-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Tiểu luận mô hình kinh tế xanh - Kinh tế chính trị Mác Lênin | Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
Đối tượng nghiên cứu có thể ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: Nghiêncứu có thể tập trung vào một ngành công nghiệp cụ thể, như năng lượng táitạo, công nghiệp chế biến thực phẩm. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Kinh tế chính trị Mác Lênin (K2021) 44 tài liệu
Đại học Thủ đô Hà Nội 603 tài liệu
Tiểu luận mô hình kinh tế xanh - Kinh tế chính trị Mác Lênin | Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
Đối tượng nghiên cứu có thể ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: Nghiêncứu có thể tập trung vào một ngành công nghiệp cụ thể, như năng lượng táitạo, công nghiệp chế biến thực phẩm. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị Mác Lênin (K2021) 44 tài liệu
Trường: Đại học Thủ đô Hà Nội 603 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Thủ đô Hà Nội
Preview text:
MỤC LỤC
Phần 1: MỞ ĐẦU………………………………………………3 1.1.
Tính cấp thiết của đề tài..................................................4 1.2.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.......................................5 1.3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………...5 1.4.
Phương pháp nghiên cứu……………………………….6
Phần 2: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1.
Cơ sở lý luận……………………………………………7 2.2.
Cơ sở thực tiễn………………………………………….16
Phần 3: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU……………………………19
Phần 4: ĐÁNH GIÁ, KẾT LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 2 LỜI MỞ ĐẦU
Trong hoàn cảnh nền kinh tế đang phát triển vô cùng nhanh, sự xuất hiện
của các công ty doanh nghiệp cũng vì thế đang gia tăng vô cùng nhiều, sự gia tăng
về số lượng các công ty đồng nghĩa với mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên gay
gắt hơn bao giờ hết. Chính vì thế, các doanh nghiệp cần phải không ngừng đặt ra
các mục tiêu lớn lao hơn, phải không ngừng đưa ra các chiến lược phát triển mạnh
mẽ để có thể cạnh tranh với các đối thủ đang ngày càng lớn mạnh trên toàn thế giới
nói riêng và thị trường trong nước nói chung. Tuy nhiên, công ty có thể làm được
những điều đó hay không chắc chắn phải nhờ một phần không nhỏ của các vị lãnh
đạo các cấp trong doanh nghiệp. Cụ thể hơn, công ty cần phải đưa ra những mô
hình kinh tế phù hợp với công ty và theo kịp xu hướng thị trường.
Gần đây, tình trạng môi trường đang được đặt lên hàng đầu, từ chính phủ, nhà
nước đến công ti, doanh nghiệp, những cá nhân. Bởi vậy mô hình kinh tế xanh
không thể không khẳng định vị thế của mình trên thị trường kinh doanh. Đây cũng
chính là đề tài mà em lựa chọn nghiên cứu lần này.
Trong quá trình tổng hợp, em đã cố gắng hết sức song không thể
tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từcô để bài
làm của em có thể tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn ! 3 PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Mô hình kinh tế xanh, hay còn gọi là "kinh tế bền vững," là một
hướng tiến bộ trong phát triển kinh tế mà chú trọng vào việc tối ưu hóa tài
nguyên và giảm thiểu tác động tiêu cực đối với môi trường và xã hội. Dưới
đây là một số lý do tại sao mô hình kinh tế xanh là cấp thiết:
Bảo vệ môi trường: Mô hình kinh tế xanh tập trung vào giảm thiểu ô
nhiễm, tiêu thụ tài nguyên sạch, và bảo vệ đa dạng sinh học. Điều này
giúp bảo vệ môi trường và tạo nền tảng cho sự sống cho thế hệ hiện tại và tương lai.
Giảm biến đổi khí hậu: Kinh tế xanh thúc đẩy sử dụng năng lượng tái
tạo và giảm thiểu phát thải khí nhà kính, giúp giảm biến đổi khí hậu
và giảm tác động của thay đổi khí hậu.
Tiết kiệm tài nguyên: Mô hình kinh tế xanh khuyến khích tận dụng
tài nguyên hiệu quả hơn và giảm lãng phí, giúp tăng hiệu suất và
giảm chi phí sản xuất.
Thúc đẩy sáng tạo và nghiên cứu: Mô hình kinh tế xanh thường đòi
hỏi sự đổi mới trong sản phẩm và dịch vụ, tạo ra cơ hội cho các
ngành công nghiệp sử dụng công nghệ mới và sáng tạo.
Tạo việc làm và phát triển kinh tế: Phát triển mô hình kinh tế xanh
có thể tạo ra nhiều việc làm mới trong các ngành công nghiệp như
năng lượng tái tạo, công nghệ xanh, và quản lý tài nguyên.
Cải thiện chất lượng cuộc sống: Kinh tế xanh thúc đẩy việc cải thiện
chất lượng cuộc sống thông qua việc cung cấp nước sạch, không khí
trong lành, và môi trường sống an toàn cho cư dân.
Đảm bảo an ninh năng lượng: Tối ưu hóa sử dụng năng lượng tái tạo
trong mô hình kinh tế xanh có thể giúp giảm sự phụ thuộc vào nguồn 4
năng lượng không ổn định và tăng cường an ninh năng lượng.
Đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai: Mô hình kinh tế xanh đảm bảo
rằng chúng ta đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai mà không làm
suy yếu tài nguyên và môi trường.
Tóm lại, mô hình kinh tế xanh là cấp thiết để đảm bảo sự phát triển bền
vững, bảo vệ môi trường, giảm biến đổi khí hậu, và cải thiện chất lượng
cuộc sống cho mọi người. Nó không chỉ là một mục tiêu quốc tế mà còn là
một cơ hội để tạo ra giá trị và thúc đẩy sự phát triển xã hội và kinh tế.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Mục tiêu của nghiên cứu về mô hình kinh tế xanh có thể bao gồm
nhiều khía cạnh khác nhau, tùy thuộc vào phạm vi và mục tiêu cụ thể của
nghiên cứu. Dưới đây là một số mục tiêu quan trọng mà nghiên cứu về mô
hình kinh tế xanh có thể đặt ra:
Đánh giá tác động mô hình kinh tế xanh: Nghiên cứu có thể tập trung
vào việc đánh giá tác động của mô hình kinh tế xanh đối với môi
trường, xã hội, và nền kinh tế. Điều này bao gồm việc đo lường tác
động tiêu cực và tích cực, như giảm thiểu phát thải khí nhà kính, tạo
việc làm, và cải thiện chất lượng môi trường.
