------***------
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
VĂN HÓA ĐẠI CƯƠNG
Đề bài: Có quan điểm cho rằng: Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của
pháp luật và pháp luật được xây dựng trên những kinh nghiệm n hóa”’
Bằng những hiểu biết về n hóa và pháp luật, anh/ chị hãy phân tích và
chng minh nhận định trên
Họn sinh viên: Minh Châu
Mã sinh vn: 2113650002
Lớp hành chính: Anh 01 Luật KDQT
Lớp tín ch: NGOH102(GD1+2-HK2-2122)CLC.1
Khóa: 60
GVHD: Trần Th Thanh Thủy, Nguyễn Thị Mai
Nội, tháng 06 năm 2022
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................................. 1
I. SỞ LUN .................................................................................................................... 2
1. Văn hóa ................................................................................................................................. 2
1.1. Khái niệm nền văn hóa ...................................................................................................... 2
1.2. Đặc trưng chức năng văn hóa ....................................................................................... 3
1.2.1. Tính hệ thống......................................................................................................... 3
1.2.2. Tính giá tr ............................................................................................................. 3
1.2.3. Tính nhân sinh....................................................................................................... 3
1.2.4. Tính lịch sử ............................................................................................................ 3
1.3. Định vị văn hóa Việt Nam ................................................................................................. 4
2. Pháp luật ............................................................................................................................... 4
2.1. Giới thiệu chung về hệ thng pháp lut ............................................................................ 4
2.2. Nhng ngun của pháp luật .............................................................................................. 5
2.2.1. Khái niệm nguồn pháp luật.......................................................................................... 5
2.2.2. Những nguồn pháp luật bản ................................................................................... 5
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA PHÁP LUẬT QUA NHẬN ĐỊNH ........................ 6
1. Văn hóa sự ảnh hưởng ph biến rộng rãi đến pháp luật ............................................ 6
1.1. Văn hóa nền tảng để điều chnh, bổ sung cho pháp luật ............................................... 6
1.2. Văn hóa cầu nối giữa pháp luật đời sống hội ....................................................... 7
1.3. Văna bồi đắp nguồn ni dung của pháp luật ............................................................... 7
2. Nền pháp luật Việt Nam được chủ yếu xây dng từ kinh nghiệm văn hóa ......................... 8
2.1. Nhng yếu tố văn hóa ảnh hưởng đếnng cuộc xây dựng pp luật ............................. 8
2.1.1 .Tôn giáo ....................................................................................................................... 8
2.1.2. Đời sống văn hóa, tưởng ........................................................................................ 10
2.2. Nhng giải pháp đề xuất cho vấn đề văn hóa và pháp luật hiện nay.............................. 12
2.2.1. Những vấn đề còn tồn đọng ....................................................................................... 12
2.2.2. Giải pháp.............................................................................................................. 13
KẾT LUẬN .................................................................................................................................... 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 16
LỜI MỞ ĐẦU
Để đánh gia sự phát triển của một quốc gia, một trong những khía cạnh nét
nhất người ta nhìn vào chính văn hóa của một quốc gia đó. Văn hóa còn sức
mạnh nội sinh phát triển bền vững đất ớc, đóng vai trò là “hệ điều tiết” trong sự vận
động mọi mặt của đời sống. Nhận thức vai trò quan trọng của văn hóa trong sự
nghiệp cách mạng, Đảng luôn quan tâm đến văn hóa, coi đây một trong những
nhiệm vụ trọngm để phát triển quốc gia - dân tộc. đồng thời đi kèm với văn hóa,
pháp luật cũng mang một tầm quan trọng hết sức to lớn trong công cuộc xây dựng đời
sống văn hóa hội. pháp luật, hội mới đảm bảo được sự an toàn, tự do, công
bằng, dân chủ văn minh.
Khi được cái nhìn sâu sắc về văn hóa, ta sẽ thể được sự hiểu biết cặn
kẽ về pháp luật, knăng phân tích, duy pháp lý, hiểu được về nguồn của pháp
luật. Nếu coi văn hóa như nền móng xây dựng nền văn minh, đời sống hội phát
triển phong phú, hiện đại thì pháp luật chính những viên gạch bảo vệ, duy trì, xây
dựng những công trình kiên cố, đáp ứng mọi nhu cầu của hội hiện đại. Chính
vậy, nghiên cứu về văn hóa một trong những điều cùng cần thiết đối với những
người đã, đang và sẽ theo đuổi con đường pháp luật học.
Trong bài tiểu luận này, em sẽ dựa trên những sở luận, những thuyết
chung nhất về văn hóa và pháp luật, để rồi làm rõ nhận định:
“Văn hóa chính phổ rộng lớn nhất của pháp luật pháp luật được xây dựng dựa
trên những kinh nghiệm văn hóa.”
Qua những kiến thức đã học trong học phần Văn hóa đại cương cùng với những kiến
thức về pháp luật em đã tích lũy được từ các học phần trước, em sẽ kết hợp những
phương pháp nghiên cứu như: phân tích, thu thập dữ liệu, thu thập thông tin, so sánh
tổng hợp một cách phù hợp nhất để thể phân tích, nhìn vấn đề một cách sâu sắc
đa chiều.
I. SỞ LUẬN
1. Văn a
Đã bao giờ chúng ta tự hỏi sao hội của loài người phát triển một cách
ợt trội hơn so với hội của các loài vật khác? Có muôn vàn lý do cho sự phát triển
hiện đại, văn minh của hội con người ngày nay một trong những yếu tố điểm sắc
cho đời sống xã hội chính là văn hóa.
1.1. Khái niệm nền n hóa
Khi được hiểu theo nghĩa thông dụng, văn hóa để chỉ học thức (trình độ văn
hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt, văn hóa chỉ trình độ phát
triển của một giai đoạn lịch sử .Ví dụ như chúng ta thường nghe đến tên gọi nền văn
hóa Đông Sơn gắn liền với thời kỳ đồ đồng, đồ sắt sớm tại một số tỉnh Bắc Trung Bộ
tại Việt Nam. theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm tất cả, từ sản phẩm văn minh tới
đời sống tinh thần, phong tục tập quán, tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động,
pháp luật,... [1] của một xã hội con người.
Mặc vậy, thuật ngữ “văn hóa” vẫn tiếp tục gây tranh cãi bởi nội m trừu
tượng, đa nghĩa của nó.
Theo nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett Tylor, ông đã định nghĩa
về văn hóa vào m 1871: “Văn hóa một tổng thể phức hợp bao gồm tri thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục những năng lực hay tập quán
khác do con người có được với tư cách là thành viên của xã hội” [2]
Theo UNESCO, văn hóa lại được hiểu là: “Tập hợp những đặc trưng về tinh
thần, vật chất, trí tuệ và cảm xúc của một hội hay của một nhóm người trong
hội. Văn hóa chứa đựng bên cạnh nghệ thuật văn chương, cả cách sống, phương
thức chung sống, các hệ thống giá trị, các tập tục và tín ngưỡng.”
Theo Giáo Trần Ngọc Thêm, định nghĩa v văn hóa được hiểu như sau:
“Văn hóa một hệ thống hữu các gtrị về vật chất tinh thần do con người sáng
tạo tích lũy qua quá trình lao động thực tiễn, sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên hội.” dường như định nghĩa của Giáo đã được coi sở
cho quá trình nghiên cứu và phát triển văn hóa của Việt Nam ngày nay.
Qua những định nghĩa vvăn hóa trên, ta thể đúc rút ra được văn hóa bao
gồm tất cả các yếu tố cấu thành nên đời sống con người bao gồm đời sống tinh thần,
văn hóa, nghệ thuật, sinh hoạt, tâm linh, tôn giáo. Không chỉ vậy, còn được thể
hiện qua cách ứng xử của con người với thiên thiên, con người với con người và với
cộng đồng rộng lớn. Ngoài ra văn hóa n bao gồm phương thức thể hiện tri thức bản
địa, phương thức sinh kế. Văn hóa chính sản phẩm do con người tạo ra, thể chi
phối, quyết định sự tồn tại, bản sắc và sự phát triển bền vững của một cộng đồng
người. Để được cái nhìn rõ nét hơn về văn hóa, sau đây ta sẽ tìm hiểu về những đặc
trưng và chức năng của văn hóa
1.2. Đặc trưngchức năng văna
Mỗi quốc gia trên thế giới đều cho mình một nền văn hóa riêng mỗi nền
văn hóa lại sự đa dạng với muôn vàn những bản sắc riêng. Mặc vậy, nhìn chung
các nền văn hóa đều mang trong mình những đặc trưng cũng như chức năng riêng
trong xã hội đời sống con người. Vậy đó là những đặc trưng nào ?
I.2.1. Tính hệ thống
Đầu tiên đặc trưng này giúp phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các
hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa, những đặc điểm, quy tắc, quy luật hình
thành văn hóa. Nhờ đặc trưng này văn hóa đã thực hiện được chức năng tổ chức
hội. Văn hóa hiện hữu, bao trùm mọi lĩnh vực trong cuộc sống, đóng vai trò quy định
những suy nghĩ, tưởng và quy tắc trong đời sống con người. Chính tính hệ thống
của văn hóa đã làm tăng sự ổn định của hội, nền tảng xây dựng cho một hội
hiện đại, văn minh và phát triển.
1.2.2. Tính giá trị
Trong văn hóa, tính giá trị đã nêu ra các cách phân biệt đa dạng khác nhau,
đem lại góc nhìn đa chiều cho con người. Về mục đích, ta thể phân chia ra gtrị
về vật chất hoặc tinh thần. Về ý nghĩa, ta thể phân chia ra giá trị về đạo đức giá
trị về thẩm mỹ . về thời gian, giá trị được phân ra thành giá trị nhất thời giá trị
vĩnh cửu. Những cách phân chia trên giúp con người cái nhìn biện chứng vmột
nền văn hóa. Đặc trưng này mang chức năng điều chỉnh, gp hội cân bằng,
những sự điều chỉnh phù hợp, không ngừng hoàn thiện để thích ứng với môi trường.
Ngoài ra, góp phần định hướng những chuẩn mực, làm động lực phát triển cho
hội.
1.2.3. Tính nhân sinh
Qua đặc trưng này, văn hóa được hiểu cái tự nhiên được biến đổi bởi con
người, sự tác động của con người vào tự nhiên. Sự tác động ấy thể mang tính
vật chất, ví dụ như những hoạt động đẽo gỗ, khai thác than, khai thác dầu, Và đồng
thời, sự tác động ấy cũng thể mang tính tinh thần chẳng hạn những những câu
chuyện cổ dân gian, những truyền thuyết về những hiện tượng tự nhiên. Do mang tính
nhân sinh, văn hóa sự gắn liền mật thiết con người với con người. Qua đặc trưng
này, văn hóa được thực hiện chức năng giao tiếp. nếu ngôn ngữ hình thức của
giao tiếp thì văn hóa chính là nội dung của giao tiếp.
1.2.4. Tính lịch sử
Văn hóa sản phẩm của quá trình tích lũy qua nhiều thế hệ, thường
xuyên tự điều chỉnh phân bố các loại giá trị. Chính vậy truyền thống văn hóa
được đánh giá những gtrị khá ổn định. Đặc trưng này cũng giúp giá trị văn hóa
thực hiện được chức năng giáo dục của mình. Văn hóa thể hiện chức giáo dục không
chỉ qua những giá trị truyền thống mà còn qua những giá trị đang hình thành
1.3. Định vị văn hóa Việt Nam
Việt Nam một đất nước truyền thống văn hóa lâu đời với những phong tục
tập quán, nét đẹp văn hóa riêng biệt, đậm đà nét Á Đông. Ngoài những đặc trưng được
nêu trên, văn hóa Việt Nam có những đặc điểm đặc trưng, độc đáo.
Đầu tiên, Việt Nam nước nền văn hóa đa dạng với sự kết hợp từ 54 dân
tộc khác nhau, vậy nên văn hóa nước ta mang tính linh hoạt nhất định. Tuy vậy, đôi
khi sự linh hoạt lại trở nên tùy tiện ảnh hưởng đến tính tổ chức trong hội dân
chủ ngày nay.
Nước ta còn được biết đến nước loại hình văn hóa gốc nông nghiệp.
Chính vì vậy, trong cách đối xử với môi trường tự nhiên, con người luôn sự hòa
hợp và tôn trọng.
Về mặt nhận thức, người Việt Nam thường xem xét những mối quan hệ theo
phương pháp tổng hợp biện chứng, khác với phương pháp duy phân tích như những
nền văn hóa gốc du mục.
Về mặt tổ chức cộng đồng, con người Việt Nam luôn coi trọng tình nghĩa,
trọng đức, trọng văn, bởi từ xưa con người đã sinh sống theo một tập thể như làng, xã.
Chính vì vậy, tình nghĩa chính là yếu tố quan trọng giúp họ gn kết với nhau.
Chính vì đặc điểm ấy mà trong lối ứng xử với môi trường hội, con người đã
luôn duy trì nét ứng xử mm dẻo, hiếu hòa, “chín bỏ làm mười”, “dĩ hòa vi quý”.
