Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội khoa học đề tài "Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và giáo dục sứ mệnh lịch sử của giai cấp công cho sinh viên đại học Trường Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM hiện nay"
Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội khoa học đề tài "Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và giáo dục sứ mệnh lịch sử của giai cấp công cho sinh viên đại học Trường Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM hiện nay" của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLCT120405)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD| 36443508
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và
giáo dục sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
cho sinh viên đại học Trường Sư phạm Kỹ
thuật TP.HCM hiện nay lOMoARcPSD| 36443508 MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................1
1.1 Lí do chọn đề tài......................................................................................................1
1.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................3
CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ GIAI
CẤP CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN.........4
2.1. Khái niệm giai cấp công nhân theo chủ nghĩa Mác - Lênin................................4
2.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân..........................................................................7
2.3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...............................................................9
2.3.1. Định nghĩa sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân ..........................................9
2.3.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.......................................11
2.3.3. Điều kiện cơ bản quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân..........14
2.3.3.1 Điều kiện khách quan..................................................................................14
2.3.3.2 Điều kiện chủ quan......................................................................................16
CHƯƠNG 3: GIÁO DỤC SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH......................................................................................................................19
3.1. Thực trạng lối sống của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM
......................................................................................................................................19
3.2. Nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng xấu ở sinh viên.................................24
3.3. Những giải pháp cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM 24 CHƯƠNG 4: KẾT
LUẬN..............................................................................................28 lOMoARcPSD| 36443508
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bộ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học được cho ra đời với mong muốn là nghiên
cứu và làm sáng tỏ được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hoàn thành
mục tiêu của mình. Ngoài ra, chủ nghĩa xã hội khoa học còn trình bày một
cách rõ ràng những luận điểm về xã hội về chính trị từ đó mà minh chứng
được sự thay thế trực tiếp của chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội. Bên
cạnh đó hình thái xã hội mang ý nghĩa lịch sử đã được chuyển biến vì vật mà
giai cấp công nhân chính là thành viên chủ chốt nắm vai trò vô cùng quan
trọng. Ngoài ra, chủ nghĩa xã hội khoa học đã chỉ ra sứ mệnh lịch sử vĩ đại
của giai cấp công nhân đó chính là họ là giai cấp duy nhất có thể kiểm soát,
lãnh đạo các tầng lớp lao động để giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột trong
công cuộc đấu tranh từ đó mà xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành
công cho xã hội chủ nghĩa
Đứng trước tình hình khủng bố của chủ nghĩa xã hội xảy ra ở Đông Âu và Liên
xô trong những năm 90, phần lớn con người bị bóc lột đã có ý thức về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân. Tuy nhiên sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội đã bị
các thees lực chống địch phủ nhận. Những điều vô căn cứ, những luận điệu
chống phá nhằm dao động lòng tin của nhân dân đối với Đảng đã được các thế
lực chống đối thực hiện diễn biến hòa bình trên phương diện tư tưởng văn hóa.
Chúng sử dụng các phương tiện truyền thông, các trang mạng xã hội để thực
hiện nhiều chiến dịch tuyên truyền, hòng làm lung lay lòng tin trong nhân dân,
bác bỏ sứ mệnh lịch sử và bản chất cách mạng thuộc về giai cấp công nhân của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong bối cảnh đó, việc làm sáng tỏ và nhận thức
một cách đúng đắn hơn về giai cấp công nhân, về vai trò sứ mệnh lịch sử của lOMoARcPSD| 36443508
giai cấp công nhân không chỉ có ý nghĩa lý luận sâu sắc, mà còn có ý nghĩa
thực tiễn hết sức to lớn.
Trong giai đoạn mới hiện nay, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang
diễn ra trên toàn thế giới, đang ở trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Xã hội loài người còn đang có
nhiều biến động, tiêu cực… thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân được đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương
diện lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ lí do trên, em đã chọn đề tài Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân và nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam làm
đề tài tiểu luận kết thúc học phần.
1.2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Mục đích:
Làm sáng tỏ khái niệm về giai cấp công nhân và nội dung sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhiệm vụ:
Làm rõ, khẳng định khái niệm về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân theo chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nhận định thực trạng việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay.
Xác định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, đặc biệt là trong thời kì đổi mới. lOMoARcPSD| 36443508
1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Phạm vi nghiên cứu: Trên toàn thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, trong
suốt công cuộc giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột, tiến lên
xây dựng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay. lOMoARcPSD| 36443508
CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
2.1. Khái niệm giai cấp công nhân theo chủ nghĩa Mác - Lênin
Việc nắm rõ khái niệm giai cấp công nhân là vô cùng quan trọng và thiết yếu
trong quá trình nghiên cứu cũng như hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Để đi sâu và tìm hiểu về chủ đề trên, chính C. Mác và Ph. Ăngghen đã đặt
vấn đề nghiên cứu rất khoa học ngay từ lúc bắt đầu rằng: “Vấn đề là ở chỗ tìm
hiểu xem giai cấp vô sản thực sự là gì, và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân
nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”. phải làm gì về mặt lịch sử”.
Vậy làm thế nào mà chúng ta có thể phân biệt được sự khác nhau giữa giai cấp
công nhân và giai cấp vô sản? Khi C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ “Lịch sử phát
triển giai cấp vô sản" thì đã loại bỏ những giai cấp vô sản nói chung ra, để cuối
cùng chỉ nói đến “những người vô sản đầu tiên xuất hiện trong công nghiệp và
trực tiếp do công nghiệp sản sinh ra". Theo đó, chúng ta chỉ cần quan tâm trước
tới những công nhân công nghiệp. Cái chính là “vô sản trong công nghiệp", do
nền đại công nghiệp sản sinh ra chứ không phải C. Mác hay Ph. Ăngghen nói
giai cấp vô sản chung bất kỳ. Nếu như nói giai cấp công nhân hiện đại theo cách
đặt vấn đề như trên thì có thể hoạch định rõ là chỉ bắt đầu sản sinh từ cuộc cách
mạng công nghiệp cơ khí hay là công nhân đại công nghiệp. Cả hai ông rất thận
trọng khi nói vô sản công nghiệp, tìm ra được sự khác nhau rất rõ với loại vô sản
lưu manh, các loại hình tầng lớp vô sản thành thị và nông thôn là những lực
lượng khác nhau về chất lượng. Điển hình, C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết: "còn
tầng lớp vô sản lưu manh, cái sản phẩm tiêu cực ấy của sự thối nát của những
tầng lớp thấp nhất trong xã hội cũ, có thể được cách mạng vô sản lôi cuốn vào
phong trào; những điều kiện sinh hoạt của họ lại khiến họ sẵn sàng bán mình lOMoAR cPSD| 36443508
cho phe phản động hơn". Bên cạnh đó, hai nhà triết gia nổi tiếng đã dùng vô vàn
thuật ngữ khác nhau để chỉ về người công nhân và giai cấp công nhân ví như
giai cấp vô sản; giai cấp lao động làm thuê ở thế kỉ XIX; giai cấp xã hội hoàn
toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động của mình, giai cấp vô sản hiện đại, giai
cấp công nhân hiện đại,... Mặc cho khái niệm giai cấp công nhân hay còn được
gọi là giai cấp vô sản có nhiều từ ngữ biểu đạt khác nhau như thế nào thì theo C.
