






Preview text:
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM
Hình thức thi: tiểu luận không thuyết trình (TLOTT)
Tên học phần:
Đại Cương Văn Hóa Việt Nam
Mã lớp học phần: 23D3LAW51103801
Giảng viên giảng dạy: TS. Phạm Thành Tâm
Họ và tên sinh viên: Bùi Quỳnh Anh
Mã số sinh viên: 88231020101
ĐỀ BÀI: Bằng những kiến thức đã học về môn Đại cương văn hóa Việt Nam, anh, chị
hãy trình bày, phân tích: Những biểu hiện của tính trọng âm trong các lĩnh vực của văn
hóa Việt Nam (6đ). Theo anh (chị), hiện nay Việt Nam có cần phải chuyển đổi đặc
trưng văn hóa này không? Tại sao? (4đ)
Phần 1: Trình bày, phân tích: Những biểu hiện của tính trọng âm trong các lĩnh
vực của văn hóa Việt Nam.
1. Hiểu về văn hóa trọng âm và văn hóa trọng dương
Từ sự phát triển của lịch sử văn minh thế giới và hai luồng văn hóa chính là phương
Đông và phương Tây dẫn đến những nét nét đặc trưng rõ rệt trong nền văn hóa trọng
âm và văn hóa trọng dương. Hai nền văn hóa có những đặc điểm cơ bản và được phân
biệt theo những tiêu chí cơ bản dưới đây: Tiêu chí
Văn hóa phương Đông
Văn hóa phương Tây Âm tính là chủ yếu Dương tính là chủ yếu Nét đặc trưng
(văn hóa trọng âm)
(văn hóa trọng dương) Loại hình văn hóa Gốc nông nghiệp Gốc du mục Triết học tâm linh, tôn Khoa học tự nhiên, máy Xu hướng khoa học giáo móc kỹ thuật
Ứng xử với môi trường Hiếu hòa, dung hợp,
Hiếu chiến, độc chiếm, xã hội mềm dẻo cứng rắn
Chủ quan, cảm tính, kinh Khách quan, lý tính, thực Lối nhận thức, tư duy
nghiệm, tổng hợp và biện nghiệm, phân tích và siêu chứng hình Ứng
Di cư, cắm trại, thích đi xử với môi trường Định đây đi đó khám phá, tự nhiên cư, ổn định không ở cố định Đồng Địa bằng, nóng ẩm, hình, khí hậu Đồng thấp cỏ, lạnh, khô, cao
Trọng tình, trọng đức,
Trọng lý (luật lệ, nguyên Tổ chức cộng đồng
linh hoạt, dân chủ, trọng
tắc), trọng tài, trọng võ, cộng đồng trọng cá nhân
2. Những biểu hiện của tính trọng âm trong các lĩnh vực của văn hóa Việt Nam
Như đã đề cập ở trên hai vùng văn hóa lớn là phương Đông và phương Tây, thì Việt
Nam (ở góc tận cùng phía Đông-Nam) thuộc nền văn hóa nông nghiệp lúa nước.
Chính vì thế, văn hóa Việt Nam mang nặng tính trọng âm (thiên nhiều tính âm hơn là
tính dương). Sau đây là bảy lĩnh vực mà biểu hiện rõ nét tính trọng âm của người Việt: 1
2.1 Trong lối ứng xử với môi trường tự nhiên
Với loại hình văn hóa gốc nông nghiệp thì buộc người dân phải sống định cư, ở yên
một chỗ để chờ cây cối lớn lên, ra hoa, kết trái và thu hoạch. Điều này dẫn đến người
Việt có tính ưa ổn định và quan niệm “An cư lạc nghiệp” trong đời sống ngày nay.
Người Việt cho rằng trước khi muốn bắt tay vào một công việc làm ăn thì nên ổn
định nhà cửa, ổn định mái ấm riêng. Khi ổn định nơi ở rồi thì ta mới yên tâm để làm
việc và chăm sóc gia đình.
