







Preview text:
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM
Họ và tên : Đỗ Thụy Trúc Linh MSSV : 31211026166 Mã
lớp : 22D1LAW51103804 HP Tên HP
: Đại cương Văn hóa Việt Nam Giảng : Phạm Thành Tâm viên
TP. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 04 năm 2022. MỤC LỤC
Phần 1: Những biểu hiện của tính linh động, linh hoạt trong các lĩnh vực của văn hóa
Việt Nam ..................................................................................................................... 1
1.1. Linh động, linh hoạt trong định vị văn hóa Việt Nam ......................................... 1
1.1.1. Trong nền văn hóa gốc nông nghiệp ............................................................ 1
1.1.2. Trong văn hóa giao tiếp ............................................................................... 1
1.1.3. Trong nghệ thuật ngôn từ Việt Nam ............................................................. 1
1.1.4. Trong nghệ thuật thanh sắc và hình khối ...................................................... 2
1.2. Linh động, linh hoạt trong văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên ................... 2
1.2.1. Trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt .................................................... 2
1.2.2. Trong cách mặc ........................................................................................... 3
1.2.3. Trong cách ở ................................................................................................ 3
1.3. Linh động, linh hoạt trong văn hóa ứng xử với môi trường xã hội ...................... 4
1.3.1. Phật giáo và văn hóa Việt Nam .................................................................... 4
1.3.2. Văn hóa phương Tây và văn hóa Việt Nam .................................................. 4
1.3.3. Ứng phó trong quân sự và ngoại giao ........................................................... 4
Phần 2: Hiện nay Việt Nam cần chuyển đổi hay tiếp tục đặc trưng văn hóa này? Tại
sao?.............................................................................................................................. 5
TÀI LIỆU KHAM KHẢO ........................................................................................... 6
Phần 1: Những biểu hiện của tính linh động, linh hoạt trong các lĩnh vực của văn
hóa Việt Nam.
1.1. Linh động, linh hoạt trong định vị văn hóa Việt Nam
1.1.1. Trong nền văn hóa gốc nông nghiệp
Việt Nam do ở góc tận cùng phía đông nam nên thuộc loại hình văn hóa gốc
nông nghiệp điển hình. Vì sống bằng nghề nông, nhất là nông nghiệp lúa nước nên nền
kinh tế Việt Nam xưa phụ thuộc hoàn toàn vào các hiện tượng tự nhiên (trông trời,
trông đất, trông mây, trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm…) nên trong nhận
thức người Việt luôn phải chuẩn bị sẵn sàng để linh hoạt thích ứng kịp thời các yếu tố
thuận lợi cũng như bất lợi từ khách quan mang đến. Do vậy, cách thức tư duy của
người dân cần phải có sự kết hợp mềm dẻo giữa kinh nghiệm, cảm tính và mềm dẻo
trong đối phó (quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; được mùa lúa, úa mùa cau, được mùa cau thì đau mùa lúa…)
1.1.2. Trong văn hóa giao tiếp
Bản chất con người chỉ bộc lộ qua trong giao tiếp nên ta cần xét kỹ càng
phương diện này để có thể nhìn thấy rõ nét đặc trưng này trong văn hóa Việt Nam.
