TIỂU LUN
ĐỀ TÀI: Đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt
Ưu điểm hạn chế của những đc trưng này trong quá trình
hội nhập quốc tế
Môn : Đại cương văn hóa Việt Nam
Giảng viên hướng dẫn: TS. Trần Thị Hồng Thúy
TS. Đào Ngọc Tuấn
Sinh viên thực hiện
: Nguyễn Minh Ngọc
Lớp : TTQT48C1A
sinh viên : TTQT48C1-1496
1
MỤC LC
A. MỞ ĐẦU ................................................................................. 2
B. NỘI DUNG ............................................................................ 2
I. GIẢI NGHĨA THUẬT NG .......................................................... 3
1. Giao tiếp gì? .................................................................................3
2. Văn hóa giao tiếp ? .................................................................... 4
3. Đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của ngưi Việt Nam ? .......... 4
II . Đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam ............ 6
1. Về thái độ trong giao tiếp .................................................................. 7
2. Về quan hệ giao tiếp ......................................................................... 8
3. Về đối tượng giao tiếp..................................................................... 10
4. Về chủ thể giao tiếp ........................................................................ 12
5. Về cách thức giao tiếp .................................................................... 14
6. Hệ thống nghi thức li i rất phong phú ........................................ 14
III. So nh đặc trưng trong giao tiếp của người Việt Nam với các
nước Đông Nam Á ............................................................................ 15
1. Đim tương đồng ............................................................................ 16
2. Đim khác biệt ............................................................................... 16
IV . Ưu điểm và hạn chế của những đặc trưng này trong quá trình
hội nhp quốc tế .............................................................................. 17
1. Ưu đim .......................................................................................... 18
2. Hạn chế........................................................................................... 19
C. KẾT LUẬN........................................................................... 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHO ................................. 21
2
A.
MỞ ĐẦU
L. Pheurbach đã từng nói : Con ngưi thể không chứa bản chất con người
trong mình. Bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp, trong thể
thống nhất giữa con người với con người. Con người để cho mình chỉ con
người theo nghĩa thông thường n con người trong giao tiếp với đồng loại,
trong sự thống nhất giữa Tôi với Anh mới chính là Thượng đế.”
Ta thể hiểu u nói này chính là lời khẳng định tầm quan trọng của giao
tiếp trong cuộc sống muôn đời bất kể thời đại. Giao tiếp cầu nối giữa người
với người biểu hiện tính nhân cộng đồng của con người t
nhất. Vì vậy, kĩ năng giao tiếp đã ngày một trở nên thiết thực hơn đối với mi
nhân, đặc biệt đối với người trẻ trong bối cnh hội nhập quốc tế, trở
thành công cụ quan trọng trong quá trình kết nối với thế giới xung quanh.
Nghệ thuật giao tiếp từ xa xưa đã trở thành một trong những bản sắc n hóa
nhân loại. Bản sắc ấy lại được duy trì qua bề dày lịch sử, góp phần hình thành
nên nền n hóa đặc trưng của mi quốc gia. Văn hóa giao tiếp của nước Việt
Nam ta mang nhiu đặc điểm rất đỗi phong psinh động - đậm đà bản
sắc Châu Á chung, nhưng khi đặt lên n cân cthvới c nước trong khu
vực thì lại nhiu nét khác biệt. thể nói, những nét đặc trưng này đã phần
nào khái quát được lên đời sống và tính cách chung của cả cộng đồng n tộc
Việt Nam.
Từ nhận thức về tầm quan trọng của giao tiếp trong cuộc sống thường nhật
sự choáng ngợp trước vàn nét đặc sắc trong văn hóa giao tiếp Việt Nam,
em mong muốn bản thân thể khái quát được những đặc trưng bản trong
văn hóa giao tiếp của người Việt. Việc tìm hiu về các đặc trưng này sẽ giúp
chúng ta cái nhìn đa chiều vvăn hóa dân tộc nói chung, từ đó có thể m
hiu các ưu, nhược điểm của chúng trong quá trình giao lưu hội nhập quốc
tế, cũng như các giải pháp chung cho người trẻ ttin tiếp bước vào nn văn
minh mới trong bối cảnh đa quốc gia.
3
B.
NỘI DUNG
I. Giải nghĩa thuật ngữ
1. Giao tiếp ?
Giao tiếp là một hoạt động truyền tải suy nghĩ, thông điệp, mong muốn
giữa con người vi con người thông qua ngôn ngữ, dấu hiệu, quy tắc biểu
tượng. Giao tiếp ng cụ gn kết con người với cộng đồng,vậyđóng
vai trò thiết yếu trong đời sống tng ngày và đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Nếu con người không giao tiếp vi nhau, ta sẽ không n
định nghĩa ca cộng đồng và xã hội. Trong thế kỉ mới với bối cảnh hội nhập
quốc tế mở rộng, hội đòi hỏi sự chung tay phát triển về nguồn lực trí óc
thì kỹ năng giao tiếp trở thành một công cụ cá nhân quan trọng hơn bao giờ
hết. Theo các giáo sư, các chuyên gia ở Việt Nam và toàn thế gii, giao tiếp
có thể có nhiều định nghĩa khác nhau, tiêu biểu như:
- Theo sách “Đại cương về văn hóa Việt Nam” của TS.Phạm Thái Việt
(Chủ biên) và TS. Đào Ngọc Tun, do NXB Văn Hóa Thông Tin ấn
hành, giao tiếp được định nghĩa là hoạt động giao lưu, tiếp xúc, chia
sẻ, trao đổi giữa con người vi con người. Thông qua giao tiếp, văn hóa
của cá nhân và cộng đồng được biểu đạt rõ nét.”
- Theo nhà m học người Mỹ Osgood C.E: Giao tiếp bao gồm các
hành động riêng rẽ mà thực chất chuyển giao thông tin và tiếp nhận
thông tin”.
- Theo Từ Điển tiếng Nga văn học hin đại tập 8”, trang 523 của NXB
Matxcơva:Giao tiếp là sự liên hệ và đối xử ln nhau
- Theo Từ Đin Tâm học” của Dũng: Giao tiếp qtrình thiết
lập và phát triển tiếp xúc giữa cá nhân, xuất phát từ nhu cầu phối hợp
hành động. Giao tiếp bao gồm hàng loạt các yếu tố như trao đổi thông
tin, xây dựng chiến lược hoạt động thống nhất, tri giác và tìm hiểu
người khác. Giao tiếp có ba khía cạnh chính: giao lưu, tác động tương
hỗ và tri giác”.
Như vậy, mỗi người lại có cho mình một định nghĩa riêng về thuật ngữ
giao tiếp theo một khía cnh nổi bật. Nhìn chung, ta thể hiểu giao tiếp
4
hành động trao đổi, truyền đạt thông tin, cảm xúc giữa người vi người và
có thể khng định giao tiếp chính là phương thức tồn tại của con người.
2. Văna giao tiếp ?
Văn hóa giao tiếp là cung cách, văn hóa trong quá trình giao tiếp của các
cá nhân với nhau, thể hiện được tính cách và con người của đối tưng trong
cuộc hội thoại. Ta có thể đánh giá một người có văn hóa, có tri thức hay
không qua đối ngoại trong cuộc sống hàng ngày. Bởi lẽ, giao tiếp là hành
động mang tính tự nhiên, phn x, nhưng giao tiếp văn hóa thì không phải
ai cũng làm được.