Nói cách khác, chỉ cần ta không "nay đây mai đó", có được một nơi ở, một công việc
ổn định và một gia đình êm ấm là đủ để ta có động lực làm việc hàng ngày. Chính vì
thế, khi cuộc sống ổn định thì việc gây dựng sự nghiệp mới trở nên hanh thông,
thuận lợi hơn. Điều này khác với lối suy nghĩ trọng dương ở nền văn hóa phương Tây
vì người phương Tây họ ưa sự di chuyển, tìm tòi, trải nghiệm, không thích sự bó buộc, ổn định.
2.2 Trong lối nhận thức, tư duy
Người Việt chịu ảnh hưởng bởi nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng
một lúc phụ thuộc vào tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời, trông đất, trông
mây, trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm,...) cho nên, về mặt nhận thức, hình
thành lối tư duy tổng hợp. Tổng hợp kéo theo biện chứng – cái mà người nông nghiệp
quan tâm không phải là các yếu tố riêng lẽ, mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng.
Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối quan
hệ giữa chúng. Vì thế, người Việt thường sống theo cảm tính và bên cạnh đó cũng đã
tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan hệ này: “Quạ
tắm thì ráo”; “Ráng mỡ gà, ai có nhà phải chống”; “Được mùa lúa thì úa mùa cau,
được mùa cau thì au mùa lúa”,...
2.3 Trong cách tổ chức gia đình
Trong truyền thống Việt Nam, tinh thần coi trọng ngôi nhà, coi trọng cái bếp, coi trọng
người phụ nữ là hoàn toàn nhất quán và rõ nét. Từ xưa đến nay, người phụ nữ luôn
được xem là người tay hòm chìa khóa trong gia đình, họ là người có trách nhiệm quản
lý kinh tế và nuôi dạy con cái trong gia đình. Chính bởi vậy mà người Việt Nam coi
“Nhất vợ nhì trời”; “Lệnh ông không bằng công bà”; “Phúc đức tại mẫu”; “Con dại cái
mang”,... Vì tầm quan trọng của người mẹ cho nên trong tiếng Việt, từ cái với nghĩa là
“mẹ” đã mang thêm nghĩa “lớn, chủ yếu, quan trọng”: “sông cái, đường cái, đũa cái,
trống cái, ngón cái,...”.
Một ví dụ điển hình là: nhiều dân tộc Tây Nguyên (Êđê , Giarai,..), người phụ nữ đóng
một vai trò quan trọng trong việc tổ chức gia đình: phụ nữ chủ động trong hôn nhân,
chồng về ở đằng nhà vợ, con cái được đặt theo họ mẹ,... Cũng không phải ngẫu nhiên
cho đến nay, người Khmer vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc của họ bằng mê phum,
mê sóc (mê=mẹ), bất kể đó là đàn ông hay đàn bà. 2
2.4 Trong cách tổ chức cộng đồng
Người Việt thì thiên hướng trọng tình, đa cảm. Đối với người Việt, mỗi khi xử lý mọi
vấn đề, họ luôn cân nhắc giữa hai bên tình và lý, ít khi nào chỉ xử lý công việc hoàn
toàn bằng lý trí. Thậm chí, trong một số tình huống nhất định, họ có khuynh hướng
đưa việc tư vào việc công hay thậm chí đặt yếu tố tình cảm lên trên hết. Một số câu ca
dao tục ngữ về việc trọng tình cảm: “Một trăm cái lý không bằng một tý cái tình”;
“Đưa nhau đi đến cửa quan. Bên ngoài là lý, bên trong là tình”; “Của tiền có có không
không. Có tình có nghĩa còn mong hơn tiền”,...
Với lối tư duy tổng hợp và biện chứng cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối
sống linh hoạt của người Việt. Luôn biết thay đổi, biến báo cho thích hợp với từng
hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến triết lý sống: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”; “Đi với bụt
mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”,...
Sống theo tình cảm, mỗi cá nhân còn phải biết tôn trọng và cư xử bình đẳng, dân chủ
với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc, nó có trước nền quân chủ phong kiến phương
Đông và nền dân chủ tư sản phương Tây. Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ
dẫn đến tâm lý coi trọng cộng đồng, tập thể. Người Việt làm gì cũng phải tính tập thể,
luôn có tập thể đứng sau. Tính trọng cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất. Do đồng
nhất (cùng hội, cùng thuyền, cùng cảnh ngộ) cho nên người Việt luôn sẵn sàng giúp đỡ
lẫn nhau trong những hoàn cảnh khó khăn : “Lá lành đùm lá rách”, “chị ngã em
nâng”,... Chính vì sự đồng nhất (giống nhau) này, người Việt luôn có nếp sống dân
chủ, bình đẳng trong xã hội.