2. Pháp luật
2.1. Giới thiệu chung về hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật Việt Nam tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên
tắc, định hướng và mục đích của pháp luật mối liên hệ mật thiết thống nhất với
nhau, được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật được thể hiện
trong các văn bản do quan nhà nước Việt Nam thẩm quyền ban hành theo những
hình thức, thủ tục nhất định để điều chỉnh c quan hệ hội phát sinh trên lãnh thổ
Việt Nam.[3]
Hiện nay, Việt Nam có hệ thống pháp luật phức tạp bậc nhất thế giới, hệ thống
này được đặc trưng bởi sự đồ sộ, rắc rối do có quá nhiều loại văn bản pháp luật được
ban hành, nhưng lại quá nhiều kẽ hở lỗ hổng, các quy định chồng chéo, mâu
thuẫn, thiếu đồng bộ với nhau, gây cản trở đè nặng lên người dân, doanh nghiệp.[4]
Về việc ban hành pháp luật, ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động
của các quan nhà nước thẩm quyền, các tổ chức hội khi được nhà nước trao
quyền thực hiện theo trình tự đã được quy định chặt chẽ thể hiện các bước, từng công
việc phải làm để đưa ra các văn bản quy phạm pháp luật, từ đề xuất sáng kiến lập
pháp, lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đến soạn thảo dự án văn
bản quy phạm pháp luật, thẩm định, thẩm tra dự án văn bản quy phạm pháp luật, công
bố, tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các quan, tổ chức, nhân, những tầng lớp dân
liên quan đến việc tổng hợp, phân tích, nghiên cứu tiếp thu ý kiến đóng góp, đến
trình quan nhà nước thẩm quyền xem xét, cho ý kiến hoặc thông qua dự án văn
bản quy phạm pháp luật.
Thông thường mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật lại một quy trình riêng,
tương thích, phù hợp với tính chất, vị trí, vai trò của quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành một loại văn bản quy phạm pháp luật riêng như luật khác pháp lệnh, pháp
lệnh khác nghị định của Chính phủ, khác thông tư của các bộ, ngành…
2.2. Những nguồn của pháp luật
2.2.1. Khái niệm nguồn pháp luật
Hiện nay tại Việt Nam, khái niệm nguồn luật được đề cập từ các góc độ mức
độ khác nhau trong các sách chuyên khảo, giáo trình, tạp chí, Nguồn của pháp luật
tất cả các căn cứ được các chủ thể thẩm quyền sử dụng làm sđể xây dựng,
ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc
pháp xảy ra trong thực tế.[5] Hiểu một cách khái quát nhất, nguồn của pháp luật là
tất cả các căn cứ được sử dụng m sở để xây dựng, giải thích, thực hiện và áp
dụng pháp luật.[6]
Như vậy, hiểu một cách đơn giản nhất vnguồn của pháp luật nơi m thấy
các quy phạm pháp luật. Việt Nam hiện nay 3 loại nguồn luật bản, đó là: văn
bản quy phạm pháp luật, tập quán pháp và tiền lệ pháp.
2.2.2. Những nguồn pháp luật bản
- Văn bản quy phạm pháp luật: Chịu ảnh hưởng bởi truyền thống pháp
châu Âu lục địa, Việt Nam rất chú trọng hình thức văn bản quy phạm
pháp luật. thể khẳng định “văn bản quy phạm pháp luật là nguồn phổ
biến nhất của pháp luật Việt Nam hiện nay, chúng điều chỉnh đa phần
các quan hệ xã hội”.[7]
- Tập quán pháp: theo từ điển Oxford, tập quán được hiểu “truyền
thống cách thức ứng xử được chấp nhận rộng rãi, được áp dụng đặc
biệt cho một hội nhất định, tại một địa phương nhất định hoặc trong
một thời gian nhất định.[8] tập quán pháp được hiểu hình thức pháp
luật nguồn gốc từ tập quán trên sở cho phép áp dụng tập quán của
quan nhà nước thẩm quyền, chủ thể áp dụng pháp luật vận dụng
tập quán cụ thể làm căn cứ để giải quyết các vụ việc”.
- Tiền lệ pháp: Tiền lệ pháp án lệ hai khái niệm điểm tương đồng
nhau, nhưng không đồng nhất. Trong các giáo trình các sở đào tạo
trong nước “Tiền lệ pháp hình thức Nhà nước thừa nhận các quyết
định của quan hành chính hoặc quan xét xử cấp trên khi giải quyết
các vụ việc cụ thể, làm cơ sở áp dụng đối với trường hợp tương tự”.[9]
Theo dòng thời gian, pháp luật nước ta đã được hình thành phát triển gắn
liền với sự ra đời và phát triển của Nhà nước, với đời sống của hội người dân.
Nguồn pháp luật cũng từ đó hình thành, góp phần làm nền tảng cho nền lập pháp,
hành pháp pháp nước ta. như đã phân tích bên trên, văn hóa chính là s bao
trùm, sự hiện hữu của mọi lĩnh vực yếu tố cốt yếu để hình thành nên một nhà nước
một xã hội phát triển. Chính vì vậy ta thể khẳng định rằng, văn hóa và pháp luật
một mối quan hệ mật thiết với nhau.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA PHÁP LUẬT QUA NHẬN
ĐỊNH
“Văn hóa chính phổ rộng lớn nhất của pháp luật pháp luật được xây
dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa.
Nhận định đã cho nhấn mạnh sâu sắc về mối quan hệ của văn hóa và pháp luật.
Nếu văn hóa tất cả những giá trị hình thành nên đời sống hội con người thì pháp
luật chính công cụ để duy trì sự phát triển và ổn định của hội. vậy, chúng
mang một mối quan hệ khăng khít, vừa hỗ trợ bổ sung cho nhau lại vừa mâu thuẫn với
nhau. Những nhà làm luật, những quan lập pháp mỗi quốc gia đều phải dựa vào
văn hóa, hiểu được bản chất gốc rễ của văn a, đời sống con người thì mới thể tạo
ra, ban hành những văn bản quy phạm pháp luật, những điều khoản tiến bộ, phù
hợp với thời đại.
1. Văn hóa sự ảnh hưởng phổ biếnrộng rãi đến pháp lut
Theo nhận định đã cho, văn hóa chính phổ rộng lớn nhất của pháp luật”.
Quả thật văn hóa chính “nhãn quan” của một cộng đồng dân tộc về thế giới tr
bao gồm vật chất tự nhiên, môi trường sống xung quanh những quy tắc ứng xử
tương ứng của cộng đồng,được coi như nguồn phổ biến, rộng rãi đóng vai trò
nền tảng trong quá trình xây dựng pháp luật. hội nào cũng cần pháp luật như một
công cụ điều chỉnh hành vi của con người trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống
trên thực tế, con người chịu sự điều chỉnh của văn hóa nhiều hơn pháp luật vì
con người luôn hành động theo tập quán, theo thói quen… . Dưới đây sẽ những
phân tích chứng minh cho sự phổ rộng của văn hóa đối với pháp luật
1.1. Văn hóa nền tảng để điều chnh, bổ sung cho pháp luật
Việt Nam ngày nay, sự phát triển các vùng miền, các dân tộc chưa được
đồng đều, vẫn tồn tại sự chênh lệch không nhỏ vtrình độ phát triển, đời sống văn
hóa, tinh thần giữa các vùng miền, cộng đồng dân cư. Vì vậy, không phải lúc nào các
quy phạm pháp luật với tính khái quát cao cũng hoàn toàn phù hợp để thể điều
chỉnh một cách chính xác, thỏa đáng những vn đề pháp phát sinh các vùng miền,
các cộng đồng dân khác nhau đó. “Do vậy, mỗi một cộng đồng làng cụ thể luôn
cần đến các quy định cụ thể, gần gũi, dễ hiểu, dễ thực hiện cho mọi thành viên trong
làng, phản ánh được nhu cầu tổ chức và phát triển của mỗi làng,xã cụ thể” [10]. Điều
này đặt ra nhu cầu tất yếu phải áp dụng tập quán, dựa vào văn hóa để thể nhằm hỗ
trợ cho pháp luật quản lý xã hội.
Nhà nước sẽ rất khó để thể đưa hết mọi ngóc ngách của đời sống xã hội vào
quy phạm pháp luật thế, trong thực tiễn sẽ luôn những tình huống thiếu pháp luật
thành văn để điều chỉnh, trong khi đó tập quán - một trong yếu tố lại rất phong phú
đa dạng, với chế điều chỉnh mềm dẻo, linh hoạt chính nguồn hỗ trợ, bổ sung
quan trọng cho pháp luật trong điều chỉnh c quan hệ hội. Chẳng hạn phong tục
Giỗ tổ Hùng Vương đã được Nhà nước thừa nhận và đảm bảo thực hiện cả Phú Thọ
toàn quốc gia. Không chỉ vậy, Nhà nước ta cũng thừa nhận phong tục bảo v
rừng thiêng của dân tộc H’mông trên những vùng cao.
1.2. Văn hóa cầu nối giữa pháp luậtđời sống hội
Văn hóa tác động không nhỏ đến việc tiếp nhận thi hành pháp luật của
người dân. Một nền văn hóa lạc hậu sẽ trở thành lực cản trong việc tiếp nhận và thi
hành pháp luật. Ngược lại, một nền văn hóa tiến bộ sẽ đóng vai trò tích cực trong việc
tiếp nhận và thi hành pháp luật một cách tự giác của người dân. Việc áp dụng văn a
tốt đẹp sẽ đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng tình đoàn kết nội bộ, giải quyết
các tranh chấp bằng con đường hoà giải, giải quyết linh hoạt, kịp thời, có tình, có lý.
Kinh nghiệm phát triển kinh tế xã hội ở nước ta thời gian qua cũng cho thấy,
không thể bỏ qua các đặc điểm văn hóa, đặc trưng dân tộc và khu vực trong công tác
quản lý xã hội, bởi nếu bỏ qua các yếu tố này thì khi pháp luật đi vào đời sống sẽ khó
được người dân tiếp nhận và thi hành một cách tự giác làm cho hiệu quả quản lý xã
hội bị giảm đi đáng kể. Ví dụ theo Luật thủy sản năm 2017 đã quy định: Các hành vi
bị nghiêm cấm trong hoạt động thủy sản có bao gồm hành vi “Sử dụng chất, hóa chất
cấm, chất độc, chất nổ, xung điện, dòng điện, phương pháp, phương tiện, ngư cụ khai
thác có tính hủy diệt, tận diệt để khai thác nguồn lợi thủy sản”. (Khoản 7, Điều 7)
Những tập quán rất cụ thể như loại hình đánh bắt nào bị cấm và loại cá nào bị cấm. Vì
vậy, vai trò bổ trợ và hỗ trợ của hải quan là rất rộng.
1.3. Văn hóa bồi đắp nguồn nội dung của pháp luật
Gắn lịch sử hình thành và phát triển của mình, các quốc gia, dân tộc trên thế
giới đều các nền văn hóa riêng để quản đời sống hội trong cộng đồng của họ.
Việt Nam hiện nay, trong quá trình xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật nhà
nước cũng đã thừa nhận rất nhiều những nét đặc trưng của văn hóa như những tập
quán tốt đẹp có sẵn, biến chúng thành pháp luật.
Văn hóa không chỉ nền tảng để điều chỉnh, bổ sung cho pháp luật còn
cầu nối giữa pháp luật và đời sống xã hội mà còn là nguồn nội dung chính của pháp
luật, yếu tố cốt yếu để hoàn thiện một nền pháp luật tiên tiến, đậm đà bản sắc n
tộc.
hội đã những biến đổi theo thời gian nhưng những giá trị tích cực của
tập quán, văn hóa xưa vẫn “những mạch ngầm ẩn dưới tầng sâu của văn hoá dân tộc
không hề dứt”[11]. Bởi lẽ, nhân dân Việt Nam vốn tinh thần trân quý những
giá trị truyền thống, những phương pháp lưu giữ tập quán rất bền vững. Chính
vậy, các tập quán tốt đẹp hoặc thuận lợi cho nhân dân hầu như không mai một. Đây
Chính điều kiện quan trọng để đảm bảo tính khả thi cho việc áp dụng tập quán”[12].
Một dụ điển hình chính nước ta đã ban hành Luật di sản văn hóa năm 2011
Luật Di sản văn hóa sửa đổi 2009 để đảm bảo công cuộc giữ gìn bảo vệ truyền
thống văn hóa dân tộc.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, không phải tập quán nào tồn tại trên thực tế cũng
tiến bộ, cũng hoàn toàn phù hợp để áp dụng trong điều kiện hiện nay. vậy, để phát
huy được vai trò, giá trị của văn hóa trong việc điều chỉnh các quan hệ hội , góp
phần đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các chủ thể, cũng như đảm bảo trật tự hội
thì việc áp dụng tập quán cần phải tuân theo những nguyên tắc nhất định nhằm kế thừa
những giá trị văn hóa tốt đẹp và loại bỏ những giá trị cổ hủ, lạc hậu.