Phát triển các chỉ số và độ đo: Nghiên cứu có thể tạo ra các chỉ số và
độ đo để đánh giá mức độ bền vững của mô hình kinh tế xanh. Các
chỉ số này có thể dùng để so sánh hiệu suất của các quốc gia, khu vực
hoặc các ngành công nghiệp khác nhau.
Xác định các chính sách và chiến lược hỗ trợ: Nghiên cứu có thể tập
trung vào việc xác định các chính sách và chiến lược hỗ trợ cho mô
hình kinh tế xanh, bao gồm các biện pháp khuyến khích sử dụng
năng lượng tái tạo, quản lý tài nguyên, và khuyến khích sáng tạo công nghệ xanh.
Nghiên cứu thế giới thực: Nghiên cứu có thể tập trung vào việc 5
nghiên cứu các ví dụ thế giới thực về thành công hoặc thách thức
trong việc triển khai mô hình kinh tế xanh. Điều này có thể bao gồm
việc điều tra các dự án cụ thể, khu vực, hoặc quốc gia.
Dự đoán tương lai và chiến lược: Nghiên cứu có thể tập trung vào
việc dự đoán tương lai của mô hình kinh tế xanh và phát triển chiến
lược để thúc đẩy sự phát triển bền vững trong các ngành công nghiệp
cụ thể hoặc quốc gia.
Xây dựng những mô hình phân tích: Nghiên cứu có thể sử dụng mô
hình toán học và phân tích dữ liệu để đánh giá tác động và dự đoán
kết quả của mô hình kinh tế xanh.
Mục tiêu của nghiên cứu về mô hình kinh tế xanh thường phụ thuộc vào
ngữ cảnh cụ thể và mục tiêu của nghiên cứu, nhưng trong tất cả các trường
hợp, mục tiêu chung là nghiên cứu và thúc đẩy mô hình kinh tế xanh để
đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.
1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu có thể ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: Nghiên
cứu có thể tập trung vào một ngành công nghiệp cụ thể, như năng lượng tái
tạo, công nghiệp chế biến thực phẩm, hoặc giao thông công cộng. Đối tượng
nghiên cứu sẽ bao gồm các doanh nghiệp và tổ chức trong ngành này;
nghiên cứu có thể chọn một sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể, chẳng hạn như
xe điện, năng lượng mặt trời, hoặc quản lý tài nguyên nước. Đối tượng
nghiên cứu sẽ bao gồm người mua và người cung cấp sản phẩm hoặc dịch
vụ này; nghiên cứu có thể tập trung vào thị trường địa phương hoặc quốc
gia cụ thể. Đối tượng nghiên cứu có thể là doanh nghiệp và người tiêu dùng
hoạt động trong phạm vi đó hay nghiên cứu có thể tập trung vào tổ chức
quản lý và thúc đẩy mô hình kinh tế xanh, chẳng hạn như các cơ quan
chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, hoặc các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc. 6
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô hình kinh tế xanh thường yêu cầu sự sáng tạo và sử dụng
các phương pháp đa dạng để xác định và đánh giá tác động của các biện
pháp và chính sách kinh tế xanh:
Phân tích tác động xã hội và môi trường (SEIA)
Mô phỏng và mô hình hóa
Phân tích dữ liệu lịch sử và thống kê
Sử dụng dữ liệu thị trường
Phân tích chính sách kinh tế xanh
Nghiên cứu về các mô hình kinh tế xanh toàn cầu
PHẦN 2: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1.1. KHÁI NIỆM VỀ KINH TẾ
Kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và
xã hội - liên qua trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các
loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của
con người trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn. Kinh tế dùng để chỉ
phương pháp sản xuất bao gồm cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chỉ
tổng hợp quan hệ vật chất trong xã hội phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Kinh tế tạo ra doanh thu và lợi nhuận, đáp ứng nhu cầu của con người.
Kinh tế với nghĩa rộng bao gồm nhiều ngành nghề kinh doanh trong
những lĩnh vực khác nhau được nhà nước thừa nhận như: công nghiệp, nông
nghiệp, ngư nghiệp, tài chính ngân hàng, dịch vụ....
Ngày nay phát triển song song với nền kinh tế truyền thống, cùng với sự
bùng nổ của khoa học kĩ thuật mọi thứ dều diễn ra trên nền tảng công nghệ
thông tin. Từ đó, cũng dần hình thành khái niệm mới về "nền kinh tế số". Đúng 7
như tên gọi, về bản chất kinh tế số chính là mô hình tổ chức và thực hiện hoạt
động dựa trên nền tảng các ứng dụng công nghệ điện tử. Mô hình kinh tế số phổ
biến trong đời sống hàng ngày điển hình ở các trang mạng xã hôi, sàn thương
mại điện tử, video quảng cáo sản phẩm.... Sự ra đời của kinh tê số giúp con
người tối đa hóa tiện ích sử dụng, đồng thời mở rộng quy mô kinh doanh.
2.1.2. KHÁI NIỆM VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ
Mô hình kinh tế (economic model) là mô hình liên kết hai hay nhiều biến
số kinh tế để: (a) mô tả mối quan hệ tồn tại giữa chúng với nhau, (b) xác định
kết cục kinh tế rut ra từ các mối liên hệ giữa chúng và (c) dự báo ảnh hưởng của
những thay đổi trong các biến số kinh tế đối với kết cục kinh tế. Cuốn sách này
ghi lại nhiều mô hình kinh tế khác nhau, ví dụ mô hình về giá cân bằng thị
trường, về những thay đổi trong giá cân bằng thị trường, về mức cân bằng của
thu nhập quốc dân và nhân từ.