Người Việt Nam vừa thích giao tiếp, lại vừa rụt rè khi giao tiếp. Trước hết, với những
mối quan hệ quá quen thuộc hay thân cận thì người Việt luôn rất đề cao và coi trọng
việc giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp đó cho dù đó là bất kỳ ai với địa vị nào trong cộng
đồng. Để có thể duy trì sự thân thuộc này, người Việt có nhu cầu được gặp gỡ, trò
chuyện để thể hiện cảm tình vì bản thân người Việt luôn cảm thấy mình cần có trách
nhiệm phải quan tâm đến người khác. Khi có khách viếng thăm, dù lạ hay quen dù
thân hay sơ thì người Việt luôn muốn đối đãi với họ chu đáo nhất, đặc biệt đối với
những miền quê hay vùng núi xa xôi, họ xem đó là một điều biết ơn bởi họ xem trọng
nghĩa tình và luôn cho rằng ai đến nhà mình thì đó đều là một điều đáng quý. Thế
nhưng trong mắt bạn bè quốc tế thì tinh cách của đại đa số người Việt có phần hướng
nội, rụt rè. Sự tồn tại đồng thời của hai tính cách trái ngược nhau này bắt nguồn từ hai
đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị: khi đang ở trong
phạm vi của cộng đồng quen thuộc, nơi tính cộng đồng ngự trị thì người Việt Nam sẽ
tỏ ra xởi lởi, thích giao tiếp. Còn khi ở ngoài cộng đồng, trước những người lạ, nơi
tính tự trị phát huy tác dụng thì người Việt Nam, ngược lại, sẽ tỏ ra rụt rè. Đó là hai
mặt tuy ngược nhau nhưng cùng khắc họa nên tính linh động của cộng đồng người
Việt trong văn hóa giao tiếp ứng xử khi mà với những đối tượng khác nhau thì họ luôn
có cách cư xử khác nhau để có thể thích nghi, tìm ra tính cách và đối tượng giao tiếp
phù hợp nhất với bản thân mà không khiến người khác nền văn hóa cảm thấy choáng
ngợp. Nghi thức trong các cách nói lịch sự cũng rất phong phú, vì văn hóa nông
nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không gian, nên người Việt Nam phân biệt kỹ
các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm. vì họ cho rằng từng lời ăn,
tiếng nói đều mang sắc thái riêng và người đối diện dễ dàng cảm nhận được những
điều họ muốn gửi gắm qua từng câu xin lỗi hay cảm ơn với những cách nói khác nhau
trong những trường hợp khác nhau.
1.1.3. Trong nghệ thuật ngôn từ Việt Nam
Ngay từ hệ thống ngữ pháp mà người Việt Nam sử dụng cũng đã luôn mang
đầy tính linh động, linh hoạt khi mà họ chú trọng việc sử dụng các từ ngữ theo lối biểu
hiện ý nghĩa và quan hệ của nó thay vì sử dụng máy móc một cấu trúc nhất định mà
đòi hỏi phải đầy đủ tất cả các thành phần thì mới mang lại ý nghĩa của câu nói. Thay
vào đó, tùy theo ý đồ của người nói, điều anh ta muốn chú trọng vào mà anh ta có thể 1
diễn đạt, không diễn đạt hay diễn đạt nhiều lần một ý nghĩa ngữ pháp nào đó. Chính vì
linh hoạt như vậy mà tiếng Việt có khả năng khái quát rất cao, có thể nói một câu
không thời, không thể, không ngôi. Tính động, linh hoạt của ngôn từ Việt Nam còn
bộc lộ ở chỗ trong lời nói, người Việt rất thích dùng cấu trúc động từ và cấu trúc chủ
động, trong một câu có bao nhiêu hành động thì có bấy nhiêu động từ, người Việt Nam
thậm chí dùng cấu trúc chủ động ngay cả trong câu bị động. Như vậy, có thể nói rằng
trong giao tiếp, người Việt có thiên hướng nói đến những nội dung tĩnh (tâm lý, tình
cảm, dẫn đến nghệ thuật thơ và phương pháp biểu trưng) bằng hình thức động (cấu
trúc động từ, ngữ pháp ngữ nghĩa linh hoạt).
1.1.4. Trong nghệ thuật thanh sắc và hình khối
Nhạc cụ đàn bầu của Việt Nam cũng khắc họa rõ nét tính linh hoạt bởi muốn
chơi một cách thuần thục nhất thì người chơi đàn phải luyện tập cách phối hợp nhịp
nhàng cả hai tay để tạo ra muôn vàn những âm thanh, âm sắc, thể hiện những cảm xúc
âm tính, phù hợp với tâm hồn Việt Nam. Nghệ thuật thanh sắc Việt Nam còn cho thấy
rõ tính linh hoạt của văn hóa nông nghiệp bởi cùng là một lĩnh vực âm nhạc truyền
thống nhưng mọi nhạc công có thể tùy ý biến hóa, sáng tạo, phát triển tư duy âm nhạc
của mình, chỉ cần khi bắt đầu và khi kết thúc giống nhau và chơi đúng theo hơi quy
định. Tương tự như thế với sân khấu truyền thống, người diễn viên sẽ không bao giờ bị
quở trách khi không bám chặt từng lời thoại, hành động được nêu sẵn trong kịch bản.
