hoặc giá trị 
sử dụng của một tài sản chủ yếu dựa trên các thuộc tính tự nhiên của nó. Sản phẩm đã 
là hàng hóa được đưa ra thị trường thì chắc chắn phải có giá trị sử dụng. Nhưng 
không có thứ gì có giá trị sử dụng. Chúng cũng là hàng hoá (vì hàng hoá phải là sản 
phẩm lao động của con người). Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là phương tiện 
trao đổi giá trị. Theo Marx, nếu muốn hiểu giá trị của 
hàng hóa, người ta phải đi từ giá trị trao đổi. Nếu giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi 
cũng thay đổi, giá trị trao đổi là hình thức xuất hiện của giá trị. Sự mâu thuẫn được  thể hiện ở chỗ: 
Khi là giá trị sử dụng thì hàng hóa khác nhau về chất, nhưng khi là giá thì với tất cả 
hàng hóa đều giống nhau về chất. Quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng khác 
nhau theo không, thời gian. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa: Marx là 
người đầu tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Ta 
gọi chúng là lao động trừu tượng và lao động cụ thể. Lao động trừu tượng là lao động 
hao phí của người sản xuất hàng hóa nói chung về trí lực, cơ bắp, thể chất và tinh 
thần, nếu chúng ta bỏ qua sự đa dạng của các hình thức lao động cụ thể.   
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa vì vậy đó là một phạm trù lịch sử. Tuy 
nhiên, cần lưu ý rằng không có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hóa, chỉ có lao 
động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt. Trong sản xuất hàng hoá giản 
không phức tạp, tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là biểu hiện của mâu 
thuẫn giữa tư nhân và lao động xã hội của những người sản xuất hàng hoá, là mâu 
thuẫn cơ bản trong sản xuất hàng hoá giản đơn. 
Lao động cụ thể là lao động sản xuất vật chất của con người, nó tồn tại dưới dạng một 
hoạt động nghề nghiệp cụ thể. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, liên quan 
chặt chẽ tới lao động sản xuất vật chất của con người.  2.1.2 Tiền tệ: 
Nguồn gốc tiền tệ và lịch sử ra đời 
Giá trị của hàng hoá rất trừu tượng, nó chỉ bộc lộ ra ngoài qua giá trao đổi, giá trị của 
hàng hoá biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả. Tiền dường như là kết quả của một quá 
trình dài của Từ sản xuất và trao đổi hàng hoá. Đó là: hình thái giá trị giản đơn hoặc 
ngẫu nhiên> hình thái giá trị toàn phần hoặc giá trị mở rộng> hình thái giá trị chung> 
Tiền tệ được ra đời. 
Bản chất của tiền tệ chính là vật ngang giá chung, là hàng hoá đặc biệt thể hiện mối 
quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. 
Chức năng của tiền tệ: 
Nó là thước đo giá trị.  Phương tiện trao đổi.  Phương tiện lưu trữ.  Phương tiện thanh toán.  Tiền tệ thế giới 
2.2 Quy luật vận động trong nền kinh tế hàng hóa: quy luật cạnh tranh và quy luật giá  trị: 
Trao đổi hàng hoá phải dựa vào giá trị, đây là nội dung của quy luật giá trị. Quy luật 
giá trị là quy luật sản xuất hàng hóa. Quy luật giá trị được áp dụng ở nơi sản xuất ra 
hàng hoá. Quy luật giá trị điều tiết sản xuất và trao đổi trong nền kinh tế hàng hóa. 
Nội dung của luật này được thể hiện thông qua việc sản xuất và lưu hành. Trong sản 
xuất, đối với thời gian hao phí cá biệt thì hầu hết là tương đương với thời gian lao 
động cần thiết. Đối với toàn xã hội thì tổng thời gian hao phí cá biệt bằng tổng thời 
gian lao động cần thiết của xã hội. Trong lưu thông, giá cả hàng hóa có thể lên xuống   
nhưng phải xoay quanh trục giá trị (do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu). Đối với 
tổng hàng hoá trên phạm vi xã hội, giá trị của nó được biểu hiện bằng: Tổng giá cả 
hàng hoá bằng tổng giá trị hàng hoá. Từ nội dung của quy luật giá trị ta thấy rõ tác 
dụng của nó đối với nền kinh tế hàng hóa . 
Lợi nhuận là động cơ mạnh mẽ nhất của nền kinh tế hàng hóa.Trong nền kinh tế hàng 
hóa, các nhà đầu tư kinh doanh và tổ chức kinh doanh luôn coi lợi nhuận là động lực, 
mục tiêu của mình. Làm thế nào để giảm thiểu chi phí và tối đa hóa lợi nhuận. Việc 
này cần nhiều kinh nghiệm, sắp xếp lại tổ chức quản lý. Tổ chức lại các bộ phận quản 
lý và xây dựng mối quan hệ giữa các bộ phận này để quá trình diễn ra suôn sẻ và trôi 
chảy nhằm tránh tình trạng trì trệ không cần thiết trong một số khâu ảnh hưởng đến 
toàn bộ hệ thống quản lý.. Việc giảm bớt một số bộ phận rườm rà còn giúp các nhà 
kinh tế tiết kiệm được chi phídẫn đến lợi nhuận cao hơn. Ngoài ra, nó cũng nâng cao 
trình độ kỹ thuật và tay nghề của nhân viên. Tóm lại Lợi nhuận là động lực cơ bản 
thúc đẩy sự vận động của nền kinh tế hàng hoá. 