Mác Ph. Ăngghen vẫn chỉ mang hai đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, giai cấp công nhân chính là sản phẩm và là chủ thể của nền sản xuất
đại công nghiệp và còn được cho rằng là những nhân tố lao động trực tiếp hay
gián tiếp trong quá trình vận hành các công cụ sản xuất mang nét tính chất công
nghiệp hiện đại ngày nay kèm theo đó là những đặc điểm vô cùng nổi bật ví dụ
như sản xuất bằng máy móc, lao động mang tính chất xã hội hóa, năng suất lao
động hiệu quả và tạo ra nhiều tiền đề của cải vật chất cho xã hội mới. Khi nói về
đến đặc điểm này, trong tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” hai nhà triết gia C. Mác
và Ph. Ăngghen luôn luôn làm nổi bật đến người công nhân công nghiệp trong
công xưởng, coi họ là bộ phận tiêu biểu, đặc trưng cho giai cấp công nhân hiện
đại: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại
công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của nền đại công nghiệp”;
“Công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy…
Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại”.
Thứ hai, khi nói đến phương diện chính trị - xã hội C. Mác và Ph. Ăngghen đã
trình bày một cách rõ ràng và rất khoa học, giai cấp công nhân được xem là giai
cấp của những người lao động không có sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội, phải bán sức lao động của mình cho nhà các tư bản và bị nhà tư bản bóc lột
về giá trị thặng dư. Toàn bộ trong số họ đều phải bán sức lao động của mình để
kiếm sống. Vì lẽ đó mà khiến cho công nhân bất đắc dĩ trở thành giai cấp đối lOMoAR cPSD| 36443508
kháng của giai cấp tư sản. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất xã hội hoá ngày
càng rộng lớn chính là mâu đơn thuần và cơ bản của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa ngoài ra đi kèm theo mối quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa
trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Cơ bản mâu thuẫn này
thể hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn về lợi ích của giai cấp công nhân và giai cấp
tư sản. “Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp
công nhân hiện đại – tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được
việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản
– cũng phát triển theo. Những công nhân ấy buộc phải tự bán mình để kiếm ăn
từng bữa một, là một hàng hoá, tức là một món hàng có thể đem bán như bất cứ
món hàng nào khác; vì thế họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi
sự lên xuống của thị trường”. Lý do cho đặc trưng thứ hai này nói lên một trong
những đặc điểm nổi bật cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa nên C. Mác và Ph. Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân (giai cấp vô sản). *Nhận xét:
Dựa vào bằng chứng đưa ra của hai đặc trưng cơ bản nói trên, có thể định nghĩa
đơn giản: Giai cấp công nhân là một loại giai cấp hình thành và phát triển cùng
với quá trình phát triển của nền công nghiệp ngày càng gắn hiện đại vào với lực
lượng sản xuất có tính chất xã hội ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản
tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, chủ yếu là sản xuất ra
của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng lãnh đạo và tổ chức
tiến trình lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân ở
các nước tư bản chủ nghĩa được hiểu là những người không có hoặc về cơ bản
không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị tư sản bóc lột
giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là những người đã cùng nhân
dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao lOMoARcPSD| 36443508
động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân
họ.Giai cấp của những người lao động không sở hữu tư liệu sản xuất chính là
đại diện chủ yếu của phương diện chính trị - xã hội khi được C. Mác và Ph.
Ăngghen chỉ rõ. Họ phải bán sức lao động của mình để kiếm sống. Chính điều
này khiến cho công nhân trở thành giai cấp đối kháng của giai cấp tư sản. Mâu
thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất xã hội hóa ngày càng rộng lớn với mối quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa.
Tiêu chí một đó là công nhân công xưởng, được coi là bộ phận tiêu biểu cho giai
cấp công nhân hiện đại là một trong hai tiêu chí mà C. Mác và Ph. Ăngghen nói
tới. Thêm vào đó, cả hai ông cũng đặc biệt nhấn mạnh trong tiêu chí thứ hai vì
lẽ đó mà khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư
sản. Tiêu chí này đã nói lên một trong những đặc trưng cơ bản nhất của giai cấp
công nhân dưới chế độ tu bản, do đó C. Mác và Ph. Ăngghen còn gọi giai cấp
công nhân là giai cấp vô sản.
2.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân
Đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam Với chính sách khai thác thuộc địa của
chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam đã ra đời
từ đầu thế kỷ XX, trước cả sự ra đời của giai cấp tư sản Việt Nam và là giai cấp
trực tiếp đối kháng với tư bản thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự thống trị của đế quốc Pháp, cho nên nó cũng
có địa vị kinh tế xã hội, có sứ mệnh lịch sử và những đặc điểm như giai cấp
công nhân quốc tế. Nhưng do sinh ra và lớn lên trong những điều kiện hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam nên ngoài những đặc điểm chung đó, giai cấp
công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng của mình. lOMoAR cPSD| 36443508
Giai cấp công nhân Việt Nam kế thừa đặc tính cần cù sáng tạo trong lao động
của dân tộc và truyền thống yêu nước do học sinh ra trong lòng một dân tộc có
truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. ở giai cấp công nhân, nỗi
nhục mất nước cộng với nỗi khổ vì bị áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc
làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp là một, khiến động cơ cách
mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân nhân lên gấp bội.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản, sớm tiếp thu được lý
luận chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng Sản lãnh đạo nên sớm giác ngộ về
sứ mệnh lịch sử của mình, họ đã nhanh chóng trở thành giai cấp duy nhất lãnh
đạo cách mạng nước ta và đồng thời cũng là chất xúc tác để nhân dân ta dễ tiếp
thu chủ nghĩa Mác Lênin và đi theo con đường cách mạng của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sau thời điểm chủ nghĩa cơ hội của Quốc
tế II bị phá sản, sau sự thành công cách mạng tháng Mười Nga và được Quốc
tế cộng sản chỉ đạo, do vậy giai cấp công nhân nước ta không bị ảnh hưởng các
khuynh hướng xã hội cải lương và thống nhất được lực lượng cả nước
Giai cấp công nhân phần lớn xuất thân từ nông dân lao động và những tầng lớp
lao động khác nên gắn bó mật thiết với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức,
hình thành khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức. Giai cấp công nhân Việt Nam gắn bó mật thiết với
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân quốc tế và đã nhận được sự giúp đỡ mọi
mặt của giai cấp công nhân quốc tế.