2.1.3. CÁC LOẠI MÔ HÌNH KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Kinh tế diễn ra dưới nhiều loại mô hình khác nhau, đáp ứng những đòi hỏi
của thực tiễn đề ra, phù hợp với hướng đi, mục đích định hướng của từng chủ
thể nhất định. Dưới đây là một số mô hình kinh tế mà Việt Nam hiện nay đang áp dụng;
Mô hình kinh tế thị trường
Đây là mô hình kinh tế phổ biến trên thế giới được nhiều quốc gia áp
dụng. Tất cả các sản phẩm, dịch vụ được pháp luật ủy quyền cho các công ty
đều có thể phân phối trên thị trường. Nền kinh tế phụ thuộc vào yếu tố cung,
cầu và tự cân đối, điều tiết, tự xác định giá cả và số lượng hàng hóa và dịch vụ
trên th. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là nhà nước không can thiệp quá sâu
vào nền kinh tế; ở Việt Nam hiện nay đang tập trung đi theo hướng phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng phát triển chủ nghĩa xã hội. Đây là kiểu kinh
tế thị trường mới, hoạt động dựa trên sự dẫn dắt và chi phối bởi nguyên tắc và
bản chất của chủ nghĩa xã hội. 8
Trong nền kinh tế thị trường, người nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn
thì có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, cho phép tăng quy mô sản xuất và nguồn lực
lao động và ngược lại. Do đó, nền kinh tế thị trường tạo ra động lực để các
doanh nghiệp có thể đổi mới, phát triển mình, bởi các doanh nghiệp muốn cạnh
tranh và đáp ứng được nhu cầu của thị trường thì đòi hỏi họ phải đổi mới về
công nghệ, về quy trình sản xuất, quản lý về các sản phẩm của mình. Kinh tế thị
trường sẽ là nơi để sàng lọc nhân sự đóng góp vào nền kinh tế; nơi đây còn tạo
ra xu thể liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, trao đổi công nghệ hiện đại.
Bên cạnh những ưu điểm, thì nền kinh tế thị trường vẫn còn tồn tại những
nhược điểm như là cơ chế phân bổ nguồn lực có thể dẫn tới bất bình đẳng trong
xã hội. Gây ra tình trạng "nước chảy chỗ trũng" có thể hiểu là người giàu sẽ tận
dụng lợi thế về tài sản để chiếm hữu ngày càng nhiều của cải và vật chất; trong
khi đó người nghèo thì càng nghèo hơn. Từ đây gây ra tình trạng phân chia giai
cấp, người giàu gần như thâu tóm toàn bộ quyền lực, người nghèo chịu đựng
cuộc sống khó khăn. Đây chính là những mầm mống gây lên bất ổn xã hội. Tình
trạng "cá lớn nuốt cá bé" còn kéo dài thì sẽ dẫn tới hệ lụy trở thành nền kinh tế
độc quyền chi phối. Ngoài ra, khi chạy theo lợi nhuận, doanh nghiệp còn sễ rơi
vào mất cân đối cung, cầu gây ra tình trạng hàng ứ đọng, giá cả sụt giảm, trong
lịch sử đã từng có cuộc "Khủng hoảng thừa" ở Mỹ năm 1929 - 1930.
Mặc dù là nền kinh tế thị trường, Nhà nước không can thiệp sâu tuy nhiên
việc quá đề cao tính thị trường mà thiếu điều tiết có thể tạo cơ hội cho sự ích kỉ
của cá nhân, một nhóm lợi ích nào đó. Việt Nam hiện nay đang trong quá trình
đi lên xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều
non trẻ cần phải tìm cách khắc phục những hạn chế này.
Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Loại mô hình này Chính phủ và Nhà nước kiểm soát toàn bộ các yếu tố
sản xuất và giữ quyền quyết định việc sử dụng toàn bộ các yếu tố sản xuất cũng
như trong việc điều tiết và phân phối giá sản phẩm. Theo đó trong mô hình kinh 9
tế này thì yếu tố cung - cầu không được chú trọng và cũng không được diễn ra
theo tự nhiên do có sự can thiệp quá nhiều phía từ nhà nước vào hoạt động kinh
tế. Trên thực tế không có một nêng kinh tế kế hoạch hóa tập trung thuần túy. Ví
dụ, với khoản tiền lương mà mình nhận được, người lao động vẫn có thể tự do
lựa chọn hàng hóa cụ thể để tiêu dùng.
Ưu điểm của mô hình kinh tế kế hoạch hóa là nhà nước có thể nhanh
chóng huy động một lượng lớn tài nguyên vốn, con người.... đặc biệt trong thời
kì khó khăn (chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai) nhà nước có thể nhanh chóng huy
động nguồn lực cho các lĩnh vực thiết yếu. Ngược lại với mô hình kinh tế thị
trường, nền kinh tế do Nhà nước hoạch định ít xảy ra chênh lệch giàu - nghèo và
các hiện tượng xã hội cực đoan do ham muốn đồng tiền gây ra.
Nhược điểm của mô hình kinh tế phi tập trung là ít tạo lập ra được giá trị
kinh tế cho khách hàng và thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Ngoài ra, mô
hình này cũng không tạo ra động lực để thúc đẩy sự phát triển. Do sự kiểm soát
của nhà nước làm mất đi động lực để tạo ra công nghệ, chu trình sản xuất mới....
Không đạt được mức phát triển như mong muốn cũng như khó làm thỏa mãn
nhu cầu của người tiêu dùng. Mức sống của người tiêu dùng ở những nước kinh
tế kế hoạch hóa có mức thấp hơn nhiều so với các quốc gia phát triển. Nguyên
nhân do chính sự phân chia tài sản, của cải còn cứng nhắc, chậm thay đổi.