Chỉ cần họ mang đúng tinh thần của nhân vật lên chiếc sân đình, thổi được cái hồn, cái
mạch cảm xúc của nhân vật đến cho người xem, tạo được hiệu ứng là những lời bình
phẩm trực tiếp vọng đến từ bên ngoài thì đó chính là một tác phẩm thành công, đó
cũng là nguyên nhân khiến việc những người xem tại những thời điểm khác nhau có
những trải nghiệm khác nhau khi việc linh hoạt biến báo cho phù hợp từng thời điểm
của người nghệ sĩ dễ dẫn đến việc xuất hiện các dị bản.
1.2. Linh động, linh hoạt trong văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
1.2.1. Trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt
Trong ăn uống của người Việt Nam, tính biện chứng thể hiện ở sự linh hoạt,
bữa cơm Việt không chỉ đa dạng trong thành phần món ăn, món ăn mà còn về cả cách
ăn. Là một trong những trung tâm trồng trọt, Việt Nam có một danh mục rau quả mùa
nào thức ấy, phong phú vô cùng. Bên cạnh đó là các loại gia vị đa dạng hay những loại
đồ uống - hút truyền thống hầu hết đều là những sản phẩm cổ truyền của nghề trồng
trọt Đông Nam Á. Trong số đó có trầu cau là phong tục cực kỳ lâu đời ở Việt Nam
miếng trầu gồm một miếng cau, một lá trầu quệt vôi, một miếng vỏ cây chát (gọi là
miếng rể), ăn trầu chỉ nhai mà không nuốt thể hiện một tính cách linh hoạt hiếm thấy-
không phải ăn, không phải uống, cũng không phải hút! Ăn theo lối Việt Nam là một
quá trình tự do tổng hợp các món ăn theo ý thích, chính vì vậy mà có bao nhiêu người
ăn trên một mâm cơm là có bấy nhiêu cách tổng hợp khác nhau - đó là cả một khuôn
khổ rộng rãi đến kì lạ cho sự linh hoạt của con người. Giả dụ trong một mâm cơm cơ
bản gồm có 4 món ăn thì người ăn có thể có vô số khả năng lựa chọn cách ăn khác
nhau: người ăn có thể ăn cả 4 món, 3 món, 2 món hoặc chỉ 1 món trong số đó. Người
dân Việt Nam còn có truyền thống linh hoạt kết hợp những yếu tố âm – dương của
những nguyên liệu tạo nên sự hài hòa nhất cho món ăn. Chẳng hạn, gừng tính nhiệt
(dương), cho nền thường dùng kèm với những thực phẩm có tính hàn như bí đao, rau
cải, cải bắp, cá, thịt vịt…(rau cải nấu canh với gừng, thịt vịt chấm với nước mắm
gừng. Họ xem trọng sự cân bằng, điều này là nguyên nhân làm đa dạng văn hóa ẩm
thực theo từng vùng miền khi mà ở mỗi khu vực hay địa phương đều có những nguyên 2
liệu khác nhau hay thời tiết khác nhau, do vậy những yếu tố này dù khách quan nhưng
cũng đã chi phối, phân hóa rõ nét khẩu vị, nguyên liệu tạo nên sự đặc trưng riêng biệt.