Văn hóa giao tiếp của một cộng đồng bao gồm những quy tắc, quy định,
những chuẩn mực của hoạt động giao tiếp giữa người và người trong xã hội
đó, dân tộc đó. Nhờ những quy tắc đó, con người trong cộng đồng mới tiếp
cận được những giá tr đạo đức phù hợp với quan nim của hội xung quanh
về văn hóa và bản sắc dân tộc, xã hội nói chung mi trở nên thống nhất, quy
củ, nề nếp. Có thể nói, văn hóa giao tiếp của một hội, một dân tộc là góp
phần làm nên bản sắc tập quán, phong tục, truyền thống của xã hội, dân tộc
đó. Việt Nam, văn hóa giao tiếp mang màu sắc Châu Á nói chung nhưng
những nét khác biệt rất đậm đà tínhn tộc. Có thể nói, khó có quốc gia nào
trên thế giới có sự cầu kì, phong phú trong giao tiếp như ở Việt Nam. Dưới
đây, em sẽ đi sâu vào tìm hiu những đặc điểm làm nên sự phong phú ấy.
3. Đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam ?
Đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam những đặc điểm
riêng biệt trong cung cách giao tiếp, cách đối nhân xử thế của người Vit so
với các quốc gia khác. Đặc trưng này biểu hiện nhiu đặc điểm giao tiếp dễ
nhận thấy của người Việt Nam.
II. ĐẶC TRƯNG TRONG VĂN HÓA GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT
NAM
1. Về thái độ giao tiếp
Giao tiếp là một cách thức để bộc lộ bản chất bên trong mi con người.
Đầu tiên, xét v khía cạnh thái độ trong giao tiếp, người Việt Nam có đặc
đim vừa thích giao tiếp, lại vừa rụt rè. Người Việt Nam a nay sống phụ
5
thuộc lẫn nhau, luôn quan tâm đến việc duy trì, giữ gìn các mi quan hệ với
người khác trong tập thể, cộng đồng. Giao tiếp tạo ra các mi quan hệ, bởi lẽ
điu này chính là nguyên nhân dẫn đến việc người Việt Nam ta rất coi trọng
đến việc giao tiếp cũng như văn hóa ứng xử “Chuông kêu thử tiếng, người
ngoan thử lời”. Điều này được thể hiện ở hai góc độ sau:
- Xét từ góc độ của chủ thgiao tiếp, người Việt Nam có tính thích thăm
viếng đồng thời cũng thích khách đến nhà thăm mình. Việc khách
đến thăm nhà không chỉ đơn thuần vì lí do công việc như các c
phương Tây mà là hành động biu hiện sự quan m, thăm hỏi, tình
nghĩa giữa các người với người, với làng xóm, cộng đồng, nhằm làm
mối quan hthêm khăng khít. Đối với những người đã có mi quan hệ
thân thiết từ trước t việc đến thăm nhau này lại diễn ra càng thường
xuyên hơn, bất kể có gặp nhau thường xuyên đến thế nào thì lúc rảnh
rỗi họ vẫn dành thời gian đến thăm hỏi, trò chuyện với đối phương và
gia đình của đối phương.
- Xét từ góc độ đối tượng giao tiếp, người Việt Nam có tính hiếu khách:
Khách đến nhà chẳng gà tgỏi, bởi lẽ đói năm, không bằng đói bữa”.
Khi khách ghé thăm, bất kể lạ hay quen, thân sơ hay đã gần gũi, người
Việt Nam luôn tiếp đón chu đáo nht từ đưa đón đến bữa ăn. Trong hầu
hết các gia đình bất kể hoàn cnh, họ thể chấp nhận nhng m
m giản dị tng nhật nhưng luôn phải chuẩn bnhng của ngon vt
lđể mời khách. Sự nng hậu, nhiệt tình y thể hin được rất ràng
đặc điểm xi li, thân thiện cũng như tính thích giao tiếp của con người
Việt Nam.
Tuy nhiên, cùng với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại tồn tại một
đặc tính trái ngược đó srụt rè. Đây cũng điều những người bạn ngoại
quốc khi giao tiếp cùng hoặc quan sát người Việt Nam khi giao tiếp thường
nhắc tới. Nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại của hai đặc tính đối lập nhau y
(vừa thích giao tiếp, vừa rụt rè) do tính cộng đồng tính tự trị, hai tính
cách bản của người Việt Nam. Ta thể hiu rằng nếu người Việt Nam
đang trong một môi trường gn gũi, quen thuộc (cộng đồng, làng xã) tsẽ
rất thoải mái, tự tin trong việc giao tiếp. Điu này họ đã quen hành xử
6
theo những quy tắc sẵn trong cộng đồng đó. Ngược lại, nếu họ vượt ra
ngoài môi trường thân thuộc nơi tính tự trphát huy tác dụng, rất ít người
quen biết thì họ sẽ trở nên rụt rè, lúng túng do không xác định được vị thế
thói quen giao tiếp mới, từ đó ngại ngùng, ít nói hơn. Hai tính cách y tuy
trái ngược nhưng chúng không hề mâu thuẫn với nhau, vả lại càng khẳng định
sự linh hoạt trong ứng xử, giao tiếp của người Việt Nam.
2. Về quan hệ giao tiếp
Nền văn hóa ng nghiệp điển hình đã đem lại ảnh hưởng sâu sắc đến văn
hóa giao tiếp của người Việt, đặc biệt phương diện quan hệ giao tiếp. Con
người nông nghiệp ưa tổ chức xã hội, đối nhân xử thế theo nguyên tắc trọng
tình, lấy cái tình cảm, tình nghĩa ra làm quy luật trong giao tiếp. Điều này đã
được thể hiện từ thời ông cha trong các câu ca dao:
- Yêu nhau yêu cả đưng đi
Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng.”
- Bầu ơi thương ly cùng
Tuy rng khác giống nhưng chung một giàn.”
- Một bồ cái không bằng một cái tình.
Về khái quát, người Việt Nam vẫn ưa chuộng nguyên n bằng âm dương,
tức là tình cảm - lý trí dung hòa, nhưng so vi thói quen ứng xử, giao tiếp
trong cộng đồng từ xa xưa, ta dễ dàng nhận ra cái tình vn được xem trọng
hơn cái. i tình đã trở thành một đặc điểm trong cách nghĩ, cách ứng xử
của người Việt, tạo nên một nét riêng trong tính cách, thể hiện được bản sắc
văn hóa, trong đó có quan hệ giao tiếp. Bởi thế, ngưi Việt thường nói “tình
nghĩa” chứ ít nói “nghĩa tình”. Trong giao dịch, trong xử lí công việc, hay
đặc biệt trong giao tiếp vi người khác, chữ tình vẫn hay được đặt lên trên
chữ lí. Hiện tượng này ở quốc gia nào, dân tộc nào cũng có, nhưng ở Việt
Nam phổ biến hơn, nặng nề hơn.
Cái tình trong quan hệ giao tiếp của người Việt Nam còn thể hiện ở quan
nim :”Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy” ai giúp mình một chút
đều phải nhớ ơn, ai bảo ban một chút đều tôn làm thầy, khái nim thầy thế
7
được mở ra rất rộng: thầy đồ, thầy võ, thầy thuốc, thầy cúng, thầy bói,
thy địa lý, thầy p thủy, thầy cãi, thầy rắn.