Giai cấp công nhân Việt Nam từ khi ra đời, nhất là từ khi có chính Đảng Của
mình đã trở thành lực lượng chính trị tiên phong đi đầu trong công cuộc đấu lOMoARcPSD| 36443508
tranh giành độc lập dân tộc và hoàn thành thắng lợi trọn vẹn cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc và đang tiến hành xây dựng Chủ nghĩa xã hội
Giai cấp công nhân là lao động bằng phương thức công nghiệp với đặc trưng
công cụ lao động là máy móc, tạo ra năng suất lao động cao, quá trình lao động
mang tính chất xã hội hoá cao.
Giai cấp công nhân là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể
của quá trình sản xuất vật chất hiện đại.
Tóm lại, giai cấp công nhân là đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại. Nền sản xuất đại công nghiệp
và phương thức sản xuất tiên tiến đã rèn luyện cho giai cấp công nhân những
phẩm chất đặc biệt về tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác và tâm
lý lao động công nghiệp. Đó là một giai cấp cách mạng có tinh thần cách mạng
triệt để. Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết để giai cấp
công nhân có vai trò lãnh đạo cách mạng
2.3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
2.3.1. Định nghĩa sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được giác ngộ từ khi Đảng Cộng
Sản Việt Nam ra đời. Giai cấp công nhân đại diện cho lực lượng chính trị đi
đầu tiên phong trong các cuôc khởi nghĩa đấu tranh giai phóng dân tộc cũng
như phong trào đấu tranh giải phóng giai cấp. Một lực lượng xã hội đủ lớn sẽ
bao gồm các nhân tố như người lao động trí óc hay thâm chí là người lao động
chân tay. Những người này sẽ làm công ăn lương trong cái loại hình kinh doanh
sản xuất cũng như dịch vụ công nghiệp hoặc có tính chất công nghệ hóa. Điều
trên đã được Đảng ta nhận định đúng đắn tại Đại hộ lần thứ Sáu của Ban chấp lOMoAR cPSD| 36443508
hành Trung ương khóa X. Ngày nay nền kinh tế thị trường đang bước vào giai
đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa. Bên cạnh đó xu hướng phát triển toàn cầu
hóa quốc tế nền kinh tế đã là biến đổi cơ cấu tổ chức giai cấp trong xã hội trọng
điểm chính là giai cấp công nhân. Trong thời kỳ đổi mới khi áp dụng các thành
tựu khoa học kỹ thuật công nghệ vào quá trình sản xuất thì giai cấp công nhân
có nhiều sự thay đổi mạnh mẽ sâu sắc. Có lẽ vì lí do đó mà đã ảnh hưởng đến
việc thực hiện tuân thủ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay. Theo
chủ nghĩa Mác – Lênin giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách
mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ nghĩa
tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột,
nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân bắt nguồn từ địa vị kinh tế - xã hội khách quan:
• Giai cấp công nhân ra đời và phát triển dưới chủ nghĩa tư bản, là bộ phận quan
trọng nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao.
• Giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất nên buộc bán sức lao động của
mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà
họ đã tạo ra trong thời gian lao động.
• Địa vị kinh tế xã hội giúp cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng
triệt để và có khả năng thực hiện sứ mệnh lịch sử, đó là khả năng đoàn kết toàn
thể giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc.
Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới thực chất là sự nghiệp của một giai cấp đại biểu
cho phương thức sản xuất tiên tiến, đại diện cho tiến bộ xã hội để xác lập mọt
hình thái kinh tế - xã họi mới thay thế cho hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời. lOMoARcPSD| 36443508
Như vậy, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là toàn bộ những nhiệm vụ
cơ bản, tất yếu của giai cấp công nhân mà địa vị kinh tế xã hội của nó trong chủ
nghĩa tư bản đã đòi hỏi, tạo điều kiện cho nó cần phải và có thể thực hiện nhằm
thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng và xác lập xã hội chủ nghĩa và ộng sản chủ nghĩa.
2.3.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực lượng đại
biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển
của phương thức sản xuất tương lai; do vậy, về mặt khách quan nó là giai cấp
có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản
chủ nghĩa, xóa bỏ mọi chế độ tư hữu, áp bức bóc lột và xây dựng thành công
xã hội mới - chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong tác phẩm Chống
Đuyrinh, khi nói về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, Ph.Ăngghen đã chỉ
rõ: “.phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra một lực lượng bị buộc phải
hoàn thành cuộc cách mạng ấy, nếu không thì sẽ bị diệt vong" và “Thực hiện
sự nghiệp giải phóng thể giới ấy, đỏ là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện
đại ". C.Mác và Ph.Ăngghen đã tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân, chỉ ra con đường và những biện pháp cần thiết để
giai cấp công nhân hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình. V.I.Lênin cho
rằng: “Điểm chủ yếu trong học thuyết Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch
sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội chủ nghĩa ". Theo quan
điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp và cần phải trải qua hai giai đoạn. lOMoAR cPSD| 36443508
Giai đoạn thứ nhất: giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, chiếm lấy chính quyền nhà nước.
Giai đoạn thứ hai: giai cấp vô sản dùng sự thống trị của mình để từng bước đoạt
lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tiến hành cách mạng xã hội trên
tất cả các lĩnh vực. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công
nhân phải tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân lao động, tiếp thu lý luận
khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin để thành lập nên chính đảng
tiên phong của mình và sẵn sàng đấu tranh khi có thời cơ cách mạng.