2. Nền pháp luật Việt Nam được chủ yếu xây dựng từ kinh nghiệm văn a
Quả thật, kinh nghiệm văn hóa đã một nền tảng mang ý nghĩa hết sức to lớn
để xây dựng pháp luật. Bởi lẽ, khi dựa vào văn hóa, việc ban hành pháp luật sẽ không
mang tính chất áp đặt, mang tính linh hoạt, phù hợp mang lại sự phát triển cho
tất cả người dân trong xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa, từ xa xưa,
các nhân, quan lập pháp đã luôn bám sát vào văn hóa để hoàn thành công việc
xây dựng pháp luật của mình. Tuy vậy, bên cạnh những ưu điểm lợi ích to lớn cho
nhân dân, công cuộc này vẫn đan xen những nhược điểm không thể tránh khỏi
2.1. Những yếu tố na ảnh ng đến công cuộc xây dựng pháp luật
2.1.1 .Tôn giáo
Với những định nghĩa đã cho, tôn giáo chính một phần của văn hóa. Theo
C.Mác: “Tôn giáo tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, trái tim của thế giới
không trái tim, nó tinh thần của trật tự không tinh thần”. theo Ph.Ăngghen:
“Tôn giáo sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con người những lực lượng
bên ngoài, cái thống trị họ trong đời sống hàng ngày …”. Vậy chúng ảnh hưởng
như thế nào đến pháp luật ?
a. Nho Giáo
thể nói Nho giáo một trong nhng hạt nhân hình thành nên nền văn hóa
Việt Nam bởi từ thời Bắc thuộc xa xưa, nhân dân ta đã ảnh hưởng sâu sắc của tôn
giáo này. Đầu tiên phải kể đến quan điểm trị nước trong thời này bao gồm: “L-
Nhạc - Hình - Chính” ảnh hưởng sâu sắc đối với văn hóa Việt Nam. “Lễ” quy định tôn
ti, trật tự, xác định bổn phận của mọi tầng lớp trong hội, khiến cho mọi người kính
trọng lẫn nhau, vẹn nhân, vẹn nghĩa. Bên cạnh đó, “Nhạc” mục đích m cho con
người trở nên thanh lịch, cao khiết, sống xứng đáng với danh nghĩa con người, sống
trọn vẹn với huy hiệu con người, tạo nên tình thân ái, hòa thuận trong quốc gia, hội.
Ngoài ra, “Hình” mục đích ngăn chặn mọi ảnh hưởng xấu xa, ác độc, làm cho con
người tránh được những hiểm họa hỏng, băng đọa, phân tán, chia ly…. cuối
cùng, “Chính” mục đích tổ chức đời sống hội cho sự, đem lại no ấm, an
bình, trật tự cho dân, giáo hóa dân, cải thiện dân, để mỗi ngày mỗi hơn, mỗi ngày mỗi
tiến…[13]. Qua đây ta thể thấy, người Việt Nam luôn lựa chọn lối sống đủ,
chừng mực, biết kính trên nhường dưới theo “Lễ”, biết điều hòa, giữ hòa ktương
thân tương kính nhau theo “Nhạc”. Đối với những quan quyền lực, họ dựa vào
Nho giáo lấy nhân làm gốc, lễ nhân chính , luôn hướng đến con người. Với yếu tố
“Hình”, biện pháp sử dụng hình phạt sẽ sự lựa chọn cuối cùng trong quá trình xét
xử.
Điển hình cho sự ảnh hưởng của Nho giáo đến việc xây dựng pháp luật chính
Bộ Luật Hồng Đức hay còn gọi Quốc triều hình luật ra đời vào thời đại Hậu Lê.
Đạo đức đã được coi cái gốc để điều chỉnh hành vi của con người. đặc biệt trong
thời đại này, chữ “trung - hiếu” biểu hiện cho mối quan hệ giữa vua - tôi, mối quan hệ
gia đình luôn được đề cao. Bộ luật còn điều chỉnh những quan hệ bản như kết hôn,
ly hôn, quan hệ nhân thân. Những điều luật đã luôn hướng đến việc bảo vệ tông pháp,
bảo vệ thuần phong mỹ tục của cả dân tộc.
Đây cũng thời đại của những tưởng cha truyền con nối”, trọng nam
khinh nữ”. Chính vì những điều này đã dẫn đến hệ quả luật hình sự được coi trọng
hơn rất nhiều so với quyền con người.
Tuy còn những nhược điểm, nhưng nhìn chung với sự ảnh hưởng của Nho
giáo, nhà nước Việt Nam ngày nay đã những sự kế thừa phát triển nhất định.
Pháp luật nước ta đã áp dụng tập quán pháp, tiền lệ pháp trong xét xử, đồng thời
những quyền bình đẳng về tài sản, quyền shữu tài sản riêng cũng được quy định.
Nhà nước đã hẳn Luật hôn nhân gia đình năm 2014 để quy định một cách rõ
ràng về những quan hệ xã hội, trách nhiệm của các thành viên trong gia đình.
b. Phật Giáo
Đạo Phật đã ảnh hưởng trong pháp luật không những về lòng từ bi, lòng khoan
dung còn ảnh hưởng về cách đối xử với phạm nhân nữ. Đạo Phật rất tôn trọng giá
trị của con người và vì giới cấm nói dối cũng được giữ gìn, nên không bao giờ m
kết tội ai một điều khi chưa nắm đủ yếu tố buộc tội; và do chỗ đó nên phải đối xử tử
tế với người không có tội.
Trong lịch sử Việt Nam, triều Lý được bến đến triều đại ảnh hưởng sâu
sắc bởi phật giáo, và đương nhiên pháp luật triều cũng không phải ngoại lệ. Pháp
luật thường lấy căn bản triết hoặc pháp trị hoặc nhân trị. Đối với quan niệm
pháp trị thì các nhà làm luật nghĩ rằng con người không bản tính thiện con người
thường lòng vị kỷ vị lợi nên thường gây ra những xáo trộn trong hội. Do đó,
để giữ trật tự trong hội, cần phải áp dụng luật pháp một cách nghiêm minh tức
phải đưa ra những hình phạt cứng rắn để sửa sai các việc vi phạm. Quan niệm pháp trị
cho rằng càng nghiêm khắc công minh thì những kẻ mưu toan phạm pháp sẽ sợ hãi
không dám vi phạm. Do đó trật tự hội được ổn định con người sẽ được hạnh
phúc.
Còn đối với quan niệm nhân trị, các nhà làm luật tin tưởng rằng con nời
một bản tính thiện vốn sẵn có. Do đó chỉ cần tu dưỡng nhân cách và phát triển bản
tính thiện ấy thì trật tự hội sẽ ổn định. Phái này cho rằng luật pháp điều thừa
chỉ cần lấy lễ, lấy đạo đức, lấy tình thương để cảm hoá con người là đủ.
Tuy nhiên, chúng ta nhận thấy cả hai quan niệm pháp trị và nhân trị đều
nhiều khuyết điểm khi áp dụng vào trong thực tế của hội con người. Chúng ta biết
rằng pháp trị một biện pháp rất cần thiết để tạo lập một trật tự, nhưng nếu áp dụng
quá nhiều biện pháp khắt khe sử dụng nhiều hình phạt cứng rắn thì nhiều khi con
người không thể chịu đựng nổi mà đâm ra trở thành những kẻ hung dữ, đó những
mầm mống đi đến chỗ sa đọa gây ra sự rối loạn trong hội. Phái nhân trị thì quá
tưởng khi chú trọng vào lễ, nhạc để cảm hoá và hướng dẫn con người, nhưng trong
thực tế khi áp dụng chính sách nhân trị cũng khó mà đưa đến kết quả tốt.
lẽ những khuyết điểm của quan niệm nhân trị quan niệm pháp trị đã
nêu trên nhà cầm quyền triều đã áp dụng một luật pháp theo con đường chiết
trung. Tức khi thì nhân trị, khi thì pháp trị, tùy theo trường hợp áp dụng. Khi áp
dụng con đường chiết trung, luật pháp nhà đã chịu ảnh hưởng sâu xa của triết lý
Bát-nhã của Phật giáo. Việc áp dụng khi thì nhân trị, khi thì pháp trị tùy theo trường
hợp của luật pháp nhà Lý, đã cho chúng ta thấy rằng đó đường lối của Phật giáo
trong quan niệm “Khế Khế cơ” tức phải tùy duyên áp dụng, tùy theo mỗi
hoàn cảnh mà áp dụng những giáo lý cho thích ứng.
Ngoài việc chịu ảnh hưởng tinh thần trung đạo của Phật giáo, luật pháp nhà
còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của đạo Phật các khía cạnh: quan niệm phải lấy đức t
bi làm triết hành động trong đời sống đạo đức. Từ bi một tình thương bao la
không phân biệt giai cấp trong hội, người theo đạo Phật cần phải thương xót tất cả
mọi nời khi họ gặp cơn hoạn nạn. Chính lòng từ bi đã giúp cho ta cảm thương được
những người đang gặp khốn khổ, do đó, ta sẽ tìm cách giúp đỡ họ. Các vị Bồ tát
trong Phật giáo cũng đều lòng từ bi chấp nhận một hạnh nguyện đi vào cuộc
đời lầm than để cứu độ chúng sinh. Do chỗ thấm nhuần tinh thần của đạo Phật về đức
hạnh từ bi, nên ta thấy ngay trong việc ban hành bộ Hình-thư, vua Thái Tông đã
biểu lộ rõ rệt lòng từ bi của mình đối với phạm nhân. [14]
2.1.2. Đời sống văn hóa, ởng
Văn hóa không hiện hữu đâu xa luôn tồn tại ngay trong cuộc sống
thường nhật của con người. Tất cả những thói quen, lối sống, tưởng bên trong mt
nền văn hóa đều đã ăn sâu vào trong tiềm thức của con người. góp phần quy định,
điều chỉnh mọi thứ trong cuộc sống. Xã hội Việt Nam cũng kng phải ngoại lệ
a. Tính cộng đồng
Nhắc đến Việt Nam nhắc đến một dân tộc ngay tthuở khai đã gắn
với nhau bằng nghĩa tình đồng bào ruột thịt, lại kề vai sát cánh bên nhau bước
vào cuộc trường chinh dựng nước và giữ nước, chung sức đồng lòng chiến đấu với
bao thiên tai, địch họa để kiêu hãnh trường tồn. vậy, tính cộng đồng trong hội
Việt Nam phát triển khá mạnh mẽ, nổi trội là trong pháp luật.
Về phương diện lập pháp, Nhà nước ta đã ban hành, đưa ra chính sách, các
quyền công dân, chẳng hạn như trong Hiến pháp 2013. Vậy nhưng, những điều khoản
đó vẫn còn rất ít so với các nước phương Tây. Ngoài ra, ta thể nhận thấy những
điều luật phục vụ cho nhà nước số lượng nhiều n những điều luật lợi ích cho
nhân. Điều này cho thấy nước ta vẫn đề cao lợi ích cho cộng đồng nhiều hơn so với
lợi ích nhân và lúc này tính nhân của con người không được phát triển một cách
tốt nhất.
Về phương diện thực hiện pháp luật, vẫn tồn tại nhiều trường hợp các quan
công quyền thói quen “ban ơn”, hạch sách công dân. Chẳng hạn để xin một giấy tờ
hành chính nào đó đòi hỏi rất nhiều thủ tục rườm rà, phức tạp. Đôi khi, trong việc
chấp hành quy định pháp luật vẫn còn xuất hiện vấn đề cha chung không ai khóc”,
đùn đẩy trách nhiệm dẫn đến tình trạng pháp luật không được tôn trọng.
b. Trọng lệ hơn trọng luật
Đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam mang ảnh hưởng nặng nề của văn hóa
nông nghiệp lúa nước. Để phù hợp với phương thức sản xuất lúa nước, người dân
thường sống tập hợp lại với nhau rất nhiều công việc để lo với việc đồng áng.
Lúc bấy giờ, mỗi làng chính một khối kinh tế riêng, ít sự ngoại giao với nhau
vậy nên về mặt tình cảm, họ yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. do này, mỗi làng
đều luật lệ, khương ước riêng và thường phương thức tự trị khép kín hướng nội,
cách xa với chính quyền. Lệ làng luôn tồn tại song song với pháp luật văn hóa,
phong tục tập quán chính sở để lệ làng hình thành, ăn sâu bén rễ vào tiềm thức
của người dân.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời trên sở đánh đổ đế quốc phong
kiến mới chỉ hơn 70 năm nên hội Việt Nam vẫn còn nặng những cái lệ” chẳng
giống ai. Đòi hỏi trước hết của một nhà nước pháp quyền hệ thống luật pháp chặt
chẽ, khoa học, công bằng, đủ sức để điều chỉnh mọi mối quan hệ trong hội, hẳn
nhiên gạt bỏ được những tàn lạc hậu của lệ” đã ăn sâu vào tiềm thức của con
người. Nói cách khác, luật phải được áp dụng hiệu lực trên toàn lãnh thổ quốc
gia chứ không thể có cái “lệ” nào có thể thay thế được.
c. Lối ứng xử nặng tình nhẹ
Theo văn hóa Việt Nam, người dân chỉ sống theo làng, mọi người đều thân
quen mối quan hệ chồng chéo với nhau. Điều đó đã dẫn đến sự trọng tình - con
người đưa cái tình trong thước đo đánh giá hành vi ứng xử của con người. Mặc
những vi phạm đã được pháp luật quy định, người Việt Nam vẫn thói quen cả nể,
bap dung, dung túng cho lỗi lầm với ưu tiên “dĩ hòa vi quý”. Trong đời sống, họ chỉ
coi pháp luật một giải pháp bất đắc dĩ, tranh chấp cũng không dùng pháp luật.