2.5 Trong lối ứng xử với môi trường xã hội
Người Việt thì tính tình hiền hòa, bao dung. Điều đó thể hiện qua những câu ca dao
tục ngữ như: “Dĩ hòa vi quý”, hay tư tưởng “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí
nhân để thay cường bạo.” Người Việt với bản chất hiền hòa luôn chủ động hoà hợp,
khéo léo, thuận hoà trong cách đối nhân xử thế.
Bên cạnh đó, khi đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc, người Việt có
sức chịu đựng, nhẫn nhịn cao. Với lịch sử một ngàn năm đô hộ, trải qua các cuộc
kháng chiến đầy khốc liệt thì người Việt đã chiến đấu bền bỉ với tinh thần chịu đựng,
nhẫn nại vì sự độc lập, tự do của toàn dân tộc. Với phương châm “Trường kỳ kháng
chiến nhất định thắng lợi”, nhân dân ta đã chiến thắng hai cường quốc là Pháp và Mỹ.
Tinh thần chịu thương chịu khó, chịu đựng, nhẫn nại cao chính là nét đặc trưng của người Việt.
Hơn thế nữa, người Việt ta còn có lòng hiếu khách. Không quan trọng dù bạn giàu có
hay nghèo khổ, dù thân cận hay xa lạ, người Việt luôn niềm nở, thân thiện và tiếp đón
mọi người như thành viên trong gia đình. Lòng hiếu khách ấy còn được thể hiện qua
các câu ca dao tục ngữ: “Khách tới nhà không gà thì vịt”, “Đói năm không ai đói bữa”,
“Khách đến nhà không trà thì rượu”,... Đặc biệt, khi các du khách nước ngoài, nhất là
khách du lịch phương Tây đến tham quan Việt Nam, họ đều cảm thấy người Việt luôn
gần gũi, cởi mở dù chỉ mới gặp lần đầu. 3
2.6 Trong những công trình kiến trúc
Người Việt hay có kế hoạch kinh doanh buôn bán nhỏ, suy nghĩ nhỏ, cất nhà nhỏ,
không dám mơ cao, mơ xa vì sợ thử thách, chông gai, sợ bản thân không đủ sức mạnh
để có thể thực hiện được điều mình mong muốn. Người Việt thường sợ thất bại và
chưa có tấm nhìn đủ lớn, và chính những sự thiên về âm tính này làm cho người Việt
có những lối sống nhỏ: “Tiền ít tiền tiền nhiều, đủ ăn là được”, “Cầu vừa đủ xài”,...
Vì thế, những công trình, kiến trúc, sản phẩm của người Việt làm ra thường có xu
hướng nhỏ, tinh xảo, tỉ mỉ, hiếm khi chuộng cái to lớn, khổng lồ. Điều này khác với
những nét văn hóa trọng dương khi những thành phẩm được tạo ra thường có khuynh
hướng to lớn, khổng lồ, vĩ đại, cao ngất.
2.7 Trong văn học nghệ thuật
Người Việt có thiên hướng thơ ca. Với nền văn hóa nông nghiệp cùng bản tính tĩnh
tất thiên về trình bày các nội dung tâm lý, tình cảm với bút pháp biểu trưng và lối diễn
đạt cân xứng nhịp nhàng tất cả những đặc trưng đó chỉ có thể tìm thấy sự biểu hiện tập
trung trong thơ. Một ví dụ điển hình là: Trong những cuộc chiến tranh khốc liệt, nhờ
những lời thơ ca bay bổng trong các bài thơ như: “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây”,
“Đồng chí”,... đã tạo được nguồn động lực to lớn cho nhiều chú bộ đội trong cuộc
chiến chống Pháp và chống Mỹ. Với lời thơ ca mộc mạc, giản dị ấy dường như đã
chạm vào tất cả trái tim của những người lính trên chiến trường thảm khốc. Thơ ca đã
giúp những con người dũng cảm ấy quên đi nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương mà có thể
bước tiếp trên con đường đầy chông gai. Chính vì thế, những bài thơ cách mạng nói
riêng và thơ ca nói chung thường được các nhạc sĩ phổ thành nhạc và tạo được ấn
tượng sâu sắc trong lòng người Việt. Theo quan điểm riêng, em nghĩ rằng người Việt ta
hầu như ai cũng biết làm thơ là do văn hóa trọng âm, trọng tình cảm.