Hiện nay, những thành tựu khoa học – công nghệ ở các nước tư bản phát triển,
đặc biệt là từ nửa sau thế kỷ XX, giai cấp công nhân đã có nhưng biến đổi nhất
định về phương thức lao động và phương diện đời sống (tình trạng sở hữu, điều
kiện lao động, mức thu nhập, trình độ học vấn, trình độ tay nghề,..). Một bộ
phận giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa đã có một số tư liệu sản
xuất, đã góp cổ phần tại tại các xí nghiệp tư bản. Nhưng, thực tế với số tư liệu
sản xuất và lượng cổ phần của giai cấp công nhân chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với
tài sản "khổng lồ" của các nhà tư bản. Là một cổ đông nhỏ, giai cấp công nhân
không thể cùng với nhà tư bản phân chia quyền lực. Do đó, xét về cơ bản vẫn
không có tư liệu sản xuất, vẫn phải làm thuê cho nhà tư bản. Giai cấp công nhân
ở các nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành giai cấp cầm quyền và là chủ sở hữu
đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, thì khái niệm giai cấp vô sản
theo đúng nghĩa đen của từ đó cũng hoàn toàn không còn nữa. Tuy nhiên, giai
cấp công nhân ở các nước này vẫn là một bộ phận của giai cấp vô sản (giai cấp
công nhân) toàn thế giới.
Cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ, giai cấp công nhân có xu
hướng “trí thức hóa" ngày cảng tăng. Tuy nhiên, tất cả điều đó không hề làm lOMoAR cPSD| 36443508
thay đổi bản chất và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Giai cấp công vẫn
là giai cấp có sứ mệnh xóa bỏ tỉnh cảnh vô sản, trở thành giai cấp có địa vị làm
chủ để tiến tới “tự thủ tiêu" chính mình với tư cách là một giai cấp.
Để có một cái nhìn khách quan và khoa học, để có một sự nhận thức thống nhất
về khái niệm giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó, tất yếu phải trở về
với thế giới quan, phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Muốn nhận biết giai cấp cần phải dựa vào phương thức lao động của tập
đoàn người trong một hệ thống sản xuất nhất định. C.Mác và Ph.Ăngghen cho
rằng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân (cũng như giai cấp tư sản trước
kia) phụ thuộc vào tập đoàn người đó có đại diện cho một lực lượng tiến bộ
nhất của thời đại hay không. Đây cũng là tiêu chí, là cơ sở để phân biệt giai cấp
công nhân với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định
giai cấp tư sản đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trong cuộc đấu tranh
chống giai cấp địa chủ quý tộc. Thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản được thể
hiện bằng sự xóa bỏ phương thức sản xuất phong kiến và xác lập phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, sở dĩ giai cấp tư
sản có được sứ mệnh lịch sử nói trên vì giai cấp tư sản đã đại diện cho phương
thức sản xuất tiến bộ hơn phương thức sản xuất phong kiến, đại diện cho một
lực lượng sản xuất tiêu biểu hơn so với lực lượng sản xuất của xã hội phong kiến.
Hai ông còn khẳng định: khi đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa phát triển cùng
với sự lớn lên của giai cấp tư sản là một đội quân lớn mạnh của những người
vô sản (tức giai cấp vô sản). Giai cấp vô sản sinh ra trong nền đại công nghiệp,
lớn lên cùng nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa và là lực lượng trực tiếp sử lOMoARcPSD| 36443508
dụng công cụ sản xuất hiện đại, vận dụng các tri thức khoa học công nghệ của
xã hội hiện đại. Quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất nhanh chóng mâu thuẫn
với tính trì trệ bảo thủ của quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
2.3.3. Điều kiện cơ bản quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
2.3.3.1. Điều kiện khách quan
C. Mác và Ph. Ăngghen đã diễn đạt mạch lạc lý luận về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Những
điều kiện khách quan quyết định cũng như có quyền kiểm soát sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân đã được các ông chỉ ra trong tác phẩm nổi tiếng đó.
Với nguyên nhân khách quan là do phạm vi kinh tế - xã hội nên giai cấp công
nhân được hiểu là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất cấp cao dưới sự lãnh đạo
của chủ nghĩa tư bản. Thêm vào đó, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bị phá
vỡ bởi sự quyể định của lực lượng sản xuất với tính cách như trên. Sau khi
giành chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử, là
người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản
xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự tiên tiến nhất củ
Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, được rèn
luyện trong nền sản xuất công nghiệp tiến bộ, đoàn kết và tổ chức lại thành một
lực lượng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là
giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, và xét về bản chất họ là giai cấp
cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều
kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể tự giải phóng
bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc
cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và được cả thế giới về mình. lOMoAR cPSD| 36443508
Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến cho giai cấp công nhân trở
thành giai cấp cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng làm việc đó.
Đó là khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp, khả năng đạt tới sự giác ngộ về
địa vị lịch sử của khả năng hành động chính trị để từng bước đạt mục tiêu cách
mạng. Đó là khả năng đoàn kết các giai cấp khác trong cuộc đầu tranh chống
tư bản. Đó là khả năng đi đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể dân lao động
và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là khả năng đoàn
kết toàn thể giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên quy mô.
Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I.
Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình
không phải diễn ra một cách bằng phẳng, thuận buồm xuôi gió. Phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân tuy đang đứng trước những thử thách hết sức nặng
nề, nhưng xem xét toàn cảnh của sự phát triển xã hội, giai cấp công nhân, lực
lượng sản xuất tiến bộ vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan cho thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình dù có trải qua những bước thăng trầm, quanh
co, nhưng nó vẫn tiếp tục diễn ra theo quy luật khách quan của lịch sử. Đúng
là ở những nước tư bản phát triển, đời sống của một bộ phận không nhỏ trong
giai cấp công nhân đã được cải thiện, có thu nhập cao; một bộ phận công nhân
ở các nước trên đã có mức sống "trung lưu hóa", song điều đó không có nghĩa
là công nhân ở các nước ấy không còn bị bóc lột hoặc bị bóc lột không đáng
kể. Một thực tế đã, đang và còn tồn tại ngày càng sâu sắc ở các nước tư bản
phát triển, đó là sự bất công, bất bình đẳng và thu nhập càng cách xa giữa giai
cấp tư sản với giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Dù có cố gắng tìm
cách "thích nghi" và mọi biện pháp xoa dịu những giai cấp tư sản không thể
khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Thực tế, cuộc đấu lOMoARcPSD| 36443508
tranh của giai cấp công nhân vẫn diễn ra ở các nước tư bản chủ nghĩa dưới
nhiều hình thức phong phú, với những nội dung khác nhau.