Nếu không khắc phục kẽ hở trong văn hóa này, nhu cầu pháp luật sẽ dần bị tránh,
thờ ơ và rồi con người sẽ không thể dùng pháp luật để bảo vệ lợi ích cho bản thân.
2.2. Những giải pháp đề xuất cho vấn đề văn apháp luật hiện nay
2.2.1. Những vấn đề còn tồn đọng
Bên cạnh những lợi ích to lớn khi xây dựng pháp luật dựa trên văn hóa, vẫn còn tồn
đọng những vấn đề cần được khắc phục
Một là, nhiều vùng miền trên đất nước vẫn tồn tại những hủ tục cùng lạc
hậu, phong tục của đồng bào dân tộc thiểu số không còn phù hợp, cản trở sự phát triển
kinh tế - hội, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, đời sống của Nhân dân, như: Tảo
hôn hôn nhân cận huyết thống; tín dị đoan, giết mổ nhiều gia súc, gia cầm trong
đám tang, lễ hội, gây lãng phí, tốn kém…
Vào tháng 2 năm 2022 tại Giang, mạng hội đã lan truyền đoạn clip một nam
thanh niên ra sức kéo một thiếu nvề nhà m vợ, mặc cho gái cố gắng vùng vẫy,
bỏ chạy. Sau đó, cán bộ công an xuất hiện, ngăn cản nam thanh niên và giúp đỡ
gái. Mặc đã những chế định xử phạt hành động này, nhưng nhìn chung những
điều khoản ấy chỉ dựa vào một số luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con
người chứ nhà nước vẫn chưa hề chế định riêng xử phạt những đối tượng dựa vào
hủ tục để chà đạp, kìmm quyền con người.
Hai là, tính cộng đồng trong pháp luật Việt Nam đã hình chung tạo ra những
vấn đề khi thực hiện quyền con người. Mặc về bản, pháp luật nước ta không
mâu thuẫn với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền việc bảo đảm các quyền con
người trên thực tế phù hợp, thậm chí mức tiến bộ, so với thông lệ quốc tế; tuy
nhiên, trong việc bảo đảm quyền con người nước ta hiện nay vẫn còn một số vấn đề
tồn tại nhất định. chế đảm bảo nhân quyền vẫn chưa hiệu quả: Hiện nay, nước ta
vẫn chưa một quan chuyên trách về vấn đề thúc đẩy bảo vệ nhân quyền; chưa
một quy chế chặt chẽ trong việc xử các tố cáo vi phạm nhân quyền nhiều như
những điều luật cho cộng đồng. Chẳng hạn, hiện nay nước ta quyền được biểu tình
vẫn chưa được nhà nước thừa nhận và đảm bảo.
Ba là, nhiều người dân còn xem nhẹ pháp luật lối sống “nặng tình nhẹ lý”.
Trước những mâu thuẫn tranh chấp, người dân sẽ chọn cách tự giải quyết với nhau
không kđến tính chất pháp của vấn đề ra làm sao. Họ luôn giữ thái độ chủ quan,
thiếu nguyên tắc “chín bỏ làm mười. Điều này đã vô tình phá hủy tinh thần tự tôn
pháp luật việc để cái “tình” lấn át cái “lý” chẳng khác nào phủ nhận vai trò điều tiết
hội của pháp luật. Nếu còn tiếp diễn tình trạng này trong hội ngày nay, mọi
người sẽ chủ quan không chủ động tìm hiểu về pháp luật, làm mất quyền lợi của chính
bản thân mình
Bốn là, văn hóa ảnh hưởng tiêu cực đến việc khiếu nại pháp luật. Nước ta mang
nền văn hóa tiểu nông, duy manh mún, thiếu mất duy luận dẫn đến việc thủ
tục giải quyết khiếu nại mang nặng tính "hành chính", khép kín, thiếu sự minh bạch
làm cho người khiếu nại, người bị khiếu nại các bên liên quan ít hội "tranh
tụng" để tìm ra sự thật khách quan biện pháp giải quyết phù hợp. Bên cạnh đó, việc
ban hành pháp luật còn thiếu nhất quán về mặt tưởng, liên tục cần sửa đổi, cập nhật
pháp luật do sự thiếu đồng bộ, chồng chéo của các điều luật. Điều này đã ảnh hưởng
không ít đến hiệu quả giải quyết khiếu nại hành chính.
2.2.2. Giải pháp
Những tồn tại trên đã sự tác động không nhỏ đến sự phát triển về không chỉ
về văn hóa, pháp luật còn ảnh hưởng tới cả kinh tế, giáo dục, an ninh, quốc
phòng,... của một quốc qua. Dưới đây sẽ là những giải pháp đề xuất cho những vấn đề
tiêu cực này.
Đầu tiên, Nhà nước bên cạnh việc giữ gìn, xây dựng và phát huy các giá trị
truyền thống văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc cần ban hành pháp luật một
cách triệt để loại bỏ những hủ tục lạc hậu. Cụ thể, những quan thẩm quyền cần
thực hiện soát, lập danh sách các hủ tục lạc hậu, tập tục không còn phù hợp, tích
cực tuyên truyền qua giáo dục, các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao nhận
thức của toàn dân về vấn nạn này. Đồng thời, pháp luật cần xây dựng những chế định
xử phạt thật nghiêm khắc đối với những đối tượng lợi dụng những hủ tục cổ hủ để chà
đạp quyền con người.
Tiếp đến, Nhà nước cần xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo sở
pháp cho việc bảo vệ, thúc đẩy phát triển quyền con người, quyền công dân.
Trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm các
quyền con người về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế, hội văn hóa; quyền
của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong hội như quyền trẻ em, quyền phụ nữ;
quyền của công dân cao tuổi… Để làm được điều đó, cần sự nghiên cứu tổng
kết toàn diện sâu sắc hệ thống pháp luật hiện hành, sự phân tích, so sánh đối
chiếu với các quy định quốc tế về quyền con người Việt Nam đã tham gia. Trên
sở các quan điểm về xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con
người, quyền nghĩa vụ bản của công dân đặt ra trong thời gian tới, các quy phạm
pháp luật về các quyền dân sự, chính trị cần được chế định thêm, cụ thể ràng n
trong Hiến pháp.
Với vấn đề tiếp theo, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả phổ biến, giáo dục
pháp luật, đảm bảo tiếp cận pháp luật, kỹ năng thực hành pháp luật. Một trong những
nội dung cần đổi mới trong phổ biến, giáo dục pháp luật chính sự kết hợp phổ biến,
giáo dục về kiến thức pháp luật với những knăng cần thiết trong thực hiện pháp luật.
Sự hiểu biết pháp luật sở để mỗi cá nhân hình thành ý thức tôn trọng và lối sống
tuân theo pháp luật. Đưa các yếu tố pháp luật, kỹ năng thực hành pháp luật vào trong
giáo dục đạo đức ngược lại; phát triển các loại hình dịch vụ pháp lý, góp phần giảm
thiểu những rủi ro pháp và nâng cao an toàn pháp cho các nhân, tổ chức trong
các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội.
Cuối cùng, Nhà nước cần hình thành tổ chức bộ máy pháp luật quy định rõ, cụ
thể thẩm quyền, chức năng, nhiệm vcủa từng nời, bộ phận, đơn vị, quan, mối
quan hệ giữa người thẩm quyền giải quyết khiếu nại với người tham mưu, quan hệ
giữa các bộ phận tham mưu, chế phối hợp, mối quan hệ giữa cấp trên cấp
dưới…. Tích cực giải quyết những mối quan hệ, điều luật mâu thuẫn chồng chéo, đẩy
nhanh hiệu lực thi hành các quyết định giải quyết nại hành chính. Các quan
thẩm quyền cần tích cực rèn luyện tính nguyên tắc, chuyên nghiệp, khách quan để có
thể khắc phục những điểm thiếu sót trong việc khiếu nại pháp luật.
KẾT LUN
Ngày nay, chúng ta đang sống thế kthứ XXI một thời đại phát triển của
cách mạng công nghiệp 4.0 , thời đại của sự toàn cầu hóa. Ngày nay, khi nhân loại đề
cao sự hội nhập, sự đa dạng giữa các chủng tộc các quốc gia, nền văn hóa chính một
bảo vật quý giá mỗi quốc gia cần phải trân trọng, nâng niu, duy trì và phát triền.
Trong chế độ Chủ nghĩa xã hội, văn hóa nền tảng tinh thần, mục tiêu, là động lực
phát triển của hội. Chính sự phổ rộng, bao trùm của văn hóa với tất cả các lĩnh
vực trong đời sống vậy nên văn hóa đã trở thành một trong những nguồn chính trong
công cuộc xây dựng pháp luật không chỉ riêng Việt Nam, mà còn toàn bộ các nước
trên thế giới. Để thể xây dựng một hệ thống pháp luật đảm bảo sự tự do, dân chủ,
công bằng, văn minh cho nhân dân, các nhà làm luật, các quan thẩm quyền cần
dựa vào những yếu tố văn hóa, những phong tục tập quán mang đậm gtrị bản sắc
văn hóa dân tộc cho đời sống nhân dân hiện đại. Đồng thời, cần loại bỏ những phong
tục tập quán, những yếu tố văn hóa cổ hủ, lỗi thời không còn phù hợp với thời đại.
Xây dựng và phát triển pháp luật cả một quá trình bền vững và lâu dài và có lẽ phát
triển văn hóa cũng vậy. một sinh viên chuyên ngành Luật, em sẽ không ngừng học
hỏi, nghiên cứu, trau dồi những kiến thức về văn hóa để thể có một bước đệm vững
chắc trong con đường pháp luật học của em sau này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHO
[1]
PGS, VS Trần Ngọc Thêm, sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản giáo dục 1999,
tr,10.
[2]
E.B. Tylor, Văn hóa nguyên thủy, Huyền Giang dịch từ tiếng Nga, Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật, Hà Nội, tr, 13.
[3]
Giáo trình luận Nhà nước Pháp luật, Trường Đại học Luật Nội, Nhà xuất
bản Công an nhân dân,Nội, năm 2008
[4]
C. Mai T.Mai (2014), “Pháp luật Việt Nam phức tạp nhất thế giới!”, Báo Tuổi
Trẻ Online, tại địa chỉ: https://tuoitre.vn/phap-luat-viet-nam-phuc-tap-nhat-the-gioi-
612305.htm ngày truy cập 25/06/2022
[5]
Nguyễn Thị Hồi, Về khái niệm nguồn của pháp luật, Tạp chí Luật học, số 2/2008,
tr. 29, 30.
[6]
Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Minh Đức (2013), “Tạo lập nguồn pháp luật đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế” Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 23 (255) Kỳ 1, tr.3
[7]
Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái, (2009), luận nhà nước pháp luật, Nxb.
Giao thông vận tải, tr.310
[8]
https://dictionary.cambridge.org/dictionary/english-vietnamese/custom truy cập
ngày 25/06/2022
[9]
Trường Đại học Luật Nội (2009), Giáo trình luận Nhà nước Pháp luật,
NXB. Tư pháp, Hà Nội, tr.354 355.
[10]
Nguyễn Thị Tuyết Mai (2014), Áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc
dân sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Luật học.
[11]
Ngô Đức Thịnh, 2014, Luật tục trong đời sống các tộc người Việt Nam, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
[12]
Viện nghiên cứu Văn hóa Dân gian, Ngô Đức Thịnh (Chủ biên),1998, Luật tục
M’Nông, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[13]
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ, Chân Dung Khổng Tử, ch. 14.
[14]
Nguyễn Vĩnh Thượng (2015), “Ảnh hưởng Phật giáo trong Pháp luật triều Lý”,
Đạo Phật ngày nay, tại địa chỉ: https://www.daophatngaynay.com/vn/phatgiao-vn/lich-
su/17526-anh-huong-phat-giao-trong-phap-luat-trieu-ly.html truy cập ngày
25/06/2022

Preview text:

------***------
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
VĂN HÓA ĐẠI CƯƠNG
Đề bài: Có quan điểm cho rằng: Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của
pháp luật và pháp luật được xây dựng trên những kinh nghiệm văn hóa”’
Bằng những hiểu biết về văn hóa và pháp luật, anh/ chị hãy phân tích và
chứng minh nhận định trên
Họ và tên sinh viên: Lê Minh Châu
Mã sinh viên: 2113650002
Lớp hành chính: Anh 01 – Luật KDQT
Lớp tín chỉ: NGOH102(GD1+2-HK2-2122)CLC.1 Khóa: 60
GVHD: Trần Thị Thanh Thủy, Nguyễn Thị Tú Mai
Hà Nội, tháng 06 năm 2022 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................................. 1 I.
CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................................................... 2 1.
Văn hóa ................................................................................................................................. 2
1.1. Khái niệm nền văn hóa ...................................................................................................... 2
1.2. Đặc trưng và chức năng văn hóa ....................................................................................... 3 1.2.1.