Người Việt dễ giận dữ khi vi phạm chữ tình và cũng dễ tha thứ khi nhắc
đến cơ sở tình nghĩa. Đây là minh chứng cho sự tình cảm, vị tha, khoan dung
trong ứng xử, mm dẻo trong đối phó và giao tiếp. Đặc tính trọng tình cảm đã
chỉ ra tính cách chung nguyên tắc giao tiếp của ngưi Việt, đó chính m
hiếu hòa, yêu sự bình đẳng, đề cao cộng đồng. Song, đặc tính này chỉ thích
hợp khi tham gia một cộng đồng quan hệ xã hội nhỏ, không gây ra những hậu
quả nghiêm trọng và dễ giải quyết. Còn trong xã hội hin nay, cách giao tiếp
trọng tình hơn lý không còn được phổ biến như trước vì nó không thể hin
được sự khách quan, công bằng, chính trực.
3. Về đối tượng giao tiếp
Đối ng giao tiếp người tiếp nhận những thông tin, thông điệp của đối
phương (chủ thể giao tiếp) trong quá trình giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp,
Người Việt Nam có thói quen tìm hiu, quan sát, đánh giá đối tượng giao tiếp
trên nhiều phương diện như tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị hội,
tình trạng hôn nhân, gia đình,.. Ngưi Việt Nam thường quen với những
những câu hỏi như làm nghề gì, lương bao nhiêu tiền, có vợ hay chồng chưa,
my đứa con rồi …”. Đây là những thói quen hoàn toàn ti ngược với văn
hóa giao tiếp của c ngoài, đặc biệt là các nước pơng Tây. Ở nhiều quốc
gia, việc hỏi han các thông tin cá nhân như tuổi tác, thu nhập… với người chỉ
mi quan hệ xã giao bị coi là bất lịch sự. Điều này có thể khiến đối tượng
giao tiếp khó chịu và không thoải mái, thậm chí đánh giá là tọc mạch,
duyên, xâm phạm vào đời sống riêng tư. Đặc tính này đến từ tính cộng đồng
làng xã trong đời sống, và việc thường xuyên giao lưu với cộng đồng đã ăn
sâu vào nếp sống lối giao tiếp ng xử của người Việt Nam từ ngàn đời nay.
Người Việt Nam cũng tự thấy mình phảitrách nhiệm quan tâm đến đối
tượng giao tiếp, đặc biệt là những đối tượng mới gặp, vì vậy cần biết rõ hoàn
cảnh, tình trạng của họ. Thói quen quan sát đối tượng giao tiếp đã trở thành
nét đặc trưng trong văn hóa giao tiếp, giúp người Việt Nam đánh giá, nhận
định người đối diện để lựa cách ứng xử sao cho thuận lòng cho hai bên, bày tỏ
sự quan tâm được chân thành hơn. Mặt khác, do hệ thng nhân xưng phong
8
phú của c ta u cầu phân biệt rõ ràng, chi li các mi quan hệ xã hội, gia
đình nên phải nắm bắt thông tin đối tưng giao tiếp để lựa chọn từ xưng
thích hợp. Không dễ để lựa chọn cách gọi đối tượng giao tiếp ngay từ lần đầu
gặp qua ngoại hình, vì vậy người Việt sẽ tìm hiểu thông tin tuổi tác, vai vế,
quan hệ,... để lựa chọn cách xưng hô phù hợp nhất, tránh gây hiểu lầm hay
thất lễ. Ví dụ, nếu đối tượng giao tiếp có vẻ ngoài luống tuổi hơn tuổi thật,
nếu gọi sai thì sẽ gây phật lòng đối phương. Trong trường hp này, nhữngu
hỏi như “Đã lập gia đình chưa?” sẽ trở nên cần thiết để đoán định tuổi thật đối
phương, từ đó đưa ra ngôi xưng đúng, khiến quan hệ hai bên thoải mái, vui
vẻ hơn.
Việc biết tính cách, biết người để lựa chọn đối tượng giao tiếp thích hợp
của người Vit được thể hiện qua các câu thành ngữ, tục ngữ như: Tùy mt
gửi lời, tùy người gửi của”; “Chọn mặt gửi vàng”; “Ăn chọn nơi, chơi chọn
bạn” . Còn khi không có cơ hội tìm hiểu, lựa chọn đối tượng giao tiếp thì
người Việt dùng chiến c thích ứng một cách linh hoạt như: “Ở bầu thì tròn,
ở ống thì dài”; “Mm nắn, rắn buông”; “Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi vi ma
mặc áo giy”; Tùy cơ ng biến”; Tùy mặt đặt tên”; Lựa gió xoay chiều”.
th nói, cả hai điều này đều thể hiện sự cẩn trọng, không muốn làm mích
lòng người khác trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam.
4. Về ch th giao tiếp
Từ góc độ chủ thể giao tiếp, đặc tính nổi bật của người Việt Nam trọng
danh dự. Điu đó đã được thể hiện trong các câu ca dao, tục ngữ từ xa xưa:
“Tốt da hơn lành áo”; “Giấy rách phải giữ lấy lề”; Đói cho sạch rách cho
thơm”; “Trâu chết để da, người ta chết để tiếng”.
Danh dự scoi trọng của hi đối với nn hoặc tổ chức nào đó.
Danh dự gắn liền với nhân phẩm, uy tín của cá nhân đó được sự bảo vệ,
ghi nhận của cộng đồng pháp luật. th nói, Việt Nam thì danh dự
được gắn với năng lực giao tiếp, tức một người có uy tín, tin tưởng được
hay không nhờ vào năng giao tiếp của họ ngược lại, nếu người đó
phát ngôn không đúng mực sẽ trở thành tiếng d ảnh hưởng đến bộ mặt
nhân phẩm của họ. Vì vậy, danh dự trở thành thước đo tính cách và địa vị của
con người trong xã hội và ai cũng cần phải bảo vệ danh dự của mình.
9
Song, việc quá coi trọng danh dự đã dẫn đến căn bệnh diện. Phải nói
thêm rằng, diện” nghĩa đen không mang ý xu. Ghép thai từ hán diện”
(bộ mặt) sĩ” (người trí thức), diện” vốn dĩ là bộ mt ngưi học”
(xem: Từ đin từ và ngữ Hán Việt của Nguyn Lân, 1989, tr. 580). Một kẻ
trong truyền thống người được tôn trọng bậc nhất trong hi, từ nhân
cách, đạo đức, phong thái, cho tới tài ng đều vượt xa người thường. Tuy
nhiên thời nay, khi giá trvăn hóa bị mất đi nội m vốn có, từ din” ch
còn được dùng dưới nghĩa tiêu cực là ra v không thua m ai để che giu s
yếu kém của mình. Bệnh sĩ đã được khắc ghi rất nhiều trong ca dao, tục ngữ:
- Đem chuông đi đấm nước người,
Không kêu cũng đấm ba hồi lấy danh.
- Một quan tiền công, không bằng mt đồng tiền thưng.
Việc coi trọng danh dự bắt nguồn t chế thứ bậc của làng xã, và từ
quan niệm của Nho giáo về mẫu người quân tử. các làng qViệt Nam,
thói sĩ diện biểu hin qua tục lệ ngôi thứ nơi đình trung tục chia phần. Khi
xưa, trong sinh hoạt làng xóm, người Việt phân chia thứ bậc chốn đình trung
rất chi li, c thể qua i sn, tuổi tác, chức phẩm,... Tài sn, tuổi tác, chức
phẩm cao thì được ngi hàng trên, thấp hơn tngi hàng dưới. Người Việt
thích i danh và cần cái danh để khng định địa vị của mình trong cộng
đồng, vậy nên mới tục chia ngôi thứ như vậy. Hơn nữa, khi xưa trong
làng còn câu Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Không ch
đơn gin miếng ăn cái li, cái danh, cái sĩ diện n xếp trên cả cái lợi
đó. Người được ra đến giữa làng ngồi chiếu ăn một miếng thịt nom oai vệ, vị
thế cao hơn hn kẻ đứng bếp với cả mâm cỗ đầy. Từ xa xưa, người Việt Nam
đã coi trọng cái tiếng như vậy.