Mô hình kinh tế xanh
Đây là nền kinh tế nhằm cải thiện đời sống con người và tài sản xã hội
đồng thời chú trọng giảm thiểu những hiểm họa của môi trường và sự khan hiếm
của nguồn tài nguyên. Kinh tế xanh được thể hiện trên các lĩnh vực kinh tế:
Nông nghiệp - Ngư nghiệp, sản xuất, giao thông vận tải, kiến trúc xây dựng, tài
nguyên môi trường, du lịch sinh thái và các lĩnh vực đời sống khác. Hoạt động
kinh tế xanh là hoạt động tạo ra giá trị lợi nhuận hướng đến sự phát triển của
cộng đồng, xã hội, con người; thân thiện với môi trường. Một nền kinh tế xanh
là một nền kinh tế dựa trên sự phát triển bền vững và kiến thức về kinh tế học
sinh thái. Ưu điểm lớn nhất của mô hình kinh tế này chính là tạo ra việc làm,
bảo đảm tăng cường kinh tế bền vững và ngăn chặn ô nhiễm môi trường, nóng 10
lên toàn cầu, cạn kiệt tài nguyên và suy thoái môi trường tự nhiên. Vừa phát
triển kinh tế vừa nghiên cứu để tạo ra các nguồn năng lượng mới thay thế cho
nguồn năng lượng truyền thống có nguy cơ bị cạn kiệt. Mô hình kinh tế xanh ở
Việt Nam hoạt động hiệu quả trong các giai đoạn thời gian khủng hoảng kinh tế,
khủng hoảng sinh thái của chúng ta.
2.1.4. KHÁI NIỆM VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ XANH
Nền kinh tế xanh ngày nay xuất hiện như một lựa chọn tất yếu cho việc
phát triển kinh tế, tạo việc làm và chống đói nghèo. Tại Việt Nam, “nền kinh tế
xanh” là một khái niệm còn mới. Những năm gần đây, Chính phủ đã chú trọng
về “nền kinh tế xanh” khuyến khích các doanh nghiệp phát triển theo xu hướng
này, hướng tiếp cận mới trong việc phát triển nền kinh tế quốc gia theo chiều sâu và bền vững.
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn
2050 được Chính phủ ban hành thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong
thực hiện phát triển bền vững, thông qua các hành động thiết thực, cụ thể. Tại
hội nghị Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu năm 2021 (COP26), Thủ tướng
Chính phủ Phạm Minh Chính đã nêu cam kết của Việt Nam trong việc “sẽ xây
dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ hơn nữa
bằng nguồn lực của mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế,
cả về tài chính và chuyển giao công nghệ, trong đó có thực hiện các cơ chế theo
Thỏa thuận Paris, để đạt mức phát thải ròng bằng ‘0’ vào năm 2050”.
Mục tiêu của bài viết là tiến hành đồng thời các giải pháp thích ứng với
tác động của BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo đảm an toàn tính
mạng con người và tài sản; Tăng cường năng lực thích ứng với BĐKH của con
người và các hệ thống tự nhiên; tăng trưởng xanh, làm giàu vốn tự nhiên trở
thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; Tái cấu trúc và hoàn
thiện thể chế kinh tế theo hướng xanh hóa các ngành hiện có và khuyến khích
phát triển các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên với giá trị gia tăng cao.
2.1.5. Xu hướng phát triển nền kinh tế xanh và thực trạng trên thế giới 11
Tại Hội nghị thượng đỉnh G20 tại Seoul, ngày 11 - 12/11/2010, các nhà
lãnh đạo đã tuyên bố: “Chúng tôi thừa nhận rằng tăng trưởng xanh bền vững, vì
nó vốn dĩ là một phần của phát triển bền vững, là một chiến lược phát triển chất
lượng, cho phép các quốc gia đi trước đón đầu các công nghệ cũ trong nhiều lĩnh
vực, bao gồm cả thông qua việc sử dụng hiệu quả năng lượng và công nghệ
sạch. Để đạt được mục tiêu đó, chúng tôi sẽ thực hiện các bước để tạo ra, nếu
thích hợp, các môi trường thuận lợi cho việc phát triển công nghệ năng lượng
sạch và hiệu quả năng lượng, bao gồm các chính sách và thông lệ ở các quốc gia
của chúng tôi và hơn thế nữa, bao gồm cả chuyển giao kỹ thuật và nâng cao năng lực”.
“Nền kinh tế xanh” và “tăng trưởng xanh” hiện là cụm từ khá phổ biến.
Nền kinh tế xanh là trọng tâm của các cuộc tranh luận tại hội nghị thượng đỉnh
Rio 20 được tổ chức vào tháng 6/2012 tại Rio de Janeiro, Brazil. Theo Chương
trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), nền kinh tế xanh là nền kinh tế tạo ra
sự cải thiện phúc lợi của con người và công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu
rủi ro môi trường và huỷ hoại sinh thái. Nó liên quan đến các hoạt động và
phương thức tiêu dùng gây ra tác động xấu cho môi trường và nguy hại đến cuộc
sống con người. Nền kinh tế xanh có thể được định nghĩa là nền kinh tế có các
đặc điểm: tỷ lệ phát thải cacbon thấp, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Mặt khác, nền kinh tế “nâu”, tức là nền kinh tế truyền thống, tạo ra sự
phát triển phần lớn được hỗ trợ bởi các ngành công nghiệp khai thác (năng
lượng, mỏ, gỗ,.. .) và theo hướng đô thị hóa, làm tổn hại đến tài nguyên thiên
nhiên và xã hội. Bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên thiên nhiên (tài nguyên
nước, kiểm soát năng lượng tái tạo) là những hoạt động chính của nền kinh tế
xanh. Trong nền kinh tế xanh, tăng trưởng doanh thu và tạo việc làm được thúc
đẩy bởi các khoản đầu tư công và tư với đặc điểm là sử dụng tốt hơn các nguồn
tài nguyên, chống biến đổi khí hậu, giảm phát thải carbon, chất thải và ô nhiễm,
ngăn ngừa mất đa dạng sinh học và suy thoái hệ sinh thái. Công nghệ xanh và
các ngành công nghiệp là động cơ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia về tăng trưởng xanh. 12
Các nhà hoạch định chính sách quốc tế thường coi “tăng trưởng xanh”,
thúc đẩy hiệu quả năng lượng và công nghệ sạch và phát triển bền vững là các
mục tiêu bổ sung. Do đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và phát
triển các công nghệ sạch sẽ là phương tiện để đạt được “tăng trưởng xanh” và
cuối cùng là phát triển bền vững.