Tính hệ thống......................................................................................................... 3 1.2.2.
Tính giá trị ............................................................................................................. 3 1.2.3.
Tính nhân sinh....................................................................................................... 3 1.2.4.
Tính lịch sử ............................................................................................................ 3
1.3. Định vị văn hóa Việt Nam ................................................................................................. 4 2.
Pháp luật ............................................................................................................................... 4
2.1. Giới thiệu chung về hệ thống pháp luật ............................................................................ 4
2.2. Những nguồn của pháp luật .............................................................................................. 5
2.2.1. Khái niệm nguồn pháp luật.......................................................................................... 5
2.2.2. Những nguồn pháp luật cơ bản ................................................................................... 5 II.
MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA VÀ PHÁP LUẬT QUA NHẬN ĐỊNH ........................ 6 1.
Văn hóa có sự ảnh hưởng phổ biến và rộng rãi đến pháp luật ............................................ 6
1.1. Văn hóa là nền tảng để điều chỉnh, bổ sung cho pháp luật ............................................... 6
1.2. Văn hóa là cầu nối giữa pháp luật và đời sống xã hội ....................................................... 7
1.3. Văn hóa bồi đắp nguồn nội dung của pháp luật ............................................................... 7 2.
Nền pháp luật Việt Nam được chủ yếu xây dựng từ kinh nghiệm văn hóa ......................... 8
2.1. Những yếu tố văn hóa ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng pháp luật ............................. 8
2.1.1 .Tôn giáo ....................................................................................................................... 8
2.1.2. Đời sống văn hóa, tư tưởng ........................................................................................ 10
2.2. Những giải pháp đề xuất cho vấn đề văn hóa và pháp luật hiện nay.............................. 12
2.2.1. Những vấn đề còn tồn đọng ....................................................................................... 12 2.2.2.
Giải pháp.............................................................................................................. 13
KẾT LUẬN .................................................................................................................................... 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 16 LỜI MỞ ĐẦU
Để đánh gia sự phát triển của một quốc gia, một trong những khía cạnh rõ nét
nhất người ta nhìn vào chính là văn hóa của một quốc gia đó. Văn hóa còn là sức
mạnh nội sinh phát triển bền vững đất nước, đóng vai trò là “hệ điều tiết” trong sự vận
động mọi mặt của đời sống. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của văn hóa trong sự
nghiệp cách mạng, Đảng luôn quan tâm đến văn hóa, coi đây là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm để phát triển quốc gia - dân tộc. Và đồng thời đi kèm với văn hóa,
pháp luật cũng mang một tầm quan trọng hết sức to lớn trong công cuộc xây dựng đời
sống văn hóa xã hội. Có pháp luật, xã hội mới đảm bảo được sự an toàn, tự do, công bằng, dân chủ văn minh.
Khi có được cái nhìn sâu sắc về văn hóa, ta sẽ có thể có được sự hiểu biết cặn
kẽ về pháp luật, kỹ năng phân tích, tư duy pháp lý, hiểu rõ được về nguồn của pháp
luật. Nếu coi văn hóa như là nền móng xây dựng nền văn minh, đời sống xã hội phát
triển phong phú, hiện đại thì pháp luật chính là những viên gạch bảo vệ, duy trì, xây
dựng những công trình kiên cố, đáp ứng mọi nhu cầu của xã hội hiện đại. Chính vì
vậy, nghiên cứu về văn hóa là một trong những điều vô cùng cần thiết đối với những
người đã, đang và sẽ theo đuổi con đường pháp luật học.
Trong bài tiểu luận này, em sẽ dựa trên những cơ sở lý luận, những lý thuyết
chung nhất về văn hóa và pháp luật, để rồi làm rõ nhận định:
“Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp luật và pháp luật được xây dựng dựa
trên những kinh nghiệm văn hóa.”
Qua những kiến thức đã học trong học phần Văn hóa đại cương cùng với những kiến
thức về pháp luật mà em đã tích lũy được từ các học phần trước, em sẽ kết hợp những
phương pháp nghiên cứu như: phân tích, thu thập dữ liệu, thu thập thông tin, so sánh
tổng hợp một cách phù hợp nhất để có thể phân tích, nhìn vấn đề một cách sâu sắc và đa chiều. I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Văn hóa
Đã bao giờ chúng ta tự hỏi vì sao xã hội của loài người là phát triển một cách
vượt trội hơn so với xã hội của các loài vật khác? Có muôn vàn lý do cho sự phát triển
hiện đại, văn minh của xã hội con người ngày nay và một trong những yếu tố điểm sắc
cho đời sống xã hội chính là văn hóa.
1.1. Khái niệm nền văn hóa
Khi được hiểu theo nghĩa thông dụng, văn hóa để chỉ học thức (trình độ văn
hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt, văn hóa chỉ trình độ phát
triển của một giai đoạn lịch sử .Ví dụ như chúng ta thường nghe đến tên gọi nền văn
hóa Đông Sơn gắn liền với thời kỳ đồ đồng, đồ sắt sớm tại một số tỉnh Bắc Trung Bộ
tại Việt Nam. Và theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm tất cả, từ sản phẩm văn minh tới
đời sống tinh thần, phong tục tập quán, tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động,
pháp luật,... [1] của một xã hội con người.
Mặc dù vậy, thuật ngữ “văn hóa” vẫn tiếp tục gây tranh cãi bởi nội hàm trừu
tượng, đa nghĩa của nó.
Theo nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett Tylor, ông đã có định nghĩa
về văn hóa vào năm 1871: “Văn hóa là một tổng thể phức hợp bao gồm tri thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những năng lực hay tập quán
khác do con người có được với tư cách là thành viên của xã hội” [2]
Theo UNESCO, văn hóa lại được hiểu là: “Tập hợp những đặc trưng về tinh
thần, vật chất, trí tuệ và cảm xúc của một xã hội hay của một nhóm người trong xã
hội. Văn hóa chứa đựng bên cạnh nghệ thuật và văn chương, cả cách sống, phương
thức chung sống, các hệ thống giá trị, các tập tục và tín ngưỡng.”
Theo Giáo sư Trần Ngọc Thêm, định nghĩa về văn hóa được hiểu như sau:
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị về vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo và tích lũy qua quá trình lao động thực tiễn, sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội.” Và dường như định nghĩa của Giáo sư đã được coi là cơ sở
cho quá trình nghiên cứu và phát triển văn hóa của Việt Nam ngày nay.
Qua những định nghĩa về văn hóa trên, ta có thể đúc rút ra được văn hóa bao
gồm tất cả các yếu tố cấu thành nên đời sống con người bao gồm đời sống tinh thần,
văn hóa, nghệ thuật, sinh hoạt, tâm linh, tôn giáo. Không chỉ vậy, nó còn được thể
hiện qua cách ứng xử của con người với thiên thiên, con người với con người và với
cộng đồng rộng lớn. Ngoài ra văn hóa còn bao gồm phương thức thể hiện tri thức bản
địa, phương thức sinh kế. Văn hóa chính là sản phẩm do con người tạo ra, có thể chi
phối, quyết định sự tồn tại, bản sắc và sự phát triển bền vững của một cộng đồng
người. Để có được cái nhìn rõ nét hơn về văn hóa, sau đây ta sẽ tìm hiểu về những đặc
trưng và chức năng của văn hóa
1.2. Đặc trưng và chức năng văn hóa
Mỗi quốc gia trên thế giới đều có cho mình một nền văn hóa riêng và mỗi nền
văn hóa lại có sự đa dạng với muôn vàn những bản sắc riêng. Mặc dù vậy, nhìn chung
các nền văn hóa đều mang trong mình những đặc trưng cũng như chức năng riêng
trong xã hội đời sống con người. Vậy đó là những đặc trưng nào ?
I.2.1. Tính hệ thống
Đầu tiên đặc trưng này giúp phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các
hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa, những đặc điểm, quy tắc, quy luật hình
thành văn hóa. Nhờ đặc trưng này mà văn hóa đã thực hiện được chức năng tổ chức xã
hội. Văn hóa hiện hữu, bao trùm mọi lĩnh vực trong cuộc sống, đóng vai trò quy định
những suy nghĩ, tư tưởng và quy tắc trong đời sống con người. Chính tính hệ thống
của văn hóa đã làm tăng sự ổn định của xã hội, là nền tảng xây dựng cho một xã hội
hiện đại, văn minh và phát triển.
1.2.2. Tính giá trị
Trong văn hóa, tính giá trị đã nêu ra các cách phân biệt đa dạng khác nhau,
đem lại góc nhìn đa chiều cho con người. Về mục đích, ta có thể phân chia ra là giá trị
về vật chất hoặc tinh thần. Về ý nghĩa, ta có thể phân chia ra giá trị về đạo đức và giá
trị về thẩm mỹ . Và về thời gian, giá trị được phân ra thành giá trị nhất thời và giá trị
vĩnh cửu. Những cách phân chia trên giúp con người có cái nhìn biện chứng về một
nền văn hóa. Đặc trưng này mang chức năng điều chỉnh, giúp xã hội cân bằng, có
những sự điều chỉnh phù hợp, không ngừng hoàn thiện để thích ứng với môi trường.
Ngoài ra, nó góp phần định hướng những chuẩn mực, làm động lực phát triển cho xã hội.
1.2.3. Tính nhân sinh
Qua đặc trưng này, văn hóa được hiểu là cái tự nhiên được biến đổi bởi con
người, nó là sự tác động của con người vào tự nhiên. Sự tác động ấy có thể mang tính
vật chất, ví dụ như những hoạt động đẽo gỗ, khai thác than, khai thác dầu, Và đồng
thời, sự tác động ấy cũng có thể mang tính tinh thần chẳng hạn là những những câu
chuyện cổ dân gian, những truyền thuyết về những hiện tượng tự nhiên. Do mang tính
nhân sinh, văn hóa là sự gắn liền mật thiết con người với con người. Qua đặc trưng
này, văn hóa được thực hiện chức năng giao tiếp. vì nếu ngôn ngữ là hình thức của
giao tiếp thì văn hóa chính là nội dung của giao tiếp.
1.2.4. Tính lịch sử
Văn hóa là sản phẩm của quá trình tích lũy qua nhiều thế hệ, thường
xuyên tự điều chỉnh và phân bố các loại giá trị. Chính vì vậy truyền thống văn hóa
được đánh giá là những giá trị khá ổn định. Đặc trưng này cũng giúp giá trị văn hóa
thực hiện được chức năng giáo dục của mình. Văn hóa thể hiện chức giáo dục không
chỉ qua những giá trị truyền thống mà còn qua những giá trị đang hình thành
1.3. Định vị văn hóa Việt Nam
Việt Nam là một đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời với những phong tục
tập quán, nét đẹp văn hóa riêng biệt, đậm đà nét Á Đông. Ngoài những đặc trưng được
nêu trên, văn hóa Việt Nam có những đặc điểm đặc trưng, độc đáo.
Đầu tiên, Việt Nam là nước có nền văn hóa đa dạng với sự kết hợp từ 54 dân
tộc khác nhau, vậy nên văn hóa nước ta mang tính linh hoạt nhất định. Tuy vậy, đôi
khi sự linh hoạt lại trở nên tùy tiện và ảnh hưởng đến tính tổ chức trong xã hội dân chủ ngày nay.
Nước ta còn được biết đến là nước có loại hình văn hóa gốc nông nghiệp.
Chính vì vậy, trong cách đối xử với môi trường tự nhiên, con người luôn có sự hòa hợp và tôn trọng.
Về mặt nhận thức, người Việt Nam thường xem xét những mối quan hệ theo
phương pháp tổng hợp biện chứng, khác với phương pháp tư duy phân tích như những
nền văn hóa gốc du mục.
Về mặt tổ chức cộng đồng, con người Việt Nam luôn coi trọng tình nghĩa,
trọng đức, trọng văn, bởi từ xưa con người đã sinh sống theo một tập thể như làng, xã.
Chính vì vậy, tình nghĩa chính là yếu tố quan trọng giúp họ gắn kết với nhau.
Chính vì đặc điểm ấy mà trong lối ứng xử với môi trường xã hội, con người đã
luôn duy trì nét ứng xử mềm dẻo, hiếu hòa, “chín bỏ làm mười”, “dĩ hòa vi quý”. 2. Pháp luật
2.1. Giới thiệu chung về hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên
tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với
nhau, được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật và được thể hiện
trong các văn bản do cơ quan nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ban hành theo những
hình thức, thủ tục nhất định để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam.[3]
Hiện nay, Việt Nam có hệ thống pháp luật phức tạp bậc nhất thế giới, hệ thống
này được đặc trưng bởi sự đồ sộ, rắc rối do có quá nhiều loại văn bản pháp luật được
ban hành, nhưng lại có quá nhiều kẽ hở và lỗ hổng, các quy định chồng chéo, mâu
thuẫn, thiếu đồng bộ với nhau, gây cản trở và đè nặng lên người dân, doanh nghiệp.[4]
Về việc ban hành pháp luật, ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao
quyền thực hiện theo trình tự đã được quy định chặt chẽ thể hiện các bước, từng công
việc phải làm để đưa ra các văn bản quy phạm pháp luật, từ đề xuất sáng kiến lập
pháp, lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đến soạn thảo dự án văn
bản quy phạm pháp luật, thẩm định, thẩm tra dự án văn bản quy phạm pháp luật, công
bố, tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, những tầng lớp dân
cư có liên quan đến việc tổng hợp, phân tích, nghiên cứu tiếp thu ý kiến đóng góp, đến
trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, cho ý kiến hoặc thông qua dự án văn
bản quy phạm pháp luật.