2.3.3.2. Điều kiện chủ quan
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, song,
để biển khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân
tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra đảng cộng sản
trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là yếu tố quyết định
nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
- Bản thân giai cấp công nhân
Ngay từ khi mới hình thành trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bản thân giai cấp
công nhân đã không ngừng hoạt động và trưởng thành từng bước về số lượng
và chất lượng. Về số lượng chẳng những ngày càng tăng lên rất rõ rệt ở tất cả
các nước, kể cả trong "kinh tế tri thức" hiện nay, mà còn đa dạng hơn về cơ cấu
các loại công nhân với nhiều ngành nghề ngày càng phong phú, phát triển, tinh
vi hơn. Theo Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) thì: từ năm 1900, toàn thế giới
có 80 triệu công nhân; đến năm 1990, thế giới đã có hơn 600 triệu công nhân
và đến 1998 đã có 800 triệu công nhân.
Về chất lượng, bản thân giai cấp công nhân luôn có sự nâng cao về học vấn, về
khoa học công nghệ và tay nghề; từ hoạt động kinh tế, đấu tranh kinh tế trước
mắt, đã từng bước hoạt động chính trị, đấu tranh chính trị, thông qua các tổ
chức nghiệp đoàn, công đoàn, từng bước có ý thức giai cấp, giác ngộ giai cấp
và cao nhất là dẫn đến hình thành đảng tiên phong là đảng cộng sản. Khi đó,
theo chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp công nhân đã từ chỗ là "giai cấp tự nó" (tức lOMoAR cPSD| 36443508
là chưa có ý thức giác ngộ giai cấp) đến chỗ là "giai cấp vì nó" (tức giai cấp tự giác).
Vì thế, giai cấp công nhân trở thành cơ sở chính trị căn bản nhất của đảng cộng sản.
- Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển đảng của giai cấp công nhân
Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt tới trình độ tự giác bằng việc tiếp thu lý luận
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin thì phong trào cách mạng của
nó mới thật sự là một phong trào chính trị. Trình Độ lý luận đó cho phép giai
cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong xã hội, nguồn gốc
tạo nên sức mạnh và biết tạo nên sức mạnh đó bằng sự đoàn kết, nhận rõ mục
tiêu, con đường và những biện pháp giải phóng giai cấp mình, giải phóng cả xã
hội và giải phóng nhân loại. Phải có chủ nghĩa Mác soi sáng, giai cấp công nhân
mới đạt tới trình độ nhận thức lý luận về vai trò lịch sử của minh. Sự thâm nhập
của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân dẫn đến sự hình thành chính đảng
của giai cấp công nhân. V.I. Lênin chỉ ra rằng, đảng là sự kết hợp phong trào
công nhân với chủ nghĩa xã hội khoa học. Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp
ấy là sản phẩm của lịch sử lại được thực hiện bằng những con đường đặc biệt,
tùy theo điều kiện không gian và thời gian. ở nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc
địa, chủ nghĩa Mác thường kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước thành lập ra đảng cộng sản.
Từ thực tiễn lịch sử ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác
- Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới
việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930. Chỉ có đảng
cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát sang
đấu tranh tự giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp tự giác và thực lOMoARcPSD| 36443508
sự cách mạng. C. Mác đã nhấn mạnh rằng, trong cuộc đấu tranh của mình chống
lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp vô sản tự
mình tổ chức được thành một chính đảng độc lập của mình chống lại quyền lực
liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp vô sản tự mình tổ chức
được thành một đảng độc lập với tất cả mọi chính đảng cũ do giai cấp hữu sản
lập ra thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp được.
CHƯƠNG 3: GIÁO DỤC SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Thực trạng lối sống của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM
Việc xây dựng phong cách sống, lối sống văn hóa lành mạnh hiện đang là vấn
để được quan tâm trong trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ
nghĩa của nước ta hiện nay. Sinh viên là lớp thanh niên trí thức đại diện và
quyết định tương lai đất nước, chính vì thế việc bàn về lối sống của sinh viên
là một điều quan trọng và hết sức cần thiết. Nói đến sinh viên Việt Nam tức là
nói đến một thế hệ trẻ đầy sức sống và sức sáng tạo. Họ nắm trong tay tri thức
của thời đại, chìa khóa mở ra cánh cửa cho tiến bộ xã hội nói chung và sự phát
triển đất nước nói riêng. Về mặt số lượng, sinh viên là một lực lượng không
nhỏ. Về mặt chất lượng, sinh viên là lớp người trẻ được đào tạo toàn diện và
đầy đủ nhất, bao gồm các chuyên ngành học trên khắp các lĩnh vực tự nhiên,
xã hội, khoa học...chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: chuyên ngành theo học, sự
phân bố các trường, khu vực sinh sống và học tập..., lối sống của sinh viên Việt
Nam nhìn chung cực kỳ đa dạng và phong phú. Tuy nhiên ta có thể phân chia
lối sống của sinh viên theo hai hướng: tích cực và tiêu cực. Lối sống tích cực
là lối sống văn hóa, lành mạnh, phù hợp với sự phát triển xã hội, có tác dụng lOMoAR cPSD| 36443508
thúc đẩy sự hoàn thiện cá nhân nói riêng và thúc đẩy tiến bộ xã hội nói chung.
Lối sống tiêu cực, ngược lại,là lối sống không lành mạnh, có tác động xấu đến
sự phát triển con người nói riêng và kìm hãm sự đi lên của đất nước nói chung.