II Liên hệ thực tế ở Việt Nam: 
Theo quan điểm của Marx, kinh tế hàng hóa không phải là một phương thức sản xuất 
độc lập mà là một hình thức tổ chức kinh doanh. 
Với phạm vi và mức độ khác nhau, mặc dù đều là nền kinh tế hàng hóa nhưng bản 
chất của xã hội quy định đặc điểm nền kinh tế hàng hóa xã hội này. Nhà nước ta là 
nhà nước xã hội chủ nghĩa nên vai trò chủ đạo của nhà nước là chỉ đạo, quản lý nền 
kinh tế hàng hóa theo chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 
1 Tình hình kinh tế của Việt Nam buộc chúng ta phải chuyển sang phát triển Phát 
triển kinh tế hàng hóa là một nhu cầu khách quan: 
Sau khi giành chiến thắng trong kháng chiến, nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế 
hoạch hóa tập trung theo hình thức công hữu về tư liệu sản xuất trên cơ sở kinh 
nghiệm sản xuất của các nước xã hội chủ nghĩa. Với sự cố gắng của nhân dân ta và sự 
giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa khác, mô hình kế hoạch hóa đã phát 
huy được hết những lợi thế vốn có. Từ một nền kinh tế hàng hóa lạc hậu Nhà nước đã 
sở hữu về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển nền kinh tế. 
Tình hình kinh tế - xã hội của nước ta, dựa trên nguyện vọng chính đáng của nhân dân 
ta, trên cơ sở vận dụng mô hình chủ nghĩa chủ nghĩa Mác – Lênin với nền kinh tế 
hang hóa. Nó phù hợp với thực tế của đất nước, theo quy luật kinh tế và xu thế thời 
đại. Vì: Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế mà vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì 
không thể có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa nói đến việc tích lũy vốn để mở rộng  sản xuất.   
Thứ hai, do đặc thù của nền kinh tế tập trung rất cứng nhắc, vì nó chỉ thúc đẩy tăng 
trưởng kinh tế trong ngắn hạn và chỉ phát triển kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế 
chỉ huy ở nước ta đã ra đời quá lâu. Vì vậy, không những không có tác động đáng kể 
đến việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà còn sản sinh ra nhiều sự tiêu cực làm giảm 
năng suất, chất lượng và hiệu quả. 
Thứ ba, về quan hệ ngoại thương, chúng ta thấy rằng nền kinh tế nước ta đang hội 
nhập vào nền kinh tế thị trường thế giới, nước ta vẫn có hoạt động ngoại thương và 
tham gia hợp tác. Mặt khác, nếu nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thị 
trường thế giới thì việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ 
đưa nền kinh tế nước ta tiến gần hơn với nền kinh tế thị trường thế giới, tương quan 
giá cả của hàng hoá trong nước sẽ gần hơn với mối tương quan quốc tế của giá cả  hàng hóa. 
Thứ tư, xu hướng chung phát triển kinh tế trên thế giới là sự phát triển kinh tế của 
từng quốc gia. Do đó hội nhập thế giới là điều tiên quyết. 
2 Tiềm năng và hạn chế của nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam:  2.1 Tiềm năng 
- Có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng và vị trí địa lý thuận lợi. 
- Với lực lượng lao động đông đảo, có trình độ văn hóa và chuyên môn, nước ta ở 
mức trung bình so với nhiều nước đang phát triển. 
- Chúng ta có đường lối, chính sách cải cách của đảng và nhà nước.  2.2 Hạn chế 
-Mặc dù là một nước nông nghiệp, thế nhưng diện tích đất canh tác bình quân đầu  người còn khá thấp 
-Nền kinh tế kém phát triển thể hiện rõ dấu vết của nền kinh tế tự nhiên, còn chịu tác 
động mạnh của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, thị trường chưa phát triển và đồng bộ, 
thu nhập quốc dân bình quân đầu người thấp, sức mua còn hạn chế. 
-Cơ sở hạ tầng còn kém phát triển, trình độ khoa học công nghệ thấp, hệ thống pháp 
luật còn nhiều điểm bất cập... Đảng và nhà nước ta đang tích cực đưa ra những giải 
pháp và chính sách để có thể khắc phục những hạn chế tồn tại. 
3. Những kết quả kinh tế nước ta đạt được từ những năm đổi mới cho đến ngày nay: 
Đảng ta đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển quản lý hàng hóa đa 
ngành theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đời sống người dân hết sức khó 
khăn từ khi nước ta áp dụng nền kinh tế bao cấp trì trệ bị cấm vận.Sau gần 30 cải cách   
phát triển, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nền kinh tế nước ta đã có những khởi 
sắc, tạo tiền đề cho thế kỷ phát triển của đất nước. Nhân dân ta có thể tự hào khi 
khẳng định kinh tế của nước nhà đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong 30 năm vừa qua. 
Một là, đất nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế phát triển 
vượt bậc, Cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày càng được cải thiện, mức sống của các tầng 
lớp nhân dân không ngừng được nâng cao. 
Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, 
gắn sản xuất với thị trường. Về cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch 
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nông nghiệp Có một thay đổi quan trọng 
là chuyển từ độc canh cây lúa năng suất thấp, khan hiếm sang gạo đủ tiêu dùng trong 
nước, sang xuất khẩu gạo với số lượng lớn, đứng thứ hai thế giới và góp phần đảm 
bảo an ninh lương thực quốc tế; Việc xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu và 
thủy sản với số lượng lớn là rất quan trọng trên toàn thế giới. Các ngành dịch vụ ngày 
càng đa dạng và ngày càng đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và đời sống: du lịch, 
bưu chính, viễn thông có chỉ số phát triển nhanh; Dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn 
pháp luật; ... có một bước phát triển 
Ba là, Thực hiện có hiệu quả chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, sử 
dụng tối ưu tiềm năng của các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước đang được tổ 
chức lại, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả và tập trung mạnh hơn vào các ngành 
then chốt, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Cơ chế hành chính đối với công ty nhà 
nước được đổi mới, một bước quan trọng theo hướng xóa bỏ bao cấp, thực hiện đổi 
mới mô hình kinh doanh và phát huy quyền. Tự chủ kinh doanh và chịu trách nhiệm. 
Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân, huy động tốt hơn các nguồn lực 
và tiềm năng trong nhân dân là động lực tăng trưởng và phát triển rất quan trọng.  Điều này góp 
phần cải thiện giao thông đa quốc gia, chuyển giao công nghệ, tăng lượng lớn tiền bạc 
cho ngân sách nhà nước và giải quyết việc làm cho người dân. 
Thứ tư, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình 
thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định. Sau hơn 25 năm đổi mới, hệ thống luật pháp, 
chính sách và cơ chế của nền kinh tế thị trường đã có tính đồng bộ. Hoạt động của các 
loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý nhà 
nước được cải cách là một việc làm vô cùng quan trọng. Với phương hướng tiến bộ, 
hiệu quả của chính sách hội nhập kinh tế quốc tế tích cực, chủ động, quan hệ kinh tế 
của Việt Nam với các tổ chức quốc tế và các quốc gia trên thế giới ngày càng khăng 
khít, gắn kết. Việt Nam đã tích cực gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á 
(ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp   
định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới 
(WTO),... Đến nay, Việt Nam duy trì quan hệ thương mại với trên 221 nước và vùng 
lãnh thổ, ký trên 92 hiệp định thương mại song phương trên thế giới, là bàn đạp lớn 
cho nước ta về phát triển kinh tế đối ngoại.Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã 
hội chủ nghĩa liên tục được hoàn hiện tỉ mỉ; đường lối cùng chủ chương phát triển luật 
pháp, cơ chế, chính sách ngày càng hoàn thiện, đồng bộ hơn; cải thiện được 
môitrường đầu tư, kinh doanh; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục 
hình thành, phát triển; nền kinh tế đa thành phần có bước nhảy vọt. 
4. Kinh tế hàng hóa ở Việt Nam - Điều kiện cùng giải pháp để phát triển: 
Thứ nhất: Đa dạng hóa các loại hình sở hữu, kiến tạo sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, 
sở hữu hỗn hợp và sở hữu cá nhân để tương thích nhất với trình độ của lực lượng sản  xuất. 
Thứ hai, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu 
kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội. 
Thứ ba, tập chung phát triển song song các loại thị trường: thị trường tư liệu sản xuất, 
thị trường tiêu dùng và dịch vụ, thị trường sức lao động … 
Thứ tư, tái thiết, chính sửa, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường chuyên  nghiệp về pháp lý. 
Thứ năm, kết cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội cần được phát triển theo hướng hiện đại  hóa, công nghiệp hóa. 
Thứ sáu: đổi mới cách thức lãnh đạo của Đảng, cách thức quản lý của Nhà nước, cải 
cách thủ tục hành chính quốc gia. Đổi mới phương thức quản lý vĩ mô của Nhà nước, 
đặc biệt là xây dựng chính sách phân phối thu nhập qua đó giúp xã hội tiến bộ và  công bằng hơn. 
Họ và tên: Trần Thị Thanh Tuyền  Mssv:221A040409 
ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ KINH TẾ 
HÀNG HOÁ, THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN 
KINH TẾ HÀNG HOÁ, THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 
I:lý luận về kinh tế hàng hoá của chủ nghĩa mác:  1. Sản xuất hàng hóa: 
a. Khái niệm: sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó, những 
người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán.   
b. Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi đủ hai điều kiện: 
-Phân công lao động: là sự chuyên môn hóa sản xuất, mỗi người, mỗi tập thể, mỗi 
vùng trong nền kinh tế chỉ sản xuất 1 hay 1 số loại sản phẩm nhất định. 
-Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất: sự tách biệt này do 
quan hệ sản xuất khác nhau về tư liệu sản xuất. Điều này làm cho những người sản 
xuất hàng hóa độc lập với nhau và mỗi người có quyền chi phối về sản phẩm của 
mình, có quyền đem sản phẩm của mình trao đổi sản phẩm của người khác. 
- Sản xuất hàng chỉ ra đời khi có đủ hai điều kiện nói trên, nếu thiếu    một 
trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao  động 
không mang hình thái hàng hóa. 
2. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa: 
a. Đặc trưng cả sản xuất hàng hóa: 
-Sản xuất hàng hàng hóa là sản xuất để trao đổi mua bán. 
-Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa có tính tư nhân, vừa có tính xã hội. 
-Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, lợi nhuận chứ không phải là giá trị sử  dụng. 
b. Ưu và nhược điểm của sản xuất hàng hóa:  Ưu điểm: 
-Thúc đẩy sự phân công lao động và phát triển kinh tế 
-Kích thích cải tiến khoa học - kĩ thuật, thúc đẩy lực lượng lao động sản xuất nhanh. 
-Thúc đẩy tính năng động của người sản xuất, năng cao năng xuất, chất lượng, hiệu  quả kinh tế. 
-Nâng cao đời sống tinh thần vật chất và đời sống xã hội. 