Thông thường mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật lại có một quy trình riêng,
tương thích, phù hợp với tính chất, vị trí, vai trò của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành một loại văn bản quy phạm pháp luật riêng như luật khác pháp lệnh, pháp
lệnh khác nghị định của Chính phủ, khác thông tư của các bộ, ngành…
2.2. Những nguồn của pháp luật
2.2.1. Khái niệm nguồn pháp luật
Hiện nay tại Việt Nam, khái niệm nguồn luật được đề cập từ các góc độ và mức
độ khác nhau trong các sách chuyên khảo, giáo trình, tạp chí,… Nguồn của pháp luật
là tất cả các căn cứ được các chủ thể có thẩm quyền sử dụng làm cơ sở để xây dựng,
ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc
pháp lý xảy ra trong thực tế.[5] Hiểu một cách khái quát nhất, nguồn của pháp luật là
tất cả các căn cứ được sử dụng làm cơ sở để xây dựng, giải thích, thực hiện và áp dụng pháp luật.[6]
Như vậy, hiểu một cách đơn giản nhất về nguồn của pháp luật là nơi tìm thấy
các quy phạm pháp luật. Ở Việt Nam hiện nay có 3 loại nguồn luật cơ bản, đó là: văn
bản quy phạm pháp luật, tập quán pháp và tiền lệ pháp.
2.2.2. Những nguồn pháp luật cơ bản
- Văn bản quy phạm pháp luật: Chịu ảnh hưởng bởi truyền thống pháp lý
châu Âu lục địa, Việt Nam rất chú trọng hình thức văn bản quy phạm
pháp luật. Có thể khẳng định “văn bản quy phạm pháp luật là nguồn phổ
biến nhất của pháp luật Việt Nam hiện nay, chúng điều chỉnh đa phần
các quan hệ xã hội”.[7]
- Tập quán pháp: theo từ điển Oxford, tập quán được hiểu là “truyền
thống và cách thức ứng xử được chấp nhận rộng rãi, được áp dụng đặc
biệt cho một xã hội nhất định, tại một địa phương nhất định hoặc trong
một thời gian nhất định.[8] tập quán pháp được hiểu là “hình thức pháp
luật có nguồn gốc từ tập quán trên cơ sở cho phép áp dụng tập quán của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ thể áp dụng pháp luật vận dụng
tập quán cụ thể làm căn cứ để giải quyết các vụ việc”.
- Tiền lệ pháp: Tiền lệ pháp và án lệ là hai khái niệm có điểm tương đồng
nhau, nhưng không đồng nhất. Trong các giáo trình ở các cơ sở đào tạo
ở trong nước “Tiền lệ pháp là hình thức Nhà nước thừa nhận các quyết
định của cơ quan hành chính hoặc cơ quan xét xử cấp trên khi giải quyết
các vụ việc cụ thể, làm cơ sở áp dụng đối với trường hợp tương tự”.[9]
Theo dòng thời gian, pháp luật nước ta đã được hình thành và phát triển gắn
liền với sự ra đời và phát triển của Nhà nước, với đời sống của xã hội người dân.
Nguồn pháp luật cũng từ đó mà hình thành, góp phần làm nền tảng cho nền lập pháp,
hành pháp và tư pháp ở nước ta. Và như đã phân tích bên trên, văn hóa chính là sự bao
trùm, sự hiện hữu của mọi lĩnh vực là yếu tố cốt yếu để hình thành nên một nhà nước
một xã hội phát triển. Chính vì vậy ta có thể khẳng định rằng, văn hóa và pháp luật có
một mối quan hệ mật thiết với nhau. II.
MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA VÀ PHÁP LUẬT QUA NHẬN ĐỊNH
“Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp luật và pháp luật được xây
dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa.”
Nhận định đã cho nhấn mạnh sâu sắc về mối quan hệ của văn hóa và pháp luật.
Nếu văn hóa là tất cả những giá trị hình thành nên đời sống xã hội con người thì pháp
luật chính là công cụ để duy trì sự phát triển và ổn định của xã hội. Vì vậy, chúng
mang một mối quan hệ khăng khít, vừa hỗ trợ bổ sung cho nhau lại vừa mâu thuẫn với
nhau. Những nhà làm luật, những cơ quan lập pháp ở mỗi quốc gia đều phải dựa vào
văn hóa, hiểu được bản chất gốc rễ của văn hóa, đời sống con người thì mới có thể tạo
ra, ban hành những văn bản quy phạm pháp luật, có những điều khoản tiến bộ, phù hợp với thời đại.
1. Văn hóa có sự ảnh hưởng phổ biến và rộng rãi đến pháp luật
Theo nhận định đã cho, “văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp luật”.
Quả thật văn hóa chính là “nhãn quan” của một cộng đồng dân tộc về thế giới vũ trụ
bao gồm vật chất tự nhiên, môi trường sống xung quanh và những quy tắc ứng xử
tương ứng của cộng đồng,được coi như là nguồn phổ biến, rộng rãi và đóng vai trò
nền tảng trong quá trình xây dựng pháp luật. Xã hội nào cũng cần pháp luật như một
công cụ điều chỉnh hành vi của con người trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống
và trên thực tế, con người chịu sự điều chỉnh của văn hóa nhiều hơn là pháp luật vì
con người luôn hành động theo tập quán, theo thói quen… . Dưới đây sẽ là những
phân tích chứng minh cho sự phổ rộng của văn hóa đối với pháp luật
1.1. Văn hóa là nền tảng để điều chỉnh, bổ sung cho pháp luật
Ở Việt Nam ngày nay, sự phát triển ở các vùng miền, các dân tộc chưa được
đồng đều, vẫn tồn tại sự chênh lệch không nhỏ về trình độ phát triển, đời sống văn
hóa, tinh thần giữa các vùng miền, cộng đồng dân cư. Vì vậy, không phải lúc nào các
quy phạm pháp luật với tính khái quát cao cũng hoàn toàn phù hợp để có thể điều
chỉnh một cách chính xác, thỏa đáng những vấn đề pháp lý phát sinh ở các vùng miền,
các cộng đồng dân cư khác nhau đó. “Do vậy, mỗi một cộng đồng làng xã cụ thể luôn
cần đến các quy định cụ thể, gần gũi, dễ hiểu, dễ thực hiện cho mọi thành viên trong
làng, phản ánh được nhu cầu tổ chức và phát triển của mỗi làng,xã cụ thể” [10]. Điều
này đặt ra nhu cầu tất yếu phải áp dụng tập quán, dựa vào văn hóa để có thể nhằm hỗ
trợ cho pháp luật quản lý xã hội.
Nhà nước sẽ rất khó để có thể đưa hết mọi ngóc ngách của đời sống xã hội vào
quy phạm pháp luật vì thế, trong thực tiễn sẽ luôn có những tình huống thiếu pháp luật
thành văn để điều chỉnh, trong khi đó tập quán - một trong yếu tố lại rất phong phú và
đa dạng, với cơ chế điều chỉnh mềm dẻo, linh hoạt chính là nguồn hỗ trợ, bổ sung
quan trọng cho pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Chẳng hạn phong tục
Giỗ tổ Hùng Vương đã được Nhà nước thừa nhận và đảm bảo thực hiện ở cả Phú Thọ
mà và toàn quốc gia. Không chỉ vậy, Nhà nước ta cũng thừa nhận phong tục bảo vệ
rừng thiêng của dân tộc H’mông trên những vùng cao.
1.2. Văn hóa là cầu nối giữa pháp luật và đời sống xã hội
Văn hóa có tác động không nhỏ đến việc tiếp nhận và thi hành pháp luật của
người dân. Một nền văn hóa lạc hậu sẽ trở thành lực cản trong việc tiếp nhận và thi
hành pháp luật. Ngược lại, một nền văn hóa tiến bộ sẽ đóng vai trò tích cực trong việc
tiếp nhận và thi hành pháp luật một cách tự giác của người dân. Việc áp dụng văn hóa
tốt đẹp sẽ đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng tình đoàn kết nội bộ, giải quyết
các tranh chấp bằng con đường hoà giải, giải quyết linh hoạt, kịp thời, có tình, có lý.
Kinh nghiệm phát triển kinh tế xã hội ở nước ta thời gian qua cũng cho thấy,
không thể bỏ qua các đặc điểm văn hóa, đặc trưng dân tộc và khu vực trong công tác
quản lý xã hội, bởi nếu bỏ qua các yếu tố này thì khi pháp luật đi vào đời sống sẽ khó
được người dân tiếp nhận và thi hành một cách tự giác làm cho hiệu quả quản lý xã
hội bị giảm đi đáng kể. Ví dụ theo Luật thủy sản năm 2017 đã quy định: Các hành vi
bị nghiêm cấm trong hoạt động thủy sản có bao gồm hành vi “Sử dụng chất, hóa chất
cấm, chất độc, chất nổ, xung điện, dòng điện, phương pháp, phương tiện, ngư cụ khai
thác có tính hủy diệt, tận diệt để khai thác nguồn lợi thủy sản”. (Khoản 7, Điều 7)
Những tập quán rất cụ thể như loại hình đánh bắt nào bị cấm và loại cá nào bị cấm. Vì
vậy, vai trò bổ trợ và hỗ trợ của hải quan là rất rộng.
1.3. Văn hóa bồi đắp nguồn nội dung của pháp luật
Gắn lịch sử hình thành và phát triển của mình, các quốc gia, dân tộc trên thế
giới đều có các nền văn hóa riêng để quản lý đời sống xã hội trong cộng đồng của họ.
Ở Việt Nam hiện nay, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhà
nước cũng đã thừa nhận rất nhiều những nét đặc trưng của văn hóa như những tập
quán tốt đẹp có sẵn, biến chúng thành pháp luật.
Văn hóa không chỉ là nền tảng để điều chỉnh, bổ sung cho pháp luật mà nó còn
là cầu nối giữa pháp luật và đời sống xã hội mà còn là nguồn nội dung chính của pháp
luật, là yếu tố cốt yếu để hoàn thiện một nền pháp luật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Dù xã hội đã có những biến đổi theo thời gian nhưng những giá trị tích cực của
tập quán, văn hóa xưa vẫn là “những mạch ngầm ẩn dưới tầng sâu của văn hoá dân tộc
và không hề dứt”[11]. Bởi lẽ, “nhân dân Việt Nam vốn có tinh thần trân quý những
giá trị truyền thống, có những phương pháp lưu giữ tập quán rất bền vững. Chính vì
vậy, các tập quán tốt đẹp hoặc thuận lợi cho nhân dân hầu như không mai một. Đây
Chính là điều kiện quan trọng để đảm bảo tính khả thi cho việc áp dụng tập quán”[12].
Một ví dụ điển hình chính là nước ta đã ban hành Luật di sản văn hóa năm 2011 và
Luật Di sản văn hóa sửa đổi 2009 để đảm bảo công cuộc giữ gìn và bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, không phải tập quán nào tồn tại trên thực tế cũng
tiến bộ, cũng hoàn toàn phù hợp để áp dụng trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, để phát
huy được vai trò, giá trị của văn hóa trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội , góp
phần đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các chủ thể, cũng như đảm bảo trật tự xã hội
thì việc áp dụng tập quán cần phải tuân theo những nguyên tắc nhất định nhằm kế thừa
những giá trị văn hóa tốt đẹp và loại bỏ những giá trị cổ hủ, lạc hậu.
2. Nền pháp luật Việt Nam được chủ yếu xây dựng từ kinh nghiệm văn hóa
Quả thật, kinh nghiệm văn hóa đã là một nền tảng mang ý nghĩa hết sức to lớn
để xây dựng pháp luật. Bởi lẽ, khi dựa vào văn hóa, việc ban hành pháp luật sẽ không
mang tính chất áp đặt, nó mang tính linh hoạt, phù hợp và mang lại sự phát triển cho
tất cả người dân trong xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa, từ xa xưa,
các cá nhân, cơ quan lập pháp đã luôn bám sát vào văn hóa để hoàn thành công việc
xây dựng pháp luật của mình. Tuy vậy, bên cạnh những ưu điểm lợi ích to lớn cho
nhân dân, công cuộc này vẫn đan xen những nhược điểm không thể tránh khỏi
2.1. Những yếu tố văn hóa ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng pháp luật
2.1.1 .Tôn giáo
Với những định nghĩa đã cho, tôn giáo chính là một phần của văn hóa. Theo
C.Mác: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới
không có trái tim, nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần”. Và theo Ph.Ăngghen:
“Tôn giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con người những lực lượng
bên ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày …”. Vậy chúng có ảnh hưởng
như thế nào đến pháp luật ? a. Nho Giáo
Có thể nói Nho giáo là một trong những hạt nhân hình thành nên nền văn hóa
Việt Nam bởi từ thời Bắc thuộc xa xưa, nhân dân ta đã có ảnh hưởng sâu sắc của tôn
giáo này. Đầu tiên phải kể đến quan điểm trị nước trong thời kì này bao gồm: “Lễ -
Nhạc - Hình - Chính” ảnh hưởng sâu sắc đối với văn hóa Việt Nam. “Lễ” quy định tôn
ti, trật tự, xác định bổn phận của mọi tầng lớp trong xã hội, khiến cho mọi người kính
trọng lẫn nhau, vẹn nhân, vẹn nghĩa. Bên cạnh đó, “Nhạc” có mục đích làm cho con
người trở nên thanh lịch, cao khiết, sống xứng đáng với danh nghĩa con người, sống
trọn vẹn với huy hiệu con người, tạo nên tình thân ái, hòa thuận trong quốc gia, xã hội.