Theo các giáo sư, tiến sĩ, các nhà nghiên cứu văn hóa, cộng đồng nào
cũng đều tính diện ít hay nhiu. vốn diện cần thiết để thể
hin phẩm chất, cách đàng hoàng, đạo mạo, chân chính. Tuy nhiên, vì
người Việt m tiểu nông người Việt do hàng nghìn m sống dưới cộng
đồng làng nông thôn, tính diện của một bộ phận người lại trở n cực
đoan đến duyên, phn cảm. Bệnh sĩ bào mòn nội m, nhân cách của con
người, khiến hi ngày một suy thoái, buộc ngưi ta phải sống hành
10
động khác mình, nhiều khi giả di vi chính mình. Thói diện xuất hiện t
những câu chuyện dân gian vn còn tồn tại một số bộ phận cho đến tận
ngày nay.
Việc coi trọng danh dự, coi trọng sĩ diện dẫn đến chế tin đồn, dần dần
tạo nên luận”. Người Việt Nam rất sluận: Người ta chỉ m lựa
theo dư lun mà sống chứ ai dám dẫm lên luận mà đi theo ý mình”. đời
này người ta chỉ sẵn sàng chết đói, chết rét, chết bom, chết đạn để che chở,
nuôi nấng cho con mình tai qua nạn khỏi, con mình được sung sướng, được
vinh hoa chứ không ai chịu tai tiếng, chịu snhục để con mình được tự do
theo ý nó” (theo “Thời xa vắng” - Lê Lựu). Đặc biệt, thời điểm mạng hội
phát triển như hiện nay, luận xã hội ngày càng sức mạnh định hướng
hơn.
5. Về cách thức giao tiếp
5.1. Khái niệm / Phân loại
Ta có thhiu cách thức giao tiếp phương thức giao tiếp giữa con người
với con người, cách truyền đạt trao đổi thông tin, suy nghĩ, tâm của bản
thân vi ngưi đối diện thông qua các hình thái ngôn ngữ, cử chỉ, hành động,
biu cảm, tâm lý…
Cách thức giao tiếp thể chia thành ba loại:
- Giao tiếp truyền thống là giao tiếp giữa các mối quan hệ người vi
người trong qtrình phát triển hội iển hình các loại giao tiếp
quan hệ họ hàng trong gia đình)
- Giao tiếp chức năng là giao tiếp theo chuyên hoá trong xã hội, ngôn
ngữ,…bao gồm những quy tắc, thông lệ chung trong hội ta phải tuân
thủ khi giao tiếp (chánh án - b cáo, sếp - nhân viên…)
- Giao tiếp tự do là giao tiếp không có quy tắc và quy định trước như
khuôn mu, phát triển tự do theo quá trình tiếp xúc của từng mối quan
hệ.
Xét về hình thức, tính chất, giao tiếp được chia ra m bốn loại dựa trên
các khía cạnh:
11
- Khoảng cách tiếp xúc bao gồm hai loại trực tiếp gián tiếp. Giao tiếp
trực tiếp yêu cầu khoảng cách mặt đối mặt, sử dụng ngôn ngữ nói và
phi ngôn ngữ . Giao tiếp gián tiếp là phương thức giao tiếp thông qua
một phương tin khác như: thư từ, fax, email,…
- Số người tham dự gồm giao tiếp song phương (hai người giao tiếp với
nhau), giao tiếp nhóm (tập thể giao tiếp với nhau) và giao tiếp xã hội
(quy mô toàn cầu).
- Tính chất giao tiếp bao gồm hai loại: chính thức không chính thức.
Giao tiếp chính thức là quy trình giao tiếp được xác định trước trong
toàn tổ chức. Giao tiếp không chính thức không mang nặng tính cá
nhân hay ràng buộc, nhưng vẫn tuân theo các quy ước thông thường.
- Theo nghề nghiệp giao tiếp phm, giao tiếp ngoại giao, giao tiếp
kinh doanh...
5.2. Đặc trưng trong cách thức giao tiếp của người Việt
- Ưa tế nhị
Theo truyền thống miếng trầu đầu câu chuyện” từ xa xưa của cha ông,
người Việt Nam hay đưa đẩy theo hướng lịch sự, tế nhị để m đầu câu
chuyện. Điều này thể hin tính cách sự tế nhị, nhnhàng trong giao tiếp của
người Việt. Cũng thế người Việt n ng vào thói quen giao tiếp i
dòng, rườm rà, vòng vo tam quốc”, khác vi người phương Tây là vào thẳng
vấn đề. Dần dần, miếng trầu” m đầu câu chuyện cũng được thay thế bằng
những câu chào hi xã giao, hỏi mà không cần trả lời để tăng sự thân mật, qua
li, đặc biệt là đối với mọi người trong cùng bản làng, xã, ngõ xóm. Ví dụ:
Bác đi đâu đấy?” - Vâng, tôi đi việc!”
Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ sản phẩm của lối sống trọng tình trong các
mối quan hệ. Vì thế, người Việt Nam tính kiêng nể, cẩn trọng trong li ăn
tiếng i. Các câu ca dao tục ngữ đã thể hiện điều này: Ăn nhai, nói
nghĩ”; “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột nghe”; Chim khôn hót
tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”... Sự đắn đo cân nhắc
này khiến cho ngưi Việt Nam nói ng vo đôi khi thiếu quyết đoán khi
giao tiếp, nhưng như vậy s giữ được hòa khí với người đối diện, gia tăng tình
cảm nghĩa tình.
12
- Hay nở nụ cười
Người Việt Nam thói quen cười. Ncười trở thành công cgiao tiếp
quan trng dùng được trong nhiu hn cảnh. Vì thế, người ta thgặp n
cười Việt Nam vào cả lúc ít chờ đợi nhất.
Nụ cười của người Vit Nam có thể tạo nên bầu kng khòa nhã, vui v
với đi phương, giúp cho việc giao tiếp dễ dàng hơn, dnhư trong chúc
mừng, chào hỏi, giao... Khi đắn đo, thiếu quyết đoán không biết phải t
thái độ thế nào trong cuộc trò chuyện, nụ cười lại trở thành cơ chế để tránh s
ngượng ngùng. Trong hn cảnh trang trọng, nụ cười cũng góp phần xua tan
không khí căng thẳng, giúp tăng tình đoàn kết, gn giữa người với người,
thhiện smến khách, đặc bit trong các cuộc họp, cuộc đàm phán. Người
Việt Nam ngoài nụ cười thân thiện n m ưa hòa thuận dẫn đến ch
trương nhường nhịn: Một điều nhịn là chín điều lành”. Sự nhường nhịn
đây cũng lại càng củng cố cho sự tế nhị, tinh tế trong cách thức giao tiếp y
của người Vit Nam.