Nhược điểm: phân hóa giàu nghèo, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng, phá hoại  môi trường sinh thái …  3. Hàng hóa: 
a. Khái niệm: là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con 
người và đi vào quá trình tiêu dùng thông qua trao đổi, mua-bán với nhau. 
Như vậy, là một phạm trù kinh tế, nó bao hàm tất cả những sản phẩm của lao động có 
thể thảo mãn được hai điều kiện sau:   
-Có ích đối với con người. 
-Đi vào quá trình của con người thông qua trao đổ, mua-bán. 
b. Thuộc tính của hàng hóa: 
Giá trị sử dụng: là công dụng của hàng hóa đó trong việc thỏa mãn nhu cầu nào đó 
của con người. Là phạm trù vĩnh viễn.  Giá trị: 
-Giá trị trao đổi là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng của loại này được trao đổi 
với những giá trị sủa dụng loại khác. 
-Giá trị là la động xã hội của con người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Là  phạm trù lịch sử. 
c. Tính hai của hàng hóa: 
Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và gía trị. Hai thuộc tính của hàng hóa do 
tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng háo quyết định. Đó là lao động cụ thể và  lao động trừu tượng. 
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp 
chuyên môn nhất định. Lao động cụ thể tồn tại vĩnh viễn cùng với sản xuất và tái sản 
xuất xã hội, không phụ thuộc vào hình thái kinh tế xã hội nào; nhưng phụ thuộc vào 
sự phát triển của kỹ thuật, của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. 
Lao động trừu tượng là lao động hao phí đồng nhất của con người. Lao động trừu 
tượng chính là nguồn gốc sinh ra hàng hóa. 
Giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng cũng có quan hệ mật thiết với nhau, vừa 
thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Do, chúng là hai mặt của cùng một quá trình lao 
động của người sản xuất hàng hóa cho nên chúng thống nhất với nhau. 
- Thời gian lao động xã hội cần thiết: 
Là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong những điều kiện sản xuất 
trung bình xã hội với một trình độ trung bình, cường độ lao động trung bình của  người sản xuất 
Thông thường thời gian lao động sản xuất cần thiết để sản xuất ra một loại hàng hóa 
có xu hướng nghiêng về thời gian lao động cá biệt của người sản xuất mà họ cung cấp 
phần lớn loại hàng hóa đó trên thị trường. 
Hai nhân tố ảnh hưởng tới thời gian lao động cần thiết là năng suất lao động và cường  độ lao động.   
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động hay sức sản xuất của lao 
động. Giá trị hàng hóa thay đổi tỷ lệ nghịch năng suất lao động . 
Cường độ lao động là mức tiêu hao về lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho 
biết mức độ khẩn trương của lao động. 
- Lao động giản đơn và lao động phức tạp: 
Lao động giản đơn là sự tiêu sức lực giản đơn mà bất kì một người bình thường nào, 
không cần bất kì đến một tài nghệ đặc biệt đều có thể tiến hàng được để sản xuất ra  hàng hóa. 
Lao động phức tạp là loại lao động đòi hỏi đào tạo tỉ mỉ công phu và phải có sự khóe 
léo tài nghệ, phải có sự tích lũy lao động. Trong cùng một thời gian lao động phức 
sáng tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Vì vậy lao động phức tạp là bội số của  lao động giản đơn.  4. Kinh tế hàng hóa: 
Là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất 
ra sản phẩm để bán để trao đổi trên thị trường. 
5. Thị trường và cơ chế thị trường:  a. Thị trường: 
Khái niệm: là lĩnh vực trao đổi trên đó các chủ thể kinh tế tác động với nhau nhằm xác 
giá cả và sản lượng hàng hóa. 
Phân loại: có ba cách phân loại chủ yếu: 
-Dựa vào thuộc tính hàng hóa. 
-Dựa vào khu vực ưu thông hàng hóa. 
-Dựa vào trình tự lưu thông hàng hóa. 
Xu hướng và chức năng:  Xu hướng: 
-Thị trường phát triển cùng với sự phát triển sản xuất hàng hóa. 
-Sự phát triển thị trường do sản xuất hàng hóa quyết định. 
-Thị trường tác động trở lại sản xuất hàng hóa(thúc đẩy hoặc kìm hãm).  Chức năng:    -Chức năng thừa nhận. 
-Chức năng cung cấp thông tin. 
-Chức năng kích thích hoặc hạn chế tiêu dùng.  b. Cơ chế thị trường: 
Là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó các vấn đề tổ chức kinh tế được giải quyết 
thông qua thị trường, cơ chế thị trường hoàn toàn đối lập với nền kinh tế tự nhiên. 
Trong cơ chế thị trường người sản xuất và người tiêu dùng thường được tác động lẫn 
nhau để giải quyết ba vấn đề trung tâm của một tổ chức kinh tế: sản xuất ra cái gì? 
Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? 
II. Sự vận dụng trong xây dựng nền kinh tế hàng hóa, thị trường ở Việt Nam. 
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm phát 
triển của các quốc gia trên thế giới và từ thực tiễn phát triển Việt Nam, Đảng ta đã đề 
ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCH. Đây là bước phát triển 
mới về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo của Đảng ta trong quá trình 
đổi mới và là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH 
và con đường đi lên CNXH, đặc biệt là những chỉ dẫn của Lê-nin trong chính sách  kinh tế mới. 