Phần 2: Hiện nay Việt Nam có cần phải chuyển đổi đặc trưng văn hóa này
không? Tại sao?
Theo em, văn hóa Việt Nam có những giá trị tích cực cần phải lưu giữ và phát huy.
Bên cạnh đó cũng còn những hạn chế nhất định cần phải chuyển đổi trong thời đại ngày nay.
Nói về những giá trị tích cực, có thể thấy văn hóa trọng âm góp phần to lớn trong việc
hình thành tính cách của người dân Việt Nam. Như đã phân tích ở trên, người Việt với
tính tình hiền hòa, bao dung, chịu thương chịu khó cộng với sự linh hoạt, mềm dẻo nên
biết cách thích nghi tốt với môi trường xung quanh. Hơn thế nữa, người Việt thiên
hướng trọng nữ vì họ hiểu được sự hy sinh cao cả của người phụ nữ dành cho chính
gia đình mình. Đặc biệt là những bà mẹ Việt Nam anh hùng, họ âm thầm lặng lẽ hi
sinh và đã hiến dâng những người thân yêu nhất của mình cho Tổ quốc. Thêm một đức
tính cần phải phát huy chính là lòng hiếu khách của dân Việt, điều này tạo cơ hội
không chỉ cho người dân mà còn cả đất nước cho sự hội nhập toàn cầu trong những
lĩnh vực như kinh tế, giáo dục, du lịch,... Ngoài ra, thiên hướng thơ ca cũng giúp người
dân Việt có tinh thần lạc quan và nguồn năng lượng tích cực để có thể bước qua được
những nốt trầm trong cuộc sống. 4
Bên cạnh những giá trị văn hóa tích cực cần được lưu giữ và phát huy, thì còn một số
đặc trưng cần phải chuyển đổi để phù hợp hơn với xã hội ngày nay. Như đã phân tích
ở phần một: người Việt thiên hướng trọng cộng đồng, tập thể và có tính đoàn kết, đây
là điều tốt. Nhưng cộng đồng kiểu làng xã là gây ra sự rào cản, bệnh sĩ diện, bệnh
thành tích... Tính cộng đồng, trọng tình cảm gây ra tật thiếu ý thức, không tuân thủ
pháp luật. Lối sống trọng tình, đa cảm làm cho thói tùy tiện trở nên trầm trọng hơn. Ví
dụ, trong nhiều công việc đặc thù, buộc ta phải có sự quen biết trước, quen “ông này
bà nọ” thì mới xin được việc, mới dễ dàng thăng chức, nó dẫn đến tệ nạn “đi cửa sau”
tràn lan tại Việt Nam. Theo GS. Trần Ngọc Thêm : “Sự kết hợp của nhiều đặc trưng
gây ra quốc nạn dối trá, tham nhũng... Vì vậy, phải thay đổi cộng đồng tình cảm bằng
cộng đồng lý trí; thay cộng đồng làng xã bằng cộng đồng xã hội, tức coi trọng quyền
lợi xã hội chứ không phải của một làng hay của một nhóm lợi ích. Trên cơ sở đó đề
xuất một hệ giá trị Việt Nam mới”.
