Tiểu luận: Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Tiểu luận môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin với đề tài: "Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất" của trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh giúp bạn tham khảo và hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình đạt kết quả cao.

lOMoARcPSD|27879 799
TIỂU LUẬN
N: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài
:
“Mối quan hệ biện chng giữa lực lượng sản xuất
quan hệ sản xuất”.
lOMoARcPSD|27879 799
2
LỜI NÓI ĐẦU
Theo Chủ nghĩa Mác-Lênin thì loài người từ trước đến nay đã trải qua 5 hình
thái kinh tế xã hội, từ thời kỳ mông muội đến hiện đại như ngày nay, đó : Thời kỳ
công nguyên thuỷ, thời kỳ chiếm hữu lệ, thời kỳ phong kiến, thi ktư bản
chủ nghĩa và thi kỳ xã hội chủ nga. Trong mỗi hình thái kinh tế hội được quy
định bởi một phương thức sản xuất nhất định. Chính những phương thức sản xuất vt
chất yếu tố quyết định sự phát triển hình thái kinh tế hội. qua nghiên cứu thì
theo một phương thc sản xut nào cũng đều phải có sự phù hợp giữa lực lượng sản
xuất quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất quan hệ sn xuất luôn song song tồn
tại và tác động lẫn nhau để hình thành mt phương thức sản xuất. Đây là hai yếu tố
quan trọng quyết định tính chất, kết cấu của xã hội.
Trong bất kmột phương thức sản xuất o quan hệ sản xuất ng phải p
hợp với lực lượng sản xuất. S tác động qua lại và mối quan hệ giữa chúng phải hài
hoà chặt chẽ. Tuy nhiên trong hai yếu tố đó thì lực lượng sản xuất ln quyết định
quan hệ sản xuất. Một hình thái kinh tế - hội ổn định và tồn tại vững chắc t
phải mt phương thức sản xuất hợp lý. Chính bởi lẽ đó mà lực lượng sản xuất phải
tương xứng phợp với quan hệ sản xuất bởi xét đến cùng thì quan hệ sản xuất
chính là hình thức của lực lượng sản xuất. Vậy nên nếu lực lượng sản xuất phát triển
trong khi đó quan hệ sản xuất lạc hậu thì sẽ kìm hãm sự phát triển ca lực lượng sản
xuất. Ngược lại quan hsản xuất tiến bộ n lực lượng sản xuất thì không phù hợp
với tính chất trình đca lực lượng sản xuất gây ra sự bất ổn cho hội. Do đó
một phương thức sn xuất hiệu quả thì phải một quan hệ sản xuất phù hợp cới nh
chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Qua phần lý luận trên ta có thể thấy việc nghiên cứu mi quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hết sức cần thiết. Đặc biệt trong thời
kỳ hin nay Chủ nghĩa hội lại nhiều thay đổi biến động mt trong những
nguyên nhân tan rã của hệ thống Xã hội chủ nghĩa là do các nước Chủ nghĩa xã hội
đã xây dựng mô hình Chủ nghĩa hội không có sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất
lOMoARcPSD|27879 799
quan hệ sản xuất. nước ta ng vậy, sau 1954 miền bắc tiến n Ch nghĩa
hội cả nước là sau 1975. Trong quá trình đi mới đất ớc, do nóng vội nên Đảng
ta đã mắc phải sai lầm là duy trì quá lâu quan hệ sản xuất cố hữu đó chính sách
bao cấp tập trung dân chủ. Chính lđó trong suốt những năm đó nền kinh tế
nước ta chậm phát triển và i vào tình trạng khủng hoảng trong những m đầu thập
kỷ 80. Điều quan trọng hơn là Đảng ta đã nhận thc được điều đó nhanh chóng
đổi mới thông qua đại hội Đảng VI và các kỳ đại hội tiếp sau đó. Trong thời kỳ quá
độ nhiều vấn đề phức tạp cần phải giải quyết bởi nó bước chuyển tiếp từ một
nh thái kinh tế - hội này lên một hình thái kinh tế - hội khác. Cho nên em
chọn đề tài “Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất
trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Viêt Nam” để nghiên cứu.
Trong bài tiểu luận này do trình độ kiến thức còn chưa sâu và đây bài tiểu
luận khoa học đầu tiên nên sẽ có nhiều vấn đề thiếu sót, vì vậy em mong được sự ch
bảo và giúp đỡ của các thầy cô bộ môn.
Em xin chân thành cảm ơn.
lOMoARcPSD|27879 799
4
NỘI DUNG
I. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất 1.
Lực lưng sản xuất
a. Khái niệm.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên . Trình
độ của lực ợng sản xuất, thể hiện trình độ chinh phục t nhiên của loài người trong
quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của loài người.
b. Nội dung
Lực lượng sản xuất bao gồm:
- liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động.
- Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất thói quen lao
động, biết sửdụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
- liệu sản xuất bao gồm:
+ Đối tượng lao động;
+ liu lao động: Công cụ lao động; Những tư liệu lao động khác.
Đối tượng lao động không phải toàn bộ giới tự nhiên, chỉ một bộ phn
của giới tự nhiên được đưa o sản xuất. Con người không chỉ m trong giới tự nhiên
những đối tượng lao động có sẵn, mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động.
liệu lao động là vật thể hay phức hp vật thể mà con người đặt giữa mình
với đối tượng lao động, chúng dẫn chuyền sự tác động ca con người vào đối tượng
lao động. Đối tượng lao động tư liệu lao động những yếu tố vt chất của quá
trình lao động sản xuất hợp thành tư liệu sản xuất. Đối với mỗi thế hệ mới những tư
liệu lao động do thế hệ trước để lại trở thành điểm xuất phát cho thế hệ tương lai. Vì
vậy những tư liệu lao động đó là cơ sở sự kế tục của lch sử. liệu lao động chỉ trở
thành lc lượng tích cực cải biến đối tượng lao động, khi chúng kết hợp với đời sống.
liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động
lOMoARcPSD|27879 799
thì cũng không thể phát huy được tác dụng, khồg thể trở thành lực lượng sản xuất
của xã hội.
c yếu tố hợp thành lực ợng sản xuất thường xuyên có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Trong sự phát triển của hệ thống công clao động và trình độ khoa học -
thuật, kĩ năng lao động ca con người đóng vai trò quyết định. Con người là nhân
tố trung tâm và là mục đích của nền sản xuất hội. Lênin viết: “Lc lượng sản xuất
ng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”.