Với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành 
tựu, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn chiến tranh, bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống 
nhất đất nước. Tuy nhiên, sau khi thống nhất đất nước, cả nước đi lên CNXH, mô 
hình kinh tế này đã bộc lộ nhiều hạn chế. Trước tình trạng sản xuất đình đốn, thương 
mại trì trệ, năng suất lao động thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất thấp, lực lượng sản 
xuất lạc hậu... Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa 
Mác - Lênin vào thực tiễn nước ta, quyết tâm từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập 
trung, quan liêu, bao cấp để chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 
Ở Việt Nam, mặc dù đã có quan điểm manh nha về kinh tế thị trường từ Đại hội VI 
khi xác định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tuy nhiên đến Đại hội 
IX, thuật ngữ “phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN” mới chính thức được 
sử dụng trong Văn kiện của Đảng. 
Đến Đại hội X của Đảng (2006), 5 thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế 
tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 
được xác lập trong nền kinh tế nước ta. Vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế 
trong nền kinh tế quốc dân đã được nhận thức rõ ràng và xác định cụ thể.   
Đến Đại hội XI của Đảng (2011) đã phát triển và hoàn thiện thêm một bước đặc trưng 
kinh tế của CNXH, trong đó Đảng ta xác định: “Nền kinh tế với nhiều hình thức sở 
hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. 
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng 
của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh 
tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng 
được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành 
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những 
động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát 
triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh 
tế đa dạng ngày càng phát triển”. 
Trên cơ sở kế thừa nhận thức của các đại hội trước, Đại hội XII của Đảng đã có những 
bổ sung đáng kể với sự hiện diện khá toàn diện và cụ thể các thành tố cấu thành nền 
kinh tế, thể hiện bước tiến trong nhận thức lý luận của Đảng về mô hình kinh tế Việt 
Nam, đó là: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận 
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định 
hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế 
thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền 
XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, 
dân chủ, công bằng, văn minh. 
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù 
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều 
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là 
một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế 
bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong 
huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải 
phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bố theo chiến lược, quy 
hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. 
Như vâỵ , nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải là cái khác biệt mà vẫn là 
“nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của kinh tế thị 
trường” như quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị; thực hiện tự 
do hoá thương mại... Các nguyên tắc, thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh 
tế được tuân thủ và vận dụng một cách hợp lý, linh hoạt. Nhà nước quản lý, điều hành 
nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả 
sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; thực hiện sự điều tiết ở tầm vĩ mô, 
“định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình   
đẳng, minh bạch” bảo đảm cho thị trường phát triển lành mạnh, tuân thủ các quy luật 
của kinh tế thị trường. 
Ngoài ra, nền kinh tế thị trường phải hiện đại và hội nhập quốc tế. Nền kinh tế thị 
trường ở Việt Nam đã và đang thực hiện quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng và gia 
tăng các mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm tranh thủ 
nhiều cơ hội hợp tác, giúp đỡ về nhiều mặt từ các nước, đặc biệt là các quốc gia phát 
triển; chủ động và tích cực, nhanh chóng và hiệu quả, tận dụng tốt những thời cơ, vận 
hội, phát huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho mục tiêu tăng trưởng kinh 
tế, đồng thời có những biện pháp gia tăng khả năng dự phòng của nền kinh tế, ứng 
phó tốt với những rủi ro, thách thức của tiến trình hội nhập. 
Nhìn lại trong hơn 30 năm đổi mới có thể thấy, lý luận về mô hình kinh tế đã được đổi 
mới liên tục theo thời gian. Nhờ đó, đã tạo ra xung lực mới cho sự phát triển và đã 
làm cho nền kinh tế từ nghèo khó từng bước được cải thiện và khởi sắc đi lên. Cùng 
với việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong phát triển nền kinh tế thị 
trường định hướng XHCN ở Việt Nam, cần quan tâm một số vấn đề sau: 
Môṭ là, nhận thức rõ quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định 
hướng XHCN ở Việt Nam là không đơn giản, đó là quá trình lâu dài và trải qua nhiều 
giai đoạn, vừa tìm tòi, phát triển không ngừng trong nhận thức lý luận, vừa phải linh 
hoạt, sáng tạo trong thực tiễn, ứng phó tốt trước khó khăn, thách thức, đòi hỏi sự 
quyết tâm và đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân. Phát triển nền kinh tế thị trường 
định hướng XHCN ở nước ta hiện nay là một lựa chọn tất yếu và không có cách lựa 
chọn khác để đi lên CNXH. 
Hai là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam chính là nền kinh tế thị 
trường hiện đại, ở đó có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này có nghĩa 
là những yếu tố thị trường của nền kinh tế thị trường hiện đại thì đều được phát huy 
và phát triển ở mức cao như tính tích cực của nền kinh tế thị trường, năng động và 
hiệu quả, đồng thời, nền kinh tế thị trường cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt 
Nam để hạn chế các mặt trái tiêu cực của nền kinh tế thị trường, cũng như những tác 
động làm cho các quan hệ kinh tế thay đổi về cách thức và phương thức mới theo 
hướng phát triển tốt hơn, hiệu quả hơn. 
Ba là, để có một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển, đòi hỏi phải có 
môi trường công khai, minh bạch, có bộ máy nhà nước tinh gọn, đủ năng lực điều 
hành và quản lý nền kinh tế, đưa nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, chất 
lượng và hiệu quả, giải quyết tốt những vấn đề xã hội, bảo đảm nền kinh tế phát triển 
bền vững một cách thật sự.   