Bên cạnh đó, ngay từ trong dụng cụ ăn uống, người Việt Nam truyền thống
cũng thể hiện rõ tính linh hoạt qua việc sử dụng dụng cụ ăn là đôi đũa, Ăn bằng đũa là
cách ăn đặc thù mô phỏng động tác của con chim nhặt hạt, xuất phát từ thói quen ăn
những thứ không thể nào dùng tay bốc hoặc mó tay vào được (như cơm, cá , nước
mắm. . ) của cư dân Đông Nam Á, một điều kiện thuận lợi khác hình thành lối ăn bằng
đũa chính là khu vực này từ xa xưa vốn có sẵn tre làm vật liệu. Đôi đũa có thể giúp họ
linh hoạt điều chỉnh khoảng cách phù hợp với độ xa, gần của món ăn trên bàn ăn, bên
cạnh đó còn thực hiện một cách tổng hợp và cực kỳ linh hoạt hàng loạt chức năng
khác nhau: gắp, và, xé, dầm, khoắng, trộn, vét…các thao tác này dường như là tất cả
những gì ta cần làm trong bữa ăn nhưng đã được gói gọn lại chỉ với một đôi đũa có cấu tạo vô cùng đa dạng.
1.2.2. Trong cách mặc
Tại Việt Nam, ăn mặc không chỉ đơn giản là làm kín đáo, làm đẹp mà còn được
linh hoạt, linh động biến đổi sao cho có thể dễ dàng sinh hoạt nhất trước các điều kiện
tự nhiên chính là khí hậu nhiệt đới nóng ẩm và công việc trồng lúa nước. Đồ mặc phía
dưới truyền thống của phụ nữ là váy, nam giới là chiếc khố. Hai vật này mang tính tiêu
biểu vì nó mặc mát, phù hợp với công việc đồng áng, và khí hậu nóng bức. Quần sau
đó du nhập vào nước ta được cải biến linh hoạt thành quần lá tọa, thiết kế này ra đời là
một sáng tạo tuyệt vời khi nó chẳng kém gì váy hay khố trong việc mang lại cảm giác
mát mẻ, nó còn rất thích hợp với lao động đồng áng - nhờ có đũng sâu nên ở mỗi loại
ruộng khác nhau (ruộng cạn, ruộng nước, nước nông, nước sâu) người ta có thể điều
chỉnh cho ống quần cao hoặc thấp rất dễ dàng bằng cách kéo cạp (lưng) quần lên hoặc
xuống. Các dịp lễ hội, nam có quần ống sớ, nữ có áo dài, đó là những hình ảnh đẹp
trong văn hóa Việt mà luôn được lưu giữ và quảng bá rộng rãi đến tận ngày nay. Do
ảnh hưởng giao lưu với phương Tây, chiếc áo dài cổ truyền được cải tiến dần thành
chiếc áo dài tân thời. Đàn ông vào dịp hội hè cũng mặc áo dài, thường là áo the đen.
Giới thượng lưu thì mặc áo dài cả trong sinh hoạt thường ngày. Các loại phụ kiện
cũng được đa dạng hóa để phù hợp với nhu cầu sử dụng, thắt lưng ban đầu có mục
đích giữ cho đồ mặc trên và dưới khỏi tuột, rồi phát sinh thêm mục đích giữa dài cho
gọn, và tôn tạo cái đẹp cơ thể của phụ nữ hay thắt lưng bao còn được các chị em ưu ái
sử dụng làm chiếc túi đựng đồ vặt. Vì nước ta có thời tiết nóng ẩm lại lắm nắng nhiều
mưa nên nét chung của nón là rộng vành (để chống nóng) và có mái dốc (để thoát
nước nhanh, che mưa), chúng đều được thiết kế kèm theo quai để giữ chặt trước các
cơn gió lốc khi mưa kéo đến nhằm thích nghi triệt để với môi trường tự nhiên.
1.2.3. Trong cách ở
Ngôi nhà Việt Nam truyền thống cũng mang những lối kiến trúc rất động và
linh hoạt trước hết thể hiện ở lối kết cấu khung. Cốt lõi của ngôi nhà là một bộ khung
chịu lực tạo nên bởi các bộ phận liên kết với nhau trong một không gian ba chiều: theo
chiều đứng, trọng lực của ngôi nhà phân bố đều vào các cột và dồn xuống các viên đá
tảng kê chân cột; theo chiều ngang, các cột được nối với nhau bằng các kẻ tạo nên các
vì kèo; theo chiều dọc, các vì kèo được nối với nhau bằng các xà tạo thành bộ khung.