Ngoài ra, “Hình” có mục đích ngăn chặn mọi ảnh hưởng xấu xa, ác độc, làm cho con
người tránh được những hiểm họa hư hỏng, băng đọa, phân tán, chia ly…. Và cuối
cùng, “Chính” có mục đích tổ chức đời sống xã hội cho có lý sự, đem lại no ấm, an
bình, trật tự cho dân, giáo hóa dân, cải thiện dân, để mỗi ngày mỗi hơn, mỗi ngày mỗi
tiến…[13]. Qua đây ta có thể thấy, người Việt Nam luôn lựa chọn lối sống đủ, có
chừng mực, biết kính trên nhường dưới theo “Lễ”, biết điều hòa, giữ hòa khí tương
thân tương kính nhau theo “Nhạc”. Đối với những cơ quan có quyền lực, họ dựa vào
Nho giáo lấy nhân làm gốc, lễ nhân là chính , luôn hướng đến con người. Với yếu tố
“Hình”, biện pháp sử dụng hình phạt sẽ là sự lựa chọn cuối cùng trong quá trình xét xử.
Điển hình cho sự ảnh hưởng của Nho giáo đến việc xây dựng pháp luật chính là
Bộ Luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều hình luật ra đời vào thời đại Hậu Lê.
Đạo đức đã được coi là cái gốc để điều chỉnh hành vi của con người. Và đặc biệt trong
thời đại này, chữ “trung - hiếu” biểu hiện cho mối quan hệ giữa vua - tôi, mối quan hệ
gia đình luôn được đề cao. Bộ luật còn điều chỉnh những quan hệ cơ bản như kết hôn,
ly hôn, quan hệ nhân thân. Những điều luật đã luôn hướng đến việc bảo vệ tông pháp,
bảo vệ thuần phong mỹ tục của cả dân tộc.
Đây cũng là là thời đại của những tư tưởng “ cha truyền con nối”, “ trọng nam
khinh nữ”. Chính vì những điều này đã dẫn đến hệ quả luật hình sự được coi trọng
hơn rất nhiều so với quyền con người.
Tuy còn có những nhược điểm, nhưng nhìn chung với sự ảnh hưởng của Nho
giáo, nhà nước Việt Nam ngày nay đã có những sự kế thừa và phát triển nhất định.
Pháp luật nước ta đã áp dụng tập quán pháp, tiền lệ pháp trong xét xử, đồng thời
những quyền bình đẳng về tài sản, quyền sở hữu tài sản riêng cũng được quy định.
Nhà nước đã có hẳn Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để quy định một cách rõ
ràng về những quan hệ xã hội, trách nhiệm của các thành viên trong gia đình. b. Phật Giáo
Đạo Phật đã ảnh hưởng trong pháp luật không những về lòng từ bi, lòng khoan
dung mà còn ảnh hưởng về cách đối xử với phạm nhân nữ. Đạo Phật rất tôn trọng giá
trị của con người và vì giới cấm nói dối cũng được giữ gìn, nên không bao giờ dám
kết tội ai một điều gì khi chưa nắm đủ yếu tố buộc tội; và do chỗ đó nên phải đối xử tử
tế với người không có tội.
Trong lịch sử Việt Nam, triều Lý được bến đến là triều đại có ảnh hưởng sâu
sắc bởi phật giáo, và đương nhiên pháp luật triều Lý cũng không phải ngoại lệ. Pháp
luật thường lấy căn bản triết lý hoặc là pháp trị hoặc là nhân trị. Đối với quan niệm
pháp trị thì các nhà làm luật nghĩ rằng con người không có bản tính thiện và con người
thường có lòng vị kỷ và vị lợi nên thường gây ra những xáo trộn trong xã hội. Do đó,
để giữ trật tự trong xã hội, cần phải áp dụng luật pháp một cách nghiêm minh tức là
phải đưa ra những hình phạt cứng rắn để sửa sai các việc vi phạm. Quan niệm pháp trị
cho rằng càng nghiêm khắc và công minh thì những kẻ mưu toan phạm pháp sẽ sợ hãi
và không dám vi phạm. Do đó trật tự xã hội được ổn định và con người sẽ được hạnh phúc.
Còn đối với quan niệm nhân trị, các nhà làm luật tin tưởng rằng con người có
một bản tính thiện vốn sẵn có. Do đó chỉ cần tu dưỡng nhân cách và phát triển bản
tính thiện ấy thì trật tự xã hội sẽ ổn định. Phái này cho rằng luật pháp là điều thừa và
chỉ cần lấy lễ, lấy đạo đức, lấy tình thương để cảm hoá con người là đủ.
Tuy nhiên, chúng ta nhận thấy cả hai quan niệm pháp trị và nhân trị đều có
nhiều khuyết điểm khi áp dụng vào trong thực tế của xã hội con người. Chúng ta biết
rằng pháp trị là một biện pháp rất cần thiết để tạo lập một trật tự, nhưng nếu áp dụng
quá nhiều biện pháp khắt khe và sử dụng nhiều hình phạt cứng rắn thì nhiều khi con
người không thể chịu đựng nổi mà đâm ra trở thành những kẻ hung dữ, đó là những
mầm mống đi đến chỗ sa đọa và gây ra sự rối loạn trong xã hội. Phái nhân trị thì quá
lý tưởng khi chú trọng vào lễ, nhạc để cảm hoá và hướng dẫn con người, nhưng trong
thực tế khi áp dụng chính sách nhân trị cũng khó mà đưa đến kết quả tốt.
Có lẽ vì những khuyết điểm của quan niệm nhân trị và quan niệm pháp trị đã
nêu trên mà nhà cầm quyền triều Lý đã áp dụng một luật pháp theo con đường chiết
trung. Tức là khi thì nhân trị, khi thì pháp trị, tùy theo trường hợp mà áp dụng. Khi áp
dụng con đường chiết trung, luật pháp nhà Lý đã chịu ảnh hưởng sâu xa của triết lý
Bát-nhã của Phật giáo. Việc áp dụng khi thì nhân trị, khi thì pháp trị tùy theo trường
hợp của luật pháp nhà Lý, đã cho chúng ta thấy rằng đó là đường lối của Phật giáo
trong quan niệm “Khế lý và Khế cơ” tức là phải tùy duyên mà áp dụng, tùy theo mỗi
hoàn cảnh mà áp dụng những giáo lý cho thích ứng.
Ngoài việc chịu ảnh hưởng tinh thần trung đạo của Phật giáo, luật pháp nhà Lý
còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của đạo Phật ở các khía cạnh: quan niệm phải lấy đức từ
bi làm triết lý hành động trong đời sống đạo đức. Từ bi là một tình thương bao la
không phân biệt giai cấp trong xã hội, người theo đạo Phật cần phải thương xót tất cả
mọi người khi họ gặp cơn hoạn nạn. Chính lòng từ bi đã giúp cho ta cảm thương được
những người đang gặp khốn khổ, và do đó, ta sẽ tìm cách giúp đỡ họ. Các vị Bồ tát
trong Phật giáo cũng đều vì lòng từ bi mà chấp nhận một hạnh nguyện là đi vào cuộc
đời lầm than để cứu độ chúng sinh. Do chỗ thấm nhuần tinh thần của đạo Phật về đức
hạnh từ bi, nên ta thấy ngay trong việc ban hành bộ Hình-thư, vua Lý Thái Tông đã
biểu lộ rõ rệt lòng từ bi của mình đối với phạm nhân. [14]
2.1.2. Đời sống văn hóa, tư tưởng
Văn hóa không hiện hữu ở đâu xa mà nó luôn tồn tại ngay trong cuộc sống
thường nhật của con người. Tất cả những thói quen, lối sống, tư tưởng bên trong một
nền văn hóa đều đã ăn sâu vào trong tiềm thức của con người. Nó góp phần quy định,
điều chỉnh mọi thứ trong cuộc sống. Xã hội Việt Nam cũng không phải ngoại lệ
a. Tính cộng đồng
Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến một dân tộc mà ngay từ thuở sơ khai đã gắn
bó với nhau bằng nghĩa tình đồng bào ruột thịt, và lại kề vai sát cánh bên nhau bước
vào cuộc trường chinh dựng nước và giữ nước, chung sức đồng lòng chiến đấu với
bao thiên tai, địch họa để kiêu hãnh trường tồn. Vì vậy, tính cộng đồng trong xã hội
Việt Nam phát triển khá mạnh mẽ, nổi trội là trong pháp luật.
Về phương diện lập pháp, Nhà nước ta đã ban hành, đưa ra chính sách, các
quyền công dân, chẳng hạn như trong Hiến pháp 2013. Vậy nhưng, những điều khoản
đó vẫn còn rất ít so với các nước phương Tây. Ngoài ra, ta có thể nhận thấy những
điều luật phục vụ cho nhà nước có số lượng nhiều hơn những điều luật lợi ích cho tư
nhân. Điều này cho thấy nước ta vẫn đề cao lợi ích cho cộng đồng nhiều hơn so với
lợi ích cá nhân và lúc này tính cá nhân của con người không được phát triển một cách tốt nhất.
Về phương diện thực hiện pháp luật, vẫn tồn tại nhiều trường hợp các cơ quan
công quyền có thói quen “ban ơn”, hạch sách công dân. Chẳng hạn để xin một giấy tờ
hành chính nào đó đòi hỏi rất nhiều thủ tục rườm rà, phức tạp. Đôi khi, trong việc
chấp hành quy định pháp luật vẫn còn xuất hiện vấn đề “cha chung không ai khóc”,
đùn đẩy trách nhiệm dẫn đến tình trạng pháp luật không được tôn trọng.
b. Trọng lệ hơn trọng luật
Đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam mang ảnh hưởng nặng nề của văn hóa
nông nghiệp lúa nước. Để phù hợp với phương thức sản xuất lúa nước, người dân
thường sống tập hợp lại với nhau vì có rất nhiều công việc để lo với việc đồng áng.
Lúc bấy giờ, mỗi làng chính là một khối kinh tế riêng, ít có sự ngoại giao với nhau
vậy nên về mặt tình cảm, họ yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Vì lý do này, mỗi làng
đều có luật lệ, khương ước riêng và thường có phương thức tự trị khép kín hướng nội,
cách xa với chính quyền. Lệ làng luôn tồn tại song song với pháp luật và văn hóa,
phong tục tập quán chính là cơ sở để lệ làng hình thành, ăn sâu bén rễ vào tiềm thức của người dân.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời trên cơ sở đánh đổ đế quốc – phong
kiến mới chỉ hơn 70 năm nên xã hội Việt Nam vẫn còn nặng những cái “lệ” chẳng
giống ai. Đòi hỏi trước hết của một nhà nước pháp quyền là hệ thống luật pháp chặt
chẽ, khoa học, công bằng, đủ sức để điều chỉnh mọi mối quan hệ trong xã hội, và hẳn
nhiên gạt bỏ được những tàn dư lạc hậu của “lệ” đã ăn sâu vào tiềm thức của con
người. Nói cách khác, luật phải được áp dụng và có hiệu lực trên toàn lãnh thổ quốc
gia chứ không thể có cái “lệ” nào có thể thay thế được.
c. Lối ứng xử nặng tình nhẹ lý
Theo văn hóa Việt Nam, người dân chỉ sống theo làng, mọi người đều thân
quen và có mối quan hệ chồng chéo với nhau. Điều đó đã dẫn đến sự trọng tình - con
người đưa cái tình trong thước đo đánh giá hành vi ứng xử của con người. Mặc dù có
những vi phạm đã được pháp luật quy định, người Việt Nam vẫn có thói quen cả nể,
bap dung, dung túng cho lỗi lầm với ưu tiên “dĩ hòa vi quý”. Trong đời sống, họ chỉ
coi pháp luật là một giải pháp bất đắc dĩ, có tranh chấp cũng không dùng pháp luật.
Nếu không khắc phục kẽ hở trong văn hóa này, nhu cầu pháp luật sẽ dần bị né tránh,
thờ ơ và rồi con người sẽ không thể dùng pháp luật để bảo vệ lợi ích cho bản thân.