Bốn là, để nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển, cần tạo lập một môi 
trường kinh doanh thông thoáng, hòa nhập với thị trường thế giới. Nền kinh tế thị 
trường không có sự phân biệt đối xử đối với các đối tượng và chủ thể trên thị trường. 
Và để đạt được điều đó, thì kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác cần được xem như 
mọi thành phần kinh tế khác, được đối xử bình đẳng, không có sự ưu tiên hay phân 
biệt. Các khu vực kinh tế đều là bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị trường định 
hướng XHCN, hoạt động bình đẳng, đúng pháp luật, được luật pháp bảo vệ và khuyến 
khích phát triển như nhau. 
Năm là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được định hướng theo 
đuổi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; huy động sức 
mạnh của mọi thành phần kinh tế cũng như của toàn xã hội cho tăng trưởng kinh tế, 
từng bước nâng cao đời sống cho đại bộ phận nhân dân. Tuy nhiên, việc thực hiện 
mục tiêu phát triển kinh tế không phải bằng mọi giá, nóng vội mà phải được cân nhắc 
tính toán cho phù hợp với điều kiện đất nước theo hướng phát triển nhanh, hiệu quả 
mà bền vững; gắn mục tiêu tăng tưởng kinh tế với bảo đảm độc lập dân tộc, chủ 
quyền quốc gia, bảo vệ môi trường... Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, công 
bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển nhằm đảo bảo công bằng về 
cơ hội phát triển cho mọi thành viên trong cộng đồng được thụ hưởng lợi ích chính 
đáng, công bằng từ những kết quả lao động và cống hiến xã hội của mình và "không 
môṭ ai bị bỏ lại phía sau”…         
Nguyễn Ngọc Trinh 221A230524 
ĐỀ TÀI: " LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA, 
THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ HÀNG 
HÓA, THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY".  1. Sản xuất hàng hóa 
1.1 Khái niệm sản xuất hàng hóa 
-Theo C.Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó, những 
người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đồi, mua bán. 
1.2 Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa 
-Sản xuất hàng hóa không xuất hiện dồng thời với sự xuất hiện của xã hội loài người.   
Nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển khi có các điều kiện: 
Một là, phân công lao động xã hội. 
-Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các ngành,  các 
lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo ncn sự chuycn môn hóa của những người sản xuất 
thành những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người thực hiện sản xuất một hoặc 
một số loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của họ lại yêu cầu nhiều loại sán  phẩm 
khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu những người sản xuất phải trao đổi  sản phẩm với nhau. 
-Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất. 
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người sản 
xuất độc lập với nhau, có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn 
tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao 
đồi dưới hình thức hàng hóa. C.Mác viết: “chỉ có sản phẩm của những lao động tư 
nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng 
hóa. Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản 
xuất hàng hóa ra đời và phát triền. 
-Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thề sản xuất hiện khách quan 
dựa trên sự tách biệt về sở hữu. Xã hội loài người càng phát triển, sự tách biệt về sở 
hữu càng sâu sắc, hàng hóa được sản xuất ra càng phong phú. 
Khi còn sự tổn tại của hai diều kiện nêu trên, con người không thể dùng ý chí chủ  quan 
mà xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa được. Việc cố tình xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa, sc 
làm cho xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoảng. Với ý nghĩa đó, cần khẳng định, 
nền sán xuất hàng hóa có ưu thế tích cực vượt trội so với nền sản xuất tự cấp, tự túc  2. Hàng hóa 
2.1 Khái niệm và thuộc tính của hàng hỏa    * Khái niệm hàng hóa 
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, cỏ thể thỏa mãn nhu cầu nào đỏ của con người 
thông qua trao đôi, mua hán. 
Sản phẩm của lao động là hàng hóa khi nhằm đưa ra trao đổi, mua bán trên thị trường. 
Hàng hóa có thể ở dạng vật thề hoặc phi vật thê. 
* Thuộc tính của hàng hóa 
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. 
- Giá trị sử dụng của hàng hóa 
_Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thế thỏa mãn nhu cầu  nào đó của con người. 
Nhu cầu đó có thể là nhu cầu vật chất hoặc nhu cầu tinh thần; có thể là nhu cầu cho 
tiêu dùng cá nhân, có thể là nhu cầu cho sản xuất. 
_Giá trị sử dụng chỉ được thực hhiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng. Nền sản xuất 
càng phát triển, khoa học, công nghệ càng hiện đại, càng giúp cho con người phát  hiện 
ra nhiều và phong phú hơn các giá trị sử dụng của sản phẩm. 
_Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của người  mua. 
Cho nên : nếu là người sản xuất, phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng của hàng hóa  do 
mình sản xuất ra sao cho ngày càng dáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của  người mua.  - Giá trị của hàng hóa 
Đẻ nhận biết được thuộc tính giá trị, xét trong quan hệ trao đổi. 
Thí dụ, có một quan hệ trao đổi như sau: xA = yB 
Ở đây, số lượng X đơn vị hàng hóa A, được trao đổi lấy số lượng y đơn vị hàng hóa B. 
Tỷ lệ trao đổi giữa các giá trị sử dụng khác nhau này được gọi là giá trị trao đổi 
2.1 Một số quan niệin về hàng hóa trong kinh tế học   
-Hàng cá nhân là một loại hàng hóa mà nếu được một người tiêu dùng rồi thì người 
khác không the dùng dược nữa. Kem là một loại hàng cá nhân. Khi bạn ăn cái kem 
của mình thì người bạn của bạn sẽ không lấy que kem đó mà ăn nữa. Khi ta mặc áo 
quần, thì bất kể ai khác đều không được cùng lúc mặc những quần áo đỏ nữa. 