6. Về hệ thống nghi thức lời i rất phong phú
6.1. Nghi thức trong hệ thống xưng
Tiếng Việt có một hệ thống nhân xưng vô cùng phong phú mà có lẽ không
quốc gia nào trên thế giới sánh bằng. Trong khi hầu hết các bằng hữu quốc tế
sử dụng các đại từ nhân xưng (“bạn” và “tôi) khi giao tiếp thì ngưi Việt sử
dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họng để xưng hô, những
danh từ thân tộc này phổ biến đến mức lấn lướt các đại từ nhân xưng. Khi
nhìn vào hệ thống xưng hô này, ta thy được các đặc điểm nổi cộm như sau:
- Tính thân mật hoá:
Người Việt vốn trọng tình cảm, giàu lòng yêu thương nên dùng những từ
ngữ xưng hô giữa thân bằng quyến thuộc đối với cả người ngoài. Điu này có
ý nghĩa dân tộc ta coi mọi người trong cộng đồng thân thuộc như bà con họ
hàng trong một gia đình. Trước tiên, cách xưng hô trong phạm vi gia đình
phân bậc theo độ tuổi thế nào thì ngoài hội ta cũng áp dụng thế nấy. Cụ thể
theo cây phả h trong gia đình ta gọi: anh, chị, em, cô, chú, ông, bà,... Hệ
thống đại từ trên được áp dụng rộng rãi và được hiểu trên toàn quốc, nhưng
13
tuỳ theo vùng miền địa pơng sẽ có các biến thể khác nhau. Điều này tuỳ
vào văn hoá của mỗi vùng, phải sống địa phương đó thì ta mới hiu dùng
đúng được. Những từ ngữ trên được áp dụng để xưng hô với cả người ngoài,
tạo ra sự thân mật, nghĩa tình.
- Tính cộng đồng hoá:
Nếu văn hóa phương Tây đề cao, xem trọng cá nhân thì người Việt làm gì
cũng phải tính đến tập thể, hai người giao tiếp với nhau nhưng không chỉ
xưng hô đơn thuần bằng tên gọi mà đôi khi còn thể hiện cả mối quan hệ ràng
buộc của ngưi đó trong cộng đồng. Ví dụ như người Việt gọi nhau bằng tên
con, tên cháu, tên vợ, tên chồng, gọi theo vai vế của người đó trong gia đình
bố thằng Bin, mẹ cái Tí…” và bậc phụ huynh có thể xưng thay cho con, cho
cháu khi giao tiếp với người lớn hơn con cháu mình: “Cháu nó đã 3 tuổi rồi
anh ạ”. Đó là một cách để cho đối pơng biết mình đã là bậc ông bà, cha m
cho người kia tiện việc xưng hô. Ngoài ra, do nhu cầu giao tiếp ngày càng phổ
biến, các mi quan hệ cộng đồng ngày một phong pmà lại không thể dùng
đại từ nhân xưng chung chung như phương Tây, người Việt buộc phải thay
đổi cách xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian
giao tiếp cụ thể: chú khi ni, mi khi khác”. Cùng là hai người, nhưng cách
xưng hô có khi đồng thái tổng hợp được hai quan hệ khác nhau “chú - con”
(gọi người trong gia đình kiểu tình cảm, thân mật), “anh - i” (gọi bằng hữu
kiu xã giao, nghiêm túc)… N vy, các cách xưng hô vốn đã phong p
còn có thể linh hoạt thay đổi phụ thuộc theo nhiều yếu tố nêu trên nhờ vào
tính cộng đồng hoá trong hệ thống xưng hô.
- Tính tôn ti lưỡng:
Người Việt Nam xưng theo nguyên tắc xưng khiêm n (khi ng
thì khiêm nhường - thể hin mình ở tuổi ít hơn hoặc vị trí xã hội thấp hơn
người đối thoại, khi hô thì tôn kính, đặt người đối thoại ở vị trí cao hơn, lớn
tuổi hơn mình). Về cách gọi đối phương, đặc biệt trong trường hợp không
quen thân, người việt rất hạn chế dùng các đại từ nhân xưng vai dưới. Người
trẻ đi ra đường sẽ gọi người trẻ khác là anh chị và gọi người lớn tuổi là ông
bà, cô bác. Ví dụ như khi đi nhà hàng gọi món, nhân viên phục vụ thấy khách
trẻ hơn mình nhưng vẫn gọi khách là “anh”, “chị”. Trong trường hợp đối
14
phương trẻ quá, gọi “anh”, chị” không nổi thì sẽ gọi bằng “bạn”. Cách gọi
như vậy không còn giống với đại từ nhân xưng trong gia đình phân theo độ
tuổi nữa, mà để thể hin sự tôn trọng đối phương. Hơn nữa, còn có khi cùng
một cặp giao tiếp nhưng cả hai người đều cùng xưng là vai dưới và gọi nhau
vai trên, dụ cùng xưng em cùng gọi nhau chị, biểu thị cả hai cùng
đề cao nhau, coi nhau như tiền bối của mình. Cũng chính sự n trọng, kính
nể đối phương, một số tục lệ đã ra đời. Đin hình là tục kiêng huý: con cháu
phải kiêng đặt tên giống với những người bề trên trong gia tộc, đặc biệt là c
tổ. Không những kiêng trong nhà còn c ngoài xã, hay còn có tục nhập gia
vấn huý, cụ thlà khi vào nhà ai thì phi hỏi tên chủ nhà để không lỡ lời mà
nói động vào từ đó.
6.2. Nghi thức trong các cách nói lịch sự
Các cách nói lịch sự của người Việt cũng phong phú nhiều nghi thức
như trong xưng hô. Không giống như phương Tây chỉhai từ “cảm ơn”,
xin lỗi”, người Việt Nam sử dụng rất nhiều mẫu câu khách sáo mang tính
linh hoạt trong nhiều trường hợp khác nhau.
Cụ thể: “Chị chu đáo quá” (cảm ơn món quà), “Bác bày vquá” (cảm
ơn khi được tiếp đón) ,Quý hóa quá” (cảm ơn khi khách đến thăm) , Anh
quá khen” (cảm ơn khi được khen)... Những cách nói lịch s này rõ ràng tạo
cảm giác gần gũi hơn giữa hai đối tượng giao tiếp thay vì lời cảm ơn, xin li
cứng nhắc, lại càng phù hợp với lối nói vòng vo và tính hay ngại ngùng của
người Việt. Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định , sống chú trọng đến không gian,
nên người Việt Nam phân biệt các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc
thái tình cảm như vy. Trong khi đó, văn hóa phương Tây ưa hoạt động, rõ
ràng trong li nói lại phân biệt kĩ các lời chào theo thời gian như chào gặp
mặt, chào chia tay, chào buổi sáng, bui trưa, buổi chiu, buổi tối.