Trước hết chúng ta sẽ nói về những mặt tích cực trong lồi sống của sinh viên hiện nay:
Điểm nổi bật đầu tiên khi ta nghĩ về sinh viên, đó là những con người năng
động và sáng tạo. là những người tiên phong trong mọi công cuộc cải cách, đổi
mới về kinh tế, giáo dục...Trong đầu họ luôn đầy ắp các ý tưởng độc đáo và thú
vị; và họ tận dụng mọi cơ hội để biến các ý tưởng ấy thành hiện thực. .Đã có
nhiều sinh viên nhận được bằng phát minh , sáng chế; và không ít trong số
những phát minh ấy được áp dụng, được biến thành những sản phẩm hữu ích
trong thực tiễn. Trong học tập, sinh viên không ngừng tự đổi mới phương pháp
học sao cho lượng kiến thức họ thu được là tối đa (đọc sách, nghiên cứu, lấy
thông tin, tài liệu từ nhiều nguồn...). Phần lớn sinh viên đều có khả năng thích
nghi cao với mọi môi trường sinh sống và học tập. Họ không chỉ học tập trong
một phạm vi hẹp ở trường, lớp: giới trẻ ngày nay luôn phát huy tinh thần học
tập ở mọi nơi, mọi lúc. Không chi lĩnh hội tri thức của nhân loại, sinh viên Việt
Nam còn tiếp thu những cái hay, cái đẹp trong mọi lĩnh vực khác như văn hóa,
nghệ thuật... Sự năng động của sinh viên còn được thể hiện ở việc tích cực tham
gia các hoạt động xã hội như y tế, từ thiện...Ngoài giờ học, những sinh viên
tuyên truyền hiến máu nhân đạo lại ngược xuôi đi lại mang kiến thức về hiến
máu đến mọi người, mọi nhà... Bằng sự năng động, sinh viên luôn tự cập nhật
thông tin, kiến thức, làm mới mình phù hợp với sự thay đổi và phát triển của xã hội. lOMoAR cPSD| 36443508
Thứ hai, sinh viên Việt Nam là những con người táo bạo và tự tin. Sinh viên
dám nghĩ , dám làm, dám chịu thử thách. Các ý tưởng độc đáo không chỉ nằm
trong suy nghĩ mà luôn được thử nghiệm trong thực tế. Có thể thành công hoặc
thất bại, song họ không hề chùn bước. Với họ, mỗi lần thất bại lại làm họ tự tin
hơn với nhiều kinh nghiệm hơn. Tự tin nhưng không kiêu- đó chính là sinh viên
Việt Nam. Khi quyết định một điều gì, sinh viên không bao giờ quên tham khảo
ý kiến của những người xung quanh. Và khi đã nhận được sự ủng hộ, học thêm
tự tin thực hiện ý định của mình. Táo bạo bạo, nghĩa là trước đó chưa có ai dám
làm, dám thử nghiệm, họ là người đầu tiên thực hiện, chứ không phải họ đâm
đầu thực hiện một việc mà họ không biết tỷ lệ thành công của mình. Và quan
trọng là họ dám nhìn thẳng vào thất bại và vượt qua nó. Thứ ba, phong cách
độc lập trong cuộc sống cũng như trong học tập cũng góp phần xây dựng một
hình tượng đẹp về sinh viên Việt Nam. Sinh viên ngày nay đã biết thân tự lập
thân, không chỉ riêng việc học tập, mà mọi vấn đề khác trong cuộc sống đều
được sinh viên giải quyết trong sự chủ động. Ngoài giờ học, họ tìm việc làm
kiếm thêm tiền mua sách vở hay phục vụ cho những chi tiêu thường ngày khác.
Nhiều người không chi lo được cho bản thân mà còn có thể giúp đỡ những
người bạn khác thiệt thòi hơn mình, hay giúp đỡ gia đình ngay cả khi họ vẫn
còn ngồi trong giảng đường đại học.
Ngoài ra, sinh viên Việt Nam còn được thừa hưởng một truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, đó là truyền thống hiếu học. Sinh viên Việt Nam mọi thời đại luôn
ham học, ham hiểu biết. Họ khao khát tìm tòi, khám phá chân trời tri thức. Họ
say mê với những điều mới lạ. Ham học, ham hiểu biết chính là động lực cho
việc lĩnh hội tri thức của sinh viên.
Thêm vào đó, siêng năng cần cù, chịu thương chịu khó của sinh viên Việt Nam
cũng là một đức tính cần được nói đến. Bạn bè quốc tế luôn nói về đức tính lOMoAR cPSD| 36443508
siêng năng cần cù của sinh viên Việt Nam với sự khen ngợi và khâm phục chân
thành. Với bạn bè thế giới họ luôn thân thiện, chân thành, cởi mở với tinh thần
quốc tế trong sáng. Đức tính ấy cũng bắt nguồn từ truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, ngày càng được giữ vững và phát huy bởi thanh niên Việt Nam.
Một biểu hiện tích cực nữa trong lối sống của sinh viên Việt Nam là phong cách
tự khẳng định mình. Phải thực sự có tri thức và đủ tự tin thì mới dám tự khẳng
định mình. Sánh ngang vai cùng các tầng giới khác, sinh viên Việt Nam luôn
tạo ra được thế đứng cho mình. Dù trong bất cứ lĩnh vực nào sinh viên cũng tự
tin vào tiếng nói của mình. Họ đã chứng minh cho chúng ta thấy được sức mạnh
của họ, vai trò to lớn của họ trong công cuộc xây dựng đất nước và phát triển
xã hội. Bên cạnh những mặt đạt được thì sinh viên hiện nay vẫn còn tồn tại
những hạn chế cần phải khắc phục.
Nét tiêu cực lớn nhất, đáng báo động nhất trong giới sinh viên hiện nay chính
là về vấn đề tư tưởng. Có thể nói chưa bao giờ sinh viên Việt Nam lại sống
thiếu lý tưởng như hiện nay. Nếu như ngày trước lý tưởng xã hội chủ nghĩa
luôn sục sôi trong mỗi thanh niên Việt Nam, thì ngày nay để tìm được một sinh
viên như thế quả là không dễ. Thậm chí có những người không hiểu lý tưởng
ấy là gì ! Họ sống và học tập chỉ để đạt được mục đích cá nhân nào đó. Hoặc
thậm chí có người chẳng có mục đích gì. Sống thiếu niềm tin, mục đích là một
điểm yếu của giới trẻ ngày nay.
Hiện nay có một bộ phận không nhỏ sinh viên phai nhạt lý tưởng sống, không
có định hướng rõ ràng trong học tập, có suy nghĩ tiêu cực về cuộc sống và xã
hội. Họ sống hờ hững với những gì diễn ra xung quanh, sông theo quan niệm :
“được đến đầu thì hay đến đó", "nước đến chân mới nhảy"; sống theo chủ nghĩa lOMoAR cPSD| 36443508
cá nhân, dễ bị cám dỗ bởi vật chất, vô kỷ luật, mất trật tự vệ sinh, đua đòi, chạy
theo lối sống tiêu dùng, có những biểu hiện coi nhẹ những giá trị truyền thống…
Điểm tiêu cực tiếp theo là việc nhìn nhận một cách sai lầm về giá trị cuộc sống.