Không cần đến móng, tường; tường đất, vách nứa, ván bưng chỉ để che nắng mưa chứ
không chịu lực. Tất cả các chi tiết của ngôi nhà được liên kết với nhau bằng mộng.
Mộng là cách ghép theo nguyên lý âm dương phần lồi ra (hình đuôi cá) của một bộ
phận này với chỗ lõm vào có hình dáng và kích thước tương ứng ở một bộ phận khác. 3
Kỹ thuật ghép mộng áp dụng cho mọi đồ mộc truyền thống, từ nhà đến giường tủ, bàn
ghế… tạo nên sự liên kết rất chắc chắn nhưng lại rất động và linh hoạt. Khi cần di
chuyển hoặc thay thế một bộ phận bị mối mọt thì có thể tháo dỡ ra để sửa chữa rất dễ dàng.
1.3. Linh động, linh hoạt trong văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
1.3.1. Phật giáo và văn hóa Việt Nam
Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ sớm thế nhưng người Việt luôn không
ngừng biến đổi và phát triển một lịch sử Phật giáo cho riêng mình: nàng Man trở thành
Phật mẫu và đứa con gái của nàng đã hóa thân vào đá trở thành Phật tổ mang ngày
sinh là 8-4 được biết đến là ngày Phật Đản. Người Việt đề cao đời sống và việc làm
thiết thực nên họ coi trọng việc sống thế nào cho đúng đắn, trung thực, mang đến
nhiều phúc đức hơn là đến chùa, đồng thời Đức Phật được đồng nhất với những vị thần
trong tín ngưỡng truyền thống có khả năng cứu giúp mọi người thoát mọi tai họa. Vì
truyền thống biết ơn, có hiếu và coi trọng đạo nghĩa, người Việt cho rằng việc tu hành
trước hết phải làm tròn bổn phận của người con, vì vậy họ chú tâm thờ phụng tổ tiên,
cha mẹ và đồng nhất thờ tổ tiên với thờ Phật: tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ
mới là chân tu. Cũng chính từ sự cải biến đạo Phật cho phù hợp với truyền thống thờ
cúng tổ tiên mà người Việt đã cho ra đời Phật giáo Hòa Hảo hay còn gọi là đạo Hòa
Hảo, lấy pháp môn tịnh độ làm căn bản từ đó kết hợp với đạo ông bà cho ra đời thuyết
tứ ân – trong đó ơn cha mẹ được xếp vị trí đầu tiên là tiền để hoàn thiện các ơn khác
Tượng Phật Việt Nam mang dáng dấp hiền hòa với những tên gọi rất dân gian: ông
nhịn ăn mà mặc (Tuyết sơn), ông nhịn mặc mà ăn ( Di lặc),…nhiều pho tượng Phật
được tạc theo lối ngồi chân co chân duỗi mang đậm chất làng quê Việt, trên đầu Phật
Bà chùa Hương còn lấp ló cả lọn tóc đuôi gà truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Ngôi
chùa Việt Nam được thiết kế theo phong cách ngôi nhà cổ truyền với hình thức mái
cong có ba gian hai chái, năm gian hai chái…cùng với mái đình, ngôi chùa trở thành
công trình công cộng quan trọng thứ hai ở mỗi làng.
1.3.2. Văn hóa phương Tây và văn hóa Việt Nam
Ngay cả về linh vực Kitô giáo là một bộ phận quan trọng, được biến đến với
những nhà thờ mang đậm chất văn hóa phương Tây cũng được cộng đồng người Việt
thâu hóa, biến đổi linh hoạt nhằm làm phong phú, đa dạng văn hóa Việt Nam. Một
trong những nhà thờ đầu tiên tại Việt Nam là nhà thờ Phát Diệm Lại xuất hiện dưới
dạng kiến trúc dân tộc thấp trải rộng có mái cong, đức mẹ Maria cũng được người Việt
sùng kính ở một vị trí khác biệt hoàn toàn so với ở phương Tây bởi truyền thống trọng
nữ, người Việt theo đạo Kitô đã và đang xây dựng cho mình truyền thống kính Chúa,
yêu Nước và đề cao sống phúc âm trong lòng dân tộc.