Tuy nhiên, hiệu quả của các chính sách này được đánh giá rất phức tạp.
Có những ý kiến cho rằng chỉ nhờ đến một biện pháp kích thích xanh không thể
đủ để bắt đầu một quá trình thực sự giúp nền kinh tế xanh hơn.
Giao thông vận tải là một trong những hoạt động chủ yếu phát thải khí
nhà kính lớn thứ 3 sau ngành năng lượng và nông nghiệp, chiếm 18,38% tổng
lượng khí nhà khí thải vào bầu khí quyển hằng năm. Theo số liệu thống kê, năm
2020, lượng CO2 phát thải trong ngành giao thông vận tải ước khoảng 47.680
nghìn tấn. Tuy nhiên, dự báo đến năm 2025 và 2030, con số này tăng xấp xỉ 2-
2,5 lần, đạt lần lượt 65.138 nghìn tấn và 89.119 nghìn tấn.
Bộ phận Nghiên cứu Toàn cầu của HSBC dự đoán rằng thị trường năng
lượng sạch toàn cầu và cơ hội đầu tư sử dụng năng lượng hiệu quả sẽ tăng gấp
ba lần lên 2,2 tỷ USD vào năm 2022. Sự mở rộng này chủ yếu sẽ hiện thực hóa
thông qua việc tiếp thị các phương tiện carbon thấp, chẳng hạn như ô tô hybrid
hoặc ô tô chạy hoàn toàn bằng điện, thông qua sự tăng trưởng của thị trường
năng lượng sạch ở Trung Quốc và thông qua nhu cầu đáng kể về thiết bị áp dụng các công nghệ xanh mới.
Mặc dù việc mở rộng nhanh chóng các thị trường cho năng lượng sạch và
hàng hóa tiết kiệm năng lượng có thể đóng một vai trò thực sự thúc đẩy quá
trình tăng trưởng xanh toàn cầu, nhưng điều này vẫn chưa đảm bảo rằng thế giới
sẽ đạt được sự phát triển kinh tế bền vững theo cách này. Tăng trưởng xanh sẽ
không đảm bảo cho sự phát triển bền vững chừng nào sự suy thoái của hệ sinh
thái toàn cầu đi kèm với sự gia tăng các vấn đề khan hiếm sinh thái.
Thứ nhất, có thách thức về tính bền vững. Từ quan điểm kinh tế, khan
hiếm sinh thái được định nghĩa là sự mất đi một số lượng lớn các lợi ích,
hay "dịch vụ" mà các hệ sinh thái cung cấp do con người khai thác chúng. 13
Sự khan hiếm sinh thái phát sinh từ sự đánh đổi cơ bản trong việc sử dụng
môi trường tự nhiên của chúng ta. Phát triển kinh tế tạo ra những lợi ích
đáng kể cho nhân loại, nhưng kết quả của sự phát triển này đã làm thay
đổi sâu sắc các hệ sinh thái chính của trái đất và do đó làm thay đổi những
lợi ích mà chúng mang lại. Phát triển kinh tế phải tính đến sự khan hiếm
sinh thái ngày càng tăng là một thách thức lớn nếu chúng ta muốn đặt sự
phát triển này theo con đường bền vững.
Thứ hai, thách thức khác đó là kinh phí. Vẫn còn một khoảng cách rất lớn
giữa lợi ích tổng thể mà nhân loại nhận được từ các hệ sinh thái mà họ sử
dụng và những gì chúng ta sẵn sàng trả để duy trì và bảo tồn chúng. Ước
tính rằng lợi ích tạo ra từ việc sử dụng các hệ sinh thái có thể lên tới hàng
trăm tỷ USD. Tuy nhiên, ngày nay, thế giới chi khoảng10 tỷ USD mỗi
năm cho việc bảo tồn các hệ sinh thái này. Hơn nữa, mặc dù các khu bảo
tồn trên khắp thế giới tiếp tục phát triển, nhưng bị thiếu hụt nghiêm trọng
ở hầu hết mọi nơi và đặc biệt là ở châu Phi, châu Mỹ Latinh, Bắc Phi, Trung Đông và châu Á.
Khắc phục khoảng cách tài chính này là điều cần thiết, những lợi ích
chúng ta được hưởng từ tự nhiên tỷ lệ nghịch với sự suy giảm của các hệ sinh
thái toàn cầu. Nhưng cho đến nay, một số động lực kinh tế tiêu cực đã ngăn cản
sự thành công của quốc tế nhằm ngăn chặn sự mất đa dạng sinh học và sự suy
thoái của các hệ sinh thái toàn cầu.
Các lập trường ủng hộ đồng tình và không đồng tình với sự phát triển
xanh bền không dễ dàng dung hòa. Tuy nhiên, các nhà kinh tế của cả 2 trường
phái đều đồng ý rằng lợi ích do thiên nhiên mang lại là rất lớn và có nguy cơ cạn
kiệt. Theo giải thích của Dasgupta (TS. Susmita Dasgupta - chuyên gia cao cấp
về kinh tế môi trường, Ngân hàng Thế giới, 2008, trang 3), “Hệ sinh thái là tài
sản vốn. Giống như tài sản vốn có thể tái sản xuất (đường xá, tòa nhà và máy
móc), hệ sinh thái sẽ mất giá nếu chúng bị sử dụng sai mục đích hoặc sử dụng
quá mức. Nhưng chúng khác với tài sản vốn có khả năng tái sản xuất ở 3 điểm:
Một là, khấu hao vốn tự nhiên thường không thể thay đổi được (hoặc tốt nhất là 14
các hệ thống mất nhiều thời gian để phục hồi); Hai là, ngoại trừ trong một ý
nghĩa rất hạn chế, điều đó là không thể để thay thế một hệ sinh thái đã cạn kiệt
hoặc suy thoái bằng một hệ sinh thái mới. Ba là, các hệ sinh thái có thể sụp đổ
đột ngột mà không có nhiều cảnh báo trước.