Do khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp mà tnh phần con người
cấu thành lực ợng sản xuất cũng thay đổi. Người lao động trong lực lượng sản xuất
không chỉ gồm người lao động chân tay mà n cả kĩ thuật viên, n bộ khoa
học phục vụ trực tiếp quá trình sản xuất. 2. Quan hệ sản xuất
a. Khái niệm
Quan hệ sản xuất hội quan hệ kinh tế giữa người với ngưi trong quá
trình sn xuất tái sản xuất xã hội: Sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng. Quan
hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế - hội quan hkinh tế tổ chức. Quan hệ sn
xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội, tồn tại khách quan, độc lập với
ý thức của con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái
kinh tế xã hội. Một kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế xã hội nhất
định.
b. Nội dung
Quan hệ sản xuất bao gồm nhng mặt cơ bản sau:
- Quan hệ giữa ngưi với nời đi việc về tư liệusản xuất.
- Quan hệ giữa người với người đổi việc tổ chức quản lý.
- Quan hệ giữa người với người đổi việc phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt nói trên quan hệ hu với nhau, trong đó quan hthứ nhất ý
nghĩa quyết định đối với tất cả những mối quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan
hệ sản xut nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong
xã hội được giải quyết như thế nào.
lOMoARcPSD|27879 799
6
Có hainh thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất:
+ Sở hữu tư nhân
+ Sở hữu xã hội
Những hình thức shữu đó là những quan hkinh tế hiện thực giữa người với
người trong xã hội. Đương nhiên đcho liệu sản xuất kng trở thành “vô chủ”
phải có chính sách và cơ chế rõ ràng để xác định chủ thể sở hữu và s dụng đối với
những tư liệu sản xut nhất định.
Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tcấu thành quan h sản xuất, quan
hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò quan trọng. Những quan này có
thể góp phần củng cố quan hệ sở hữu và cũng có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu.
c hệ thống quan hệ sản xuất ở mi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong một phương
thức sản xuất nhất định. Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị mỗi hình thái kinh tế xã
hội ấy. Vì vậy khi nghiên cứu, xem xét tính chất của một hình thái xã hội thì không
thể nào nhìn trình độ của lực lượng sn xuất còn phải xem xét đến tính chất của
các quan hệ sản xuất.
Quan hệ kinh tế tổ chức xuất hiện trong quá trình tổ chức sản xuất. vừa
biểu hiện quan hệ giữa người với người, vừa biểu hiện trạng thái tự nhiên thuật
của nền sản xuất. Quan hệ kinh tế t chức phản ánh tnh độ phân công lao động
hội, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất. Nó do tính chất và trình độ phát triển
của lc lượng sản xuất qui định.
3. Quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,
chúng tồn tại không ch rời nhau tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy
luật ph biến của toàn bộ lịch sử loài người, quy luật vsự phù hợp quan hệ sản xuất
với tính cht và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch tính chất phụ
thuộc khách quan của quan hệ sản xuất và phát triển của lực ợng sản xuất.
Đến lượt mình, quan hsản xuất tác động trở lại đối vi lực ợng sản xuất. Quy luật
về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xut
lOMoARcPSD|27879 799
là quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội loài người. Sự tác động của nó trong lịch
sử làm chohội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái kinh tế xã hội
caon.
a. Những tác động của lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi và phát triển đều do lực ợng sản
xuất quyết định.
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn,
con người luôn luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động mới tinh xảo
n.Cùng với sự phát triển của công cụ lao đng thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen
lao động, kĩ ng sản xuất, kiến thức khoa học của con ngưi ng tiến bộ. Lc lượng
sản xuất trở thành yếu tố ch mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối
ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sphát triển của lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất nội dung của phương thức sản xuất, còn quan hsn xuất hình
thái xã hội ca nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và nh thức thì hình thức phụ
thuộc nội dung, nội dung quyết định hình thức, nội dung thay đổi trước, sau đó hình
thức mi biến đổi theo.
ng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành
biến đổi phù hợp với tính chất và trình độ của của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp
đó động lực sản xuất phát triển mạnh mẽ. Khi lực ợng sản xuất phát triển n
một trình độ mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp nũa nên buộc phải thay
thế bằng mối quan hệ mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất,
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
b. Sự tác động trở li của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Sự hình thành, biến đổi, phát triển của quan hsản xuất phụ thuc vào tính
chất và trình đ của lực lượng sản xuất. Nhưng quan hệ sản xuất là hình thức xã hội
lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với lực ợng
sản xuất:Có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
lOMoARcPSD|27879 799
8
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính cht và trình đcủa lực lượng sản xuất thì
nó trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển .
Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời không còn phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất, bộc lộ mâu thuẫn gay gắt với lực ợng sn xuất thì trở thành
chướng ngại kìm hãm s phát triển của lc lượng sản xuất. Song s tác dụng kìm
hãm đó chỉ tạm thời, theo tính chất tất yếu khách quan thì sbị thay thế bằng
kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Sở quan hệ sản xuất tác động mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuất vì quy
định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống của tổ chức, quản lý xã hội, quy định
phương thức phân phối của cải ít hay nhiều người lao động được ởng. Do đó
ảnh hưởng đến thái độ của lực lượng sản xuất chyếu của xã hội (con người), nó
tạo ra những điều kiện hoc kích thích hoặc hạn chế vic cải tiến công cụ lao động,
áp dụng những thành tựu khoa học thuật vào sản xuất, hợp tác phân công lao
động. Mỗi kiểu quan hệ sản xut là một hthống, một chỉnh thể hữu cơ gồm ba mặt:
Quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó quan
hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy hành động nhằm phát triển sản xuất.
c. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất qua sự tác động
lẫn nhau.
Sự thng nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hsản xuất
hội hợp thành phương thc sản xuất. Trong sự thống nhất biện chứng này, sự pt
triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất. Quan
hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất thường xuyên vận đng, phát triển nên quan hệ sản xuất cũng
luôn luôn thay đổi nhằm đáp ng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Từ mối
quan hệ biện chứng giữa lực lưng sản xuất và quan hsản xuất làm hình thành quy
luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Đây là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức sản xuất.
lOMoARcPSD|27879 799
Quy luật về sphù hợp của quan hệ sản xuất vớinh chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật bản của sự phát triển loài người. Sự tác động của
trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái
hội cao hơn.