2.2. Những giải pháp đề xuất cho vấn đề văn hóa và pháp luật hiện nay
2.2.1. Những vấn đề còn tồn đọng
Bên cạnh những lợi ích to lớn khi xây dựng pháp luật dựa trên văn hóa, vẫn còn tồn
đọng những vấn đề cần được khắc phục
Một là, ở nhiều vùng miền trên đất nước vẫn tồn tại những hủ tục vô cùng lạc
hậu, phong tục của đồng bào dân tộc thiểu số không còn phù hợp, cản trở sự phát triển
kinh tế - xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, đời sống của Nhân dân, như: Tảo
hôn và hôn nhân cận huyết thống; mê tín dị đoan, giết mổ nhiều gia súc, gia cầm trong
đám tang, lễ hội, gây lãng phí, tốn kém…
Vào tháng 2 năm 2022 tại Hà Giang, mạng xã hội đã lan truyền đoạn clip một nam
thanh niên ra sức kéo một thiếu nữ về nhà làm vợ, mặc cho cô gái cố gắng vùng vẫy,
bỏ chạy. Sau đó, cán bộ công an xuất hiện, ngăn cản nam thanh niên và giúp đỡ cô
gái. Mặc dù đã có những chế định xử phạt hành động này, nhưng nhìn chung những
điều khoản ấy chỉ dựa vào một số luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con
người chứ nhà nước vẫn chưa hề có chế định riêng xử phạt những đối tượng dựa vào
hủ tục để chà đạp, kìm hãm quyền con người.
Hai là, tính cộng đồng trong pháp luật Việt Nam đã vô hình chung tạo ra những
vấn đề khi thực hiện quyền con người. Mặc dù về cơ bản, pháp luật nước ta không
mâu thuẫn với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền và việc bảo đảm các quyền con
người trên thực tế là phù hợp, thậm chí ở mức tiến bộ, so với thông lệ quốc tế; tuy
nhiên, trong việc bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay vẫn còn một số vấn đề
tồn tại nhất định. Cơ chế đảm bảo nhân quyền vẫn chưa hiệu quả: Hiện nay, nước ta
vẫn chưa có một cơ quan chuyên trách về vấn đề thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; chưa
có một quy chế chặt chẽ trong việc xử lý các tố cáo và vi phạm nhân quyền nhiều như
những điều luật cho cộng đồng. Chẳng hạn, hiện nay ở nước ta quyền được biểu tình
vẫn chưa được nhà nước thừa nhận và đảm bảo.
Ba là, nhiều người dân còn xem nhẹ pháp luật vì lối sống “nặng tình nhẹ lý”.
Trước những mâu thuẫn tranh chấp, người dân sẽ chọn cách tự giải quyết với nhau
không kể đến tính chất pháp lý của vấn đề ra làm sao. Họ luôn giữ thái độ chủ quan,
thiếu nguyên tắc “chín bỏ làm mười. Điều này đã vô tình phá hủy tinh thần tự tôn
pháp luật vì việc để cái “tình” lấn át cái “lý” chẳng khác nào phủ nhận vai trò điều tiết
xã hội của pháp luật. Nếu còn tiếp diễn tình trạng này trong xã hội ngày nay, mọi
người sẽ chủ quan không chủ động tìm hiểu về pháp luật, làm mất quyền lợi của chính bản thân mình
Bốn là, văn hóa ảnh hưởng tiêu cực đến việc khiếu nại pháp luật. Nước ta mang
nền văn hóa tiểu nông, tư duy manh mún, thiếu mất tư duy lý luận dẫn đến việc thủ
tục giải quyết khiếu nại mang nặng tính "hành chính", khép kín, thiếu sự minh bạch
làm cho người khiếu nại, người bị khiếu nại và các bên liên quan ít cơ cơ hội "tranh
tụng" để tìm ra sự thật khách quan và biện pháp giải quyết phù hợp. Bên cạnh đó, việc
ban hành pháp luật còn thiếu nhất quán về mặt tư tưởng, liên tục cần sửa đổi, cập nhật
pháp luật do sự thiếu đồng bộ, chồng chéo của các điều luật. Điều này đã ảnh hưởng
không ít đến hiệu quả giải quyết khiếu nại hành chính.
2.2.2. Giải pháp
Những tồn tại trên đã có sự tác động không nhỏ đến sự phát triển về không chỉ
về văn hóa, pháp luật mà nó còn ảnh hưởng tới cả kinh tế, giáo dục, an ninh, quốc
phòng,... của một quốc qua. Dưới đây sẽ là những giải pháp đề xuất cho những vấn đề tiêu cực này.
Đầu tiên, Nhà nước bên cạnh việc giữ gìn, xây dựng và phát huy các giá trị
truyền thống văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc cần ban hành pháp luật một
cách triệt để loại bỏ những hủ tục lạc hậu. Cụ thể, những cơ quan có thẩm quyền cần
thực hiện rà soát, lập danh sách các hủ tục lạc hậu, tập tục không còn phù hợp, tích
cực tuyên truyền qua giáo dục, các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao nhận
thức của toàn dân về vấn nạn này. Đồng thời, pháp luật cần xây dựng những chế định
xử phạt thật nghiêm khắc đối với những đối tượng lợi dụng những hủ tục cổ hủ để chà đạp quyền con người.
Tiếp đến, Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở
pháp lý cho việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người, quyền công dân.
Trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm các
quyền con người về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền
của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội như quyền trẻ em, quyền phụ nữ;
quyền của công dân cao tuổi… Để làm được điều đó, cần có sự nghiên cứu và tổng
kết toàn diện và sâu sắc hệ thống pháp luật hiện hành, có sự phân tích, so sánh đối
chiếu với các quy định quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia. Trên cơ
sở các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đặt ra trong thời gian tới, các quy phạm
pháp luật về các quyền dân sự, chính trị cần được chế định thêm, cụ thể và rõ ràng hơn trong Hiến pháp.
Với vấn đề tiếp theo, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả phổ biến, giáo dục
pháp luật, đảm bảo tiếp cận pháp luật, kỹ năng thực hành pháp luật. Một trong những
nội dung cần đổi mới trong phổ biến, giáo dục pháp luật chính là sự kết hợp phổ biến,
giáo dục về kiến thức pháp luật với những kỹ năng cần thiết trong thực hiện pháp luật.
Sự hiểu biết pháp luật là cơ sở để mỗi cá nhân hình thành ý thức tôn trọng và lối sống
tuân theo pháp luật. Đưa các yếu tố pháp luật, kỹ năng thực hành pháp luật vào trong
giáo dục đạo đức và ngược lại; phát triển các loại hình dịch vụ pháp lý, góp phần giảm
thiểu những rủi ro pháp lý và nâng cao an toàn pháp lý cho các cá nhân, tổ chức trong
các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội.
Cuối cùng, Nhà nước cần hình thành tổ chức bộ máy pháp luật quy định rõ, cụ
thể thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của từng người, bộ phận, đơn vị, cơ quan, mối
quan hệ giữa người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại với người tham mưu, quan hệ
giữa các bộ phận tham mưu, cơ chế phối hợp, mối quan hệ giữa cấp trên và cấp
dưới…. Tích cực giải quyết những mối quan hệ, điều luật mâu thuẫn chồng chéo, đẩy
nhanh hiệu lực thi hành các quyết định giải quyết nại hành chính. Các cơ quan có
thẩm quyền cần tích cực rèn luyện tính nguyên tắc, chuyên nghiệp, khách quan để có
thể khắc phục những điểm thiếu sót trong việc khiếu nại pháp luật. KẾT LUẬN
Ngày nay, chúng ta đang sống ở thế kỉ thứ XXI – một thời đại phát triển của
cách mạng công nghiệp 4.0 , thời đại của sự toàn cầu hóa. Ngày nay, khi nhân loại đề
cao sự hội nhập, sự đa dạng giữa các chủng tộc các quốc gia, nền văn hóa chính là một
bảo vật quý giá mà mỗi quốc gia cần phải trân trọng, nâng niu, duy trì và phát triền.
Trong chế độ Chủ nghĩa xã hội, văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, là động lực
phát triển của xã hội. Chính vì sự phổ rộng, bao trùm của văn hóa với tất cả các lĩnh
vực trong đời sống vậy nên văn hóa đã trở thành một trong những nguồn chính trong
công cuộc xây dựng pháp luật không chỉ riêng Việt Nam, mà còn toàn bộ các nước
trên thế giới. Để có thể xây dựng một hệ thống pháp luật đảm bảo sự tự do, dân chủ,
công bằng, văn minh cho nhân dân, các nhà làm luật, các cơ quan có thẩm quyền cần
dựa vào những yếu tố văn hóa, những phong tục tập quán mang đậm giá trị bản sắc
văn hóa dân tộc cho đời sống nhân dân hiện đại. Đồng thời, cần loại bỏ những phong
tục tập quán, những yếu tố văn hóa cổ hủ, lỗi thời không còn phù hợp với thời đại.
Xây dựng và phát triển pháp luật là cả một quá trình bền vững và lâu dài và có lẽ phát
triển văn hóa cũng vậy. Là một sinh viên chuyên ngành Luật, em sẽ không ngừng học
hỏi, nghiên cứu, trau dồi những kiến thức về văn hóa để có thể có một bước đệm vững
chắc trong con đường pháp luật học của em sau này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] PGS, VS Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản giáo dục 1999, tr,10.
[2] E.B. Tylor, Văn hóa nguyên thủy, Huyền Giang dịch từ tiếng Nga, Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật, Hà Nội, tr, 13.
[3] Giáo trình lý luận Nhà nước và Pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất
bản Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2008
[4] C. Mai – T.Mai (2014), “Pháp luật Việt Nam phức tạp nhất thế giới!”, Báo Tuổi
Trẻ Online, tại địa chỉ: https://tuoitre.vn/phap-luat-viet-nam-phuc-tap-nhat-the-gioi-
612305.htm ngày truy cập 25/06/2022
[5] Nguyễn Thị Hồi, Về khái niệm nguồn của pháp luật, Tạp chí Luật học, số 2/2008, tr. 29, 30.
[6] Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Minh Đức (2013), “Tạo lập nguồn pháp luật đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế” Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 23 (255) Kỳ 1, tr.3
[7] Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái, (2009), Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb.
Giao thông vận tải, tr.310
[8] https://dictionary.cambridge.org/dictionary/english-vietnamese/custom truy cập ngày 25/06/2022
[9] Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình lý luận Nhà nước và Pháp luật,
NXB. Tư pháp, Hà Nội, tr.354 – 355.
[10] Nguyễn Thị Tuyết Mai (2014), Áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc
dân sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Luật học.
[11] Ngô Đức Thịnh, 2014, Luật tục trong đời sống các tộc người ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
[12] Viện nghiên cứu Văn hóa Dân gian, Ngô Đức Thịnh (Chủ biên),1998, Luật tục
M’Nông, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[13] Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ, Chân Dung Khổng Tử, ch. 14.
[14] Nguyễn Vĩnh Thượng (2015), “Ảnh hưởng Phật giáo trong Pháp luật triều Lý”,
Đạo Phật ngày nay, tại địa chỉ: https://www.daophatngaynay.com/vn/phatgiao-vn/lich-
su/17526-anh-huong-phat-giao-trong-phap-luat-trieu-ly.html truy cập ngày 25/06/2022
Document Outline

  • MỤC LỤC
  • LỜI MỞ ĐẦU
    • I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
    • 1. Văn hóa
    • 1.1. Khái niệm nền văn hóa
    • 1.2. Đặc trưng và chức năng văn hóa
      • I.2.1. Tính hệ thống
      • 1.2.2. Tính giá trị
      • 1.2.3. Tính nhân sinh
      • 1.2.4. Tính lịch sử
    • 1.3. Định vị văn hóa Việt Nam
    • 2. Pháp luật
    • 2.1. Giới thiệu chung về hệ thống pháp luật
    • 2.2. Những nguồn của pháp luật
      • 2.2.1. Khái niệm nguồn pháp luật
      • 2.2.2. Những nguồn pháp luật cơ bản
    • II. MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA VÀ PHÁP LUẬT QUA NHẬN ĐỊNH
      • “Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp luật và pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa.”
    • 1. Văn hóa có sự ảnh hưởng phổ biến và rộng rãi đến pháp luật
    • 1.1. Văn hóa là nền tảng để điều chỉnh, bổ sung cho pháp luật
    • 1.2. Văn hóa là cầu nối giữa pháp luật và đời sống xã hội
    • 1.3. Văn hóa bồi đắp nguồn nội dung của pháp luật
    • 2. Nền pháp luật Việt Nam được chủ yếu xây dựng từ kinh nghiệm văn hóa
    • 2.1. Những yếu tố văn hóa ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng pháp luật
      • 2.1.1 .Tôn giáo
    • a. Nho Giáo
    • b. Phật Giáo
      • 2.1.2. Đời sống văn hóa, tư tưởng
    • a. Tính cộng đồng
    • b. Trọng lệ hơn trọng luật
    • c. Lối ứng xử nặng tình nhẹ lý
    • 2.2. Những giải pháp đề xuất cho vấn đề văn hóa và pháp luật hiện nay
      • 2.2.1. Những vấn đề còn tồn đọng
      • 2.2.2. Giải pháp
  • KẾT LUẬN
  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO