Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội khoa học đề tài "Vận dụng lý luận Mác - Lenin trong xây dựng nhà nước Xã hội chủ nghĩa hiện nay"

Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội khoa học đề tài "Vận dụng lý luận Mác - Lenin trong xây dựng nhà nước Xã hội chủ nghĩa hiện nay" của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

 

lOMoARcPSD|36443508
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TPHCM
KHOA: CHÍNH TR- PHÁP LUẬT
------oOo-----
TIỂU LUẬN
Đề tài: VẬN DỤNG LÝ LUẬN MÁC-LÊNIN TRONG
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HIỆN NAY
MỤC LỤC
A. Mở đầu..........................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài:........................................................................3
2. Mục tiêu nghiên cứu:...................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu:...........................................................3
B. Nội dung...........................................................................................4
1. Chương 1: Lý luận chủ nghĩa Marx–Lenin về nhà nước xã hội
chủ nghĩa............................................................................................................
..........................................................................................................................4
1.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ
nghĩa..............................4
lOMoARcPSD|36443508
1.2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.............................4
1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa..........................5
1.3.1. Chức năng đối nội:...............................................................5
1.3.2. Chức năng đối ngoại.............................................................7
1.4. Tiểu kết..................................................................................7
2. Chương 2: Liên hệ thực tiễn về xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...............................................................8
2.1. Nhà nước pháp quyền............................................................8
2.1.1. Nhà nước pháp quyền.........................................................8
2.1.2. Thực trạng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay......................................................................................13
2.2. Liên hệ thực tiễn..................................................................19
2.2.1. Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu lực và hiệu quả
hoạt động
của bộ máy nhà nước.................................................................................19
2.2.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật.......................19
2.2.3. Thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống
xã hội..20
2.2.4. Tăng cƣờng công tác đấu tranh phòng và chống
tham
nhũng..........................................................................................................21
2.2.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đáp
ứng yêucầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa......................................21
2.3. Tiểu kết:..................................................................................22
3. Kết luận.........................................................................................22
4. Tài liệu tham khảo........................................................................23
A. Mở đầu.
1. Lý do chọn đề tài:
tưởng về nhà nước một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống
luận của V.I.Lê-nin, bởi không thuần y những thuyết khoa học gắn
bó chặt chẽ với quan điểm chính trị; nó không đơn giản những suy tinh thần
mà gắn liền với những hoạt động thực tiễn sinh động của ông.
Trong học thuyết Mác - Lênin, luận về nhà nước một vị trí rất quan
trọng. Nhiều luận điểm của các ông cho đến nay còn nguyên giá trị, trở thành
những chỉ dẫn khoa học cách mạng cho các Đảng cộng sản khi giành được chính
quyền bắt tay vào xây dựng nhà nước kiểu mới, trong sạch vững mạnh của mình.
lOMoARcPSD|36443508
Tuy nhiên, Chủ nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam
một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong
phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải sự nghiên cứu
rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học. một s
luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng cần được tiếp tục nghiên cứu làm sáng
tỏ để bổ sung, phát triển cho phù hợp với bối cảnh mới hiện nay. Đây cũng chính
phương pháp luận khoa học mà các nhà kinh điển luôn đòi hỏi hậu thế phải quán
triệt để vận dụng một cách sáng tạo và phù hợp vào điều kiện cụ thể của mỗi nước
khi xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chính vậy, m hiểu những tưởng của V.I.Lênin về nhà nước ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với chúng ta trong quá trình xây dựng hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Làm sáng tỏ về mặt lý luận nguồn gốc, đặc trưng, bản chất của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Thực trạng vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị giải pháp
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận: sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác-Lênin.
Sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận, chủ nghĩa của chủ tịch HCM:
tính Đảng, tính khoa học; tính lịch sử cụ thể; tính toàn diện nhưng trọng m,
trọng điểm; kế thừa và phát triển.
Phương pháp khoa học: sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp; đối chiếu
lịch sử (VD: nghiên cứu về người bạn, người đồng chí đã đồng hành với Hồ C
Minh, kể chuyện Hồ CMinh viết về Hồ Chí Minh; nghiên cứu về gia đình,
quê hương, những nơi mà Người đã sống và hoạt động;...).
B. Nội dung. 1. Chương 1: Lý luận chủ nghĩa Marx–Lenin về nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
1.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bắt đầu từ những mong muốn thoát khỏi áp bức bóc lột, bất công của nhân
dân lao động, đó mong muốn có được một xã hội dân chủ, công bằng, những giá
trị của con người được tôn trọng, được bảo vệ thể được điều kiện để
thể phát triển tự do các năng lực của mình.
Nhà nước hội chủ nghĩa được ra đời kết quả của của các cuộc cách
mạng do giai cấp vô sản và giai cấp lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
lOMoARcPSD|36443508
Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất bản tư nhân về tư liệu sản xuất với tính
chất xã hội hóa được hình thành khi xã hội tư bản chủ nghĩa xuất hiện, mâu thuẫn
ngày càng trở nên gay gắt dẫn đến các cuộc khủng hoảng kinh tế hình thành nên
mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản từ đó xuất hiện các cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản. Trong các cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, Đảng
Cộng sản được thành lập để lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng và trở thành
yếu tố chủ chốt quyết định thắng lợi của cách mạng. Với cách kết hợp giữ các yếu
tố dân tộc, thời đại áp dụng các cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về tổ
chức, tiến hành cách mạng, xây dựng nhà nước hội chủ nghĩa cùng với mâu
thuẫn gay gắt của giai cấp vô sản giai cấp bản đã tác động mạnh mẽ đến
các phong trào cách mạng của những nước chế độ bản chủ nghĩa phát triển
cao và các nước dân tộc thuộc địa.
Tùy vào đặc điểm của từng quốc gia, sự ra đời của nhà nước hội chủ
nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền sau cách mạng có những đặc điểm, hình
thức phương pháp khác nhau. Tuy nhiên vẫn những điểm chung Đảng
Cộng sản tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, là cơ quan thể hiện ý chí của
nhân dân, thực hiện quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân.
Như vậy, “Nhà nước hội chủ nghĩa nhà nước đó, sự thống trị
chính trị thuộc về giai cấp công nhân, do cách mng xã hội chủ nghĩa sinh ra và
sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị
làm chủ trên tất cả các mặt trong đời sống xã hội phát triển cao – hội xã hội chủ
nghĩa”.
1.2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhà ớc hội chủ nghĩa kiểu nhà ớc mới xuất hiện, bản chất khác
so với các kiểu nhà ớc trước đó trong lịch sử, có tính ưu việt hơn về nhiều mặt
hơn so với các kiểu nhà nước cũ trước đó trong lịch sử. Tính ưu việt của nhà nước
xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua các phương diện sau:
Về chính trị: Nhà ớc hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân,
giai cấp lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân dân lao
động. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa giai cấp vô sản là lực lượng giữ địa vị
thống trị về chính trị. Khác với sự thống trị của các giai cấp bóc lột trước
đây. Sự thống trị của giai cấp bóc lột sự thống trị của thiểu số với tất cả
các giai cấp nhằm mục đích bảo vệ duy trì vị thế của minh. Còn về giai
cấp sản sự thống trị của đa số nhằm giải phóng giai cấp của mình
nhằm giải phóng các tầng lớp lao động trong xã hội.
Về kinh tế: Nhà nước hội chủ nghĩa chịu sự quy định chế độ sở hữu
hội về liệu sản xuất chủ yếu nên không còn tồn tại quan hệ sản xuất
bóc lột. Sự khác nhau của các nhà nước bóc lột khác trong lịch sử nhà
nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước bóc lột bộ máy nhà nước của một bộ
phận thiểu số, của những kẻ bóc lột nhằm trấn áp đa số nhằm giữ vững
quyền lực trong khi đó nhà nướchội chủ nghĩa vừa là một bộ máy chính
lOMoARcPSD|36443508
trị - hành chính, một cơ quan ỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế
- xã hội của nhân dân, nó không còn là nhà nước đúng nghĩa mà chỉ còn
“nửa nhà nước”. Mục tiêu hàng đầu chăm lo cho nhân dân. Chủ nghĩa xã
hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu về tư
liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân sở hữu tập thể. Chế độ shữu
này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với tính chất trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển, xóa bdần những mâu thuẫn đối kháng trong hội, làm cho mọi
thành viên trong hội ngày càng gắn với nhau những lợi ích căn bản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo quyền bình đẳng trong lao động, sáng
tạo. Mỗi người lao động được hưởng thù lao theo giá trị cho hội mình
tạo ra. Đó là một trong những cơ sở của công bằng xã hội ở giai đoạn hiện
nay.
Về văn hóa - hội: nhà nước hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền
tảng tinh thần luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và những giá trị n hóa
tiên tiến, tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang những bản sắc riêng của
dân tộc. Sự phân hóa giai cấp tầng lớp từng bước được thu hẹp, c giai
cấp, tầng lớp bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội để phát
triển.
1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
1.3.1. Chức năng đối nội:
Chức năng bảo vệ chế độ hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
Đây là một trong những chức năng căn bản nhất của nhà nước ta. Muốn tiến
hành sự nghiệp đổi mới thuận lợi, Nhà nước ta phải đảm bảo an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội trên toàn bộ đất ớc. Nhà nước phải có đủ sức mạnh và kịp thời
đập tan mọi âm mưu chống đối của các thế lực thù địch, đảm bảo điều kiện ổn định
cho Nhân dân sản xuất kinh doanh.
Chức năng bảo vệ quyền tự do, dân chủ của Nhân dân.
Đây một trong những chức năng của Nhà nước hội chủ nghĩa Việt
Nam quan trọng; bởi vì, việc thực hiện chức năng y thể hiện trực tiếp bản chất
của nhà nước kiểu mới, nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đồng
thời, việc thực hiện chức năng này sẽ đảm bảo sức mạnh của Nhà nước trong việc
thực hiện tất cả các chức năng khác của Nhà nước, quan hệ đến sự tồn tại, phát
triển của bản thân Nhà nước và chế độ.
Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế hội chủ
nghĩa.
Đây là chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa quan trọng, liên
quan trực tiếp đến việc thực hiện tất cả các chức năng khác của Nhà nước. Pháp
luật phương tiện quan trọng để Nhà nước tổ chức thực hiện hiệu quả tất cả
các chức năng của mình, do đó, bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế
lOMoARcPSD|36443508
hội chủ nghĩa là hoạt động thường xuyên, có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng
cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Mục đích của chức năng này là nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành
một cách nghiêm chỉnh thống nhất, thực hiện quản trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội bằng pháp luật.
Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế.
Tổ chức quản nền kinh tế đất nước, xét đến cùng chức năng hàng
đầu bản nhất của Nhà ớc Cộng hòa hội chủ nghĩa nhằm xây dựng
mọi xã hội dựa trên cơ sở vật chất và kỹ thuật phát triển cao.
Nhà nước ta là người đại diện cho ý chí, quyền lực của Nhân dân lao động,
người chủ sở hữu đối với các liệu sản xuất chủ yếu; người nắm trong tay
các công cụ, phương tiện quản lý (chính sách, kế hoạch, pháp luật, tài chính, ngân
hàng…) và quản việc sử dụng tài sản quốc gia. Trên cơ sở đó, Nhà nước đủ
điều kiện để tổ chức quản sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế trong nước
cũng như hợp tác quốc tế.
Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục.
Xã hội mới mà Nhân dân ta đang xây dựng là xã hội do Nhân dân lao động
làm chủ; nền kinh tế phát triển trên sở một nền khoa học công nghệ tiên
tiến; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng
khỏi sự áp bức, bóc lột, bất công, cuộc sống ấm no, hạnh phúc, điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân.
Muốn y dựng xã hội đó, Nhà nước ta phải tổ chức, quản sự nghiệp giáo
dục đào tạo, văn hóa, phát triển khoa học và công nghệ. Đó là quốc sách hàng đầu
để phát huy nhân tố con người, phát huy vai trò then chốt của khoa học công
nghệ. Đó là những động lực trực tiếp của sự phát triển, tạo điều kiện cần thiết cho
việc thực hiện các chức năng khác của Nhà nước vừa nhằm tổ chức quản văn
hóa, khoa học, giáo dục vừa nhằm thực hiện những nhiệm vụ kinh tế xã hội. Trước
mắt, cần chuẩn bị cho đất ớc bước vào những giai đoạn phát triển tiếp theo trong
tương lai, hòa nhập với sự phát triển của nền văn minh thế giới.
1.3.2. Chức năng đối ngoại
Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các
nhà nước và dân tộc khác. Nhà nước ta thực hiện chức năng đối ngoại nhằm tranh
thủ sự đồng tình ủng hộ giúp đỡ của nhân dân thế giới, mở rộng hợp tác quốc
tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp y dựng bảo vệ Tổ quốc, đồng thời
làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với phong trào cách mạng thế giới.
Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tất cả chức năng đối nội của nhà nước chỉ có thể được triển khai thực hiện
tốt khi Tổ quốc được bảo vệ vững chắc. Vì vậy, bảo vệ Tổ quốc là chức năng cực
kỳ quan trọng nhằm giữ gìn thành quả cách mạng, bảo vệ công cuộc xây dựng hòa
bình của nhân dân, tạo điều kiện ổn định triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.
Chức năng củng cố, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác
lOMoARcPSD|36443508
Hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời mở rộng quan hệ với các
nước khác theo nguyên tắc bình đẳng, cùng lợi, cùng tồn tại hòa bình, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
tưởng chỉ đạo thực hiện chức năng này của Nhà nước ta là, trên sở
kiên trì đường lối độc lập tự chủ đoàn kết quốc tế, “nhiệm vụ đối ngoại bao trùm
trong thời gian tới là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, đồng thời góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”
(1)
.
Chức năng ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc
Phong trào cách mạng của giai cấp công nhân nhân dân lao động các
nước tư bản, chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Chống chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc, chống chính sách gây chiến chạy đua trang, góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
1.4. Tiểu kết.
Thể hiện vai trò của chủ nghĩa hội nhiều nội dung, mỗi nội dung,
vài trò quy luật phát triển riêng, gắn với diễn trình lịch sử từng giai đoạn,
từng thời kcách mạng. Trên đây những nội dung cốt lõi thể hiện sáng tạo
luận về nhà nước CNXH dựa trên luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Các thành
tựu khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của mô hình CNXH, khẳng định, khái quát
thành hình đặc trưng, phương thức thực hiện phương hướng chỉ đạo. Kế
thừa và phát triển lý luận của C. Mác và Ph. Ăng-ghen trong điều kiện chủ nghĩa
bản (CNTB) chuyển sang giai đoạn độc quyền Lênin đã đưa ra hàng loạt luận
điểm quan trọng về sở hữu. Lênin cho rằng, CNXH không hề xóa bỏ tất cả các
quyền sở hữu của quần chúng nhân dân lao động, chỉ muốn xóa bỏ quyền sở
hữu của bọn địa chủ bản. Mác - Lênin đã có những chỉ dẫn hết sức quý báu
trong việc tiếp thu, vận dụng các luận điểm kinh điển: “Chúng ta phải nâng cao sự
tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường quan điểm, phương pháp
chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một
cách đúng đắn những đặc điểm của đất nước ta.