II. Sự biểu hiện mi quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất từ trước đến nay nói chung và từ năm 1954 đến nay ở Việt Nam.
1. Sự biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất từ trước đến nay
Theo Chủ nghĩa Mac-Lênin thì loài người từ trước đến nay đã trải qua 5 hình
thái kinh tế xã hội. Từ thời kỳ mông muội đến hiện đại như ngày nay, đó là: Thời kỳ
công nguyên thuỷ, thời kỳ chiếm hữu lệ, thời kỳ phong kiến , thời k bản
chủ nghĩa và thời kỳ xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội được quy
định bởi một phương thức sản xuất nhất định. Chính những những phương thức sản
xuất vật chất yếu tố quyết định sphát triển ca mỗi hình thái kinh tế hội, trong
đó hình thái kinh tế xã hội thời kì công xã nguyên thuỷ là hình thái sản xuất tự cung
tự cấp. Đây là kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên loài người sử dng. Ở thi kì này lực
lượng sản xuất chưa phát triển, chỉ sn xuất tự cung tự cấp , khi lao động
th công chiếm vị trí thống trị. trong hình thái kinh tế xã hội này do lực ợng sản
xuất chưa phát triển n kéo theo sự chậm phát triển của quan hệ sản xuất. Đây
mối quan hệ kiểu tổ chức sn xuất t nhiên, khép kín trong phạm vi nhỏ của từng
đơn vị, không cho phép mở rộng mối quan hệ với các đơn vị khác. Hình thái kinh tế
xã hội này còn tồn tại đến thời chiếm hu nô lệ. Đến thời phong kiến sản xuất
tự cung tự cấp tồn tại dưới nh thức điền trang, thái ấp kinh tế nông dân gia
trưởng. vậy mà phương thức sản xuất các thời này tính chất bảo thủ, ttrệ
và bị giới hạn ở nhu cầu hạn hẹp thoả n tiêu dùng nội bộ từng gia đình...
Do mỗi hình thái kinh tế hội như vậy n quan hệ sản xuất của ng
tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất đồng thời tiêu biểu cho
một giai đoạn phát triển nhất định ca lịch sử loài người.
lOMoARcPSD|27879 799
10
Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển c hình thái
kinh tế hội thì lực lượng sản xuất bảo đảm tính kế thừa trong s phát triển tiến lên
của hội, quy định khuynh hướng phát triển từ thấp đến cao. Quan hệ sản xuất
mặt thứ hai của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển
của lịch sử. Những quan hệ sản xuất lỗi thời lạc hậu được xoá bỏ và thay thế bằng
những kiểu sn xuất mới cao hơn trong thi kì bản ch nghĩa. Trong thời kì này,
c nhận định rằng: “Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể tồn tại vĩnh
viễn , mà ch sự quá độ tm thời trong lịch sử. Quá trình phát sinh và phát triển
của phương thức sản xuất này. không chỉ tạo ra tiền đề hội điều quan trọng
đã tạo ra những tiền đề vật chất, kinh tế cho sự phủ định sự ra đời của phương
thức sản xuất mới” đã được trình bày trong tác phm “Chống Đuyrinh” của
F.Ănghen. Đó là một tất yếu khách quan theo đúng yêu cầu của quan hệ sản xuất phi
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Từ sự phân tích trên cho thấy lôgic tất yếu của sự thay thế phương thức sản
xuất bản chủ nghĩa sự ra đời của phương thức sản xuất mới - Cộng sản chủ
nghĩa về mặt lý thuyết là phù hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử loài người.
Theo quan niệm của C.Mac giai đoạn này phải một hội cộng sản chủ
nghĩa đã phát triển trên cơ sở chính nó. Do đó về mọi phương diện kinh tế, đạo đức,
tinh thần còn mang dấu vết của xã hội cũ. Trong giai đoạn này quyền lợi không bao
githể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sphát triển n hoá của xã hội do chế
độ kinh tế đó quyết định , cho nên phân phối theo lao động là không tránh khỏi. Từ
những điểm này thể thấy giai đoạn hội chủ nghĩa những đặc trưng kinh tế
chủ yếu sau: Tình độ xã hội htuy có cao hơn chủ nghĩa tư bản song còn thấp hơn
so với giai đoạn cao của xã hội cộng sản. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất tồn ti
dưới hai hình thức chủ yếu: Sở hữu toàn dân sở hữu tập thể. Lao động vừa là
quyn li vùa nghĩa vụ, phân phối theo lao động còn mang dấu vết pháp quyền
tư sn”. Kết thúc giai đoạn thấp, hội cộng sản bước lên giai đoạn cao, giai đoạn
sự phụ thuộc có tính chất dịch của họ vào sự phân ng lao động không còn
lOMoARcPSD|27879 799
nữa, cùng với sự phụ thuộc đó sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay
không còn nữa , khi mà lao đông không những phương tiện để sinh sống mà bản
thân nó còn là nhu cầu bậc nhất của sự sinh sống, khi mà cùng với sự pt triển toàn
diện của các cá nhân , năng xuất của họ cũng ngày một tăng lên và tt cả các nguồn
mới có thể vượt hẳn ra khỏi gii hạn chật hẹp của các quyền tư sản.
Tóm lại mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
vạch ra quy luật khách quan của sự phát triển hội như một quá trình lịch sử t
nhiên. Trong đó ssản xuất ra đời sống hội của mình, con người ta có những quan
hệ nhất định, tất yếu không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ, tức những quan hệ sản
xuất, những quan hệ này phù hp vi một trình độ phát triển nhất đnh của lực lượng
sản xuất vật chất của họ. Tn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh
tế của xã hội tức i cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng
tầng pháp lý và chính trị tương ứng với cơ sở thực tại đó những hình thái ý thức
hội nhất đnh. Phương thức sản xuất chính trị và tinh thần nói chung. Không phải
ý thức con ngưi quyết định sự tồn tại của họ, ti lại chính sự tồn tại xã hội của họ
quyết định ý thức của họ. Tới một giai đoạn phát triển o đó của chúng, các lực
lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ y mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện
, hay đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước tới
nay các lực lượng sn xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của
lực lượng sản xuất, khi đó bắt đầu thời đại của cuộc cách mạng xã hội.