-Hàng công cộng là một loại hàng hóa mà thậm chí nếu có một người dùng rồi, thì 
những người khác vẫn còn dùng được. Bầu không khí trong sạch là một loại hàng hóa 
công cộng. Quốc phòng hoặc an toàn công cộng công vậy. Neu như các lực lượng vũ 
trang bảo vệ đất nước khỏi hiểm nguy, thì việc bạn hưởng an toàn không vì lý do nào 
lại càn trở những người khác cũng hưởng an toàn. 
-Hàng khuyến dụng là những hàng hóa mà xã hội nghĩ rằng người dân ncn tiêu ung 
hoặc tiêp nhận, cho dù thu nhập của họ ở mức nào đi chăng nữa. Hàng khuyên dụng 
thường bao gồm y tế, giáo dục, nhà ờ và thực phẩm.Mọi người nên có đầy đủ nơi ăn 
chốn ờ và tiến hang các bước để đảm bảo điểu đó. 
2.2 Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa 
-Nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa với lao động sản xuất 
hàng hóa, C.Mác phát hiện ra rằng, sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là do lao động  của 
người sản xuất hàng hỏa có tính hai mặt: mặt cụ thể và mặt trừu tượng của lao động. 
2.3 Lượng giá trị và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa 
Lượng giá trị của hàng hóa 
-Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội, trừu tượng của người sản xuất ra hàng hóa 
kết tinh trong hàng hóa. Vậy lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao dộng đã hao phí  để tạo ra hàng hóa. 
-Lượng lao động dã hao phí được tính bằng thời gian lao động. Thời gian lao động  này 
phải được xã hội chấp nhận, không phải là thời gian lao động của đơn vị sản xuất cá 
biệt, mà là thời gian lao động xã hội cần thiết. 
-Thời gian lao động xã hội cần thiết là thòi gian đòi hỏi để sản xuất ra một giá trị sử  dụng 
nào đỏ trong những điều kiện bình thường của xã hội với trình độ thành thạo trung 
bình, cường độ lao động trung bình.   
-Trong thực hành sản xuất, người sản xuất thường phải tích cực đồi mới, sáng tạo 
nhằm giảm thời gian hao phí lao động cá biệt tại đơn vị sản xuất của mình xuống mức 
thấp hơn mức hao phí trung bình cần thiết. Khi đó sẽ có được ưu thế trong cạnh tranh. 
Xét về mặt cấu thành, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa được sản xuất ra bao 
hàm: hao phí lao động quá khứ (chứa trong các yêu tố vật tư, nguyên nhiên liệu đã  tiêu 
dùng dồ sản xuất ra hàng hóa đó) + hao phí lao động mới kết tinh them.  3. Tiền tệ 
Nguồn gốc và bản chất của tiền 
-Giá trị của hàng hóa là trừu tượng, chúng ta không nhìn thấy giá trị như nhìn thấy 
hình dáng hiện vật của hàng hóa; giá trị của hàng hóa chỉ được bộc lộ ra trong quá 
trình trao đổi thông qua các hình thái biểu hiện của nó. 
- Theo tiến trình lịch sử phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, những hình thái 
của giá trị cũng trải qua quá trình phát triển từ thấp tới cao. Quá trình này cũng chính 
là lịch sử hình thành tiền tệ. Nghiên cứu lịch sử hình thành tiền tệ sẽ giúp lý giải một 
cách khoa học nguyên nhân vì sao tiền có thể 
mua được hàng hóa. Cụ thể: 
- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên 
Đây là hình thái ban đầu của giá trị xuất hiện trong thời kỳ sơ khai của trao đổi hàng 
hóa. Khi đó, việc trao đối giữa các hàng hóa với nhau mang tính ngẫu nhiên. Người ta 
trao đồi trực tiếp hàng hóa này này lấy hàng hóa khác 
-Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng 
Khi trình độ phát triển của sản xuất hàng hóa được nâng lên, trao đồi trở nên thường 
xuyên hơn, một hàng hóa có thổ được đặt trong mối quan hệ với nhiều hàng hóa khác. 
Họ và Tên: Nguyễn Trương Thanh Trúc  Mssv:221A050642  Nhóm 14  ĐỀ TÀI 
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA, THỊ 
TRƯỜNG VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ HÀNG 
HÓA, THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY   
PHẦN 1: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ KINH TẾ HÀNG 
HÓA, THỊ TRƯỜNG 
1. Sản xuất hàng hóa 
1.1. Khái niệm sản xuất hàng hóa: 
- Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm được sản xuất ra để 
trao đổi hoặc mua bán trên thị trường. 
- Sản xuất hàng háo chỉ ra đời khi đủ hai điều kiện sau đây: 
+ Phân công lao động xã hội 
+ Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất 
1.2. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa 
1.2.1. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa 
- Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi mua bán 
- Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa có tính tư nhân, vừa có tính xã hội 
- Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, lợi nhuận chứ không phải giá trị sử dụng 
1.2.2. Ưu, nhược điểm của sản xuất hàng hóa  *Ưu điểm: 
-Thúc đẩy sự phân công lao động và phát triển kinh tế 
- Kích thích cải tiến khoa học-kĩ thuật, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh 
- Thúc đẩy tính năng động của người sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu  quả kinh tế. 
- Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của xã hội  *Nhược điểm: 
- Phân hóa giàu nghèo, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng, phá hoại môi trường  sinh thái,…  2. Hàng hóa 
2.1. Khái niệm 
-Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người 
thông qua trao đổi,mua bán.   