2. Chương 2: Liên hệ thực tiễn về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.1. Nhà nước pháp quyền.
2.1.1. Nhà nước pháp quyền.
a) Khái niệm về nhà nước pháp quyền:
Qua các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học từ những đất nước
khác nhau trên khắp thế giới, thể thấy rằng nhiều định nghĩa về nhà nước
pháp quyền. Có thể khẳng định nhà nước pháp quyền đầu tiên phải là tổ chức đặc
biệt của quyền lực chính trị, tổ chức công quyền của xã hội.
lOMoARcPSD|36443508
Tuy nhiên, theo quan điểm của Mác - Lênin nhà nước pháp quyền không
phải nhà nước ứng vói một hình thái kinh tế - hội. Nhà nước pháp quyền hệ
thống tổ chức hoạt động theo quyền lực chính trị công khai. Với cách là
những chủ thể của luật pháp phải làm theo hệ thống pháp luật dân chủ, đề cao ng
lý, ơng ng với quyền tự nhiên của con người, hoạt động trên sở của hệ thống
pháp luật dân chủ, công bằng và theo nguyên tắc với mục tiêu bảo đảm quyền con
người, tự do, công bằng trong xã hội.
b) Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền:
Qua bản yêu sách của nhân dân An Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra
4 điều liên quan đến pháp quyền qua việc nhận thức rõ vị trí, vai trò của pháp luật
trong điều hành và quản lý hội. Những bước tiến trong thời gian qua đã khẳng
định yêu cầu y dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã đi lên chủ nghĩa hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường theo ớng hội chủ nghĩa, mở rộng giao thương với các nước trên thể
giới nói chung các nước Đông Nam Á nói riêng trên sở tôn trọng độc lập
toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp nội bộ của nhau. Những đặc trưng cơ
bản của nhà nước pháp quyền phụ thuộc vào lập trường chính trị - pháp lý và quan
điểm học thuật ở từng người, đó là:
Một là, Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ
Dân chủ vừa bản chất của nhà nước pháp quyền, vừa tiền đề của chế
độ nhà nước. Nhà nước của dân, do dân, dân; đảm bảo được lợi ích cho nhân
dân, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Mục tiêu chính là xây dựng và thực thi một
nên dân chủ, bảo đảm quyền lực chính trị về nhân dân, đây cũng mục tiêu của
Nhà nước ta được thể hện triệt để trên thực tế. Tuy nhiên, vẫn còn những hành
vi vi phạm tình trạng tính dân chủ đang diễn ra ở một số cấp và một số nơi. Ví dụ,
hiểu biết về dân chủ ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, dẫn đến có những việc
cố tình hay ý vi phạm các quyền hợp pháp của công dân, tiêu biểu như một
vài quan công quyền pháp. Sự tham gia của các quan thông tin đại
chúng trong hoạt động tuyên truyền và phòng chống vi phạm dân chủ còn hạn chế.
Tóm lại là cơ chế đảm bảo còn chưa hiệu quả
Hai là, Nhà nước pháp quyền tổ chức hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật
Trong hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền, Hiến pháp đạo luật
thể hiện một cách tập trung ý chí của nhân dân, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Hiến
pháp và pháp luật chính là tiền đề để hình thành nhà nước pháp quyền, do vậy, tôn
trọng thi hành Hiến pháp pháp luật chính nhu cầu của chính nhà ớc pháp
quyền. Cả nhà nước và pháp luật của nhà nước pháp quyền diễn ra theo hướng bổ
trợ lẫn nhau. Mặc cho nhà nước ban hành nhưng khi có hiệu lực pháp lý thì lại có
sự ràng buộc đối với nhà nước. Lúc y sẽ m sở cho toàn bộ qtrình vận
hành của bộ y nhà nước. Toàn bộ các nhân viên cũng như quan nhà ớc
đều phải tuân thủ tuyệt đối Hiến pháppháp luật trong các hành vi của mình và
chỉ được làm những luật pháp ban hành theo trình tự đã được quy định. Pháp
lOMoARcPSD|36443508
luật không chỉ giữ vị tthống trị của đời sống nhà nước cả đời sống hội.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, việc hội nhập quốc tế cũng phải điều chỉnh
trên cơ sở các quy định luật pháp quốc tế nên cũng cần phải tuân theo các yêu cầu
của quốc tế, đỏi hỏi với nhà nước pháp quyền. Thực tiễn cho thấy rằng, trong các
hội chiếm hữu lệ, phong kiến thì lối sống pháp luật chưa trở thành lối sống
phổ biến, lúc ấy tín điều tôn giáo, phong tục tập quán được tôn sùng hơn rất nhiều.
Với lối sống theo pháp luật, mỗi người trong xã hội đều xử theo phương châm
sống làm việc theo pháp luật” đồng thời tích cực đấu tranh để bảo vệ các
quyền lợi ích của chính mình. Điều đó trở thành lối sống phổ biến, thịnh hành
trong hội trật tự, kỉ cương được đảm bảo trong các lĩnh vực hoạt động đời
sống như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,…
Ba là, Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người
trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Bắt nguồn tự ý muốn và những yêu cầu hạn chế và kiểm soát quyền lực nhà
nước để bảo đảm tự do nhân nhà nước pháp quyền đã hình thành ý tưởng
rằng: Tự do, bình đẳng, phẩm giá con người những hình thức thể hiện khác
nhau của bảo đảm nhân quyền là yếu tố đặc trưng truyền thống của chế độ pháp trị
” .
Quyền con người là tiêu chí đánh giá nh pháp quyền của chế độ nhà nước.
Tất cả những hỏa động của Nhà nước đều phải từ sự tôn trọng quyền con người.
Mở ra những cơ hội cho công dân thực hiện quyền của mình theo quy định của luật
pháp, tự do cho công dân và cá nhân chính là quyền lực của nhà nước, phạm vi tự
do của công dân rộng hơn phạm vi tự do của nhà nước, miễn là công dân làm việc
luật không cấm thì các quan nhà ớc chỉ làm những luật pháp cho
pháp. Nhà nước pháp quyền đảm bảo cho mọi cá nhân quyền tự do và bình đẳng
trước pháp luật, có đủ cơ hội về mặt pháp lí để phát triển toàn diện, phát huy được
khả năng của bản thân. Ngoài ra, sự bình đẳng của công dân trong nhà nước pháp
quyền còn đảm bảo cho công dân có đầy đủ về mặt vật chất, tinh thần để thực hiện
những mong muốn nhân. Không những vậy, các quan nhà ớc bảo vệ
công dân khỏi sự xâm hại của các chủ thể khác, kể cả các cơ quan nhà nước. Vậy,
một giá trị khác nhà nước pháp quyền mang lại cho nhân loại đó quyền con
người được bảo vệ, thừa nhận giá trị của họ, có thể nói các giá trị nhân đạo, nhân
văn được coi trọng hơn bao giờ hết trong lịch sử phát triển nhân loại.
Bốn là, quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức
thực hiện theo các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực kiểm soát
quyền lực
Nhà nước pháp quyền nhà nước không tập trung trong tay một hay một
số cá nhân mà chia công việc cho nhiều cơ quan nhà nước khác nhau để thực hiện
với nhau. Phân công quyền lực thực chất sự phân chia chức năng giữa các
quan nhà nước nhằm đảm bảo sự cân bằng quyền lực, kiềm chế chính quyền
lOMoARcPSD|36443508
kiểm soát quyền lực của nhà nước. Mỗi quan nhà nước chức năng thẩm
quyền riêng do pháp luật quy định. Ví dụ, trong nhà nước, hoạt động của nhà nước
về căn bản được Hiến pháp phân thành 3 chức năng lập pháp, hành pháp,
pháp, mỗi chức năng đó chủ yếu được giao cho một quan quản như Nghị
viện, Tòa án, Chính phủ. Mỗi cơ quan có thể tập trung chuyên môn hóa của mình,
đồng thời kết hợp với hoạt động với các quan khác để tạo nên sự đồng nhất
trong các hoạt động của nhà nước. Ngoài ra, chúng ta cũng thể ngăn chặn
quan nhà nước khác để bảo vệ quyền con người, nâng cao hiệu quả hoạt động của
nhà nước, ngăn chặn hành vi lạm chức, lạm quyền, nâng cao hiệu quhoạt động
của nhà nước, bảo vệ tốt nhất các quyền con người, quyền công dân.
Năm là, nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và
pháp luật phù hợp
Nền tảng tiên quyết của Nhà ớc pháp quyền là Hiến pháp một hệ thống
luật dân chủ công bằng. Để đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn
trọng và đề cao thì bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là điều cần thiết nhất.
Việc bảo vệ Hiến phápluật pháp ở các quốc gia có thể đa dạng khác
nhau, nhưng đều hướng đến mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm
của Hiến pháp, những hành vi đi ngược lại với tinh thần quy định của Hiến pháp
đều được bỏ qua, đòi hỏi phải xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân
chủ, minh bạch trong sạch để duy trì đối với bảo vệ Hiến pháp thực thi một
chế độ tư pháp thật sự dân chủ, rõ ràng để duy trì cũng như bảo vệ pháp chế trong
mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Sáu là, trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn
trong các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội.
Mối quan hệ giữa Nhà nước với hội thông qua luật pháp đề quản
hội, tôn trọng đề cao vị trí, vai tròquyền tự chủ của các cơ cấuhội (tổ chức
và cộng đồng xã hội).
Mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế là mối quan hệ tương tác và chi phối
lẫn nhau. Nhà nước pháp quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và
hội trong giới hạn của Hiến pháp luật pháp Việt Nam thể hiện những ởng
quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh được khao khát của người dân đối với công
bằng, công lý trong xã hội còn giai cấp.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước kinh tế, vị trí, vai trò, nhiệm vụ của
Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các mô hình kinh tế thị trường
theo hướng Nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan của thị trường
thông qua đó có thể điều chỉnh các quan hkinh tế đồng thời hạn chế các mặt
tiêu cực của tiêu cực của thị trường.
lOMoARcPSD|36443508
c) Chức năng vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Chức năng bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự,
an toàn hội nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân Công an nhân dân
là nòng cốt. Tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh;y dựng thế trận quốc
phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản
bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội;
sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống phi truyền thống;
bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên
giới chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất ớc. Giải quyết những bất đồng,
tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế.
Chức năng tổ chức quản nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa
Phát triển kinh tế thị trường cũng là xu thế tất yếu của các quốc gia mục
tiêu phát triển. Tại Việt Nam, Đảng Nhà nước ta lựa chọn y dựng phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phấn đấu sớm đưa nước
ta bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, n chủ, công bằng, văn minh. Trong điều kiện kinh tế thị trường, Nhà
nước chủ thể duy nhất khả năng quản mọi mặt của đời sống kinh tế
hội, hoạch định tổ chức thực hiện chính sách phù hợp với yêu cầu của các quy
luật kinh tế thị trường. Quản nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực trong nền
kinh tế thị trường đòi hỏi cán bộ, công chức làm công tác quản nhà ớc phải
hiểu sâu các quy luật của kinh tế thị trường vận dụng nhằm đạt được hiệu
quả cao nhất, hạn chế những rủi ro phát sinh trong quá trình tổ chức quản lý, gón
phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý.
Chức năng xã hội
Chức năng hội của nhà nước cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước đều phải
thực hiện việc quản những hoạt động chung sự tồn tại của xã hội, đồng thời
phải chăm lo một số ng việc chung của toàn xã hội. Trong một giới hạn xác định,
nhà nước phải hoạt động để thoả mãn những nhu cầu chung của cộng đồng dân cư
nằm dưới sự quản của nó. Việc thực hiện chức năng hội theo quan điểm
giới hạn của giai cấp cầm quyền là phương thức, là điều kiện để nhà nước đó thực
hiện vai trò thống trị giai cấp của nó. Thực hiện tốt chức năng hội sở,
điều kiện tiên quyết để nhà nước hội chủ nghĩa đảm bảo giữ vững địa vị
thống trị hội về mặt chính trị, nghĩa đầy đủ khả năng để trấn áp sự phản
kháng của các giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch. Điều này có nghĩa là, chức
năng giai cấp và chức năng xã hội luôn có mối quan hệ biện chứng, cái nọ làm tiền
đề và là cơ sở cho cái kia.
lOMoARcPSD|36443508
Chức năng bảo vệ trật tự, an toàn hội, quyền lợi ích hợp pháp của
công dân.
Trật tự an toàn xã hội là trạng thái hội bình yên trong đó mọi người được
sống yên ổn trên scác quy phạm pháp luật, các quy tắc chuẩn mực đạo đức,
pháp xác định. Việc bảo vệ trật tự, an toàn hội, quyền lợi ích của người
dân bao gồm Đấu tranh phòng, chống tội, gigìn trật tự công cộng,đảm bảo trật
tự, an toàn giao thông, tệ nạn hội, bảo vệ môi trường. Nhà nước hội chủ nghĩa
phải có đủ sức mạnh và kịp thời dập tan mọi âm mưu và hành động của các thế lực
thù địch chống đối cách mạng, đồng thời đấu tranh chống, phòng ngừa có hiệu quả
tội phạm và các vi phạm pháp luật khác, làm cho xã hội luôn luôn ổn định, trật tự
pháp luật, pháp chế hội chủ nghĩa được giữ gìn, thúc đẩy phát triển kinh tế
hội và trên toàn thế giới. Vậy cần phải tăng cường bảo vệ trật tự, an toàn xã hội là
yêu cầu khách quan, cấp bách chẳng những bảo vệ chính quyền, bảo vệ cách mạng
mà còn tạo điều kiện trong công cuộc đổi mới và phát tiển nhà nước.
Chức năng mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
hợp tác và hữu nghị với các dân tộc vì hoà bình, ổn định và phát triển.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia
thành viên Liên hợp quốc; thiết lập được khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với
30 đối tác chiến lược, toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam cùng các
nước nâng tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và hòa bình, hợp tác và phát triển
khu vực trên thế giới. Trên sở phân tích, đánh giá đúng tình hình của đất
nước, những sai lầm, khuyết điểm, nhận thức rõ hơn quy luật khách quan của thời
kỳ quá độ, kế thừa thành tựu, kinh nghiệm y dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội VI
đã đề ra đường lối đổi mới Đảng đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới toàn diện trên
mọi lĩnh vực, trọng tâm trước mắt là đổi mới chính sách kinh tế, trong đó xác định
phương hướng là mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Trên cơ sở các
chủ trương, định hướng lớn Đảng Chính phủ đã đặt ra về hội nhập kinh tế
quốc tế, ta đã chủ động tích vực tham gia vào các thiết chế kinh tế đa phương
và khu vực, với các dấu mốc quan trọng như gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN), là thành viên sáng lập của Diễn đàn kinh tế Á – u (ASEM), trở
thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình ơng (APEC)
đặc biệt gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đánh dấu sự hội nhập
toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu.