2. Biểu hiện của mối quan hệ từ năm 1954 - 1975 ở Việt Nam.
Năm 1954 sau khi hoà bình lập lại miền Bắc, Đảng ta đã thực hiện chtrương
đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Mặc dù chủ trương
đua đất nước tiến lên chnghĩa hội đã được xác định từ đầu thế kXX, nng
đến thời gian y miđiều kiện để đưa đất nước tiến lên theo con đường này. Tuy
nhiên sau một thời gian dài nước ta phải chịu ách thng trcủa thực dân Pháp với
những chính sách thống trị “ngu dân của chúng đã làm cho con người của đất nước
chúng ta kém phát triển và bị tụt hậu, điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến lực lượng sản
lOMoARcPSD|27879 799
12
xuất, làm cho nền kinh tế nước ta bị tụt hậu rất nhiều năm so với thế giới bên
ngoài. Chúng ta đều biết rằng phương thức sản xuất là cách con ngưi thực hiện quá
trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nht định. Phương thức sản xuất là
sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, trong đó lực
lượng sản xuất thống nhất hữu giữa liệu sản xuất (trước hết công cụ lao
động) và những người sử dụng những tư liệu y đ sản xuất ra của cải vật chất.
Trong lực lưng sản xuất yếu tcon người đóng vai tchủ thể quyết định. Con
người chẳng những chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình lao động sản xuất bằng
sức mạnh cơ bp, trí tuệ của mình, mà còn không ngừng ng tạo ra những ng c
lao động để sản xuất. Từ tình hình lực ợng sản xuất như vậy nên quan hệ sản xuất
trong thời kì này tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau đó là: Sở hữu cá nhân, s
hữu tp thể và sở hữu tư bn tư nhân. Trong hoàn cảnh pơng thức sản xuất diễn ra
như vậy nên Đảng ta đã chủ trương cải tạo: ở thành phố là công tư hợp doanh còn ở
nông thôn là cải cách ruộng đất.
Đảng ta đã quyết m đưa miền Bắc quá độ n chủ nghĩa hội. Tnhững
chủ trương đổi mới của Đảng ta đến năm 1960 quan hệ sản xuất đã sự thay
đổi bản từ hình thức s hữu tư nhân đưa lên nh thức sở hữu tập thể, nh thức
sở hữu tập thể đưa n hình thức quốc doanh, còn hình thức bản nhân tvận
động lên hình thức công tư hợp doanh.
Những chủ trương trên đã được Đảng ta khẳng định trong đại hội Đảng III.
Mặc dù quan hệ sản xuất lúc này không còn được phù hợp chặt chẽ với lực lượng
sản xuất, nhưng trong hoàn cảnh đất ớc chiến tranh thì tài sản tập trung trong
tay nhà nước quan hệ phân phối theo lao động lại chính sách hiệu quả để
thúc đẩy đất ớc đi lên dành thắng lợi lịch sử mùa xuân năm 1975và thực hiện cải
cách miền Bắc thành công.
3. Quá trình tồn tại và phát triển của mối quan hệ biện chứng
giữa lựclượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt nam từ năm 1975 đến
trước 1986.
lOMoARcPSD|27879 799
Mùa xuân năm 1975 vi chiến dịch Hồ chí minh lịch sửớc ta đã hoàn toàn
giải phóng. Đảng ta chủ trương đưa cả c theo con đường quá đlên chủ nghĩa
hội bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa. Tuy nhiên do quá vội trong công cuộc đổi
mới đất ớc nên Đảng ta đã mắc phải một số sai lầm. Những sai lầm lúc này là:
Duy tquá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chỉ tồn ti hai hình thức sở hữu là
tập thể và quốc doanh với cơ chế “xin cho, cấp phát”. Từ những sai lầm trên đã dẫn
đến những hậu quả về kinh tế xã hội: Các tnh phần kinh tế kém phát triển và lâm
o tình trạng khủng hoảng kinh tế nhng năm đầu thập kỷ 80. Điu đóng chứng
tỏ rằng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phù hợp.
Một mối quan hệ sản xuất tiến bộ không thể áp đặt cho một lực lượng sản xuất thấp
kém. Đó chính là bài học cho Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước.
4. Sự biểu hiện của mối quan hệ từ năm 1986 đến nay
Đứng trước tình hình khó khăn và những sai lầm đã mắc phải trước đó, đại hội
đại biểu toàn quc khóa VI của Đảng cộng sản Việt nam đã đưa ra đường lối đổi mới
đất nước. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hi chủ nga mà là nhận thức
cho đúng mục tiêu và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đó không
phải là những bước đi tất yếu, hợp quy luật. Từ đó Đảng cổng sản Việt Nam đã quy
định ra đường lối chuyển từ hình kế hoạch hoá tập trung sang xây dng nền kinh
tế nhiều thành phần là phù hợp với đặc điểm phát triển của lực lượng sn xuất trong
điều kiện nước ta hiện nay. Nó cho phép khai thác tốt nhất các năng lực sản xuất
trong nước, thúc đy quá trình phân công lao động trong ớc với quốc tế khu
vực, thúc đy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng. Trong các thành phần kinh
tế, Đảng khẳng định kinh tế nông nghiệp đóng vai trò ch đạo. Những thành tựu đạt
được về mặt kinh tế trong những năm qua đã chứng minh điều đó.
Đại hội đại biểu toàn quốc khoá VIII của Đảng cộng sản Việt Nam nhận định:
“Nước ta chuyển thời kỳ phát triển mới, thời kỳ thúc đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước… Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng
lOMoARcPSD|27879 799
14
nước ta thành một nước công nghiệp cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất…”.
Đảng ta còn khẳng định: Nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo nên lực
lượng sản xuất cần thiết cho chế đ hội mới, thì việc phát triển nền hành hoá
nhiu thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp…”.
Nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần Đnảg ta chủ trương là nền kinh tế
phát triển theo định hươngs hội chủ nghĩa. Do đó phải chăm lo đổi mới và phát
triển kinh tế nông nghiệp và kinh tế hợp tác, làm cho nền kinh tế nông nghiệp thật sự
làm ăn có hiệu quả, phát huy vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác phấn đấu
dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
KẾT LUẬN
Đảng ta đã vận dụng sự phù hợp của mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với
nh chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay và tương lai.
Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định là:
“Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại,
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với tính chất trình đ của
lực lượng sản xuất, đời sống vt chất tinh thn cao, quốc phòng an ninh vững
chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, văn minh”.
Chúng ta đều biết rằng từ trước tới nay công nghiệp hoá hiện đại hoá khuynh
hướng tất yếu của tất cả c nước. Đối với ớc ta, từ một nền kinh tế tiểu nông,
muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước
phát triển thì tất yếu cũng phải đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá như là: “Một
cuộc cách mạng toàn diện sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”.
Tớc những m tiến hành công cuộc đổi mi chúng ta đã xác định công
nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của các thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song
về mặt nhận thức chúng ta đã đặt công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở vị trí gần như
lOMoARcPSD|27879 799
đối lập hoàn toàn với công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa. Trong la chọn bước đi đã
lúc cng ta thiên về phát triển công nghiệp nặng, coi đó giải pháp xây dựng cơ
sở vật chất thuật cho ch nghĩa hội, không coi trọng đúng mức việc phát
triển nông nghiệp công nghiệp nhẹ. Công nghiệp hoá cũng được hiểu một cách
đơn giản q trìng y dựng một nền sản xuất được khí hoá trong tất cả các nghành
kinh tế quốc dân.
ng nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự
về cônh nghiệp với việc tranh thủ các hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi
nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới. Mặt khác
chúng ta phải chú trọng y dựng nền kinh tế ng hoá nhiều tnh phần, vận hành
theo thị trường, sự điu tiết của nhà nước theo định hướng hội chủ nghĩa.
Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thi, chúng luôn tác động thúc đẩy hỗ trợ
lẫn nhau cùng phát triển . Bởi lẽ Nếu công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo lên lực
lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp”.
| 1/15

Preview text:

lOMoAR cPSD|27879799 TIỂU LUẬN MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài : “Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất”. lOMoAR cPSD|27879799 LỜI NÓI ĐẦU
Theo Chủ nghĩa Mác-Lênin thì loài người từ trước đến nay đã trải qua 5 hình
thái kinh tế xã hội, từ thời kỳ mông muội đến hiện đại như ngày nay, đó là: Thời kỳ
công xã nguyên thuỷ, thời kỳ chiếm hữu nô lệ, thời kỳ phong kiến, thời kỳ tư bản
chủ nghĩa và thời kỳ xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội được quy
định bởi một phương thức sản xuất nhất định. Chính những phương thức sản xuất vật
chất là yếu tố quyết định sự phát triển hình thái kinh tế xã hội. Và qua nghiên cứu thì
theo một phương thức sản xuất nào cũng đều phải có sự phù hợp giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn song song tồn
tại và tác động lẫn nhau để hình thành một phương thức sản xuất. Đây là hai yếu tố
quan trọng quyết định tính chất, kết cấu của xã hội.
Trong bất kỳ một phương thức sản xuất nào quan hệ sản xuất cũng phải phù
hợp với lực lượng sản xuất. Sự tác động qua lại và mối quan hệ giữa chúng phải hài
hoà và chặt chẽ. Tuy nhiên trong hai yếu tố đó thì lực lượng sản xuất luôn quyết định
quan hệ sản xuất. Một hình thái kinh tế - xã hội có ổn định và tồn tại vững chắc thì
phải có một phương thức sản xuất hợp lý. Chính bởi lẽ đó mà lực lượng sản xuất phải
tương xứng phù hợp với quan hệ sản xuất bởi vì xét đến cùng thì quan hệ sản xuất
chính là hình thức của lực lượng sản xuất. Vậy nên nếu lực lượng sản xuất phát triển
trong khi đó quan hệ sản xuất lạc hậu thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Ngược lại quan hệ sản xuất tiến bộ hơn lực lượng sản xuất thì không phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất gây ra sự bất ổn cho xã hội. Do đó
một phương thức sản xuất hiệu quả thì phải có một quan hệ sản xuất phù hợp cới tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Qua phần lý luận trên ta có thể thấy việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hết sức cần thiết. Đặc biệt trong thời
kỳ hiện nay Chủ nghĩa xã hội lại có nhiều thay đổi và biến động một trong những
nguyên nhân tan rã của hệ thống Xã hội chủ nghĩa là do các nước Chủ nghĩa xã hội
đã xây dựng mô hình Chủ nghĩa xã hội không có sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất 2 lOMoAR cPSD|27879799
và quan hệ sản xuất. Ở nước ta cũng vậy, sau 1954 miền bắc tiến lên Chủ nghĩa xã
hội và cả nước là sau 1975. Trong quá trình đổi mới đất nước, do nóng vội nên Đảng
ta đã mắc phải sai lầm là duy trì quá lâu quan hệ sản xuất cố hữu đó là chính sách
bao cấp tập trung dân chủ. Chính vì lẽ đó mà trong suốt những năm đó nền kinh tế
nước ta chậm phát triển và rơi vào tình trạng khủng hoảng trong những năm đầu thập
kỷ 80. Điều quan trọng hơn là Đảng ta đã nhận thức được điều đó và nhanh chóng
đổi mới thông qua đại hội Đảng VI và các kỳ đại hội tiếp sau đó. Trong thời kỳ quá
độ có nhiều vấn đề phức tạp cần phải giải quyết bởi vì nó là bước chuyển tiếp từ một
hình thái kinh tế - xã hội này lên một hình thái kinh tế - xã hội khác. Cho nên em
chọn đề tài “Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Viêt Nam” để nghiên cứu.
Trong bài tiểu luận này do trình độ kiến thức còn chưa sâu và đây là bài tiểu
luận khoa học đầu tiên nên sẽ có nhiều vấn đề thiếu sót, vì vậy em mong được sự chỉ
bảo và giúp đỡ của các thầy cô bộ môn.
Em xin chân thành cảm ơn. lOMoAR cPSD|27879799 NỘI DUNG
I. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 1. Lực lượng sản xuất a. Khái niệm.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên . Trình
độ của lực lượng sản xuất, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài người trong
quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của loài người. b. Nội dung
Lực lượng sản xuất bao gồm: -
Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động. -
Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất thói quen lao
động, biết sửdụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. -
Tư liệu sản xuất bao gồm:
+ Đối tượng lao động;
+ Tư liệu lao động: Công cụ lao động; Những tư liệu lao động khác.
Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên, mà chỉ có một bộ phận
của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất. Con người không chỉ tìm trong giới tự nhiên
những đối tượng lao động có sẵn, mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động.
Tư liệu lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình
với đối tượng lao động, chúng dẫn chuyền sự tác động của con người vào đối tượng
lao động. Đối tượng lao động và tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của quá
trình lao động sản xuất hợp thành tư liệu sản xuất. Đối với mỗi thế hệ mới những tư
liệu lao động do thế hệ trước để lại trở thành điểm xuất phát cho thế hệ tương lai. Vì
vậy những tư liệu lao động đó là cơ sở sự kế tục của lịch sử. Tư liệu lao động chỉ trở
thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động, khi chúng kết hợp với đời sống.
Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động 4 lOMoAR cPSD|27879799
thì cũng không thể phát huy được tác dụng, khồg thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội.
Các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thường xuyên có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Trong sự phát triển của hệ thống công cụ lao động và trình độ khoa học -
kĩ thuật, kĩ năng lao động của con người đóng vai trò quyết định. Con người là nhân
tố trung tâm và là mục đích của nền sản xuất xã hội. Lênin viết: “Lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”.
Do khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp mà thành phần con người
cấu thành lực lượng sản xuất cũng thay đổi. Người lao động trong lực lượng sản xuất
không chỉ gồm người lao động chân tay mà còn cả kĩ thuật viên, kĩ sư và cán bộ khoa
học phục vụ trực tiếp quá trình sản xuất. 2. Quan hệ sản xuất a. Khái niệm
Quan hệ sản xuất xã hội là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá
trình sản xuất và tái sản xuất xã hội: Sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng. Quan
hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế - xã hội và quan hệ kinh tế tổ chức. Quan hệ sản
xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội, nó tồn tại khách quan, độc lập với
ý thức của con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái
kinh tế xã hội. Một kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế xã hội nhất định. b. Nội dung
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau:
- Quan hệ giữa người với người đổi việc về tư liệusản xuất.
- Quan hệ giữa người với người đổi việc tổ chức quản lý.
- Quan hệ giữa người với người đổi việc phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất có ý
nghĩa quyết định đối với tất cả những mối quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan
hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong
xã hội được giải quyết như thế nào. lOMoAR cPSD|27879799
Có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: + Sở hữu tư nhân + Sở hữu xã hội
Những hình thức sở hữu đó là những quan hệ kinh tế hiện thực giữa người với
người trong xã hội. Đương nhiên để cho tư liệu sản xuất không trở thành “vô chủ”
phải có chính sách và cơ chế rõ ràng để xác định chủ thể sở hữu và sử dụng đối với
những tư liệu sản xuất nhất định.
Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, quan
hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò quan trọng. Những quan này có
thể góp phần củng cố quan hệ sở hữu và cũng có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong một phương
thức sản xuất nhất định. Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị mỗi hình thái kinh tế xã
hội ấy. Vì vậy khi nghiên cứu, xem xét tính chất của một hình thái xã hội thì không
thể nào nhìn ở trình độ của lực lượng sản xuất mà còn phải xem xét đến tính chất của các quan hệ sản xuất.
Quan hệ kinh tế tổ chức xuất hiện trong quá trình tổ chức sản xuất. Nó vừa
biểu hiện quan hệ giữa người với người, vừa biểu hiện trạng thái tự nhiên kĩ thuật
của nền sản xuất. Quan hệ kinh tế tổ chức phản ánh trình độ phân công lao động xã
hội, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất. Nó do tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất qui định.
3. Quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,
chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy
luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người, quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch rõ tính chất phụ
thuộc khách quan của quan hệ sản xuất và phát triển của lực lượng sản xuất.
Đến lượt mình, quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Quy luật
về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất 6 lOMoAR cPSD|27879799
là quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội loài người. Sự tác động của nó trong lịch
sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái kinh tế xã hội cao hơn.
a. Những tác động của lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi và phát triển đều do lực lượng sản xuất quyết định.
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn,
con người luôn luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động mới tinh xảo
hơn.Cùng với sự phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen
lao động, kĩ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng
sản xuất trở thành yếu tố cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối
ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình
thái xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì hình thức phụ
thuộc nội dung, nội dung quyết định hình thức, nội dung thay đổi trước, sau đó hình
thức mới biến đổi theo.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành
và biến đổi phù hợp với tính chất và trình độ của của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp
đó là động lực sản xuất phát triển mạnh mẽ. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên
một trình độ mới, quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp nũa nên buộc phải thay
thế bằng mối quan hệ mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất,
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
b. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Sự hình thành, biến đổi, phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng quan hệ sản xuất là hình thức xã hội
mà lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với lực lượng
sản xuất:Có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. lOMoAR cPSD|27879799
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì
nó trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển .
Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời không còn phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất, bộc lộ mâu thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất thì trở thành
chướng ngại kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song sự tác dụng kìm
hãm đó chỉ là tạm thời, theo tính chất tất yếu khách quan thì nó sẽ bị thay thế bằng
kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có tác động mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuất vì nó quy
định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống của tổ chức, quản lý xã hội, quy định
phương thức phân phối của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó
nó ảnh hưởng đến thái độ của lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội (con người), nó
tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động,
áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân công lao
động. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ thống, một chỉnh thể hữu cơ gồm ba mặt:
Quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó quan
hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy hành động nhằm phát triển sản xuất.
c. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất qua sự tác động lẫn nhau.
Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
xã hội hợp thành phương thức sản xuất. Trong sự thống nhất biện chứng này, sự phát
triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất. Quan
hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất thường xuyên vận động, phát triển nên quan hệ sản xuất cũng
luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Từ mối
quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm hình thành quy
luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Đây là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức sản xuất. 8 lOMoAR cPSD|27879799
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật cơ bản của sự phát triển loài người. Sự tác động của nó
trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái xã hội cao hơn.
II. Sự biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất từ trước đến nay nói chung và từ năm 1954 đến nay ở Việt Nam.