Sự khan hiếm sinh thái ngày càng tăng là một dấu hiệu cho thấy chúng ta
đang làm cạn kiệt các hệ sinh thái một cách không thể phục hồi và quá nhanh
chóng. Do đó, có thể là một dấu hiệu cho thấy sự phát triển hiện nay của nền
kinh tế thế giới là không bền vững: một nguồn vốn tự nhiên quan trọng, cần
được giữ nguyên vẹn, đang bị suy thoái không thể phục hồi, gây nguy cơ cho
hiện tại và các thế hệ tương lai.
Không những các nhà hoạch định chính sách công mà cả cộng đồng
doanh nghiệp quốc tế thấy rằng giữa chính phủ và các doanh nghiệp phải có sự
hợp tác để cải thiện môi trường, thế giới sẽ có cơ hội đối phó kịp thời với mối đe
dọa mà sự khan hiếm sinh thái ngày càng tăng gây áp lực lên sự bền vững của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, do chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga vào Ukraine từ ngày
24/02/2022, hiện nay, Nga đang cắt giảm khí đốt đến châu Âu thông qua đường
ống Nord Stream 1 dưới biển Baltic giữa lúc Moscow và phương Tây đối đầu
căng thẳng vì cuộc khủng hoảng Ukraine. Trong những tuần gần đây, Nga đã
giảm và cắt đứt hoàn toàn lượng khí đốt đối với một số nước châu Âu, Nga giảm
50% lượng khí đốt cung cấp cho Ý và Slovakia, đồng thời cắt đứt nguồn cung
hoàn toàn đối với Pháp, đánh dấu ngày cắt giảm khí đốt thứ 3 liên tiếp.
Các doanh nghiệp châu Âu nhập khẩu khí đốt của Nga đang tìm kiếm các
nguồn cung nhiên liệu thay thế và thậm chí còn cân nhắc quay trở lại sử dụng
than đá để bù đắp nguồn khí đốt thâm hụt từ Nga, trong bối cảnh lo ngại nguy cơ
xảy ra một cuộc khủng hoảng năng lượng vào mùa đông nếu các kho không được trữ đầy.
Theo hãng tin AP, Moscow trước đó ngắt toàn bộ dòng khí đốt đến Ba
Lan, Bulgaria, Phần Lan, Hà Lan và Đan Mạch, cũng như giảm nguồn cung đến
Áo và một số nước Đông Âu. Tập đoàn Năng lượng Gazprom (Nga) đã cắt giảm 15
50% lượng khí đốt đến Đức (nền kinh tế lớn nhất châu Âu), trong khi mùa đông đang đến gần.
Công ty Năng lượng Eni của Italia cho biết, doanh nghiệp này đã nhận
được thông báo từ phía tập đoàn năng lượng Gazprom của Nga rằng Eni sẽ chỉ
nhận được một phần khí đốt theo yêu cầu của công ty. Thực tế này khiến Italia
đối mặt với việc có thể phải ban bố tình trạng khẩn cấp quốc gia, theo đó có thể
dẫn tới việc thực hiện các biện pháp tiết kiệm khí đốt.
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.2.1. Thực trạng xây dựng nền kinh tế xanh tại Việt Nam hiện nay
“Tăng trưởng xanh” đã trở thành xu thế tất yếu, là một hướng tiếp cận
mới trong tăng trưởng kinh tế nhằm đạt được thịnh vượng toàn diện cho các
quốc gia. Trong hơn 2 thập kỷ qua, Việt Nam phải chịu tác động nặng nề của
biến đổi khí hậu, suy thoái đất canh tác, bão lũ và một trong những nguyên nhân
căn bản đó đến từ thực trạng tỷ lệ rừng suy giảm.
Trong bối cảnh đó, Tết trồng cây - một truyền thống đẹp lại được “khởi
động” bằng sáng kiến trồng 1 tỷ cây xanh của Thủ tướng Chính phủ, đã đề ra
mục tiêu trồng mới 1 tỷ cây xanh giai đoạn 2021-2025. Riêng năm 2021, chỉ tiêu
trồng cây xanh cao hơn 1,5 lần và từ năm 2022 đến năm 2025, cao gấp 2 lần so
với kết quả thực hiện năm 2020.
Trên thực tế, Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động liên quan đến sản
xuất và tiêu dùng bền vững, trong đó tiêu dùng xanh ngày càng được quan tâm
nhiều hơn. Nhiều văn bản liên quan đã được ký kết như: Tuyên ngôn quốc tế và
Kế hoạch hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững (1999), các văn
bản pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Luật Sử dụng
năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; Tuyên ngôn quốc tế về sản xuất sạch hơn (1999).
Các chương trình liên quan đến sản phẩm xanh như chương trình cấp
nhãn sinh thái, nhãn tiết kiệm năng lượng, nhãn sinh thái cho ngành Du lịch
cũng được triển khai. Đặc biệt là, Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh thời
kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 là cơ sở pháp lý quan trọng để xây 16
dựng các chính sách liên quan đến tiêu dùng xanh ở Việt Nam trong giai đoạn tới.
Định hướng và mục tiêu xanh hóa nền kinh tế được thể hiện chi tiết tại
Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn
đến năm 2050. Đây là chiến lược quốc gia đầu tiên, toàn diện về lĩnh vực phát
triển kinh tế xanh ở Việt Nam.
Do có chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nên tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam duy trì ở mức trung bình khoảng 5,95%/năm trong
giai đoạn từ năm 2012 - 2020.