Từ cuối thế kỉ XIX, đô thị Việt Nam Từ mô hình đô thị cổ truyền với chức năng
trung tâm chính trị đã chuyển sang phát triển theo mô hình đô thị công - thương nghiệp
chú trọng chức năng kinh tế. Ở các đô thị lớn dần hình thành một tầng lớp tư sản dân
tộc; nhiều ngành công nghiệp khác nhau lần lượt ra đời, các đô thị và thị trấn nhỏ cũng
dần phát triển. làm xuất hiện các kiến trúc đô thị kết hợp khá tài tình phong cách
phương Tây với tính cách dân tộc, phù hợp với điều kiện thiên nhiên Việt Nam. Chính
sự dung hòa, hiếu hòa, linh hoạt đã làm các yếu tố văn hóa ngoại lai sau khi được tiếp
nhận không hề xung đột. mà được biến đổi và phát triển sao cho hài hòa nhất.
1.3.3. Ứng phó trong quân sự và ngoại giao
Trải qua vô số những cuộc chiến tranh để có thể giữ gìn nền độc lập dân tộc,
người Việt đã rèn giũa cho mình lối tư duy biện chứng và cách ứng xử linh hoạt, là cơ 4
sở cho việc hình thành chiến thuật chiến tranh du kích. Đây là lối đánh mà liên tục
thay đổi về cách thức, thời gian, địa điểm, mang đến những bất ngờ mà kẻ địch không
tài nào lường trước được bước đi tiếp theo của quân ta. Chiến tranh du kích chính vì
thế bắt buộc phải khiến kẻ thù phải ở thế bị động, luôn phải chuẩn bị đối phó với sự
sáng tạo và tinh hoạt của quân dân Việt Nam. Trên lĩnh vực ngoại giao, phương châm
dĩ bất biến ứng vạn biến là Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nêu ra đã phản ánh chính xác
cách ứng phó hết sức cơ động, linh hoạt trên cơ sở nắm vững mục tiêu và kiên trì
những nguyên tắc cơ bản của mình, không cứng nhắc bởi bối cảnh thế giới luôn thay
đổi từng ngày và người đứng ở vị trí là người ngoại giao phải luôn sẵn sàng thích ứng kịp thời.
Phần 2: Hiện nay Việt Nam cần chuyển đổi hay tiếp tục đặc trưng văn hóa này? Tại sao?
Hiện nay, Việt Nam cũng như toàn bộ các quốc gia lớn nhỏ khác trên thế giới
đang cùng nhau bước vào thời kì chuyển đổi số, là kỷ nguyên bùng nổ của công nghệ
và luôn đối mặt với những sự biến đổi không ngừng nghỉ của thời đại. Trước đây, con
người Việt Nam luôn phải linh hoạt để ứng phó với các điều kiện tự nhiên thì hiện tại
đặc trưng này trở thành một thế mạnh cho Việt Nam để có thể thích nghi với thời đại.
Khi duy trì tính linh động, linh hoạt này, Việt Nam luôn trong trạng thái sẵn sàng tiếp
nhận, thay đổi nhận thức, luôn cố gắng bắt kịp với sự phát triển toàn cầu, tạo điều kiện
đưa vị trí của nền kinh tế nước nhà lên một tầm cao mới. Khi sự giao thoa các nền kinh
tế ngày căng là yếu tố cần thiết để làm đa dạng và phát triển hơn. Nhờ tính cách hài
hòa, khả năng biến báo, lối sống linh hoạt mà trong quá trình phát triển, nền văn hóa
Việt Nam luôn có những bước chuyển rất mềm mại, mang tính nước đôi, các văn hóa
khi được du nhập vào Việt Nam đều được linh hoạt biến đổi sao cho vẫn mang nét đặc
trưng vốn có của văn hóa Việt chứ không cứng rắn và đứt đoạn như ở loại hình văn
hóa trọng động. Quan trọng hơn hết, nét đặc trưng này khi được áp dụng vào lĩnh vực
quân sự cũng như ngoại giao khiến Việt Nam có những tầm nhìn xa hơn, sáng tạo hơn
trong công cuộc gìn giữ nền độc lập đất nước. Điều này giúp Việt Nam luôn ở thế chủ
động, có những chiến lược đàm phán và chiến lược chiến đấu luôn thay đổi không
ngừng theo tình hình, điều này khiến các bạn bè quốc tế vô cùng nể phục khi một đất
nước nhỏ bé như thế lại có thể đánh bại các cường quốc rộng lớn xuyên suốt hành trình lịch sử.