Đó là hiện tượng sùng bái giá trị vật chất. Nhiều thanh niên lấy đồng tiền làm
thước đo giá trị trong cuộc sống. Chủ nghĩa cá nhân có xu hướng tăng trong
giới trẻ ngày nay. Nhiều người chi quan tâm tới những lợi ích cá nhân trước
mắt mà quên mất lợi ích tập thể, thậm chí chà đạp lên lợi ích của người khác.
Vì đồng tiền, vì lợi ích cá nhân, một số thanh niên còn bất chấp tất cả: luật
pháp, gia đình, bạn bè... Lối sống thực dụng trong sinh viên bắt nguồn từ cuộc
sống gắn với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Sùng bái đồng tiền, làm
tất cả để đạt được mục đích của mình bất chấp thủ đoạn; coi những vấn đề tiêu
cực nảy sinh trong cuộc sống là tất yêu không những không thể thiếu mà còn
rất quan trọng và hữu ích trong việc đạt mục đích cá nhân. Cái nhìn thực tế
không ảo tưởng viển vông, không mơ mộng hóa sự việc là điều tốt, song tới
mức thực dụng thì lại là chuyện khác.
Một điểm nữa rất phổ biến trong lối sống của sinh viên là việc dễ dàng sa vào
tệ nạn xã hội (hút sách, nghiện game, trộm cướp,cờ bạc, ...), ăn chơi sa đọa, hay
việc thờ ơ trước những vấn đề nhức nhối trong xã hội, gian lận trong thi
cử...Đây chính là điều kiện thuận lợi để các đối tượng xấu có thể mua chuộc,
lợi dụng sự thiếu hiểu biết đó để tuyên truyền những luận điệu xuyên tạc, thực
hiện diễn biến hòa bình.
Một vấn đề đang được quan tâm hiện nay đó là sống thử trong sinh viên. Nhiều
sinh viên hiện nay quan niệm tình yêu quá đơn giản. Nhiều người trong số họ
quan hệ với bạn trai, bạn gái mà không biết rõ quá khứ của nhau. Học thức cao
nhưng không ít đôi thiếu nghiêm trọng những kiến thức sinh sản, giới tính. Hậu lOMoARcPSD| 36443508
quả là tình trạng nạo phá thai ở Việt Nam đứng hàng cao nhất thế giới. Bên
cạnh đó còn kéo theo những bệnh lấy truyền qua đường tình dục mà nguy hiểm
nhất là căn bệnh thế kỷ HIV-AIDS.
3.2. Nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng xấu ở sinh viên
Giới trẻ thiếu sự tự tu dưỡng rèn luyện bản thân, không vững vàng tư tưởng chính trị.
Do sự giáo dục và tuyên truyền sâu rộng về đạo đức trong nhà trường - hiểu
biết của giới trẻ về các giá trị đạo đức không được đẩy đủ thậm chí bị hiểu sai.
Tình trạng giáo dục trong gia đình bị buông lỏng, được nuông chiều quá mức,
sống trong gia đình không hoàn thiện, bị sự thờ ơ thiếu quan tâm...
Mặt trái của nền kinh tế thị trường làm đảo lộn các giá trị đạo đức, lối sống...tác
động đến tâm tư, tình cảm, niềm tin vào XHCN của sinh viên hiện nay.
Các thế lực thù địch thực hiện diễn biến hòa bình, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng,
văn hóa. Một bộ phận sinh viên do nhận thức hạn chế đã chịu sự tác động ở
những mức độ nhất định của những luận điệu chống phá nói trên.
3.3. Những giải pháp cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM
* Giáo dục kiến thức chuyên môn, kỹ năng tay nghề
Một trong những hạn chế cần khắc phục của công nhân ngành kỹ thuật
riêng hay công nhân các ngành nói chung là trình độ lao động. Nếu trước kia,
lao động đông, trình độ thấp, giá rẻ là lợi thế thì hiện nay dưới sự tác động của
khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ 4.0 thì đây là một trong những hạn
chế của công nhân Việt Nam. Ngành kỹ thuật cần phải có chiến lược dài hạn lOMoAR cPSD| 36443508
để phát triển nguồn nhân lực nhằm tăng cường sức mạnh cạnh tranh và hội nhập
sâu rộng vào kinh tế toàn cầu.
Là trường đại học chuyên biệt về đào tạo các ngành kỹ thuật, để đáp ứng
yêu cầu của thực tiễn, mục tiêu đào tạo của nhà trường nâng cao chất lượng đào
tạo nhằm tạo ra các thế hệ sinh viên ra trường đáp ứng tốt các yêu cầu về trình
độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề với các vị trí việc làm theo yêu cầu của doanh
nghiệp. Nhà trường tiếp tục hoàn thiện các chương trình đào tạo, đổi mới hình
thức, phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Bên cạnh đó
phối hợp tốt với các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho sinh viên tiếp cận sâu vào
thực tiễn hoạt động nghề nghiệp trong tương lai, với các vị trí việc làm khác
nhau. Từ đó giúp sinh viên bước đầu có kiến thức thực tiễn về máy móc thiết
bị khoa học công nghệ trong sản xuất ngành may; quy trình công đoạn sản xuất,
tác phong lao động, môi trường làm việc. Đẩy mạnh hoạt động đào tạo theo
định hướng ứng dụng, không ngừng đổi mới chương trình, nội dung, hình thức,
phương pháp đào tạo sẽ thực hiện được mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo
của nhà trường nói riêng, nâng cao chất lượng của giai cấp công nhân công
nhân Việt Nam. Sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM trong
tương lai sẽ góp phần thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
* Giáo dục kỹ năng mềm
Bên cạnh nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề, trong quá trình
đào tạo cần khuyến khích sinh viên tự học hỏi rèn luyện kỹ năng mềm. Tích
cực học thêm ngoại ngữ, tin học, các khóa đào tạo chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp ngắn hạn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc. Tìm hiểu và
tiếp cận công nghệ, khoa học kỹ thuật mới trên thế giới để có thể điều khiển, lOMoAR cPSD| 36443508
vận hành, tương tác, làm việc hiệu quả trên các thiết bị công nghệ hiện đại,
thích ứng với sự phát triển của khoa học công nghệ, cách mạng 4.0.