Năm 2021, Hà Nội dự báo đưa vào vận hành tuyến đường sắt đô thị Nhổn
- Ga Hà Nội, đoạn trên cao từ Nhổn đến Cầu Giấy. Đây là loại hình vận tải công
cộng khối lượng lớn, sử dụng nhiên liệu điện sạch, an toàn. Tuy nhiên, quan
trọng nhất là cần hạn chế, tiến tới giảm dần hàng triệu chiếc xe máy, ô tô cá
nhân; hệ thống xe buýt cũng cần được xanh hóa,... Đồng thời, với mục tiêu đưa
xe buýt điện vào sử dụng trong giai đoạn 2021 - 2025 được xem là động thái thể
hiện sự nỗ lực của chính quyền nhằm xây dựng hệ thống giao thông công cộng
xanh, giảm ô nhiễm môi trường.
Việt Nam đang tiếp tục đà đổi mới, đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng
trưởng theo chiều sâu, đề cao chất lượng và hiệu quả, đồng thời nỗ lực hết sức
mình để phục hồi hậu Covid-19. Nhờ có nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt
Nam đã thể hiện sức chống chịu đáng kể trong những giai đoạn khủng hoảng,
mới đây là đại dịch Covid-19. Tăng trưởng GDP giảm xuống 2,58% vào năm
2021 do sự xuất hiện của biến thể Delta nhưng dự kiến sẽ phục hồi lên 6.7% vào năm 2022.
2.2.3. Các điểm cần lưu ý khi xây dựng nền kinh tế xanh ở Việt Nam
Trong nền kinh tế xanh, tăng trưởng doanh thu và tạo việc làm được thúc
đẩy bởi các khoản đầu tư công và tư với đặc điểm là sử dụng tốt hơn các nguồn
tài nguyên, chống biến đổi khí hậu, giảm phát thải carbon, chất thải và ô nhiễm,
ngăn ngừa mất đa dạng sinh học và suy thoái hệ sinh thái. Công nghệ xanh và 17
các ngành công nghiệp là động cơ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia về tăng
trưởng xanh. Những năm qua, nhiều mô hình tiêu dùng xanh được cộng đồng xã
hội hưởng ứng như: gói rau, củ, quả bằng lá chuối; dùng bình nước bằng thủy
tinh, ống hút bằng tre hoặc giấy; sử dụng ly giấy thay ly nhựa, túi vải thay túi nylon,…
Để có nền kinh tế xanh và phát triển bền vững, việc đầu tiên chúng ta phải
có được câu trả lời tốt cho những câu hỏi sau:
• Thứ nhất, nền kinh tế xanh là gì?
Đó là nền kinh tế tạo ra cải thiện phúc lợi cho con người và công bằng xã hội,
đồng thời giảm thiểu đáng kể rủi ro môi trường và khan hiếm sinh thái.
• Thứ hai, mục tiêu của nền kinh tế xanh là gì?
Nền kinh tế xanh tìm cách duy trì cân bằng vốn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo
sự phân phối công bằng của chúng, cho toàn nhân loại và cho các thế hệ tương
lai. Nó đi đôi với việc sửa đổi các phương thức sản xuất và tiêu dùng hàng hóa
và dịch vụ, để chúng tích hợp các hạn chế về môi trường và xã hội.
• Thứ ba, Việt Nam có vị trí như thế nào trên thế giới về nền kinh tế xanh?
Nhằm thực hiện chủ trương về phát triển bền vững, phát triển kinh tế
xanh, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày
25/9/2012 về phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-
2020 và tầm nhìn đến năm 2050”. Đây là bản chiến lược đầu tiên, toàn diện về
lĩnh vực phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam, phù hợp với điều kiện trong nước
và bắt kịp với xu hướng chung trên thế giới. Ngày 26/8/2016, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 73/NQ-CP phê duyệt chủ trương đầu tư 21 Chương trình
mục tiêu giai đoạn 2016-2020, trong đó có Chương trình mục tiêu ứng phó với
BĐKH và tăng trưởng xanh. Tiếp theo đó, các điểm cần chú ý về pháp lý của
nền kinh tế xanh ở Việt Nam cần được cụ thể như sau:
- Nhận thức về bảo vệ môi trường cần được nâng cao trong xã hội trên cơ
sở đổi mới tư duy, ý thức trách nhiệm với thiên nhiên, môi trường. Tuyên truyền,
giáo dục về môi trường là việc làm trọng yếu, từ đó có những hành động thiết 18
thực trong công tác phục hồi hệ sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, phòng
chống biến đổi khí hậu,... triển khai thực hiện phát triển kinh tế xanh, phát triển
bền vững theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Các chính sách về môi trường cần được tiến hành cải cách; hệ thống
thuế tài nguyên, thuế môi trường cần được tiếp tục nghiên cứu để điều chỉnh và hoàn thiện.
- Đầu tư cho khoa học và công nghệ cần được tăng cường, đồng thời tiếp
nhận, chuyển giao công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện Việt Nam, đẩy
mạnh nghiên cứu các lĩnh vực ngành nghề phát triển kinh tế xanh như giảm
thiểu phát thải carbon, phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng thân thiện với môi trường.
- Môi trường đầu tư cần được cải thiện, tăng cường thu hút mọi nguồn lực
từ tất cả các thành phần kinh tế, trong đó tập trung huy động nguồn vốn nước
ngoài. Việc thu hút nguồn vốn nước ngoài không chỉ góp phần phát triển kinh tế
xanh, mà còn giúp doanh nghiệp trong nước học hỏi được kinh nghiệm từ phía doanh nghiệp nước ngoài.
PHẦN 3: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Cơ bản sản xuất xanh là sử dụng nguyên liệu thân thiện với môi trường,
tăng cường tái chế, hạn chế ô nhiễm và chất thải trong các quy trình sản xuất
Khi doanh nghiệp chuyển đổi sang sản xuất xanh họ sẽ được hưởng lợi nhất
định. Chẳng hạn như trong ngành dệt may, khi các doanh nghiệp sử dụng
nguyên liệu tự nhiên sẽ được ưu tiên xuất khẩu vào những thị trường lớn, được
ký các hợp đồng dài hạn với giá trị lớn hơn.