1. Sự biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất từ trước đến nay
Theo Chủ nghĩa Mac-Lênin thì loài người từ trước đến nay đã trải qua 5 hình
thái kinh tế xã hội. Từ thời kỳ mông muội đến hiện đại như ngày nay, đó là: Thời kỳ
công xã nguyên thuỷ, thời kỳ chiếm hữu nô lệ, thời kỳ phong kiến , thời kỳ tư bản
chủ nghĩa và thời kỳ xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội được quy
định bởi một phương thức sản xuất nhất định. Chính những những phương thức sản
xuất vật chất là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi hình thái kinh tế xã hội, trong
đó hình thái kinh tế xã hội thời kì công xã nguyên thuỷ là hình thái sản xuất tự cung
tự cấp. Đây là kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên mà loài người sử dụng. Ở thời kì này lực
lượng sản xuất chưa phát triển, nó chỉ là sản xuất tự cung tự cấp , khi mà lao động
thủ công chiếm vị trí thống trị. Và trong hình thái kinh tế xã hội này do lực lượng sản
xuất chưa phát triển nên kéo theo sự chậm phát triển của quan hệ sản xuất. Đây là
mối quan hệ kiểu tổ chức sản xuất tự nhiên, khép kín trong phạm vi nhỏ của từng
đơn vị, không cho phép mở rộng mối quan hệ với các đơn vị khác. Hình thái kinh tế
xã hội này còn tồn tại đến thời kì chiếm hữu nô lệ. Đến thời kì phong kiến sản xuất
tự cung tự cấp tồn tại dưới hình thức điền trang, thái ấp và kinh tế nông dân gia
trưởng. Vì vậy mà phương thức sản xuất ở các thời kì này có tính chất bảo thủ, trì trệ
và bị giới hạn ở nhu cầu hạn hẹp thoả mãn tiêu dùng nội bộ từng gia đình. .
Do mỗi hình thái kinh tế xã hội như vậy nên quan hệ sản xuất của nó cũng
tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất đồng thời tiêu biểu cho
một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử loài người. lOMoAR cPSD|27879799
Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển các hình thái
kinh tế xã hội thì lực lượng sản xuất bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên
của xã hội, quy định khuynh hướng phát triển từ thấp đến cao. Quan hệ sản xuất là
mặt thứ hai của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển
của lịch sử. Những quan hệ sản xuất lỗi thời lạc hậu được xoá bỏ và thay thế bằng
những kiểu sản xuất mới cao hơn trong thời kì tư bản chủ nghĩa. Trong thời kì này,
Mác nhận định rằng: “Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể tồn tại vĩnh
viễn , mà chỉ là sự quá độ tạm thời trong lịch sử. Quá trình phát sinh và phát triển
của phương thức sản xuất này. Nó không chỉ tạo ra tiền đề xã hội mà điều quan trọng
là đã tạo ra những tiền đề vật chất, kinh tế cho sự phủ định sự ra đời của phương
thức sản xuất mới” đã được trình bày trong tác phẩm “Chống Đuyrinh” của
F.Ănghen. Đó là một tất yếu khách quan theo đúng yêu cầu của quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Từ sự phân tích trên cho thấy lôgic tất yếu của sự thay thế phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời của phương thức sản xuất mới - Cộng sản chủ
nghĩa về mặt lý thuyết là phù hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử loài người.
Theo quan niệm của C.Mac giai đoạn này phải là một xã hội cộng sản chủ
nghĩa đã phát triển trên cơ sở chính nó. Do đó về mọi phương diện kinh tế, đạo đức,
tinh thần còn mang dấu vết của xã hội cũ. Trong giai đoạn này quyền lợi không bao
giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế
độ kinh tế đó quyết định , cho nên phân phối theo lao động là không tránh khỏi. Từ
những điểm này có thể thấy giai đoạn xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng kinh tế
chủ yếu sau: Tình độ xã hội hoá tuy có cao hơn chủ nghĩa tư bản song còn thấp hơn
so với giai đoạn cao của xã hội cộng sản. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất tồn tại
dưới hai hình thức chủ yếu: Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Lao động vừa là
quyền lợi vùa là nghĩa vụ, phân phối theo lao động còn mang dấu vết “pháp quyền
tư sản”. Kết thúc giai đoạn thấp, xã hội cộng sản bước lên giai đoạn cao, giai đoạn
mà sự phụ thuộc có tính chất nô dịch của họ vào sự phân công lao động không còn 10 lOMoAR cPSD|27879799
nữa, cùng với sự phụ thuộc đó sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay
không còn nữa , khi mà lao đông không những là phương tiện để sinh sống mà bản
thân nó còn là nhu cầu bậc nhất của sự sinh sống, khi mà cùng với sự phát triển toàn
diện của các cá nhân , năng xuất của họ cũng ngày một tăng lên và tất cả các nguồn
mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của các quyền tư sản.
Tóm lại mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
vạch ra quy luật khách quan của sự phát triển xã hội như một quá trình lịch sử tự
nhiên. Trong đó sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người ta có những quan
hệ nhất định, tất yếu không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ, tức những quan hệ sản
xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh
tế của xã hội tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng
tầng pháp lý và chính trị tương ứng với cơ sở thực tại đó có những hình thái ý thức
xã hội nhất định. Phương thức sản xuất chính trị và tinh thần nói chung. Không phải
ý thức con người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại chính sự tồn tại xã hội của họ
quyết định ý thức của họ. Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực
lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ gây mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện
có , hay đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước tới
nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của
lực lượng sản xuất, khi đó bắt đầu thời đại của cuộc cách mạng xã hội. 2.
Biểu hiện của mối quan hệ từ năm 1954 - 1975 ở Việt Nam.
Năm 1954 sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc, Đảng ta đã thực hiện chủ trương
đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Mặc dù chủ trương
đua đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội đã được xác định từ đầu thế kỷ XX, nhưng
đến thời gian này mới có điều kiện để đưa đất nước tiến lên theo con đường này. Tuy
nhiên sau một thời gian dài nước ta phải chịu ách thống trị của thực dân Pháp với
những chính sách thống trị “ngu dân” của chúng đã làm cho con người của đất nước
chúng ta kém phát triển và bị tụt hậu, điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến lực lượng sản lOMoAR cPSD|27879799
xuất, nó làm cho nền kinh tế nước ta bị tụt hậu rất nhiều năm so với thế giới bên
ngoài. Chúng ta đều biết rằng phương thức sản xuất là cách con người thực hiện quá
trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất là
sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, trong đó lực
lượng sản xuất là thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ lao
động) và những người sử dụng những tư liệu này để sản xuất ra của cải vật chất.
Trong lực lượng sản xuất yếu tố con người đóng vai trò chủ thể và quyết định. Con
người chẳng những là chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình lao động sản xuất bằng
sức mạnh cơ bắp, trí tuệ của mình, mà còn không ngừng sáng tạo ra những công cụ
lao động để sản xuất. Từ tình hình lực lượng sản xuất như vậy nên quan hệ sản xuất
trong thời kì này tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau đó là: Sở hữu cá nhân, sở
hữu tập thể và sở hữu tư bản tư nhân. Trong hoàn cảnh phương thức sản xuất diễn ra
như vậy nên Đảng ta đã chủ trương cải tạo: ở thành phố là công tư hợp doanh còn ở
nông thôn là cải cách ruộng đất.
Đảng ta đã quyết tâm đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ những
chủ trương đổi mới của Đảng ta mà đến năm 1960 quan hệ sản xuất đã có sự thay
đổi cơ bản từ hình thức sở hữu tư nhân đưa lên hình thức sở hữu tập thể, hình thức
sở hữu tập thể đưa lên hình thức quốc doanh, còn hình thức tư bản tư nhân thì vận
động lên hình thức công tư hợp doanh.
Những chủ trương trên đã được Đảng ta khẳng định trong đại hội Đảng III.
Mặc dù quan hệ sản xuất lúc này không còn được phù hợp chặt chẽ với lực lượng
sản xuất, nhưng trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh thì tài sản tập trung trong
tay nhà nước và quan hệ phân phối theo lao động lại là chính sách có hiệu quả để
thúc đẩy đất nước đi lên dành thắng lợi lịch sử mùa xuân năm 1975và thực hiện cải
cách miền Bắc thành công. 3.
Quá trình tồn tại và phát triển của mối quan hệ biện chứng
giữa lựclượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt nam từ năm 1975 đến trước 1986. 12 lOMoAR cPSD|27879799
Mùa xuân năm 1975 với chiến dịch Hồ chí minh lịch sử nước ta đã hoàn toàn
giải phóng. Đảng ta chủ trương đưa cả nước theo con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên do quá vội vã trong công cuộc đổi
mới đất nước nên Đảng ta đã mắc phải một số sai lầm. Những sai lầm lúc này là:
Duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chỉ tồn tại hai hình thức sở hữu là
tập thể và quốc doanh với cơ chế “xin cho, cấp phát”. Từ những sai lầm trên đã dẫn
đến những hậu quả về kinh tế xã hội: Các thành phần kinh tế kém phát triển và lâm
vào tình trạng khủng hoảng kinh tế những năm đầu thập kỷ 80. Điều đó cũng chứng
tỏ rằng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là không phù hợp.
Một mối quan hệ sản xuất tiến bộ không thể áp đặt cho một lực lượng sản xuất thấp
kém. Đó chính là bài học cho Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước. 4.
Sự biểu hiện của mối quan hệ từ năm 1986 đến nay
Đứng trước tình hình khó khăn và những sai lầm đã mắc phải trước đó, đại hội
đại biểu toàn quốc khóa VI của Đảng cộng sản Việt nam đã đưa ra đường lối đổi mới
đất nước. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức
cho đúng mục tiêu và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đó không
phải là những bước đi tất yếu, hợp quy luật. Từ đó Đảng cổng sản Việt Nam đã quy
định ra đường lối chuyển từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang xây dựng nền kinh
tế nhiều thành phần là phù hợp với đặc điểm phát triển của lực lượng sản xuất trong
điều kiện nước ta hiện nay. Nó cho phép khai thác tốt nhất các năng lực sản xuất
trong nước, thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nước với quốc tế và khu
vực, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng. Trong các thành phần kinh
tế, Đảng khẳng định kinh tế nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo. Những thành tựu đạt
được về mặt kinh tế trong những năm qua đã chứng minh điều đó.
Đại hội đại biểu toàn quốc khoá VIII của Đảng cộng sản Việt Nam nhận định:
“Nước ta chuyển thời kỳ phát triển mới, thời kỳ thúc đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước… Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng lOMoAR cPSD|27879799
nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất…”.
Đảng ta còn khẳng định: “Nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo nên lực
lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền hành hoá
nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp…”.
Nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần mà Đnảg ta chủ trương là nền kinh tế
phát triển theo định hươngs xã hội chủ nghĩa. Do đó phải chăm lo đổi mới và phát
triển kinh tế nông nghiệp và kinh tế hợp tác, làm cho nền kinh tế nông nghiệp thật sự
làm ăn có hiệu quả, phát huy vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã phấn đấu
dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. KẾT LUẬN
Đảng ta đã vận dụng sự phù hợp của mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay và tương lai.
Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định là:
“Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững
chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, văn minh”.
Chúng ta đều biết rằng từ trước tới nay công nghiệp hoá hiện đại hoá là khuynh
hướng tất yếu của tất cả các nước. Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông,
muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước
phát triển thì tất yếu cũng phải đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá như là: “Một
cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”.
Trước những năm tiến hành công cuộc đổi mới chúng ta đã xác định công
nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của các thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song
về mặt nhận thức chúng ta đã đặt công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở vị trí gần như 14 lOMoAR cPSD|27879799
đối lập hoàn toàn với công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa. Trong lựa chọn bước đi đã
có lúc chúng ta thiên về phát triển công nghiệp nặng, coi đó là giải pháp xây dựng cơ
sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, mà không coi trọng đúng mức việc phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Công nghiệp hoá cũng được hiểu một cách
đơn giản là quá trìng xây dựng một nền sản xuất được khí hoá trong tất cả các nghành kinh tế quốc dân.
Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự
về cônh nghiệp với việc tranh thủ các cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi
nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới. Mặt khác
chúng ta phải chú trọng xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo thị trường, có sự điều tiết của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời, chúng luôn tác động thúc đẩy hỗ trợ
lẫn nhau cùng phát triển . Bởi lẽ “Nếu công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo lên lực
lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp”.