2.1.2. Thực trạng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.
Về tổ chức của bộ máy nhà nước
Sau thành công ch mạng tháng Tám năm 1945, ngày 2/9/1945, tại quảng
trường Ba Đình lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập
khai sinh nước VIệt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cũng ncác nhà nước khác, bộ
máy Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống cơ quan nhà nước
lOMoARcPSD|36443508
từ trung ương đến địa phương, tính độc lập tương đối về cơ cấu tổ chức, là nơi
thẩm quyền theo quy định của luật pháp, trên danh nghĩa nhà nước thực hiện
nhiệm vụ của nhà nước bằng hình thức, phương pháp đặc thù. Nó bao gồm: Quốc
hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, Tòa án, Viện kiểm sát, chính quyền địa phương.
a) Những thành tựu đạt được
Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, nhiều thay đổi, nâng cao
chất lượng hoạt động. Hệ thống pháp luật được bổ sung, quản chặt chẽ những
vấn đề quan trọng, bức xúc của đất nước. Thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển
kinh tế - hội, dự trù ngân sách, các dự án, công trình trong điểm quốc gia
chất lượng. y ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng n tộc có sự đổi mới phương
pháp công tác, nâng cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội.
cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, bộ máy của Chính
phủ được sắp xếp, điều chỉnh.
b) Một số hạn chế của tổ chức bộ máy nhà nước
Tổ chức và hoạt động của Nhà nước còn một số khâu chậm đổi mới. Quốc
hội còn lúng túng trong khâu quản lý. Bộ máy quản lý nhà nước các cấp, nhất là ở
sở còn chưa xiết chặt Tình trạng cửa quyền, thiếu trách nhiệm một bộ phận
nhà nước, nhất quan trực tiếp giải quyết vấn đề của dân doanh nghiệp
chậm được khắc phục. hình tổ chức chính quyền địa phương có nhiều điểm bất
hợp lý và cải cách chưa đạt yêu cầu. Việc “ y dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước” .
Cụ thể điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Vận hành bộ máy
nhà nước còn chưa hợp lý, nhiệm vụ của một số quan chưa đủ rõ, còn chồng
chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ còn chưa thực hiện được mục tiêu trong tình hình
mới của đất nước. Phương hướng nhiệm vụ chưa đạt yêu cầu đề ra, thủ tục hành
chính còn tạo ra những rắc rối cho tổ chức công dân. Cải cách pháp con chậm,
chưa đồng bộ. Công tác điều tra, bắt giữ, xét xử trong một số vụ án chưa đúng
người đúng tội, án bị hủy, bị cải sửa còn nhiều. Vấn nạn quan liêu tham nhũng vẫn
còn diễn ra với những tinh vi, phức tạp chưa được đẩy lùi, gây bức xúc cho xã hội
nói chung và người dân nói riêng.
Về hệ thống pháp luật
a) Những thành tựu đạt được
Gần 30 m thi hành snghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước ta đã và đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần quan trọng
vào việc hình thành phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa, từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị, tạo môi trường hội nhấp quốc tế.
Các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng, ban hành, cụ thể hóa theo hướng
cân đối hơn. Cthể, trong lĩnh vực tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước,
nhiều văn bản pháp luật được ban hành với những đổi mới tích cực theo hướng đáp
lOMoARcPSD|36443508
ứng yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa, nội dung
và trách nhiệm của công vụ được phân định rành mạch, rõ ràng hơn, thủ tục pháp
lý ngày càng đơn giản, dễ tiếp cận, kiểm tra và quản lý; hoạt động của các cơ quan
nhà nước thay đổi theo hướng dân chủ hơn, với phương châm “ dân biết, dân làm,
dân kiểm tra” đã được luật hóa. Còn lĩnh vực kinh tế, các cơ chế khuyển khích
bảo đảm đầu tư, khai thác hiệu quả các nguồn lực xã hội từng bước được thay thế
bằng các quy định bình đẳng, góp phần làm giảm thiểu sự can thiệp bằng biện pháp
hành chính của các cơ quan nhà nước vào các quan hệ dân sự, thương mại và hoạt
động của các doanh nghiệp; chế độ độc quyền về ngoại thương đã được xóa bỏ.
b) Những mặt hạn chế
nh thông nhất của hệ thống luật pháp không cao: Hệ thống văn bản quy
phạm luật pháp đa dạng về hình thức số ợng, không được kiểm tra thường
xuyên, hệ thống hóa khiến người dân rất khó tiếp cận và tuân thủ đúng yêu cầu của
pháp luật. Do quá nhiều loại văn bản, được nhiều cấp phân bố n mâu thuẫn
xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Như vậy, để áp dụng cũng như thi hành luật là
chuyện khó khăn không chỉ đối với người dân mà cho cả các chuyên gia pháp lý.
Tính toàn diện, đồng bộ và cân đối của hệ thống pháp luật tùy có sự tiến bộ
những vẫn còn một phần chênh lệch lớn về số lượng văn bản mức độ hoàn
thiện pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau. Nhiều văn bản chưa đáp ứng đủ nhu
cầu quản lý đất nước bằng luật, một số lĩnh vực của đời sống xã hội vẫn chưa điều
chỉnh. Nhiều dự án luật trong các lĩnh vực vẫn chưa được ban hành đã được
soạn thảo nhiều năm. Trong một số lĩnh vực, các văn bản quy phạm pháp luật đã
được ban hành nhưng thiếu ổn định, thường xuyên phải sửa đổi.
Tính ổn định của hệ thống pháp luật thấp. Nguyên nhân khách quan cho tình
trạng nhiều văn bản pháp luật thường xuyên thay đổi đó sự chuyển đổi từ nên
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Tính minh bạch của hệ thống pháp luật còn bất cập. Những sai phạm văn
bản vẫn xảy ra, tính minh bạch của hệ thống pháp luật bị giảm. Trong nhiều trường
hợp, pháp luật chưa được thống nhất, trong khi y ban thường vụ Quốc hội hầu
như không thực hiện việc giải thích Hiến pháp, pháp luật. Việc nghiên cứu tổ
chức thực hiện các nghquyết quốc tế nước ta đã ký kết chưa được coi trọng,
chậm được tiến hành.
Dân chủ đời sống xã hội
a) Những thành tựu đạt được:
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên xuất hiện Đông Nam Á, khai tên trên tấm bản đồ thế giới sau gần trăm
năm đô hộ. Đây được xem là thành quả vĩ đại nhất trong công cuộc giải phóng đất
nước, giải phóng con người dưới sự chỉ đạo của Đảng. Mỗi tầng lớp, mỗi giai cấp
thực sự tự hào khi minh được người chủ., vì thế càng phải dành hết trí tuệ và sức
lOMoARcPSD|36443508
lực của bản thân để cống hiến cho sự nghiệp chung của dân tộc. Thực hiện quy chế
dân chủ, nhiều quan, đơn vị , thôn, xóm định kđều công bố các khoản đóng
góp của cán bộ nhằm ngăn chặn các tệ nạn xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no cho
dân.
b) Mặt hạn chế:
Tuy nhiên đó cũng chỉ là bước đầu. Vấn đề quan trọng mà nhân dân chờ đợi
những kiến nghị chính đáng y được chính quyền tiếp thu như thế nào hay ch
là những lời nói nhàm tai. Bác Hồ cũng đã có lần phê bình ủy ban nhân dân và các
đồng chí một đã vi phạm quyền dân chcủa nhân dân, đồng thời Bác cũng
đề cập trách nhiệm của người dân trong thực thi quyền dân chủ là cần bảo đảm rõ
ràng, minh bạch. Việc thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp hay dân chủ đại
diện hiệu quá chưa cao, nội dung thực hiện còn mang tính chất minh họa. Dân
chủ hóa đời sống xã hội đã và đang yêu cầu tất yếu khách quan của cả người lãnh
đạo, chỉ đạo cũng như mọi tầng lớp nhân n. Kiểm tra, bổ sung để hoàn thành
Quy chế dân chủ là việc làm cấp bách trong mọi lĩnh vực đời sống hiện nay.
Về hoàn thiện mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân
a) Những thành tựu đạt được
Công dân mục đích tồn tại của Nhà nước và Nhà nước biện pháp để
công dân thực hiện mục đích của mình. ớc sang giai đoạn y dựng Nhà nước
pháp quyền hội chủ nghĩa, thực hiện kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân có nhiều thay
đổi nó vô ng quan trọng. Dù trong khoa học pháp lý có nhiều quan điểm khác
nhau về Nhà nước pháp quyền những về thực chất thì Nhà ớc pháp quyền Nhà
nước và mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân quan hệ bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ. Quyền và tự do của người dân được ghi nhân và bảo đảm, đó là cơ sở
chính trị - pháp cho việc bảo đảm dân chủ và là sự thể hiện bản chất dân chủ của
Nhà nước. Quá trình đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa nước ta đã đạt được những thành tựu không nhỏ. Từ hình tổ chức bộ
máy nhà ớc tập quyền hội chủ nghĩa, thực hiện chuyên chính sản đã
chuyển sang mô hình tchức bộ y Nhà ớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa phục
vụ nhân dân.
b) Những điều hạn chế
Trong vấn đề tạo lập mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước với công dân
vẫn đang tồn tại không ít khó khăn về chquan khách quan. Về chủ quan, chúng
ta còn chưa xây dựng hoàn thiện hệ thống lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa nói chung và lý luận về mối quan hệ bình đẳng giữa nhà nước với công
dân nói riêng, vậy hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế và thiếu sự bình đẳng.
Mặc khác, nhiều quan nhà nước lại thiếu trách nhiệm gần như trách
nhiệm. Trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh
tế thị trường, việc giải quyết mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà ớc công dân
đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Cụ thể, việc thu hồi và đền bù quyền sử dụng
lOMoARcPSD|36443508
đất, vấn đề môi trường đang xảy ra phức tạp. Từ những kẽ hở ấy đã tạo ra nhiều
hội cho một số công chức nhà nước lợi dụng quyền lực để những thái độ,
hành vi coi thường Nhân dân và chuộc lợi cho bản thân.
Về khách quan, sự phát triển kinh tế - hội n thấp, tàn tưởng phong
kiến vẫn tồn tại chỉ phối trong một sbộ phận không nhỏ của hội, m ảnh
hưởng đến việc thực hiện quyền lực của nhà nước, từ xây dựng, ban hành các quy
định pháp luật đến thái độ, trách nhiệm của cán bộ, công chức trong giải quyết
công việc của Nhân n, thể hiện các hiện tượng cửa quyền, hách dịch,
trách nhiệm. Vậy, hoàn thiện mối quan hệ nh đẳng giữa Nhà nước công dân
trong bối cảnh ngày nay là vấn đề cấp bách.
Đảng và nhà nước trong công cuộc phòng chống dịch bệnh Covid
Năm 2021, những ngày đầu đại dịch bùng phát, với mục tiêu ngăn chặn sự
lây lan của dịch covid 19 để bảo vệ sức khỏe của người dân, Bộ Chính trị Ban
thư đã điều hành quyết liệt chống dịch quốc gia, kèm theo đó hàng loạt chủ
trương, biện pháp rất cụ thể hành động :
Thứ nhất, với khẩu hiệu cụ thể: “Chống dịch như chống giặc” Bộ máy
điều hành cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 được thành lập từ Trung ương đến
địa phương và các quan bộ ban ngành, đó là Ban chỉ đạo quốc gia phòng, chống
dịch bệnh Covid-19 các ban chđạo cấp địa phương, cấp bộ ban ngành. Các
phương án triển khai đã được xây dựng, Bộ Chính trị họp bàn, phê duyệt, Thủ
tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo, điều hành.... Tổng thư, Chủ tịch nước Nguyễn
Phú Trọng ra Lời kêu gọi đồng bào, đồng chí, chiến cả nước đồng bào ta
nước ngoài đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt,
hiệu quả những chtrương của Đảng Nhà nước, sự chỉ đạo, điều nh của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ để bảo đảm chiến thắng đại dịch Covid-19. Lịch sử
nước ta từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đã có nhiều lần ra lời kêu gọi
chống giặc ngoại xâm. Đây là lần đầu tiên trong thế k 21, Người đứng đầu Đảng,
Nhà nước, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã ra Lời kêu gọi chống
đại dịch Covid-19. Đó là thể hiện, Đảng, Nhà nước ta đã phát động toàn dân "đánh
giặc".
Thứ hai, Trong quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện, Chính phủ, Ban Chỉ
đạo Quốc gia, Bộ Y tế các địa phương đã kế thừa các nguyên tắc, biện pháp
được áp dụng trong các đợt dịch trước; đúc kết các bài học kinh nghiệm từ thực
tiễn, bổ sung hình thành công thức trong phòng, chống dịch: 5K + vắc xin, thuốc
đặc hiệu + biện pháp điều trị + công nghệ + ý thức của Nhân dân + các biện pháp
khác với các trụ cột: xét nghiệm, cách ly, điều trị chuyển hướng thực hiện “thích
ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”. Nhiều địa phương đã
huy động được lực lượng cũng như các tầng lớp nhân dân tham gia phòng, chống
dịch nghiêm chỉnh nên đã kiểm soát tốt dịch bệnh và có nhiều kết quả tích cực, ổn
định được đời sống nhân dân cũng như phát triển được kinh tế xã hội.
lOMoARcPSD|36443508
Thứ ba, hiếm có nước nào, các lực lượng quân đội, công an tự nguyện, dũng
cảm nhiệt huyết chấp hành Chỉ thị của Thủ tướng, huy động tối đa lực lượng
phương tiện hậu cần phục vụ kết quả nhiệm vụ chống dịch. Ngành Y tế Việt
Nam có đội ngũ thầy thuốc tận tâm với trình độ chuyên môn cao, đã chăm sóc
cứu chữa nhiều người khỏi dịch bệnh. Bên cạnh đó cũng sự trợ giúp của các
tình nguyện viên, các chú bộ đội không quản khó khăn, vất vả đi mua thực phẩm,
mang đến phát cho từng hộ dân, tận tình mang từng bình đựng tro cốt người xấu
số vì dịch bệnh đến tận tay thân nhân của họ; sự trợ giúp về mặt vật y tế, chi phí
của các mạnh thường quân cũng góp phần lớn trong công cuộc chống dịch của
nước ta.
Thứ tư, triển khai thành công chiến dịch tiêm vắc xin phòng covid. Đến
31/12/2021, Việt Nam đã tiếp nhận 192 triệu liều vắc xin phòng COVID-19, trong
đó mua từ Ngân sách nhà ớc 96,9 triệu liều, từ các nguồn viện trợ/tài trợ
95,1 triệu liều. Việc tiếp nhận, phân bổ vắc xin được thực hiện công khai, minh
bạch, phù hợp với diễn biến dịch bệnh, có tập trung vào đối tượng, địa bàn nguy
cơ cao. Việt Nam đã đạt trên 70% dân số được tiêm đủ liều cơ bản (1 trong 7 quốc
gia tốc độ tiêm chủng vắc xin cao nhất trên thế giới), so với mục tiêu WHO
khuyến cáo, Việt Nam đã về đích trước 6 tháng. Dự kiến Việt Nam sẽ hoàn thành
tiêm phủ mũi 3 vào cuối quý I/2022.
Thứ năm, đđảm bảo chế độ an sinh hội, phát triển kinh tế phòng,
chống dịch nên đã chỉ đạo thúc đẩy toàn diện các hoạt động kinh tế hội trong
trạng thái bình thường mới, thực hiện “ mục tiêu kép” thực hiện đồng bộ chương
trình phòng chống dịch bệnh gắn với chương trình phục hồi phát triển kinh tế
hội. Cho đến nay, chúng ta đã hoàn thành được mục tiêu đề ra đó là kiểm soát dịch
bệnh trên phạm vi cả nước, các hoạt động sản xuất kinh doanh dần được phục hồi,
dần thích ứng linh hoạt với dịch bệnh; hầu hết các ngành, lĩnh vực đang trên đà
tăng trưởng trở lại; hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống người dân, người lao
động ổn định và phát triển trở lại.