Thông qua quá trình lên lớp, bằng các phương pháp dạy học tích cực, bằng
các ví dụ thực tiễn sinh động giảng viên rèn luyện cho sinh viên các kỹ năng
mềm: thuyết trình, giao tiếp, giải quyết vấn đề, phản biện…
Làm việc nhóm và làm việc độc lập là yêu cầu quan trọng của người lao
động trong môi trường làm việc hiện đại. Cho nên, cần rèn luyện hình thành
cho sinh viên thực hiện tốt hai kỹ năng quan trọng này. Hướng dẫn sinh viên
làm việc nhóm: Biết lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch làm việc nhóm
(phân công nhiệm vụ, kiểm soát quá trình thực hiện nhiệm vụ của các thành
viên, trao đổi , tranh luận… Bên cạnh đó, rèn luyện sinh viên khả năng làm
việc độc lập như: khả năng xắp xếp công việc khoa học, hợp lý, khả năng lập
kế hoạch và tuân thủ kế hoạch, chủ động, tự giác thực hiện công việc của bản thân.
* Giáo dục ý thức, tác phong, đạo đức nghề nghiệp
Ý thức tác phong đạo đức nghề nghiệp là một trong những tiêu chí quan
trọng tuyển dụng lao động. Giáo dục ý thức, tác phong, đạo đức nghề nghiệp là
vấn đề cần thiết trong đào tạo nguồn nhân lực hiện nay. Đối với sinh viên trường
Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, trong quá trình giảng dạy giảng viên cần
giúp sinh viên nhận đúng đắn về nghề nghiệp và vị trí việc làm của bản thân
trong tương lai. Từ đó, từng bước hình thành cho sinh viên lòng yêu nghề, gắn
bó với nghề mình lựa chọn học tập.
Tác phong lao động là một trong những hạn chế của người lao động Việt
Nam. Do ảnh hưởng từ thói quen, phong tục tập quán, nên số đông người lao lOMoARcPSD| 36443508
động Việt Nam chưa có tác phong lao động chuyên nghiệp, chưa đem lại sự hài
lòng cho người sử dụng lao động đặc biệt là đối với các công ty có vốn đầu tư
nước ngoài. Chính vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục
của nhà trường là đào tạo sinh viên có ý thức, có tác phong làm việc chuyên
nghiệp như: chuyên nghiệp trong cách ăn mặc và giao tiếp, không ngừng học
hỏi và trau dồi kỹ năng, kiến thức chuyên môn, tham gia vào cuộc đối thoại,
thể hiện sự linh hoạt, có thái độ coi trọng thời gian, tuân thủ giờ giấc làm việc
theo đúng quy định, thực hiện công việc đúng kế hoạch và mục tiêu rõ ràng….
Thông qua đợt sinh hoạt chính trị đầu khóa, nội dung các học phần chủ
nghĩa Mác – Lênin, sinh hoạt lớp, sinh hoạt chi đoàn… giáo dục rèn luyện bản
lĩnh chính trị, lập trường giai cấp, cảnh giác trước các âm mưu luận điệu xuyên
tạc của kẻ thù, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và nhà
nước. Sinh viên thấy được vai trò trách nhiệm của bản thân đối với sự phát triển
của quốc gia dân tộc để không ngừng phấn đấu học tập nâng cao trình độ chuyên
môn, kỹ năng tay nghề, kỹ năng mềm, ý thức tác phong đạo đức nghề nghiệp.
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN
Tóm lại, từ các phân tích trên về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cả về
lý luận lẫn thực tiễn đã khẳng định tính khách quan của sứ mệh lịch sử của giai
cấp công nhân, đúng như lời của C.Mác nói. Hiểu được rõ về giai cấp công
nhân, đặc biệt là hiểu được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một vấn
đề hết sức quan trọng trong nhận thức của mỗi chúng ta, giúp ta có những nhận
thức đúng đắn đối với các giai cấp trong xã hội nói chung và giai cấp công nhân
nói riêng. Qua đó, mỗi cá nhân trong xã hội cần không ngừng nâng cao ý thức
trách nhiệm về giai cấp, về nhận thức xã hội để nâng cao tri thức văn hóa của
mình. Trước những đòi hỏi mới của công cuộc đổi mới hiện nay, để đảm bảo
thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta luôn lOMoARcPSD| 36443508
đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa bản chất giai cấp công nhân thì mới đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Cùng với việc đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam sẽ tăng
nhanh về số lượng. Việc tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, giáo dục đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai
cấp công nhân là một yêu cầu cấp thiết cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Với những sự nỗ lực hết mình của từng thành viên trong nhóm cùng với sự giúp
đỡ tận tình của giáo viên khi bắt đầu xuất phát từ việc tìm hiểu những khái niệm
quan niệm tư tưởng cho đến mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội cũng như sự tác động của mối quan hệ ấy đến với cuộc sống. Qua
những kết quả phân tích đề tài ở trên, cả nhóm rất mong không ít thì nhiều sẽ
đóng góp một phần trong việc cải thiện sự phát triển của xã hội và đất nước.
Trong quá trình nghiên cứu và tích lũy thông tin bài tiểu luận, nếu còn những
chỗ còn sai sót, cả nhóm hy vọng nhận được sự góp ý để được hoàn thiện hơn. lOMoARcPSD| 36443508
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học (Dành
cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021 2.
TS. Lê Thị Chiên, 2021, Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và ý nghĩa thời đại, truy cập ngày
12/12/2021,http://congdoan.quangtri.gov.vn/Tuyen-truyen-giao-duc/su-
menhlich-su-cua-giai-cap-cong-nhan-trong-tuyen-ngon-cua-dang-cong-san- va-ynghia-thoi-dai- 2403.html 3.
C.Mác-Ph.Ăngghen, C.Mác-Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995 4.
Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam và Vai trò của Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2021, truy cập ngày 16/12/2021, từ https://lytuong.net/dac-
diem-cua-giai- cap-cong-nhan-viet-nam/ 5.
TS. Phạm Văn Giang, 2021, Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
và bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập ngày
12/12/2021, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien- dan/item/3462-
sumenh-lich-su-cua-giai-cap-cong-nhan-va-ban-chat-giai-cap-cong-nhan-
cuadang-cong-san-viet-nam.html 6.
TS. Bùi Kim Hậu (Chủ biên), PGS.TS Nguyễn Thọ Khang, TS.
Nghiêm Sỹ Liêm & PGS.TS Đỗ Công Tuấn, Giáo trình Học thuyết sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2014 7.
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình chủ nghĩa xã hội
khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010 8.
PGS.TS Dương Xuân Ngọc, Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà lOMoAR cPSD| 36443508 Nội, 2004 9.
PGS.TS Nguyễn An Ninh, 2019, Thực hiện nội dung sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, truy cập ngày
12/12/2021, https://bit.ly/3u4sv4Y