III. SO SÁNH ĐẶC TRƯNG TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT
NAM VỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á
1. Điểm tương đồng
15
Cùng thuộc khu vực Đông Nam Á, văn hóa giao tiếp của người Việt Nam vi
các nước lân cận khá nhiu điểm tương đồng những quy tắc , chuẩn mực
chung. Sau đây là ba đim tương đồng dễ thấy:
- Trọng lễ nghi:
Các nước Đông Nam Á đềuchung đặc tínhn trọng lễ nghi, nghi thức
trong giao tiếp. Mỗi quốc gia có một cách chào riêng: người Việt Nam
khoanh tay cúi chào, người Lào, Campuchia, Thái Lan chắp hai tay trưc
ngực cúi đầu kết hợp ngôn ngữ chào hỏi và thái độ giao tiếp hòa nhã. Một
đim chung có thể thấy là tất cả các kiểu chào đều thể hiện sự trang nghiêm,
tôn trọng đối phương. Người Việt Nam coi trọng lời chào: Li chào cao hơn
mâm cỗ ” nên cho rằng việc đi qua không chào hỏi thể hiện cho sự bất nhã,
lễ. Ngoài ra, các cử chỉ , tác phong trong giao tiếp cũng phải thể hiện được
sự trân trọng với người đối diện. Khi giao tiếp bằng mắt, các quốc gia Đông
Nam Á đều coi việc nhìn thng vào mắt ai quá lâu là khiêu kch, bất lịch sự,
khiếm nhã
- Đề caonh tôn ti, trật tự
Khác với phương Tây thói quen ôm hôn, vỗ vai khi chào hỏi, người Đông
Nam Á trọng lễ nghi nên rất cẩn trọng tính tôn ti trật tự, đặc biệt giữa những
người khác nhau về lứa tuổi, giới tính, địa vị xã hội. Vị trí giao tiếp thường
được căn cứ thông qua vị trí của chủ thể giao tiếp đối tượng giao tiếp trên
cương vị xã hội, giới tính, độ tuổi và quan hệ thân hữu ( quan hệ dựa trên cơ
sở thứ bậc trong gia đình, tính chất mối quan hệ thân mật hay xa cách ). Từ
đó, người Việt Nam có thể lựa chọn các hình thức như bắt tay, gửi lời chúc,
cúi đầu chào ... Vì vậy , trong giao tiếp cũng như nhiều lĩnh vực khác , Việt
Nam và các nước Đông Nam Á thường thể hiện sự kính trọng đối với người
già, những người có kinh nghiệm,địa vị xã hội.
2. Điểm khác biệt
Mỗi quốc gia Đông Nam Á sẽ li những phong tục, tập quán nghi
thức giao tiếp riêng để khẳng định bản sắc văn hóa đa dạng của mình.
- Cử chỉ “ chm ”:
16
Mỗi quốc gia một quy định về cách biu hiện sự thân mật khác nhau.
Nếu ở Việt Nam người già có thể xoa đầu trẻ nhỏ, người bề trên xoa đầu
người bề dưới để biểu lộ sự thân mt, trìu mến thì nhiều nước Đông Nam Á
không chấp nhận hành vi này. Người Campuchia, Thái Lan cho rằng đầu là
nơi linh thiêng nên không được chạm hay xoa đầu trẻ em. Đối vi người Lào,
sờ đầu / vỗ đầu ai đó sực phạm, người Indonexia cũng không ngoại l
khi coi hành động chạm tay lên đầu ai là biểu hiện sự khinh bỉ coi thường
người đó.
- Nghi thức tặng quà
Người Việt thường trọng nghi thức cho nhn , thường sẽ tỏ ra áy náy ,
ngại ngùng khi được nhận quà từ phía người khác hay nếu phải mở quà trước
mặt người tặng. Khi đến tm nhà cần mang theo chút quà cáp để gửi tặng
cho gia đình hay để góp vui. Tuy nhiên, với người Indonexia, từ chối bất kì
món quà gì cũng sẽ bị coi bất nhã. Bên cạnh đó, những sản phẩmm từ da,
thịt lợn cũng kiêng không nên tặng người khác bởi 90 % dân số theo đạo Hồi.
Người Lào cũng không chấp nhận món quà dao tuyệt nhiên không được
đưa đồ bằng tay trái vì theo họ, tay trái là biểu hiện của sự dơ bẩn.
IV. ƯU ĐIỂM HẠN CHẾ CỦA NHỮNG ĐẶC TRƯNG NÀY
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1. Ưu Điểm
- Thái độ trong giao tiếp: Việt Nam thái độ cẩn trọng, nhẹ nhàng trong
giao tiếp, không có tính ích kỷ tranh giành quyền lợi nên có mối quan
hệ hợp tác hòa bình, hữu nghị với nhiều nước trong khu vực và trên thế
gii. Dù rụt rè khi bắt đầu giao tiếp nhưng người Việt luôn sẵn sàng m
rộng quan hệ và không ngại giao tiếp với bằng hữu quốc tế. Điều này
càng được khẳng định qua đặc tính hiếu khách, cởi mở, chu đáo mà em
đã nhắc đến trước đó. Lòng mến khách ấy bắt nguồn từ cách cư xử
trọng tình nghĩa, cái tình mộc mạc, chân thật, chứ không phải cái tình
như một cử chỉ giao tiếp lịch sự hay thủ pháp để chinh phục, gây ấn
tượng và xây dựng được nhiều mối quan hệ chân thành với người nước
ngoài khi hội nhập quốc tế, giao lưu vi các quốc gia khác.
17
- Cách thức trong giao tiếp:
Người Việt Nam hầu như rất coi trọng thể din, danh dự của bản thân
trong quá trình giao tiếp. Vì vậy, khi giao tiếp với người nước ngoài,
người Việt biết giữ ý tứ, chừng mực để không làm xấu hình ảnh bản
thân, từ đó, bạn bè quốc tế có thể đánh giá cao hình ảnh người Vit
Nam và đất nước Việt Nam.
- Quan hệ trong giao tiếp: Một trong những ưu điểm trong đặc trưng văn
hóa giao tiếp của ngưi Việt Nam đó chính là việc lấy tình cảm làm
nguyên tắc ứng xử. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cách ứng
xử tinh tế, tình cảm chân thành của người Việt dễ ng lấy được thiện
cảm của bạn bè quốc tế. Những du học sinh tại nước ngoài nhờ tình
cảm sự thân thin, tính hiếu khách, thể hòa nhp vào môi trường
đa văn hóa, đa quốc gia; và hơn nữa là sự nỗ lực của công tác ngoại
giao toàn cầu.
2. Hạn chế
- Sự rụt rè, thiếu tự tin kết hợp với tính sĩ diện cao việc trọng tình n
th là rào cản ngăn ngưi Việt hội được tiếp c, trải
nghiệm với các nền văn hóa đa dạng khác nhau, đồng thời khó tiếp thu,
bảo thủ trong vic chấp nhận i mi, nền văn hóa mi, đặc biệt
trong những môi trường doanh nghiệp, c tập đoàn đa quốc gia, n
hóa doanh nghiệp luôn đòi hỏi sự chuyên nghiệp, kỉ luật và chỉn chu.
- Lối giao tiếp ưa tế nhị khiến người Việt Nam thói quen giao tiếp
vòng vo tam quốc”, không đi thẳng vào vấn đề, gây mất thời gian
tạo không kgượng gạo cho nhiều đối tượng nước ngoài, đặc biệt
người pơng Tây. Cách giao tiếp này đôi khi sẽ khiến bạn quốc tế
tránh giao tiếp với người Việt để tiết kim thời gian cho công việc
nhân.
- Một nhược đim khác đó là sự tìm hiu thân mt đến mức tò mò hay
tọc mạch đôi khi sẽ trở thành một rào cản trong việc làm quen, tiếp cận
bạn bè ở các đất c khác nhau trên thế giới. Đặc biệt ở các nước
phương Tây vi lối sống cởi mở, chủ nghĩa nhân được đề cao, họ sẽ
không đặt nng các yếu tố về hoàn cảnh, gia thế khi giao tiếp hay đánh
18
giá mọi người. Ngược lại, chúng ta xu hướngm hiểu càng một ai
đó trước khi trò chuyện hay làm việc cùng họ. Điểm khác biệt này đôi
khi sẽ tạo ra mâu thuẫn hay bất đồng quan điểm trongng việc.
- Hệ thống ngôn từ nhân xưng qphong phú, phức tạp: Khó quốc
gia nào hệ thống nhân ng ngôn từ nhiều như Việt Nam Phong
ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam” . Dù là niềm tự hàonét
đẹp dân tộc, điều này đôi khi gây ra snhm lẫn hay khó khăn trong
quá trình giao tiếp, dễ đi đến hiu lầm, mích lòng nhau.