Cuộc chiến chống dịch COVID-19 ở nước ta bước vào giai đoạn nhiều khó
khăn, thử thách. Các cấp chính quyền, các lực lượng trực tiếp tham gia phòng
chống dịch mọi tầng lớp nhân dân đang nỗ lực ngày đêm để kiểm soát dịch
bệnh. triển khai thành công chiến dịch tiêm vắc xin phòng covid. Đến 31/12/2021,
Việt Nam đã tiếp nhận 192 triệu liều vắc xin phòng COVID-19, trong đó mua từ
Ngân sách nhà nước 96,9 triệu liều, từ các nguồn viện trợ/tài trợ 95,1 triệu
liều Thậm chí, chỉ ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính có Chỉ
thị tăng cường các lực lượng tham gia phòng chống dịch COVID-19 trên địa bàn
TP Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phía Nam, ngay lập tức trên các trang mạng xã
hội đã xuất hiện những bài viết xuyên tạc cho rằng: “Quân đội phải canh gác
bảo vệ biên giới; rằng đối diện với công an, quân đội là dân chứ phải là giặc đâu
mà cầm súng giương nòng lên; rằng cho quân đội vào là để trấn áp dân ra đường”.
lOMoARcPSD|36443508
Đây thật sự là những thông tin xuyên tạc của những người đang cố ý hiểu lệch chủ
trương, đường lối của Đảng Nhà nước, để phá hoại công cuộc phòng, chống
dịch của đất nước. Về vấn đề tiêm phòng vaccine ngừa COVID-19, trong khi cả
hệ thống chính trị vào cuộc để m sao được vaccine nhanh nhất, nhiều nhất
phục vụ công tác phòng chống dịch thì trên mạng xã hội lại xuất hiện những giọng
điệu lạc lõng cho rằng "chính quyền lừa dối dân trong chiến lược vaccine". Trong
khi cả thế giới đang đẩy mạnh nỗ lực tiêm phòng, nhiều nước đã chứng minh được
hiệu quả của chương trình tiêm vaccine (chẳng hạn tại nước Anh, quốc gia này đã
ngăn chặn được hơn 100.000 ca tử vong nhờ tiêm vaccine ngừa COVID-19), thì
những luận điệu như vậy quả thực… không sức thuyết phục! Thực tế từ các
nước sẽ là minh chứng khách quan nhất cho những nỗ lực Chính phủ Việt Nam
đang làm để bảo vệ người dân trước sự tấn công của virus corona.
Ngoài những cán bộ tận tâm giúp đỡ người dân ợt qua đại dịch thì
vẫn còn những thành phần nhỏ lợi dụng thời trục lợi cho bản thân họ. Cụ thể
như việc tăng giá bán khẩu trang làm cho người dân khốn khó trong việc mua
chúng để bảo vệ sức khỏe; nhập những khẩu trang không nguồn gốc, m
chất lượng, tái chế lại những chiếc khẩu trang đã sử dung điều này góp phần cho
sức khỏe của con người nguy hiểm hơn
Bằng ý thức cảnh giác, trách nhiệm cao, bằng tình yêu niềm tin tưởng
tự hào về đất ớc, người dân Việt Nam yêu chuộng chính nghĩa hòa bình không
dễ bị ru ngủ bởi những luận điệu đó. Chắc chắn cũng như trước đây, càng phá
hoại, các thế lực thù địch sẽ càng thất bại thảm hại trước sức mạnh đoàn kết, quyết
tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cuộc chiến chống đại dịch. Và,
những luận điệu sai trái về công cuộc phòng, chống dịch của Việt Nam nghĩa!
2.2. Liên hệ thực tiễn.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định
"Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải
xuất phát từ nguyện vọng, quyền lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân
dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu
của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân
dân" [4, tr. 169] Sự nghiệp y dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay đang đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện cả về cơ sở pháp lý
chế tổ chức thực hiện để hiện thực hóa quyền m chủ của nhân dân, bảo
đảm cho nhân dân thực sự được là chủ làm chủ, từ đó phát huy dân chủ hội
chủ nghĩa, y dựng Nhà ớc thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự Nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
2.2.1. Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước
Cải cách bmáy nhà nước, xây dựng một bộ y nhà nước gọn nhẹ,
hiệu lực trong quản hội, nhà nước phân công, phân nhiệm ràng: lập
pháp, hành pháp pháp, nhưng bảo đảm quyền lực nhà nước thống nhất
nội dung trọng tâm của xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
n, do nhân dân, vì nhân dân. Để làm được điều này chúng ta phải đổi mới đồng
lOMoARcPSD|36443508
bộ hệ thống các quan nhà ớc từ trung ương đến địa phương. Trước hết phải
kiện toàn tổ chức và hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhấtQuốc hội,
từ đó làm cơ sở kiện toàn các quan nhà nước khác. Nâng cao năng lực bản
lĩnh của Đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp, giám sát
quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước.
2.2.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chất lượng tốt cả về nội dung
lẫn hình thức một trong những nhiệm vụ trọng tâm, một đòi hỏi cấp thiết, một
tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa.
Không sớm y dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật với chất lượng tốt sẽ không
kịp thời tạo ra được môi trường pháp bình đẳng, thuận lợi cho mọi thành phần
kinh tế tồn tại và phát triển, không thể quản lý xã hội ổn định nếu thiếu pháp luật.
Chính vậy, cần những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, từ đó
thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật mới đạt hiệu quả cao. Trước hết, pháp
luật phải thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động - số đông người trong xã hội. Nội dung của ý chí và nguyện vọng thể
hiện trong luật phải phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội tồn tại một
cách khách quan trong thời kỳ đó. Pháp luật phải thể chế đúng đắn đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp
của luật, bảo đảm sự điều chỉnh đồng bộ, hệ thống; bảo đảm luật, pháp lệnh
phải nội dung điều chỉnh bao quát tính khả thi; bảo đảm tính minh bạch
của luật, pháp lệnh.
2.2.3. Thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội
Đảng ta coi dân chủ hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa động lực của
công cuộc y dựng đất nước. vậy Đảng và nhà nước phải không ngừng hoàn
thiện những thiết chế bảo đảm thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội và phát huy
quyền m chủ của nhân dân. Phát huy dân chủ hội chủ nghĩa biện pháp không
thể thiếu được trong quá trình tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Gồm có: - Nhà nước tạo ra mọi điều kiện để bảo đảm các
quyền tự do bầu cử, ứng cử của nhân dân. Đảm bảo nhân dân đều được thực hiện
quyền bầu cử đưa ra những ý kiến quan điểm nhân cho Quốc hội một cách
minh bạch và khoa học
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ cho người
dân,thực sự hướng về cơ sở, đến với dân, nói cho dân nghe và nghe dân nói. Công
tác tưởng phải gắn với vấn đề dân sinh, dân trí, dân quyền để thực hiện được
dân chủ.
- Tìm tòi, thử nghiệm, cải tiến dần hình thức thích hợp để bảo đảm
quyềncủa nhân n trong việc giám sát hoạt động của quan nhà nước. Để m
được điều đó, quan nhà nước phải thông tin kịp thời cho dân biết những hoạt
động chủ yếu của cấp mình; những thông tin về tình hình phát triển kinh tế hội,
kết quả thi hành pháp luật, nội dung tình hình thực hiện nghị quyết của Quốc
hội, Hội đồng nhân dân, về kết quả khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
- Cải tiến chế độ tiếp xúc, báo cáo của đại biểu Quốc hội Hội
đồngnhân dân với cử tri, tạo điều kiện cho nhân dân không chỉ phản ánh nguyện
vọng của mình còn tham gia nhận xét, đánh giá hoạt động của đại biểu dân
cử, của cơ quan nhà nước, Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
lOMoARcPSD|36443508
- Cơ quan nhà nước các cấp mở rộng các hình thức tham khảo ý kiến
củacác tổ chức chính trị - xã hội trong việc xây dựng và triển khai thực hiện chính
sách pháp luật. Cần chưng cầu ý dân về các văn bản pháp luật theo hướng thiết
thực. Các cơ quan nhà nước cần tổ chức hội nghị nhân dân hoặc đại biểu nhân dân
các cấp sở để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân trên địa bàn dân , tổng hợp
dư luận hội về những vấn đề cần thiết để nâng cao công tác lãnh đạo và quản lý
nhà nước, để nhân dân tham gia rộng rãi vào các kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội.
- Bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế, cụ thể
làquyền dân chủ về sở hữu, về lao động, về quản hưởng thụ. Nhà nước cần
mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, thực hiện đúng đắn chính
sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng hội chủ nghĩa. Nnước cần
ban hành các chính ch chế độ thi hành những biện pháp cần thiết bảo đảm
cho nhân dân lao động thực sự là người chủ nắm tư liệu sản suất, làm chủ các quá
trình sản xuất, phân phối, lưu thông, phát huy được tính sáng tạo, năng động, tự
chủ trong sản xuất.
Trên các lĩnh vực khoa học-kthuật, văn hoá giáo dục cần phải tạo mọi điều
kiện về môi trường sự ưu tiên để phát huy trí tuệ, tài năng của các nhà khoa học.
Có những chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút chất xám của đội ngũ trí thức. Cần
có những quy định cụ thể để khuyến khích tự do nghiên cứu, phát minh, sáng tác,
phê bình… nhằm nâng cao trách nhiệm của nhân dân. y dựng và hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là một bộ phận của xây dựng nhà nước pháp
quyền hội chủ nghĩa. Mỗi bước phát triển của dân chủ hoá hội một điều
kiện thuận lợi cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Làm tốt việc này chính
góp phần tạo ra một động lực tổng hợp cho sự nghiệp y dựng đất ớc trong thời
kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.2.4. Tăng cƣờng công tác đấu tranh phòng và chống tham nhũng
Tình hình tham nhũng hiện nay diễn ra rất phức tạp, ở nhiều lĩnh vực và
xu hướng tăng về quy mô, tính chất ngày càng nghiêm trọng. Bởi vậy, cần
phải có những quy chế cụ thể, nề nếp, nhanh chóng khắc phục mọi biểu hiện quan
liêu, tham nhũng, xử nghiêm những hành vi nhũng nhiễu cần tiến hành đấu tranh
kiên quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống tham nhũng như sau:
- Đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức bảo đảm thu
nhập,đãi ngộ thoả đáng, kích thích được tính tích cực phấn đấu của cán bộ, công
chức, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước, cán bộ công chức tận tâm
với công việc, không tham nhũng.
- Công khai, minh bạch tài sản, thu nhập hoạt động của quan,
tổchức. Phải thực hiện nghiêm việc khai i sản, thu nhập c minh bản
khai theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng.
- Xử nghiêm minh người hành vi tham nhũng cũng như những
ngườiđứng đầu quan, tổ chức để xảy ra hành vi tham nhũng sẽ nâng cao trách
nhiệm của họ trong việc điều hành, quản lý cơ quan, tổ chức, đơn vị mình.
Tổ chức thực hiện tốt các chế, chính sách đã về quản kinh tế,
hội, cải cách hành chính; tiếp tục nghiên cứu, bổ sung một schtrương mới nhằm
hoàn thiện cơ chế quản lý, phòng ngừa tham nhũng, lãng phí.
lOMoARcPSD|36443508
2.2.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đáp ứng yêu cầu
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việc nâng cao chất lượng hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước một yêu cầu tất yếu trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, những giải pháp về vấn đề y dựng và phát triển đội ngũ
gồm : - y dựng thực hiện tốt chiến lược và quy hoạch cán bộ. Trong đó chú
ý y dựng cơ cấu cán bộ cấp chiến lược; cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, công
nghệ có trình độ cao; cán bộ sở, cán bộ nữ, cán bộ ngưi dân tộc thiểu số, cán
bộ trẻ, cán bộ là con em các gia đình công với nước, cán bộ xuất thân từ công
nhân trong các cấp uỷ, tạo nguồn cán bộ. Đào tạo chuyên sâu cho các cán bộ làm
việc ở vùng sâu vùng xa. - Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
bảo đảm nâng cao trình độ luận, chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, thành
thạo k năng quản điều hành. - Đổi mới chế đánh giá, tuyển dụng cán bộ,
công chức bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan, khoa học để đánh giá đúng
đắn, bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ hợp lý, tuyển dụng đúng người đáp ứng được
yêu cầu công việc. - Tăng cường công c quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, công
chức. Thủ trưởng cơ quan và bộ phận làm công tác tổ chức cán bộ, phải nắm vững
đội ngũ cán bộ, công chức của mình, thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát
công việc của họ để đánh giá đúng đắn, bố trí hợp lý, chế độ chính sách thích
hợp ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực họ. - những đãi ngộ hấp dẫn
thích đáng cho người tài, công với đất nước. Tạo mọi điều kiện để những
người tài năng hội môi trường đphát triển, tránh hiện tượng “chảy
máu chất xám”.
2.3. Tiểu kết:
Mục tiêu của y dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam y dựng
một nhà nước thực sự của dân, nhà nước của khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng nhà nước pháp quyền hội
chủ nghĩa ở nước ta là công việc khó khăn cả về lý luận và thực tiễn. Việc tổ chức
xây dựng nhà nước pháp quyền trên sở đổi mới hoàn thiện nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải cùng
cố gắng, vạch định những bước đi thích hợp, thực hiện đồng bộ các giải pháp. Do
đó, việc nghiên cứu để chỉ ra những thành tựu hạn chế của nhà ớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện nền dân chủ hội chủ nghĩa ở nước ta hết sức cần thiết. Điều đó góp phần
cung cấp căn cứ khoa học, giúp Đảng Nhà nước xây dựng những chính sách,
biện pháp thực hiện dân chủ xã hội ngày càng tốt hơn. Về phía bản thân, mỗi một
người dân cần nâng cao sự hiểu biết về chính sách, pháp luật ý thức phát huy
quyền làm chủ của mình, tích cực tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, kiên
quyết đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, vi phạm dân chủ sở p
phần thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng đã đề ra. Chấp hành tốt những quy định của Đảng nhà ớc, đặc biệt là
trong công cuộc phòng chống dịch bệnh Covid. Đồng thời, luôn nâng cao tinh thần
cảnh giác, đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch cố
tình xuyên tạc về tình hình dân chủ ở nước ta hiện nay.
3. Kết luận
lOMoARcPSD|36443508
Để duy trì và phát triển xã hội, thì vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa
cực kỳ quan trọng ngày càng quan trong. Nhà nước hội chủ nghĩa phải tổ
chức và quản lý để bảo vệ được độc lập tự chủ, an ninh trật tự, đồng thời xây dựng
những điều kiện, tiền đề cho hội mới. Nnước xã hội chủ nghĩa phải quản lý
để nhân dân được sống ấm no, yên bình, kinh tế phát triển với tốc độ nhanh và bền
vùng. Nhà nước hội chủ nghĩa người dẫn đường cho dân vừa người phục
vụ mọi hoạt động của xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thực hiện đầy đủ cả
chức năng công quyền và chức năng phục vụ xã hội, chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục, y tế, văn hoá thể thao, các hoạt động
cung ứng dịch vụ công cộng, phúc lợi xã hội.