Một đặc trưng văn hóa cần cải thiện chính là tính ổn định. Ổn định ở đây chính là đứng
yên tại chỗ, không chịu đổi mới, thiếu tinh thần cầu tiến. Muốn nhảy khỏi sự ổn định,
muốn phát triển, muốn đột phá thì cần phải cần có người giỏi, người tài để dẫn dắt đến
sự thành công. Nhưng trong cộng đồng người Việt thì thấy ai giỏi, vượt bậc hơn mình
là cố tình “dìm”, “kéo” người ấy xuống. Khi cả tập thể đã xúm vào "trị" anh giỏi mà
lãnh đạo lại là bù nhìn thì ông ta sẽ ngả theo số đông. Dẫn đến sự kìm hãm, phát triển
trong tập thể người Việt. Đó là phần lớn khiến nhiều nhân tài đất Việt phải từ chối môi
trường nhà nước và thậm chí xuất ngoại để có thể phát triển hết khả năng của mình.
Cũng vì vậy mà trong xã hô ̣i Viê ̣t Nam truyền thống, những ai đi tiên phong thì luôn
gặp vô vàn khó khăn và trắc trở. Cũng như Nguyễn Du từng đau đớn thốt lên:“Chữ tài
liền với chữ tai một vần”. Và cũng tính ổn định này, đa số cha mẹ người Việt thích con
dễ bảo, con nghe lời. Muốn con mình trở thành con ngoan, muốn con mình học trường
này, trường kia để có thể đi khoe với mọi người. Trong môi trường giao dục, thầy cô
thì dạy giống nhau, phải học thuộc lòng bài, làm bài tập đầy đủ, không thôi thì bị khẽ
tay. Hoàn thành hết những điều này thì học sinh mới trở thành trò giỏi. Điều này gây
nên sự kìm hãm sáng tạo của học sinh và rất khó để đào tạo ra những nhà bác học, nhà
khoa học xuất chúng. Vì họ chỉ biết làm theo khuôn mẫu, ngại đổi mới.
Với nền văn hóa trọng âm cộng với tinh thần coi trọng phụ nữ thì dân Việt có nhiều
điểm giống phụ nữ chính là “Tốt khoe, xấu che”. Người Việt thường rất ghét những lời
dị nghị, phê bình và rất thích lời khen, nịnh nọt. Chính vì thế, tính tự ái của người Việt
cao, không muốn ai phê bình hay chỉ ra những khuyết điểm của mình. Chính điều này
cũng là một trong những điểm cần khắc phục của đặc trưng văn hóa Việt Nam. Khác
với nền văn hóa trọng dương. Họ rất mạnh dạn nhận cái sai, họ không sợ lời phê phán
từ đó tích lũy được những kinh nghiệm để lần sau không tái phạm lại lần nữa.
Kết luận: Qua học phần Đại Cương Văn Hóa Việt Nam và qua hai câu hỏi trên. Em đã
có cái nhìn sơ lược nhất về những đặc trưng văn hóa trọng âm của người Việt. Có thể
dễ dàng thấy được nền văn hóa trọng âm đã tồn tại lâu đời và vẫn còn sức ảnh hưởng
nhất định trong thời đại ngày nay. Văn hóa trọng âm có những mặt tích cực và vẫn còn
một số mặt tiêu cực. Vì thế, ta cần có cái nhìn tổng quát nhất để lưu giữ những mặt
tích cực và giảm thiểu những mặt tiêu cực, tránh để ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. 5
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam, trang 22,23,24,25,54 – tác giả GS.TSKH Trần Ngọc Thêm
2. https://thethaovanhoa.vn/gs-tran-ngoc-them-nguoi-viet-thuoc-van-hoa-am-tinh-
nen-thu-dong-20130718130711043.htm
3. https://vietnamnet.vn/nguoi-viet-ua-ninh-thich-dim-tac-hai-den-dau- 208782.html
4. https://vietnamnet.vn/lam-the-nao-vn-co-nhung-cu-thay-doi-ngoan-muc- 208788.html
5. https://tailieu.vn/doc/tieu-luan-triet-hoc-hoc-thuyet-am-duong-va-van-hoa-
trong-am-cua-nguoi-viet-2447137.html 6
Document Outline
- 2.1 Trong lối ứng xử với môi trường tự nhiên
- 2.2 Trong lối nhận thức, tư duy
- 2.3 Trong cách tổ chức gia đình
- 2.4 Trong cách tổ chức cộng đồng
- 2.6 Trong những công trình kiến trúc
- 2.7 Trong văn học nghệ thuật