C.
KẾT LUN
Trong khuôn khổ của một bài tiểu lun, ta đã thy được những yếu tố làm
nên nét đặc sắc trong văn hóa giao tiếp của người Việt so với các quốc gia
toàn cầu, bao gồm sáu khía cạnh em đã phân tích. Cùng vi đó những
ưu, nhược đim của những đặc trưng này trong qtrình hội nhập quốc tế,
minh chứng bằng những dụ thiết thực, dễ thấy trong cuộc sống hng ngày.
những sinh viên theo học tại Học viện Ngoại giao, chúng ta phải nhận thức
được những đặc điểm này biết phát huy những điểm tốt, khắc phục điểm
xấu, tạo nên phong ti ngoại giao thanh lịch, xứng đáng với màu áo trường.
Trước hết, sinh viên phải trang b cho mình một trình độ hiu biết nhất
định về nhiều lĩnh vực khác nhau như chính trị, n hóa, xã hội, nghệ thuật,
khoa học,... Ngoài những kiến thức chuyên môn được nh hội trên giảng
đường, chúng ta cần tìm hiểu thêm cập nhật bản thân mình với những thay
đổi chóng mt của thông tin toàn cầu.
Thứ hai, ta cần trau dồi Ngoại ngữ, đặc biệt Tiếng Anh. Ngoại nggiờ
đây không còn rào cản công cụ đắc lực trong việc giao lưu, đối ngoại,
tiếp bước các nn văn minh, văn hóa đa quốc gia. Việc giỏi ngoại ngữ giờ đây
vừa là một điều kiện gần như bắt buộc, cũng như trở thành một trong những
ưu thế của sinh viên Học viện Ngoại giao.
Cuối cùng, ta phải biết tin vào chính mình, nhận thức những mt ưu điểm
hạn chế, cũng như tự hào về giá trị của con ngưi Việt Nam nói chung, của
bản thân nói riêng trước bạn quốc tế. Chúng ta cần biết mình ai, mình
đang ở đâu để ứng xử, giao tiếp cho phù hợp, tinh tế.
19
Trong khuôn khổ của bài tiểu luận, em đã chỉ ra những đặc điểm chung
nhất về văn hóa giao tiếp của người Việt Nam cũng như những ưu, nhược của
những đặc điểm y trong qtrình hội nhập quốc tế, đề xuất những phương
án phương hướng giải quyết c vấn đề, hạn chế hiện nay. tiu luận
chưa đchuyên u n thiếu sót, em xin được quý thầy chỉ dạy thêm.
Em xin chân thành cảm ơn!
20

Preview text:

TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: Đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt
Ưu điểm và hạn chế của những đặc trưng này trong quá trình
hội nhập quốc tế Môn
: Đại cương văn hóa Việt Nam
Giảng viên hướng dẫn: TS. Trần Thị Hồng Thúy TS. Đào Ngọc Tuấn
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Minh Ngọc Lớp : TTQT48C1A Mã sinh viên : TTQT48C1-1496 1 MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ................................................................................. 2
B. NỘI DUNG ............................................................................ 2
I. GIẢI NGHĨA THUẬT NGỮ .......................................................... 3
1. Giao tiếp là gì? .................................................................................3
2. Văn hóa giao tiếp là gì? .................................................................... 4
3. Đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam là gì? .......... 4
II . Đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam ............ 6
1. Về thái độ trong giao tiếp .................................................................. 7
2. Về quan hệ giao tiếp ......................................................................... 8
3. Về đối tượng giao tiếp..................................................................... 10
4. Về chủ thể giao tiếp ........................................................................ 12
5. Về cách thức giao tiếp .................................................................... 14
6. Hệ thống nghi thức lời nói rất phong phú ........................................ 14
III. So sánh đặc trưng trong giao tiếp của người Việt Nam với các
nước Đông Nam Á
............................................................................ 15
1. Điểm tương đồng ............................................................................ 16
2. Điểm khác biệt ............................................................................... 16
IV . Ưu điểm và hạn chế của những đặc trưng này trong quá trình
hội nhập quốc tế
.............................................................................. 17
1. Ưu điểm .......................................................................................... 18
2. Hạn chế........................................................................................... 19
C. KẾT LUẬN........................................................................... 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................. 21 2 A. MỞ ĐẦU
L. Pheurbach đã từng nói : “ Con người cá thể không chứa bản chất con người
ở trong mình. Bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp, trong thể
thống nhất giữa con người với con người. Con người để cho mình chỉ là con
người theo nghĩa thông thường còn con người trong giao tiếp với đồng loại,
trong sự thống nhất giữa Tôi với Anh mới chính là Thượng đế.”
Ta có thể hiểu câu nói này chính là lời khẳng định tầm quan trọng của giao
tiếp trong cuộc sống muôn đời bất kể thời đại. Giao tiếp là cầu nối giữa người
với người và là biểu hiện tính cá nhân và cộng đồng của con người rõ nét
nhất. Vì vậy, kĩ năng giao tiếp đã ngày một trở nên thiết thực hơn đối với mỗi
cá nhân, đặc biệt là đối với người trẻ trong bối cảnh hội nhập quốc tế, trở
thành công cụ quan trọng trong quá trình kết nối với thế giới xung quanh.
Nghệ thuật giao tiếp từ xa xưa đã trở thành một trong những bản sắc văn hóa
nhân loại. Bản sắc ấy lại được duy trì qua bề dày lịch sử, góp phần hình thành
nên nền văn hóa đặc trưng của mỗi quốc gia. Văn hóa giao tiếp của nước Việt
Nam ta mang nhiều đặc điểm rất đỗi phong phú và sinh động - đậm đà bản
sắc Châu Á chung, nhưng khi đặt lên bàn cân cụ thể với các nước trong khu
vực thì lại có nhiều nét khác biệt. Có thể nói, những nét đặc trưng này đã phần
nào khái quát được lên đời sống và tính cách chung của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Từ nhận thức về tầm quan trọng của giao tiếp trong cuộc sống thường nhật và
sự choáng ngợp trước vô vàn nét đặc sắc trong văn hóa giao tiếp Việt Nam,
em mong muốn bản thân có thể khái quát được những đặc trưng cơ bản trong
văn hóa giao tiếp của người Việt. Việc tìm hiểu về các đặc trưng này sẽ giúp
chúng ta có cái nhìn đa chiều về văn hóa dân tộc nói chung, từ đó có thể tìm
hiểu các ưu, nhược điểm của chúng trong quá trình giao lưu và hội nhập quốc
tế, cũng như các giải pháp chung cho người trẻ tự tin tiếp bước vào nền văn
minh mới trong bối cảnh đa quốc gia. 3 B. NỘI DUNG I.