Để nước là sớm thoát khỏi tình trạng chậm phát triển, dân năm 2020 cơ bản
trở thành một ớc công nghiệp. Nhà nước ta phải xây dựng phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sử dụng và phát huy những tác động tích
cực của chế thị trường để thúc đẩy phát triển kinh tế. Đồng thời, quản điều
khiển chế thị trường, khác phục hạn chế những tác động tàu cực, không để
cho thị trường vận động một cách tự phát, dẫn đến những mất cân đối kinh tế,
những hệ quá xấu về xã hội.
Muốn thực hiện tốt những yêu cầu nhiệm vụ trên, đòi hỏi Đảng, Nhà nước
nhân dân ta phải phấn đấu nhiều hơn nữa, thực hiện tốt nhiều giải pháp: trong
đó coi giải pháp y dựng hoàn thiện nhà nước ta theo hướng nhà nước Pháp.
quyền hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một trong những
biện pháp hàng đầu và quan trọng nhất, góp phần có hiệu quả tạo nên những thành
lưu cùng to lớn sau hơn 20 m đổi mới đất ớc. Chúng ta tin ởng rằng ới
sự lãnh đạo của Đảng, với sự nỗ lực phần đầu bản bị của Nhà nước nhân dân ta,
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dẫn số
được tiếp lúc xây dựng và trở thành hiện thực ở Việt Nam.
4. Tài liệu tham khảo
(1)
(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb.ST, H1991, tr.88).
Giáo trình Chủ nghĩa hội khoa học (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự
thật, Hà Nội, 2021).
http://eldata11.topica.edu.vn/HocLieu/TGL101/Giao
%20trinh/06_TGL101_Bai3_v1.0014103225.pdf.
| 1/22

Preview text:

lOMoARcPSD| 36443508
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TPHCM
KHOA: CHÍNH TRỊ- PHÁP LUẬT ------oOo----- TIỂU LUẬN
Đề tài: VẬN DỤNG LÝ LUẬN MÁC-LÊNIN TRONG
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY MỤC LỤC A.
Mở đầu..........................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài:........................................................................3
2. Mục tiêu nghiên cứu:...................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu:...........................................................3 B.
Nội dung...........................................................................................4
1. Chương 1: Lý luận chủ nghĩa Marx–Lenin về nhà nước xã hội
chủ nghĩa............................................................................................................
..........................................................................................................................4
1.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ
nghĩa..............................4 lOMoARcPSD| 36443508
1.2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.............................4
1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa..........................5
1.3.1. Chức năng đối nội:...............................................................5
1.3.2. Chức năng đối ngoại.............................................................7 1.4.
Tiểu kết..................................................................................7
2. Chương 2: Liên hệ thực tiễn về xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...............................................................8 2.1.
Nhà nước pháp quyền............................................................8
2.1.1. Nhà nước pháp quyền.........................................................8
2.1.2. Thực trạng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay......................................................................................13 2.2.
Liên hệ thực tiễn..................................................................19
2.2.1. Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động
của bộ máy nhà nước.................................................................................19
2.2.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật.......................19
2.2.3. Thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội..20
2.2.4. Tăng cƣờng công tác đấu tranh phòng và chống tham
nhũng..........................................................................................................21
2.2.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đáp
ứng yêucầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
......................................21
2.3. Tiểu kết:..................................................................................22
3. Kết luận.........................................................................................22
4. Tài liệu tham khảo........................................................................23 A. Mở đầu. 1.
Lý do chọn đề tài:
Tư tưởng về nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống lý
luận của V.I.Lê-nin, bởi nó không thuần túy là những lý thuyết khoa học mà gắn
bó chặt chẽ với quan điểm chính trị; nó không đơn giản là những suy tư tinh thần
mà gắn liền với những hoạt động thực tiễn sinh động của ông.
Trong học thuyết Mác - Lênin, lý luận về nhà nước có một vị trí rất quan
trọng. Nhiều luận điểm của các ông cho đến nay còn nguyên giá trị, trở thành
những chỉ dẫn khoa học và cách mạng cho các Đảng cộng sản khi giành được chính
quyền bắt tay vào xây dựng nhà nước kiểu mới, trong sạch vững mạnh của mình. lOMoARcPSD| 36443508
Tuy nhiên, Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong
phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu
rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học. một số
luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng cần được tiếp tục nghiên cứu làm sáng
tỏ để bổ sung, phát triển cho phù hợp với bối cảnh mới hiện nay. Đây cũng chính
là phương pháp luận khoa học mà các nhà kinh điển luôn đòi hỏi hậu thế phải quán
triệt để vận dụng một cách sáng tạo và phù hợp vào điều kiện cụ thể của mỗi nước
khi xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy, tìm hiểu những tư tưởng của V.I.Lênin về nhà nước có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với chúng ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. 2.
Mục tiêu nghiên cứu:
Làm sáng tỏ về mặt lý luận nguồn gốc, đặc trưng, bản chất của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Thực trạng vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị giải pháp
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 3.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận: sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác-Lênin.
Sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận, chủ nghĩa của chủ tịch HCM:
tính Đảng, tính khoa học; tính lịch sử cụ thể; tính toàn diện nhưng có trọng tâm,
trọng điểm; kế thừa và phát triển.
Phương pháp khoa học: sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp; đối chiếu
lịch sử (VD: nghiên cứu về người bạn, người đồng chí đã đồng hành với Hồ Chí
Minh, kể chuyện Hồ Chí Minh và viết về Hồ Chí Minh; nghiên cứu về gia đình,
quê hương, những nơi mà Người đã sống và hoạt động;...). B.
Nội dung. 1. Chương 1: Lý luận chủ nghĩa Marx–Lenin về nhà
nước xã hội chủ nghĩa.

1.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bắt đầu từ những mong muốn thoát khỏi áp bức bóc lột, bất công của nhân
dân lao động, đó là mong muốn có được một xã hội dân chủ, công bằng, những giá
trị của con người được tôn trọng, được bảo vệ và có thể có được điều kiện để có
thể phát triển tự do các năng lực của mình.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa được ra đời là kết quả của của các cuộc cách
mạng do giai cấp vô sản và giai cấp lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. lOMoARcPSD| 36443508
Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất với tính
chất xã hội hóa được hình thành khi xã hội tư bản chủ nghĩa xuất hiện, mâu thuẫn
ngày càng trở nên gay gắt dẫn đến các cuộc khủng hoảng kinh tế và hình thành nên
mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản từ đó xuất hiện các cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản. Trong các cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, Đảng
Cộng sản được thành lập để lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng và trở thành
yếu tố chủ chốt quyết định thắng lợi của cách mạng. Với cách kết hợp giữ các yếu
tố dân tộc, thời đại và áp dụng các cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về tổ
chức, tiến hành cách mạng, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa cùng với mâu
thuẫn gay gắt của giai cấp vô sản và giai cấp tư bản đã có tác động mạnh mẽ đến
các phong trào cách mạng của những nước có chế độ tư bản chủ nghĩa phát triển
cao và các nước dân tộc thuộc địa.
Tùy vào đặc điểm của từng quốc gia, sự ra đời của nhà nước xã hội chủ
nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền sau cách mạng có những đặc điểm, hình
thức và phương pháp khác nhau. Tuy nhiên vẫn có những điểm chung là Đảng
Cộng sản tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, là cơ quan thể hiện ý chí của
nhân dân, thực hiện quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân.
Như vậy, “Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mà ở đó, sự thống trị
chính trị thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sinh ra và có
sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị
làm chủ trên tất cả các mặt trong đời sống xã hội phát triển cao – xã hội xã hội chủ nghĩa”. 1.2.
Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới xuất hiện, có bản chất khác
so với các kiểu nhà nước trước đó trong lịch sử, có tính ưu việt hơn về nhiều mặt
hơn so với các kiểu nhà nước cũ trước đó trong lịch sử. Tính ưu việt của nhà nước
xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua các phương diện sau:
Về chính trị: Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân,
giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân dân lao
động. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa giai cấp vô sản là lực lượng giữ địa vị
thống trị về chính trị. Khác với sự thống trị của các giai cấp bóc lột trước
đây. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự thống trị của thiểu số với tất cả
các giai cấp nhằm mục đích bảo vệ và duy trì vị thế của minh. Còn về giai
cấp vô sản là sự thống trị của đa số nhằm giải phóng giai cấp của mình
nhằm giải phóng các tầng lớp lao động trong xã hội.
Về kinh tế: Nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định là chế độ sở hữu
xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu nên không còn tồn tại quan hệ sản xuất
bóc lột. Sự khác nhau của các nhà nước bóc lột khác trong lịch sử và nhà
nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước bóc lột là bộ máy nhà nước của một bộ
phận thiểu số, của những kẻ bóc lột nhằm trấn áp đa số nhằm giữ vững
quyền lực trong khi đó nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là một bộ máy chính lOMoARcPSD| 36443508
trị - hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế
- xã hội của nhân dân, nó không còn là nhà nước đúng nghĩa mà chỉ còn là
“nửa nhà nước”. Mục tiêu hàng đầu là chăm lo cho nhân dân. Chủ nghĩa xã
hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu về tư
liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu
này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho mọi
thành viên trong xã hội ngày càng gắn bó với nhau vì những lợi ích căn bản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo quyền bình đẳng trong lao động, sáng
tạo. Mỗi người lao động được hưởng thù lao theo giá trị cho xã hội mà mình
tạo ra. Đó là một trong những cơ sở của công bằng xã hội ở giai đoạn hiện nay.
Về văn hóa - xã hội: nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền
tảng tinh thần là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và những giá trị văn hóa
tiên tiến, tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang những bản sắc riêng của
dân tộc. Sự phân hóa giai cấp tầng lớp từng bước được thu hẹp, các giai
cấp, tầng lớp bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội để phát triển.
1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
1.3.1. Chức năng đối nội:
Chức năng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
Đây là một trong những chức năng căn bản nhất của nhà nước ta. Muốn tiến
hành sự nghiệp đổi mới thuận lợi, Nhà nước ta phải đảm bảo an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội trên toàn bộ đất nước. Nhà nước phải có đủ sức mạnh và kịp thời
đập tan mọi âm mưu chống đối của các thế lực thù địch, đảm bảo điều kiện ổn định
cho Nhân dân sản xuất kinh doanh.
Chức năng bảo vệ quyền tự do, dân chủ của Nhân dân.
Đây là một trong những chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt
Nam quan trọng; bởi vì, việc thực hiện chức năng này thể hiện trực tiếp bản chất
của nhà nước kiểu mới, nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đồng
thời, việc thực hiện chức năng này sẽ đảm bảo sức mạnh của Nhà nước trong việc
thực hiện tất cả các chức năng khác của Nhà nước, quan hệ đến sự tồn tại, phát
triển của bản thân Nhà nước và chế độ.
Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đây là chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa quan trọng, liên
quan trực tiếp đến việc thực hiện tất cả các chức năng khác của Nhà nước. Pháp
luật là phương tiện quan trọng để Nhà nước tổ chức thực hiện có hiệu quả tất cả
các chức năng của mình, do đó, bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã lOMoARcPSD| 36443508
hội chủ nghĩa là hoạt động thường xuyên, có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng
cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Mục đích của chức năng này là nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành
một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, thực hiện quản lý trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội bằng pháp luật.
Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế.
Tổ chức và quản lý nền kinh tế đất nước, xét đến cùng là chức năng hàng
đầu và là cơ bản nhất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng
mọi xã hội dựa trên cơ sở vật chất và kỹ thuật phát triển cao.
Nhà nước ta là người đại diện cho ý chí, quyền lực của Nhân dân lao động,
là người chủ sở hữu đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu; là người nắm trong tay
các công cụ, phương tiện quản lý (chính sách, kế hoạch, pháp luật, tài chính, ngân
hàng…) và quản lý việc sử dụng tài sản quốc gia. Trên cơ sở đó, Nhà nước có đủ
điều kiện để tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế trong nước
cũng như hợp tác quốc tế.
Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục.
Xã hội mới mà Nhân dân ta đang xây dựng là xã hội do Nhân dân lao động
làm chủ; có nền kinh tế phát triển trên cơ sở một nền khoa học và công nghệ tiên
tiến; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng
khỏi sự áp bức, bóc lột, bất công, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân.
Muốn xây dựng xã hội đó, Nhà nước ta phải tổ chức, quản lý sự nghiệp giáo
dục đào tạo, văn hóa, phát triển khoa học và công nghệ. Đó là quốc sách hàng đầu
để phát huy nhân tố con người, phát huy vai trò then chốt của khoa học và công
nghệ. Đó là những động lực trực tiếp của sự phát triển, tạo điều kiện cần thiết cho
việc thực hiện các chức năng khác của Nhà nước vừa nhằm tổ chức quản lý văn
hóa, khoa học, giáo dục vừa nhằm thực hiện những nhiệm vụ kinh tế xã hội. Trước
mắt, cần chuẩn bị cho đất nước bước vào những giai đoạn phát triển tiếp theo trong
tương lai, hòa nhập với sự phát triển của nền văn minh thế giới.
1.3.2. Chức năng đối ngoại
Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các
nhà nước và dân tộc khác. Nhà nước ta thực hiện chức năng đối ngoại nhằm tranh
thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, mở rộng hợp tác quốc
tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời
làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với phong trào cách mạng thế giới.
Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tất cả chức năng đối nội của nhà nước chỉ có thể được triển khai thực hiện
tốt khi Tổ quốc được bảo vệ vững chắc. Vì vậy, bảo vệ Tổ quốc là chức năng cực
kỳ quan trọng nhằm giữ gìn thành quả cách mạng, bảo vệ công cuộc xây dựng hòa
bình của nhân dân, tạo điều kiện ổn định triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.
Chức năng củng cố, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác lOMoARcPSD| 36443508
Hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời mở rộng quan hệ với các
nước khác theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Tư tưởng chỉ đạo thực hiện chức năng này của Nhà nước ta là, trên cơ sở
kiên trì đường lối độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, “nhiệm vụ đối ngoại bao trùm
trong thời gian tới là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, đồng thời góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” (1).
Chức năng ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc
Phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các
nước tư bản, chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Chống chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc, chống chính sách gây chiến và chạy đua vũ trang, góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. 1.4. Tiểu kết.
Thể hiện vai trò của chủ nghĩa xã hội và có nhiều nội dung, mỗi nội dung,
vài trò và có quy luật phát triển riêng, gắn với diễn trình lịch sử từng giai đoạn,
từng thời kỳ cách mạng. Trên đây là những nội dung cốt lõi thể hiện sáng tạo lý
luận về nhà nước CNXH dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Các thành
tựu khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của mô hình CNXH, khẳng định, khái quát
thành mô hình đặc trưng, phương thức thực hiện và phương hướng chỉ đạo. Kế
thừa và phát triển lý luận của C. Mác và Ph. Ăng-ghen trong điều kiện chủ nghĩa
tư bản (CNTB) chuyển sang giai đoạn độc quyền Lênin đã đưa ra hàng loạt luận
điểm quan trọng về sở hữu. Lênin cho rằng, CNXH không hề xóa bỏ tất cả các
quyền sở hữu của quần chúng nhân dân lao động, mà chỉ muốn xóa bỏ quyền sở
hữu của bọn địa chủ và tư bản. Mác - Lênin đã có những chỉ dẫn hết sức quý báu
trong việc tiếp thu, vận dụng các luận điểm kinh điển: “Chúng ta phải nâng cao sự
tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường quan điểm, phương pháp
chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một
cách đúng đắn những đặc điểm của đất nước ta. 2.
Chương 2: Liên hệ thực tiễn về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 2.1.
Nhà nước pháp quyền.
2.1.1. Nhà nước pháp quyền.
a) Khái niệm về nhà nước pháp quyền:
Qua các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học từ những đất nước
khác nhau trên khắp thế giới, có thể thấy rằng có nhiều định nghĩa về nhà nước
pháp quyền. Có thể khẳng định nhà nước pháp quyền đầu tiên phải là tổ chức đặc
biệt của quyền lực chính trị, tổ chức công quyền của xã hội. lOMoARcPSD| 36443508
Tuy nhiên, theo quan điểm của Mác - Lênin nhà nước pháp quyền không
phải nhà nước ứng vói một hình thái kinh tế - xã hội. Nhà nước pháp quyền là hệ
thống có tổ chức và hoạt động theo quyền lực chính trị công khai. Với tư cách là
những chủ thể của luật pháp phải làm theo hệ thống pháp luật dân chủ, đề cao công
lý, tương ứng với quyền tự nhiên của con người, hoạt động trên cơ sở của hệ thống
pháp luật dân chủ, công bằng và theo nguyên tắc với mục tiêu bảo đảm quyền con
người, tự do, công bằng trong xã hội.
b) Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền:
Qua bản yêu sách của nhân dân An Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra
4 điều liên quan đến pháp quyền qua việc nhận thức rõ vị trí, vai trò của pháp luật
trong điều hành và quản lý xã hội. Những bước tiến trong thời gian qua đã khẳng
định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường theo hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao thương với các nước trên thể
giới nói chung và các nước Đông Nam Á nói riêng trên cơ sở tôn trọng độc lập
toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp nội bộ của nhau. Những đặc trưng cơ
bản của nhà nước pháp quyền phụ thuộc vào lập trường chính trị - pháp lý và quan
điểm học thuật ở từng người, đó là:
Một là, Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ
Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền, vừa là tiền đề của chế
độ nhà nước. Nhà nước của dân, do dân, vì dân; đảm bảo được lợi ích cho nhân
dân, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Mục tiêu chính là xây dựng và thực thi một
nên dân chủ, bảo đảm quyền lực chính trị về nhân dân, đây cũng là mục tiêu của
Nhà nước ta – được thể hện triệt để trên thực tế. Tuy nhiên, vẫn còn những hành
vi vi phạm tình trạng tính dân chủ đang diễn ra ở một số cấp và một số nơi. Ví dụ,
hiểu biết về dân chủ ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, dẫn đến có những việc
cố tình hay vô ý vi phạm các quyền hợp pháp của công dân, tiêu biểu như ở một
vài cơ quan công quyền và tư pháp. Sự tham gia của các cơ quan thông tin đại
chúng trong hoạt động tuyên truyền và phòng chống vi phạm dân chủ còn hạn chế.
Tóm lại là cơ chế đảm bảo còn chưa hiệu quả
Hai là, Nhà nước pháp quyền tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật
Trong hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền, Hiến pháp là đạo luật
thể hiện một cách tập trung ý chí của nhân dân, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Hiến
pháp và pháp luật chính là tiền đề để hình thành nhà nước pháp quyền, do vậy, tôn
trọng và thi hành Hiến pháp và pháp luật chính là nhu cầu của chính nhà nước pháp
quyền. Cả nhà nước và pháp luật của nhà nước pháp quyền diễn ra theo hướng bổ
trợ lẫn nhau. Mặc cho nhà nước ban hành nhưng khi có hiệu lực pháp lý thì lại có
sự ràng buộc đối với nhà nước. Lúc này sẽ làm cơ sở cho toàn bộ quá trình vận
hành của bộ máy nhà nước. Toàn bộ các nhân viên cũng như cơ quan nhà nước
đều phải tuân thủ tuyệt đối Hiến pháp và pháp luật trong các hành vi của mình và
chỉ được làm những gì mà luật pháp ban hành theo trình tự đã được quy định. Pháp lOMoARcPSD| 36443508
luật không chỉ giữ vị trí thống trị của đời sống nhà nước mà cả đời sống xã hội.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, việc hội nhập quốc tế cũng phải điều chỉnh
trên cơ sở các quy định luật pháp quốc tế nên cũng cần phải tuân theo các yêu cầu
của quốc tế, đỏi hỏi với nhà nước pháp quyền. Thực tiễn cho thấy rằng, trong các
xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến thì lối sống pháp luật chưa trở thành lối sống
phổ biến, lúc ấy tín điều tôn giáo, phong tục tập quán được tôn sùng hơn rất nhiều.
Với lối sống theo pháp luật, mỗi người trong xã hội đều cư xử theo phương châm
“ sống và làm việc theo pháp luật” đồng thời tích cực đấu tranh để bảo vệ các
quyền và lợi ích của chính mình. Điều đó trở thành lối sống phổ biến, thịnh hành
trong xã hội và trật tự, kỉ cương được đảm bảo trong các lĩnh vực hoạt động đời
sống như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,…
Ba là, Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người
trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Bắt nguồn tự ý muốn và những yêu cầu hạn chế và kiểm soát quyền lực nhà
nước để bảo đảm tự do cá nhân mà nhà nước pháp quyền đã hình thành ý tưởng
rằng: “ Tự do, bình đẳng, phẩm giá con người và những hình thức thể hiện khác
nhau của bảo đảm nhân quyền là yếu tố đặc trưng truyền thống của chế độ pháp trị ” .
Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước.
Tất cả những hỏa động của Nhà nước đều phải từ sự tôn trọng quyền con người.
Mở ra những cơ hội cho công dân thực hiện quyền của mình theo quy định của luật
pháp, tự do cho công dân và cá nhân chính là quyền lực của nhà nước, phạm vi tự
do của công dân rộng hơn phạm vi tự do của nhà nước, miễn là công dân làm việc
mà luật không cấm thì các cơ quan nhà nước chỉ làm những gì mà luật pháp cho
pháp. Nhà nước pháp quyền đảm bảo cho mọi cá nhân có quyền tự do và bình đẳng
trước pháp luật, có đủ cơ hội về mặt pháp lí để phát triển toàn diện, phát huy được
khả năng của bản thân. Ngoài ra, sự bình đẳng của công dân trong nhà nước pháp
quyền còn đảm bảo cho công dân có đầy đủ về mặt vật chất, tinh thần để thực hiện
những mong muốn cá nhân. Không những vậy, các cơ quan nhà nước có bảo vệ
công dân khỏi sự xâm hại của các chủ thể khác, kể cả các cơ quan nhà nước. Vậy,
một giá trị khác mà nhà nước pháp quyền mang lại cho nhân loại đó quyền con
người được bảo vệ, thừa nhận giá trị của họ, có thể nói các giá trị nhân đạo, nhân
văn được coi trọng hơn bao giờ hết trong lịch sử phát triển nhân loại.
Bốn là, quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và
thực hiện theo các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực và kiểm soát quyền lực
Nhà nước pháp quyền là nhà nước không tập trung trong tay một hay một
số cá nhân mà chia công việc cho nhiều cơ quan nhà nước khác nhau để thực hiện
với nhau. Phân công quyền lực thực chất là sự phân chia chức năng giữa các cơ
quan nhà nước nhằm đảm bảo sự cân bằng quyền lực, kiềm chế chính quyền và lOMoARcPSD| 36443508
kiểm soát quyền lực của nhà nước. Mỗi cơ quan nhà nước có chức năng thẩm
quyền riêng do pháp luật quy định. Ví dụ, trong nhà nước, hoạt động của nhà nước
về căn bản được Hiến pháp phân thành 3 chức năng là lập pháp, hành pháp, tư
pháp, mỗi chức năng đó chủ yếu được giao cho một cơ quan quản lý như là Nghị
viện, Tòa án, Chính phủ. Mỗi cơ quan có thể tập trung chuyên môn hóa của mình,
đồng thời kết hợp với hoạt động với các cơ quan khác để tạo nên sự đồng nhất
trong các hoạt động của nhà nước. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể ngăn chặn cơ
quan nhà nước khác để bảo vệ quyền con người, nâng cao hiệu quả hoạt động của
nhà nước, ngăn chặn hành vi lạm chức, lạm quyền, nâng cao hiệu quả hoạt động
của nhà nước, bảo vệ tốt nhất các quyền con người, quyền công dân.
Năm là, nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và
pháp luật phù hợp
Nền tảng tiên quyết của Nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống
luật dân chủ và công bằng. Để đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn
trọng và đề cao thì bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là điều cần thiết nhất.
Việc bảo vệ Hiến pháp và luật pháp ở các quốc gia có thể đa dạng và khác
nhau, nhưng đều hướng đến mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm
của Hiến pháp, những hành vi đi ngược lại với tinh thần và quy định của Hiến pháp
đều được bỏ qua, đòi hỏi phải xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân
chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì đối với bảo vệ Hiến pháp và thực thi một
chế độ tư pháp thật sự dân chủ, rõ ràng để duy trì cũng như bảo vệ pháp chế trong
mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Sáu là, trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn
trong các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội.
Mối quan hệ giữa Nhà nước với xã hội thông qua luật pháp đề quản lý xã
hội, tôn trọng đề cao vị trí, vai trò và quyền tự chủ của các cơ cấu xã hội (tổ chức
và cộng đồng xã hội).
Mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế là mối quan hệ tương tác và chi phối
lẫn nhau. Nhà nước pháp quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và
xã hội trong giới hạn của Hiến pháp và luật pháp Việt Nam thể hiện những tư tưởng
quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh được khao khát của người dân đối với công
bằng, công lý trong xã hội còn giai cấp.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trò, nhiệm vụ của
Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các mô hình kinh tế thị trường
theo hướng Nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan của thị trường
và thông qua đó có thể điều chỉnh các quan hệ kinh tế đồng thời hạn chế các mặt
tiêu cực của tiêu cực của thị trường. lOMoARcPSD| 36443508
c) Chức năng vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Chức năng bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự,
an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân
là nòng cốt. Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản
bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội;
sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống;
bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên
giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Giải quyết những bất đồng,
tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế.
Chức năng tổ chức quản lí nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Phát triển kinh tế thị trường cũng là xu thế tất yếu của các quốc gia vì mục
tiêu phát triển. Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta lựa chọn xây dựng và phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phấn đấu sớm đưa nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong điều kiện kinh tế thị trường, Nhà
nước là chủ thể duy nhất có khả năng quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế – xã
hội, hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách phù hợp với yêu cầu của các quy
luật kinh tế thị trường. Quản lý nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực trong nền
kinh tế thị trường đòi hỏi cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước phải
hiểu sâu các quy luật của kinh tế thị trường và vận dụng nó nhằm đạt được hiệu
quả cao nhất, hạn chế những rủi ro phát sinh trong quá trình tổ chức quản lý, gón
phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý.
Chức năng xã hội
Chức năng xã hội của nhà nước là cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước đều phải
thực hiện việc quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, đồng thời
phải chăm lo một số công việc chung của toàn xã hội. Trong một giới hạn xác định,
nhà nước phải hoạt động để thoả mãn những nhu cầu chung của cộng đồng dân cư
nằm dưới sự quản lý của nó. Việc thực hiện chức năng xã hội theo quan điểm và
giới hạn của giai cấp cầm quyền là phương thức, là điều kiện để nhà nước đó thực
hiện vai trò thống trị giai cấp của nó. Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ sở, là
điều kiện tiên quyết để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo và giữ vững địa vị
thống trị xã hội về mặt chính trị, nghĩa là có đầy đủ khả năng để trấn áp sự phản
kháng của các giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch. Điều này có nghĩa là, chức
năng giai cấp và chức năng xã hội luôn có mối quan hệ biện chứng, cái nọ làm tiền
đề và là cơ sở cho cái kia. lOMoARcPSD| 36443508
Chức năng bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trật tự an toàn xã hội là trạng thái xã hội bình yên trong đó mọi người được
sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy tắc và chuẩn mực đạo đức,
pháp lí xác định. Việc bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích của người
dân bao gồm Đấu tranh phòng, chống tội, giữ gìn trật tự công cộng,đảm bảo trật
tự, an toàn giao thông, tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
phải có đủ sức mạnh và kịp thời dập tan mọi âm mưu và hành động của các thế lực
thù địch chống đối cách mạng, đồng thời đấu tranh chống, phòng ngừa có hiệu quả
tội phạm và các vi phạm pháp luật khác, làm cho xã hội luôn luôn ổn định, trật tự
pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa được giữ gìn, thúc đẩy phát triển kinh tế xã
hội và trên toàn thế giới. Vậy cần phải tăng cường bảo vệ trật tự, an toàn xã hội là
yêu cầu khách quan, cấp bách chẳng những bảo vệ chính quyền, bảo vệ cách mạng
mà còn tạo điều kiện trong công cuộc đổi mới và phát tiển nhà nước.
Chức năng mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
hợp tác và hữu nghị với các dân tộc vì hoà bình, ổn định và phát triển.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia
thành viên Liên hợp quốc; thiết lập được khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với
30 đối tác chiến lược, toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam cùng các
nước nâng tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình, hợp tác và phát triển
ở khu vực và trên thế giới. Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình của đất
nước, những sai lầm, khuyết điểm, nhận thức rõ hơn quy luật khách quan của thời
kỳ quá độ, kế thừa thành tựu, kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội VI
đã đề ra đường lối đổi mới và Đảng đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới toàn diện trên
mọi lĩnh vực, trọng tâm trước mắt là đổi mới chính sách kinh tế, trong đó xác định
phương hướng là mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Trên cơ sở các
chủ trương, định hướng lớn mà Đảng và Chính phủ đã đặt ra về hội nhập kinh tế
quốc tế, ta đã chủ động và tích vực tham gia vào các thiết chế kinh tế đa phương
và khu vực, với các dấu mốc quan trọng như gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN), là thành viên sáng lập của Diễn đàn kinh tế Á – u (ASEM), trở
thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC)
và đặc biệt là gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đánh dấu sự hội nhập
toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu.
2.1.2. Thực trạng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Về tổ chức của bộ máy nhà nước
Sau thành công Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngày 2/9/1945, tại quảng
trường Ba Đình lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập
khai sinh nước VIệt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cũng như các nhà nước khác, bộ
máy Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống cơ quan nhà nước lOMoARcPSD| 36443508
từ trung ương đến địa phương, có tính độc lập tương đối về cơ cấu tổ chức, là nơi
có thẩm quyền theo quy định của luật pháp, trên danh nghĩa nhà nước thực hiện
nhiệm vụ của nhà nước bằng hình thức, phương pháp đặc thù. Nó bao gồm: Quốc
hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, Tòa án, Viện kiểm sát, chính quyền địa phương.
a) Những thành tựu đạt được
Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, có nhiều thay đổi, nâng cao
chất lượng hoạt động. Hệ thống pháp luật được bổ sung, quản lý chặt chẽ những
vấn đề quan trọng, bức xúc của đất nước. Thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, dự trù ngân sách, các dự án, công trình trong điểm quốc gia có
chất lượng. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc có sự đổi mới phương
pháp công tác, nâng cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội.
Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, bộ máy của Chính
phủ được sắp xếp, điều chỉnh.
b) Một số hạn chế của tổ chức bộ máy nhà nước
Tổ chức và hoạt động của Nhà nước còn một số khâu chậm đổi mới. Quốc
hội còn lúng túng trong khâu quản lý. Bộ máy quản lý nhà nước các cấp, nhất là ở
cơ sở còn chưa xiết chặt Tình trạng cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận
nhà nước, nhất là ở cơ quan trực tiếp giải quyết vấn đề của dân và doanh nghiệp
chậm được khắc phục. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương có nhiều điểm bất
hợp lý và cải cách chưa đạt yêu cầu. Việc “ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước” .
Cụ thể là điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Vận hành bộ máy
nhà nước còn chưa hợp lý, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng
chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ còn chưa thực hiện được mục tiêu trong tình hình
mới của đất nước. Phương hướng nhiệm vụ chưa đạt yêu cầu đề ra, thủ tục hành
chính còn tạo ra những rắc rối cho tổ chức và công dân. Cải cách tư pháp con chậm,
chưa đồng bộ. Công tác điều tra, bắt giữ, xét xử trong một số vụ án chưa đúng
người đúng tội, án bị hủy, bị cải sửa còn nhiều. Vấn nạn quan liêu tham nhũng vẫn
còn diễn ra với những tinh vi, phức tạp chưa được đẩy lùi, gây bức xúc cho xã hội
nói chung và người dân nói riêng.
Về hệ thống pháp luật
a) Những thành tựu đạt được
Gần 30 năm thi hành sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước ta đã và đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần quan trọng
vào việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị, tạo môi trường hội nhấp quốc tế.
Các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng, ban hành, cụ thể hóa theo hướng
cân đối hơn. Cụ thể, trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
nhiều văn bản pháp luật được ban hành với những đổi mới tích cực theo hướng đáp lOMoARcPSD| 36443508
ứng yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nội dung
và trách nhiệm của công vụ được phân định rành mạch, rõ ràng hơn, thủ tục pháp
lý ngày càng đơn giản, dễ tiếp cận, kiểm tra và quản lý; hoạt động của các cơ quan
nhà nước thay đổi theo hướng dân chủ hơn, với phương châm “ dân biết, dân làm,
dân kiểm tra” đã được luật hóa. Còn lĩnh vực kinh tế, các cơ chế khuyển khích và
bảo đảm đầu tư, khai thác hiệu quả các nguồn lực xã hội từng bước được thay thế
bằng các quy định bình đẳng, góp phần làm giảm thiểu sự can thiệp bằng biện pháp
hành chính của các cơ quan nhà nước vào các quan hệ dân sự, thương mại và hoạt
động của các doanh nghiệp; chế độ độc quyền về ngoại thương đã được xóa bỏ.
b) Những mặt hạn chế
Tính thông nhất của hệ thống luật pháp không cao: Hệ thống văn bản quy
phạm luật pháp đa dạng về hình thức và số lượng, không được kiểm tra thường
xuyên, hệ thống hóa khiến người dân rất khó tiếp cận và tuân thủ đúng yêu cầu của
pháp luật. Do có quá nhiều loại văn bản, được nhiều cấp phân bố nên mâu thuẫn
xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Như vậy, để áp dụng cũng như thi hành luật là
chuyện khó khăn không chỉ đối với người dân mà cho cả các chuyên gia pháp lý.
Tính toàn diện, đồng bộ và cân đối của hệ thống pháp luật tùy có sự tiến bộ
những vẫn còn có một phần chênh lệch lớn về số lượng văn bản và mức độ hoàn
thiện pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau. Nhiều văn bản chưa đáp ứng đủ nhu
cầu quản lý đất nước bằng luật, một số lĩnh vực của đời sống xã hội vẫn chưa điều
chỉnh. Nhiều dự án luật trong các lĩnh vực vẫn chưa được ban hành dù đã được
soạn thảo nhiều năm. Trong một số lĩnh vực, các văn bản quy phạm pháp luật đã
được ban hành nhưng thiếu ổn định, thường xuyên phải sửa đổi.
Tính ổn định của hệ thống pháp luật thấp. Nguyên nhân khách quan cho tình
trạng nhiều văn bản pháp luật thường xuyên thay đổi đó là sự chuyển đổi từ nên
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tính minh bạch của hệ thống pháp luật còn bất cập. Những sai phạm văn
bản vẫn xảy ra, tính minh bạch của hệ thống pháp luật bị giảm. Trong nhiều trường
hợp, pháp luật chưa được thống nhất, trong khi ủy ban thường vụ Quốc hội hầu
như không thực hiện việc giải thích Hiến pháp, pháp luật. Việc nghiên cứu và tổ
chức thực hiện các nghị quyết quốc tế mà nước ta đã ký kết chưa được coi trọng, chậm được tiến hành.
Dân chủ đời sống xã hội
a) Những thành tựu đạt được:
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên xuất hiện ở Đông – Nam Á, khai tên trên tấm bản đồ thế giới sau gần trăm
năm đô hộ. Đây được xem là thành quả vĩ đại nhất trong công cuộc giải phóng đất
nước, giải phóng con người dưới sự chỉ đạo của Đảng. Mỗi tầng lớp, mỗi giai cấp
thực sự tự hào khi minh được là người chủ., vì thế càng phải dành hết trí tuệ và sức lOMoARcPSD| 36443508
lực của bản thân để cống hiến cho sự nghiệp chung của dân tộc. Thực hiện quy chế
dân chủ, nhiều cơ quan, đơn vị , thôn, xóm định kỳ đều công bố các khoản đóng
góp của cán bộ nhằm ngăn chặn các tệ nạn xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no cho dân.
b) Mặt hạn chế:
Tuy nhiên đó cũng chỉ là bước đầu. Vấn đề quan trọng mà nhân dân chờ đợi
là những kiến nghị chính đáng ấy được chính quyền tiếp thu như thế nào hay chỉ
là những lời nói nhàm tai. Bác Hồ cũng đã có lần phê bình ủy ban nhân dân và các
đồng chí một xã vì đã vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, đồng thời Bác cũng
đề cập trách nhiệm của người dân trong thực thi quyền dân chủ là cần bảo đảm rõ
ràng, minh bạch. Việc thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp hay dân chủ đại
diện hiệu quá chưa cao, có nội dung thực hiện còn mang tính chất minh họa. Dân
chủ hóa đời sống xã hội đã và đang yêu cầu tất yếu khách quan của cả người lãnh
đạo, chỉ đạo cũng như mọi tầng lớp nhân dân. Kiểm tra, bổ sung để hoàn thành
Quy chế dân chủ là việc làm cấp bách trong mọi lĩnh vực đời sống hiện nay.
Về hoàn thiện mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân
a) Những thành tựu đạt được
Công dân là mục đích tồn tại của Nhà nước và Nhà nước là biện pháp để
công dân thực hiện mục đích của mình. Bước sang giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân có nhiều thay
đổi và nó vô cùng quan trọng. Dù trong khoa học pháp lý có nhiều quan điểm khác
nhau về Nhà nước pháp quyền những về thực chất thì Nhà nước pháp quyền là Nhà
nước và mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân là quan hệ bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ. Quyền và tự do của người dân được ghi nhân và bảo đảm, đó là cơ sở
chính trị - pháp lý cho việc bảo đảm dân chủ và là sự thể hiện bản chất dân chủ của
Nhà nước. Quá trình đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đã đạt được những thành tựu không nhỏ. Từ mô hình tổ chức bộ
máy nhà nước tập quyền Xã hội chủ nghĩa, thực hiện chuyên chính vô sản đã
chuyển sang mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phục vụ nhân dân.
b) Những điều hạn chế
Trong vấn đề tạo lập mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước với công dân
vẫn đang tồn tại không ít khó khăn về chủ quan và khách quan. Về chủ quan, chúng
ta còn chưa xây dựng hoàn thiện hệ thống lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa nói chung và lý luận về mối quan hệ bình đẳng giữa nhà nước với công
dân nói riêng, vì vậy hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế và thiếu sự bình đẳng.
Mặc khác, có nhiều cơ quan nhà nước lại thiếu trách nhiệm và gần như vô trách
nhiệm. Trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh
tế thị trường, việc giải quyết mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước và công dân
đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Cụ thể, việc thu hồi và đền bù quyền sử dụng lOMoARcPSD| 36443508
đất, vấn đề môi trường đang xảy ra phức tạp. Từ những kẽ hở ấy đã tạo ra nhiều
cơ hội cho một số công chức nhà nước lợi dụng quyền lực để có những thái độ,
hành vi coi thường Nhân dân và chuộc lợi cho bản thân.
Về khách quan, sự phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, tàn dư tư tưởng phong
kiến vẫn tồn tại chỉ phối trong một số bộ phận không nhỏ của xã hội, làm ảnh
hưởng đến việc thực hiện quyền lực của nhà nước, từ xây dựng, ban hành các quy
định pháp luật đến thái độ, trách nhiệm của cán bộ, công chức trong giải quyết
công việc của Nhân dân, thể hiện rõ ở các hiện tượng cửa quyền, hách dịch, vô
trách nhiệm. Vậy, hoàn thiện mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước và công dân
trong bối cảnh ngày nay là vấn đề cấp bách.
Đảng và nhà nước trong công cuộc phòng chống dịch bệnh Covid
Năm 2021, những ngày đầu đại dịch bùng phát, với mục tiêu ngăn chặn sự
lây lan của dịch covid 19 để bảo vệ sức khỏe của người dân, Bộ Chính trị và Ban
Bí thư đã điều hành quyết liệt chống dịch quốc gia, kèm theo đó là hàng loạt chủ
trương, biện pháp rất cụ thể hành động :
Thứ nhất, với khẩu hiệu cụ thể: “Chống dịch như chống giặc” và Bộ máy
điều hành cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 được thành lập từ Trung ương đến
địa phương và các cơ quan bộ ban ngành, đó là Ban chỉ đạo quốc gia phòng, chống
dịch bệnh Covid-19 và các ban chỉ đạo cấp địa phương, cấp bộ ban ngành. Các
phương án triển khai đã được xây dựng, Bộ Chính trị họp bàn, phê duyệt, Thủ
tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo, điều hành.... Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn
Phú Trọng ra Lời kêu gọi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở
nước ngoài đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt,
hiệu quả những chủ trương của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ để bảo đảm chiến thắng đại dịch Covid-19. Lịch sử
nước ta từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đã có nhiều lần ra lời kêu gọi
chống giặc ngoại xâm. Đây là lần đầu tiên trong thế kỷ 21, Người đứng đầu Đảng,
Nhà nước, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã ra Lời kêu gọi chống
đại dịch Covid-19. Đó là thể hiện, Đảng, Nhà nước ta đã phát động toàn dân "đánh giặc".
Thứ hai, Trong quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện, Chính phủ, Ban Chỉ
đạo Quốc gia, Bộ Y tế và các địa phương đã kế thừa các nguyên tắc, biện pháp
được áp dụng trong các đợt dịch trước; đúc kết các bài học kinh nghiệm từ thực
tiễn, bổ sung và hình thành công thức trong phòng, chống dịch: 5K + vắc xin, thuốc
đặc hiệu + biện pháp điều trị + công nghệ + ý thức của Nhân dân + các biện pháp
khác với các trụ cột: xét nghiệm, cách ly, điều trị và chuyển hướng thực hiện “thích
ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”. Nhiều địa phương đã
huy động được lực lượng cũng như các tầng lớp nhân dân tham gia phòng, chống
dịch nghiêm chỉnh nên đã kiểm soát tốt dịch bệnh và có nhiều kết quả tích cực, ổn
định được đời sống nhân dân cũng như phát triển được kinh tế xã hội. lOMoARcPSD| 36443508
Thứ ba, hiếm có nước nào, các lực lượng quân đội, công an tự nguyện, dũng
cảm nhiệt huyết chấp hành Chỉ thị của Thủ tướng, huy động tối đa lực lượng và
phương tiện hậu cần phục vụ có kết quả nhiệm vụ chống dịch. Ngành Y tế Việt
Nam có đội ngũ thầy thuốc tận tâm với trình độ chuyên môn cao, đã chăm sóc và
cứu chữa nhiều người khỏi dịch bệnh. Bên cạnh đó cũng có sự trợ giúp của các
tình nguyện viên, các chú bộ đội không quản khó khăn, vất vả đi mua thực phẩm,
mang đến phát cho từng hộ dân, tận tình mang từng bình đựng tro cốt người xấu
số vì dịch bệnh đến tận tay thân nhân của họ; sự trợ giúp về mặt vật tư y tế, chi phí
của các mạnh thường quân cũng góp phần lớn trong công cuộc chống dịch của nước ta.
Thứ tư, triển khai thành công chiến dịch tiêm vắc xin phòng covid. Đến
31/12/2021, Việt Nam đã tiếp nhận 192 triệu liều vắc xin phòng COVID-19, trong
đó mua từ Ngân sách nhà nước là 96,9 triệu liều, từ các nguồn viện trợ/tài trợ là
95,1 triệu liều. Việc tiếp nhận, phân bổ vắc xin được thực hiện công khai, minh
bạch, phù hợp với diễn biến dịch bệnh, có tập trung vào đối tượng, địa bàn có nguy
cơ cao. Việt Nam đã đạt trên 70% dân số được tiêm đủ liều cơ bản (1 trong 7 quốc
gia có tốc độ tiêm chủng vắc xin cao nhất trên thế giới), so với mục tiêu WHO
khuyến cáo, Việt Nam đã về đích trước 6 tháng. Dự kiến Việt Nam sẽ hoàn thành
tiêm phủ mũi 3 vào cuối quý I/2022.
Thứ năm, để đảm bảo chế độ an sinh xã hội, phát triển kinh tế và phòng,
chống dịch nên đã chỉ đạo thúc đẩy toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội trong
trạng thái bình thường mới, thực hiện “ mục tiêu kép” thực hiện đồng bộ chương
trình phòng chống dịch bệnh gắn với chương trình phục hồi phát triển kinh tế xã
hội. Cho đến nay, chúng ta đã hoàn thành được mục tiêu đề ra đó là kiểm soát dịch
bệnh trên phạm vi cả nước, các hoạt động sản xuất kinh doanh dần được phục hồi,
dần thích ứng linh hoạt với dịch bệnh; hầu hết các ngành, lĩnh vực đang trên đà
tăng trưởng trở lại; hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống người dân, người lao
động ổn định và phát triển trở lại.
Cuộc chiến chống dịch COVID-19 ở nước ta bước vào giai đoạn nhiều khó
khăn, thử thách. Các cấp chính quyền, các lực lượng trực tiếp tham gia phòng
chống dịch và mọi tầng lớp nhân dân đang nỗ lực ngày đêm để kiểm soát dịch
bệnh. triển khai thành công chiến dịch tiêm vắc xin phòng covid. Đến 31/12/2021,
Việt Nam đã tiếp nhận 192 triệu liều vắc xin phòng COVID-19, trong đó mua từ
Ngân sách nhà nước là 96,9 triệu liều, từ các nguồn viện trợ/tài trợ là 95,1 triệu
liều Thậm chí, chỉ ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính có Chỉ
thị tăng cường các lực lượng tham gia phòng chống dịch COVID-19 trên địa bàn
TP Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phía Nam, ngay lập tức trên các trang mạng xã
hội đã xuất hiện những bài viết xuyên tạc cho rằng: “Quân đội là phải canh gác
bảo vệ biên giới; rằng đối diện với công an, quân đội là dân chứ có phải là giặc đâu
mà cầm súng giương nòng lên; rằng cho quân đội vào là để trấn áp dân ra đường”. lOMoARcPSD| 36443508
Đây thật sự là những thông tin xuyên tạc của những người đang cố ý hiểu lệch chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, để phá hoại công cuộc phòng, chống
dịch của đất nước. Về vấn đề tiêm phòng vaccine ngừa COVID-19, trong khi cả
hệ thống chính trị vào cuộc để làm sao có được vaccine nhanh nhất, nhiều nhất
phục vụ công tác phòng chống dịch thì trên mạng xã hội lại xuất hiện những giọng
điệu lạc lõng cho rằng "chính quyền lừa dối dân trong chiến lược vaccine". Trong
khi cả thế giới đang đẩy mạnh nỗ lực tiêm phòng, nhiều nước đã chứng minh được
hiệu quả của chương trình tiêm vaccine (chẳng hạn tại nước Anh, quốc gia này đã
ngăn chặn được hơn 100.000 ca tử vong nhờ tiêm vaccine ngừa COVID-19), thì
những luận điệu như vậy quả thực… không có sức thuyết phục! Thực tế từ các
nước sẽ là minh chứng khách quan nhất cho những nỗ lực mà Chính phủ Việt Nam
đang làm để bảo vệ người dân trước sự tấn công của virus corona.
Ngoài những cán bộ tận tâm giúp đỡ người dân vượt qua đại dịch thì
vẫn còn những thành phần nhỏ lợi dụng thời cơ trục lợi cho bản thân họ. Cụ thể
như việc tăng giá bán khẩu trang làm cho người dân khốn khó trong việc mua
chúng để bảo vệ sức khỏe; và nhập những khẩu trang không rõ nguồn gốc, kém
chất lượng, tái chế lại những chiếc khẩu trang đã sử dung điều này góp phần cho
sức khỏe của con người nguy hiểm hơn
Bằng ý thức cảnh giác, trách nhiệm cao, bằng tình yêu và niềm tin tưởng
tự hào về đất nước, người dân Việt Nam yêu chuộng chính nghĩa và hòa bình không
dễ gì bị ru ngủ bởi những luận điệu đó. Chắc chắn cũng như trước đây, càng phá
hoại, các thế lực thù địch sẽ càng thất bại thảm hại trước sức mạnh đoàn kết, quyết
tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cuộc chiến chống đại dịch. Và,
những luận điệu sai trái về công cuộc phòng, chống dịch của Việt Nam là vô nghĩa! 2.2.
Liên hệ thực tiễn.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định
"Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải
xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân
dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu
của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân
dân" [4, tr. 169] Sự nghiệp xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay đang đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện cả về cơ sở pháp lý
và cơ chế tổ chức thực hiện để hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân, bảo
đảm cho nhân dân thực sự được là chủ và làm chủ, từ đó phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự là Nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
2.2.1. Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước
Cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng một bộ máy nhà nước gọn nhẹ, có
hiệu lực trong quản lý xã hội, nhà nước có phân công, phân nhiệm rõ ràng: lập
pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất là
nội dung trọng tâm của xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để làm được điều này chúng ta phải đổi mới đồng lOMoARcPSD| 36443508
bộ hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Trước hết là phải
kiện toàn tổ chức và hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhấtQuốc hội,
từ đó làm cơ sở kiện toàn các cơ quan nhà nước khác. Nâng cao năng lực và bản
lĩnh của Đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp, giám sát và
quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước.
2.2.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có chất lượng tốt cả về nội dung
lẫn hình thức là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, một đòi hỏi cấp thiết, một
tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Không sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật với chất lượng tốt sẽ không
kịp thời tạo ra được môi trường pháp lý bình đẳng, thuận lợi cho mọi thành phần
kinh tế tồn tại và phát triển, không thể quản lý xã hội ổn định nếu thiếu pháp luật.
Chính vì vậy, cần có những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, từ đó
thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật mới đạt hiệu quả cao. Trước hết, pháp
luật phải thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động - số đông người trong xã hội. Nội dung của ý chí và nguyện vọng thể
hiện trong luật phải phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội tồn tại một
cách khách quan trong thời kỳ đó. Pháp luật phải thể chế đúng đắn đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp
của luật, bảo đảm sự điều chỉnh đồng bộ, có hệ thống; bảo đảm luật, pháp lệnh
phải có nội dung điều chỉnh bao quát và có tính khả thi; bảo đảm tính minh bạch của luật, pháp lệnh.
2.2.3. Thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội
Đảng ta coi dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
công cuộc xây dựng đất nước. Vì vậy Đảng và nhà nước phải không ngừng hoàn
thiện những thiết chế bảo đảm thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là biện pháp không
thể thiếu được trong quá trình tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Gồm có: - Nhà nước tạo ra mọi điều kiện để bảo đảm các
quyền tự do bầu cử, ứng cử của nhân dân. Đảm bảo nhân dân đều được thực hiện
quyền bầu cử và đưa ra những ý kiến quan điểm cá nhân cho Quốc hội một cách minh bạch và khoa học -
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ cho người
dân,thực sự hướng về cơ sở, đến với dân, nói cho dân nghe và nghe dân nói. Công
tác tư tưởng phải gắn với vấn đề dân sinh, dân trí, dân quyền để thực hiện được dân chủ. -
Tìm tòi, thử nghiệm, cải tiến dần hình thức thích hợp để bảo đảm
quyềncủa nhân dân trong việc giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước. Để làm
được điều đó, cơ quan nhà nước phải thông tin kịp thời cho dân biết những hoạt
động chủ yếu của cấp mình; những thông tin về tình hình phát triển kinh tế xã hội,
kết quả thi hành pháp luật, nội dung và tình hình thực hiện nghị quyết của Quốc
hội, Hội đồng nhân dân, về kết quả khiếu nại, tố cáo của nhân dân. -
Cải tiến chế độ tiếp xúc, báo cáo của đại biểu Quốc hội và Hội
đồngnhân dân với cử tri, tạo điều kiện cho nhân dân không chỉ phản ánh nguyện
vọng của mình mà còn tham gia nhận xét, đánh giá hoạt động của đại biểu dân
cử, của cơ quan nhà nước, Quốc hội và Hội đồng nhân dân. lOMoARcPSD| 36443508 -
Cơ quan nhà nước các cấp mở rộng các hình thức tham khảo ý kiến
củacác tổ chức chính trị - xã hội trong việc xây dựng và triển khai thực hiện chính
sách pháp luật. Cần chưng cầu ý dân về các văn bản pháp luật theo hướng thiết
thực. Các cơ quan nhà nước cần tổ chức hội nghị nhân dân hoặc đại biểu nhân dân
các cấp cơ sở để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân trên địa bàn dân cư, tổng hợp
dư luận xã hội về những vấn đề cần thiết để nâng cao công tác lãnh đạo và quản lý
nhà nước, để nhân dân tham gia rộng rãi vào các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. -
Bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế, cụ thể
làquyền dân chủ về sở hữu, về lao động, về quản lý và hưởng thụ. Nhà nước cần
mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, thực hiện đúng đắn chính
sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần
ban hành các chính sách chế độ và thi hành những biện pháp cần thiết bảo đảm
cho nhân dân lao động thực sự là người chủ nắm tư liệu sản suất, làm chủ các quá
trình sản xuất, phân phối, lưu thông, phát huy được tính sáng tạo, năng động, tự chủ trong sản xuất.
Trên các lĩnh vực khoa học-kỹ thuật, văn hoá giáo dục cần phải tạo mọi điều
kiện về môi trường và sự ưu tiên để phát huy trí tuệ, tài năng của các nhà khoa học.
Có những chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút chất xám của đội ngũ trí thức. Cần
có những quy định cụ thể để khuyến khích tự do nghiên cứu, phát minh, sáng tác,
phê bình… nhằm nâng cao trách nhiệm của nhân dân. Xây dựng và hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là một bộ phận của xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Mỗi bước phát triển của dân chủ hoá xã hội là một điều
kiện thuận lợi cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Làm tốt việc này chính là
góp phần tạo ra một động lực tổng hợp cho sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời
kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.2.4. Tăng cƣờng công tác đấu tranh phòng và chống tham nhũng
Tình hình tham nhũng hiện nay diễn ra rất phức tạp, ở nhiều lĩnh vực và có
xu hướng tăng về quy mô, tính chất ngày càng nghiêm trọng. Bởi vậy, cần
phải có những quy chế cụ thể, nề nếp, nhanh chóng khắc phục mọi biểu hiện quan
liêu, tham nhũng, xử lý nghiêm những hành vi nhũng nhiễu cần tiến hành đấu tranh
kiên quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống tham nhũng như sau: -
Đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức bảo đảm thu
nhập,đãi ngộ thoả đáng, kích thích được tính tích cực phấn đấu của cán bộ, công
chức, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước, cán bộ công chức tận tâm
với công việc, không tham nhũng. -
Công khai, minh bạch tài sản, thu nhập và hoạt động của cơ quan,
tổchức. Phải thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản, thu nhập và xác minh bản kê
khai theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng. -
Xử lý nghiêm minh người có hành vi tham nhũng cũng như những
ngườiđứng đầu cơ quan, tổ chức để xảy ra hành vi tham nhũng sẽ nâng cao trách
nhiệm của họ trong việc điều hành, quản lý cơ quan, tổ chức, đơn vị mình.
Tổ chức thực hiện tốt các cơ chế, chính sách đã có về quản lý kinh tế, xã
hội, cải cách hành chính; tiếp tục nghiên cứu, bổ sung một số chủ trương mới nhằm
hoàn thiện cơ chế quản lý, phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. lOMoARcPSD| 36443508
2.2.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đáp ứng yêu cầu
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước là một yêu cầu tất yếu trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, những giải pháp về vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ
gồm : - Xây dựng và thực hiện tốt chiến lược và quy hoạch cán bộ. Trong đó chú
ý xây dựng cơ cấu cán bộ cấp chiến lược; cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, công
nghệ có trình độ cao; cán bộ cơ sở, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, cán
bộ trẻ, cán bộ là con em các gia đình có công với nước, cán bộ xuất thân từ công
nhân trong các cấp uỷ, tạo nguồn cán bộ. Đào tạo chuyên sâu cho các cán bộ làm
việc ở vùng sâu vùng xa. - Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
bảo đảm nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, thành
thạo kỹ năng quản lý điều hành. - Đổi mới cơ chế đánh giá, tuyển dụng cán bộ,
công chức bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan, khoa học để đánh giá đúng
đắn, bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ hợp lý, tuyển dụng đúng người đáp ứng được
yêu cầu công việc. - Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, công
chức. Thủ trưởng cơ quan và bộ phận làm công tác tổ chức cán bộ, phải nắm vững
đội ngũ cán bộ, công chức của mình, thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát
công việc của họ để đánh giá đúng đắn, bố trí hợp lý, có chế độ chính sách thích
hợp và ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực ở họ. - Có những đãi ngộ hấp dẫn và
thích đáng cho người có tài, có công với đất nước. Tạo mọi điều kiện để những
người có tài năng có cơ hội mà môi trường để phát triển, tránh hiện tượng “chảy máu chất xám”.
2.3. Tiểu kết:
Mục tiêu của xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là xây dựng
một nhà nước thực sự của dân, nhà nước của khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là công việc khó khăn cả về lý luận và thực tiễn. Việc tổ chức
xây dựng nhà nước pháp quyền trên cơ sở đổi mới và hoàn thiện nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải cùng
cố gắng, vạch định những bước đi thích hợp, thực hiện đồng bộ các giải pháp. Do
đó, việc nghiên cứu để chỉ ra những thành tựu và hạn chế của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hết sức cần thiết. Điều đó góp phần
cung cấp căn cứ khoa học, giúp Đảng và Nhà nước xây dựng những chính sách,
biện pháp thực hiện dân chủ xã hội ngày càng tốt hơn. Về phía bản thân, mỗi một
người dân cần nâng cao sự hiểu biết về chính sách, pháp luật và có ý thức phát huy
quyền làm chủ của mình, tích cực tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, kiên
quyết đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, vi phạm dân chủ ở cơ sở góp
phần thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng đã đề ra. Chấp hành tốt những quy định của Đảng và nhà nước, đặc biệt là
trong công cuộc phòng chống dịch bệnh Covid. Đồng thời, luôn nâng cao tinh thần
cảnh giác, đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch cố
tình xuyên tạc về tình hình dân chủ ở nước ta hiện nay. 3. Kết luận lOMoARcPSD| 36443508
Để duy trì và phát triển xã hội, thì vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa là
cực kỳ quan trọng và ngày càng quan trong. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tổ
chức và quản lý để bảo vệ được độc lập tự chủ, an ninh trật tự, đồng thời xây dựng
những điều kiện, tiền đề cho xã hội mới. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải quản lý
để nhân dân được sống ấm no, yên bình, kinh tế phát triển với tốc độ nhanh và bền
vùng. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là người dẫn đường cho dân vừa là người phục
vụ mọi hoạt động của xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thực hiện đầy đủ cả
chức năng công quyền và chức năng phục vụ xã hội, chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục, y tế, văn hoá thể thao, các hoạt động
cung ứng dịch vụ công cộng, phúc lợi xã hội.
Để nước là sớm thoát khỏi tình trạng chậm phát triển, dân năm 2020 cơ bản
trở thành một nước công nghiệp. Nhà nước ta phải xây dựng phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sử dụng và phát huy những tác động tích
cực của cơ chế thị trường để thúc đẩy phát triển kinh tế. Đồng thời, quản lý điều
khiển cơ chế thị trường, khác phục và hạn chế những tác động tàu cực, không để
cho thị trường vận động một cách tự phát, dẫn đến những mất cân đối và kinh tế,
những hệ quá xấu về xã hội.
Muốn thực hiện tốt những yêu cầu nhiệm vụ trên, đòi hỏi Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta phải phấn đấu nhiều hơn nữa, thực hiện tốt nhiều giải pháp: trong
đó coi giải pháp xây dựng và hoàn thiện nhà nước ta theo hướng nhà nước Pháp.
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một trong những
biện pháp hàng đầu và quan trọng nhất, góp phần có hiệu quả tạo nên những thành
lưu vô cùng to lớn sau hơn 20 năm đổi mới đất nước. Chúng ta tin tưởng rằng dưới
sự lãnh đạo của Đảng, với sự nỗ lực phần đầu bản bị của Nhà nước và nhân dân ta,
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dẫn số
được tiếp lúc xây dựng và trở thành hiện thực ở Việt Nam.
4. Tài liệu tham khảo
(1) (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.ST, H1991, tr.88).
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021).
http://eldata11.topica.edu.vn/HocLieu/TGL101/Giao
%20trinh/06_TGL101_Bai3_v1.0014103225.pdf.