Công ty Cổ phần Tập đoàn gai Thiên Phước, Thanh Hóa hiện đang có
khoảng 3.800 ha vùng trồng cây gai xanh trên 12 tỉnh, thành. Sử dụng nguồn
nguyên liệu tự nhiên là lợi thế giúp sản phẩm dệt may Việt Nam tiếp cận đến
nhiều thị trường khó tính.
Ông Lê Thanh Tùng - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn gai
Thiên Phước, Thanh Hóa cho biết: "Sử dụng nguyên liệu hoàn toàn tự nhiên, các 19
khách hàng sẽ ưu tiên lựa chọn trong danh sách các nhà cung ứng. Những nhà
cung ứng nào mà đáp ứng tiêu chuẩn xanh sẽ có cơ hội ký đơn hàng dài hạn".
Từng khâu chủ động xanh hoá sẽ khiến vòng sản xuất xanh trong ngành
dệt may dần khép kín. Được đầu tư hàng trăm tỉ đồng, những chiếc máy nhuộm
tại Khu công nghiệp Bảo Minh, Nam Định sử dụng công nghệ tạo nhiệt hoàn
toàn từ khí tự nhiên hoá lỏng (LNG), giảm 50 tấn than đốt lò hơi mỗi ngày. 10%
nước thải từ quá trình dệt nhuộm cũng được xử lý để tái sử dụng.
"Mục tiêu của chúng tôi từ nay đến 2025 sẽ tái tuần hoàn được 50% lượng
nước thải. Nước sau khi xử lý sẽ đáp ứng đủ điều kiện cho sinh hoạt, gia đình",
ông Nguyễn Văn Kiểm - Tổng Giám đốc Khu công nghiệp Bảo Minh, Nam Định cho hay.
Hiện nay, thế giới chưa có bất kỳ một quy định pháp lý nào về tỉ lệ xanh
hoá cho các sản phẩm dệt may. Thế nhưng, một khi là xu thế, là lộ trình thế giới
đã đặt ra, những tiêu chuẩn sẽ sớm được luật hoá. "Hệ thống các tiêu chuẩn, tiêu
chí của các thị trường sau này chắc chắn sẽ được gây dựng trên cơ sở các trụ cột
của sản xuất xanh. Doanh nghiệp lúc này là pass hoặc fail. Chúng ta vào được
hoặc là không vào được", ông Lê Tiến Trường - Chủ tịch Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) cho biết.
Đầu tư vào sản xuất xanh là hướng đi mà các quốc gia lựa chọn, để vươn
lên trên bản đồ xuất khẩu dệt may thế giới. Từng khâu chủ động xanh hoá sẽ
khiến vòng sản xuất xanh trong ngành dệt may dần khép kín. Để những chiếc áo
tiếp tục có tấm vé thông hành xanh trên các kệ hàng.
Không chỉ việc chuyển đổi sang sử dụng nguyên liệu xanh để cắt giảm
phát thải, nhiều doanh nghiệp còn chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo
để tiết kiệm năng lượng, hoặc làm mô hình kinh tế tuần hoàn để giảm thiểu ô nhiễm.
Kinh tế tuần hoàn được hiểu là biến chất thải của ngành này thành nguyên
liệu đầu vào của ngành khác, thành một vòng quay tuần hoàn trong sản xuất của
doanh nghiệp. Điều này giúp giảm việc khai thác tài nguyên, giảm chi phí xử lý
chất thải, giảm ô nhiễm môi trường. 20
Tại trang trại Vinamilk Green Farm Tây Ninh, mỗi ngày bò thải ra 30 tấn
phân. Chất thải sau đó được thu gom bằng hệ thống hiện đại, đưa vào xử lý với
công nghệ ủ Biogas. "Đầu ra" của quy trình này là phân bón, nước, khí đốt sẽ trở
thành "đầu vào" của một vòng tuần hoàn mới, khép kín.
Đầu tiên là phân hữu cơ và nước, được dùng bón cho 500 ha đất trồng cỏ,
hoa màu, cây trồng và từ đó lại cung cấp nguồn thức ăn dinh dưỡng, xanh, sạch
ngược lại cho 8.000 con bò sữa. Thứ hai khí Metan, khí này được dùng để sấy
cỏ khô dự trữ cho bò ăn và đun nước nóng để vệ sinh thiết bị của trang trại và
thanh trùng sữa cho đàn bê. Nhờ vậy mà mỗi năm trang trại có thể tiết kiệm hơn
2 tỷ đồng chi phí điện năng, giúp giảm đáng kể lượng phát thải CO2.
Ngoài việc "tái tạo tài nguyên" từ chính chất thải, thì từ năm 2019 doanh
nghiệp đã bắt đầu chuyển đổi sử dụng năng lượng mặt trời tại các trang trại chăn
nuôi bò sữa. Không chỉ có thêm nguồn điện, mà còn giúp làm mát chuồng trại.
Tính ra, năng lượng mặt trời đã giúp cho 13 trang trại của doanh nghiệp giảm
phát thải được 62.341 tấn CO2/năm, tương đương với việc trồng 3,4 triệu cây xanh.
Việc chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn
không chỉ mang lại lợi ích kinh tế thiết thực cho doanh nghiệp, mà còn cho cả
cộng đồng và các đối tác kinh doanh. Đặc biệt, việc giảm phát thải khí CO2
trong sản xuất sẽ góp phần hiện thực cam kết giảm phát thải ròng về 0 vào năm 2050 của Việt Nam.
Khi đã cắt giảm và chuyển đổi tối đa thì "hấp thụ" là bước cuối cùng
hướng tới mục tiêu cân bằng, Net-zero. Hiện các doanh nghiệp đã nỗ lực hướng
tới việc trồng nhiều cây xanh để hấp thụ, bù lại lượng C02 mà quá trình sản xuất
đã thải ra. Cắt giảm, chuyển đổi, hấp thụ - 3 quá trình này phải được thực hiện
cùng lúc để hướng tới sản xuất xanh, tăng trưởng xanh bền vững. 21