2.2. Hai thuộc tính của hàng hóa 
- Giá trị sử dụng:là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con 
người.Là phạm trù vĩnh viễn. 
- Giá trị:là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.Là  phạm trù lịch sử. 
3. Kinh tế hàng hóa 
-Kinh tế hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của 
sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán để trao đổi trên thị trường.Kinh tế hàng hóa ra 
đời sau kinh tế tự nhiên và có thể chia làm hai giai đoạn là kinh tế hàng hóa giản đơn 
và kinh tế hàng hóa phát triển hay còn gọi là kinh tế thị trường. 
4. Thị trường và cơ chế thị trường 
4.1. Khái niệm 
- Thị trường là lĩnh vực trao đổi trên đó các chủ thể kinh tế tác động với nhau nhằm 
xác định giá cả và sản lượng hàng hóa. 
4.2. Phân loại 
- Hiện nay trên thế giới cũng như ở nước ta đang có nhiều cách phân chia thị trường 
khác nhau.Nhìn chung, có ba cách phân chia chủ yếu sau: 
+ Dựa vào thuộc tính hàng hóa 
+ Dựa vào khu vực lưu thông hàng hóa 
+ Dựa vào trình tự thời gian lưu thông hàng hóa. 
-Trên cơ sở phân chia thị trường theo thuộc tính hàng hóa, trong nền kinh tế thị 
trường hiện đại có các loại thị trường cơ bản sau: 
+ Thị trường hàng hóa và dịch vụ  + Thị trường lao động 
+ Thị trường bất động sản  + Thị trường tài chính 
+ Thị trường khoa học công nghệ 
4.3. Cơ chế thị trường   
- Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó các vấn đề kinh tế được 
giải quyết thông qua thị trường , cơ chế thị trường hoàn toàn đối lập với nền kinh tế tự 
nhiên. Trong cơ chế thị trường người sản xuất và người tiêu dùng thường tác động lẫn 
nhau để giải quyết ba vấn đề trung tâm của một tổ chức kinh tế:Sản xuất ra cái gì?Sản 
xuất như thế nào?Sản xuất cho ai? 
PHẦN II: SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ HÀNG 
HÓA, THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là xu hướng phát triển tất yếu 
- Việt Nam là một dân tộc giàu truyền thống văn hiến ,nhưng còn là một quốc gia 
nghèo nàn và lạc hậu,lại liên tục bị các thế lực ngoại bang gây chiến tranh xâm lược 
tàn phá nặng nề. Kể từ khi có Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết dưới ngọn cờ giải phóng 
dân tộc đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mĩ. Nhưng cũng từ đay , chúng ta càng 
hiểu sâu sắc hơn hai hiểm hòa thước trực với đất nước là hiểm họa nghèo nàn, lạc hậu 
và hiểm họa giặc ngại xâm. Và để thoát khỏi tình trạng đó thì đất nước ta phải tiến lên 
xây dựng thành công CNXH.Bởi những lý do lịch sử nhất định ,Việt Nam đã từng xây 
dựng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu ,bao cấp. Đó là sự vận dụng 
chủ nghĩa Mac-Lênin có phần giáo điều, cứng nhắc, thiếu tôn trọng quy luật khách 
quan, xa rời thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, mô hình kinh tế này đã góp phần đáp ứng 
được các yêu cầu huy động tập tủng mọi nguồn lực của toàn dân tộc cho cuộc đấu 
tranh giải phóng dân tộc. 
-Qua nhiều lần nghiên cứu đổi mới . Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng 
Cộng Sản Việt Nam (4-2001) lần đầu tiên đưa ra mô hình kinh tế tổng quát của nước 
ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa. Đây là kết quả của sự tổng kết thực tiễn ở nước ta qua hơn 20 năm đổi mới kết 
hợp với tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường quốc tế.Đây 
còn là kết quả của sự phát triển và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của học thuyết 
Mác-Lênin,quy luật chung của phát triển kinh tế thị trường vào hoàn cảnh cụ thể Việt  Nam. 
2. Thực trạng kinh tế thị trường nước ta hiện nay 
2.1. Những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường 
- Kinh tế thị trường góp phần vào việc xóa đói,giảm nghèo,nâng cao đời sống nhân  dân 
- Kinh tế thị trường là nền kinh tế mang tính cạnh tranh 
-Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất   
- Cho phép đào tạo đội ngũ có năng lực đáp ứng như cầu phát triển 
- Kinh tế thị trường vận hành theo quy luật cung cầu, cạnh tranh,giá trị 
2.2. Những mặt hạn chế của nền kinh tế thị trường 
- Kinh tế thị trường gia tăng khoảng cách giàu nghèo, bất công xã hội 
- Kinh tế thị trường làm xuất hiện các tệ nạn xã hội 
- Bóc lột quá sức lao động của con người và tài nguyên thiên nhiên dẫn đến ô nhiễm  môi trường 
- Lối sống “tiền trao cháo múc” trong xã hội, coi trọng các giá trị vật chất và coi nhẹ  các giá trị tinh thần 
3. Những giải pháp cụ thể 
- Đẩy mạnh quá trình đa dạng hóa các chế độ sỡ hữu tạo điều kiện phát triển mạnh 
nền kinh tế hàng hóa ở nước ta 
- Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội ở nước ta 
- Tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường 
- Đẩy mạnh cách mạng khoa học công nghệ, nhằm phát triển nền kinh tế theo hướng 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
- Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước 
- Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật đổi mới chính sách tài  chính tiền tệ giá cả 
- Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh giỏi 
- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế thị trường      