Thế nhưng bất kì một vấn đề nào thì đều có hai mặt đối lập hoàn toàn, ta nên
duy trì đặc tính này vì những hệ quả tốt đẹp mà nó mang đến cho đất nước nhưng cũng
cần biến đổi để hạn chế tối đa những hậu quả mà nó có thể mang lại. Hội nhập quốc tế
đồng nghĩa với việc ta đặt vị trí của nước nhà ngang hàng với các quốc gia khác, tôn
trọng luật chơi, thỏa thuận và các điều lệ khác nhưng tinh linh hoạt vốn có khiến Việt
Nam nhiều lần có các hành vi phá huỷ hệ thống để thắng trong chi tiết, tạo ấn tượng
không tốt trên trường quốc tế. Truyền thống linh hoạt mang tính cụ thể hoá và đơn
giản hoá không chỉ tiềm ẩn những yếu tố gây ra những xung năng phản phát triển
trong văn hoá, mà có thể còn làm phân hoá cộng đồng trong xu hướng cá thể hoá, gây
mất ổn định về chính trị và kinh tế khi dễ xảy ra việc lệnh bên trên ban hanh nhưng
bên dưới tùy tiện làm khác đi. Điều này khiến những biểu tượng chung, những giá trị
chung, những phẩm chất chung, những chiến lược chung, những nhiệm vụ chung khi
đi vào thực tế cuộc sống dễ bị tính linh hoạt truyền thống phân huỷ biến thành những
nhiệm vụ đơn giản, những lợi ích cá nhân do mỗi người mỗi nơi lại "tuỳ", "lựa", "liệu"
theo cách của mình, đơn giản hoá nhiệm vụ theo sở thích riêng và thế mạnh riêng. 5
Truyền thống linh hoạt sáng tạo biện minh cho sự phá huỷ lý thuyết, phá hủy chiến
lược và phá huỷ tổ chức - lợi ích cá nhân phá huỷ lợi ích chung, là cấu trúc bề sâu của
tình trạng tham nhũng, hỗn loạn, bán lẻ đất nước, cơ hội và vọng ngoại khá phổ biến
hiện nay mà ta cần phải ra sức biến đổi để giảm thiểu những nguy cơ mà mặt trai của
đặc trưng văn hóa này mang lại.
TÀI LIỆU KHAM KHẢO
1. Phạm Thành Tâm (2021). “TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA
VIỆT NAM”, Đại học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh.
2. Đạo diễn Đỗ Minh Tuấn (2016), “Người Việt, văn hóa Việt linh hoạt và biến hóa
như Tôn Hành Giả”, Văn hóa Nghệ An số Xuân Bính Thân 2016,
https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/nguoi-viet-van-hoa-viet-linh-hoat-va- bien-hoa-ton-hanh-gia.html.
3. PGS, TS Lê Văn Toan (2022); “Những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam”,
https://mangtannha.com/cach-lam/tinh-linh-hoat-cua-nguoi-viet-nam-the-hien-qua/. 6
Document Outline
- MỤC LỤC
- 1.1. Linh động, linh hoạt trong định vị văn hóa Việt Nam
- 1.1.1. Trong nền văn hóa gốc nông nghiệp
- 1.1.2. Trong văn hóa giao tiếp
- 1.1.3. Trong nghệ thuật ngôn từ Việt Nam
- 1.1.4. Trong nghệ thuật thanh sắc và hình khối
- 1.2. Linh động, linh hoạt trong văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
- 1.2.1. Trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt
- 1.2.2. Trong cách mặc
- 1.2.3. Trong cách ở
- 1.3.3. Ứng phó trong quân sự và ngoại giao
- TÀI LIỆU KHAM KHẢO