Giải nghĩa thuật ngữ
1. Giao tiếp là gì?
Giao tiếp là một hoạt động truyền tải suy nghĩ, thông điệp, mong muốn
giữa con người với con người thông qua ngôn ngữ, dấu hiệu, quy tắc và biểu
tượng. Giao tiếp là công cụ gắn kết con người với cộng đồng, vì vậy nó đóng
vai trò thiết yếu trong đời sống thường ngày và đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Nếu con người không giao tiếp với nhau, ta sẽ không còn
định nghĩa của cộng đồng và xã hội. Trong thế kỉ mới với bối cảnh hội nhập
quốc tế mở rộng, xã hội đòi hỏi sự chung tay phát triển về nguồn lực và trí óc
thì kỹ năng giao tiếp trở thành một công cụ cá nhân quan trọng hơn bao giờ
hết. Theo các giáo sư, các chuyên gia ở Việt Nam và toàn thế giới, giao tiếp
có thể có nhiều định nghĩa khác nhau, tiêu biểu như:
- Theo sách “Đại cương về văn hóa Việt Nam” của TS.Phạm Thái Việt
(Chủ biên) và TS. Đào Ngọc Tuấn, do NXB Văn Hóa Thông Tin ấn
hành, giao tiếp được định nghĩa là “hoạt động giao lưu, tiếp xúc, chia
sẻ, trao đổi giữa con người với con người. Thông qua giao tiếp, văn hóa
của cá nhân và cộng đồng được biểu đạt rõ nét.”
- Theo nhà tâm lý học người Mỹ Osgood C.E: “Giao tiếp bao gồm các
hành động riêng rẽ mà thực chất là chuyển giao thông tin và tiếp nhận thông tin”.
- Theo “Từ Điển tiếng Nga văn học hiện đại tập 8”, trang 523 của NXB
Matxcơva: “Giao tiếp là sự liên hệ và đối xử lẫn nhau”
- Theo “Từ Điển Tâm lý học” của Vũ Dũng: “Giao tiếp là quá trình thiết
lập và phát triển tiếp xúc giữa cá nhân, xuất phát từ nhu cầu phối hợp
hành động. Giao tiếp bao gồm hàng loạt các yếu tố như trao đổi thông
tin, xây dựng chiến lược hoạt động thống nhất, tri giác và tìm hiểu
người khác. Giao tiếp có ba khía cạnh chính: giao lưu, tác động tương hỗ và tri giác”.
Như vậy, mỗi người lại có cho mình một định nghĩa riêng về thuật ngữ
giao tiếp theo một khía cạnh nổi bật. Nhìn chung, ta có thể hiểu giao tiếp là 4
hành động trao đổi, truyền đạt thông tin, cảm xúc giữa người với người … và
có thể khẳng định giao tiếp chính là phương thức tồn tại của con người.
2. Văn hóa giao tiếp là gì?
Văn hóa giao tiếp là cung cách, văn hóa trong quá trình giao tiếp của các
cá nhân với nhau, thể hiện được tính cách và con người của đối tượng trong
cuộc hội thoại. Ta có thể đánh giá một người có văn hóa, có tri thức hay
không qua đối ngoại trong cuộc sống hàng ngày. Bởi lẽ, giao tiếp là hành
động mang tính tự nhiên, phản xạ, nhưng giao tiếp có văn hóa thì không phải ai cũng làm được.
Văn hóa giao tiếp của một cộng đồng bao gồm những quy tắc, quy định,
những chuẩn mực của hoạt động giao tiếp giữa người và người trong xã hội
đó, dân tộc đó. Nhờ có những quy tắc đó, con người trong cộng đồng mới tiếp
cận được những giá trị đạo đức phù hợp với quan niệm của xã hội xung quanh
về văn hóa và bản sắc dân tộc, xã hội nói chung mới trở nên thống nhất, quy
củ, nề nếp. Có thể nói, văn hóa giao tiếp của một xã hội, một dân tộc là góp
phần làm nên bản sắc tập quán, phong tục, truyền thống của xã hội, dân tộc
đó. Ở Việt Nam, văn hóa giao tiếp mang màu sắc Châu Á nói chung nhưng có
những nét khác biệt rất đậm đà tính dân tộc. Có thể nói, khó có quốc gia nào
trên thế giới có sự cầu kì, phong phú trong giao tiếp như ở Việt Nam. Dưới
đây, em sẽ đi sâu vào tìm hiểu những đặc điểm làm nên sự phong phú ấy.
3. Đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam là gì?
Đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam là những đặc điểm
riêng biệt trong cung cách giao tiếp, cách đối nhân xử thế của người Việt so
với các quốc gia khác. Đặc trưng này biểu hiện ở nhiều đặc điểm giao tiếp dễ
nhận thấy của người Việt Nam.
II. ĐẶC TRƯNG TRONG VĂN HÓA GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
1. Về thái độ giao tiếp
Giao tiếp là một cách thức để bộc lộ bản chất bên trong mỗi con người.
Đầu tiên, xét về khía cạnh thái độ trong giao tiếp, người Việt Nam có đặc
điểm là vừa thích giao tiếp, lại vừa rụt rè. Người Việt Nam xưa nay sống phụ 5
thuộc lẫn nhau, luôn quan tâm đến việc duy trì, giữ gìn các mối quan hệ với
người khác trong tập thể, cộng đồng. Giao tiếp tạo ra các mối quan hệ, bởi lẽ
điều này chính là nguyên nhân dẫn đến việc người Việt Nam ta rất coi trọng
đến việc giao tiếp cũng như văn hóa ứng xử “Chuông kêu thử tiếng, người
ngoan thử lời”. Điều này được thể hiện ở hai góc độ sau:
- Xét từ góc độ của chủ thể giao tiếp, người Việt Nam có tính thích thăm
viếng và đồng thời cũng thích có khách đến nhà thăm mình. Việc khách
đến thăm nhà không chỉ đơn thuần vì lí do công việc như các nước
phương Tây mà là hành động biểu hiện sự quan tâm, thăm hỏi, tình
nghĩa giữa các người với người, với làng xóm, cộng đồng, nhằm làm
mối quan hệ thêm khăng khít. Đối với những người đã có mối quan hệ
thân thiết từ trước thì việc đến thăm nhau này lại diễn ra càng thường
xuyên hơn, bất kể có gặp nhau thường xuyên đến thế nào thì lúc rảnh
rỗi họ vẫn dành thời gian đến thăm hỏi, trò chuyện với đối phương và
gia đình của đối phương.
- Xét từ góc độ đối tượng giao tiếp, người Việt Nam có tính hiếu khách:
“Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi, bởi lẽ đói năm, không bằng đói bữa”.
Khi khách ghé thăm, bất kể lạ hay quen, thân sơ hay đã gần gũi, người
Việt Nam luôn tiếp đón chu đáo nhất từ đưa đón đến bữa ăn. Trong hầu
hết các gia đình bất kể hoàn cảnh, họ có thể chấp nhận những mâm
cơm giản dị thường nhật nhưng luôn phải chuẩn bị những của ngon vật
lạ để mời khách. Sự nồng hậu, nhiệt tình này thể hiện được rất rõ ràng
đặc điểm xởi lởi, thân thiện cũng như tính thích giao tiếp của con người Việt Nam.
Tuy nhiên, cùng với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại tồn tại một
đặc tính trái ngược đó là sự rụt rè. Đây cũng là điều những người bạn ngoại
quốc khi giao tiếp cùng hoặc quan sát người Việt Nam khi giao tiếp thường
nhắc tới. Nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại của hai đặc tính đối lập nhau này
(vừa thích giao tiếp, vừa rụt rè) là do tính cộng đồng và tính tự trị, hai tính
cách cơ bản của người Việt Nam. Ta có thể hiểu rằng nếu người Việt Nam
đang ở trong một môi trường gần gũi, quen thuộc (cộng đồng, làng xã) thì sẽ
rất thoải mái, tự tin trong việc giao tiếp. Điều này là vì họ đã quen hành xử 6
theo những quy tắc có sẵn trong cộng đồng đó. Ngược lại, nếu họ vượt ra
ngoài môi trường thân thuộc nơi tính tự trị phát huy tác dụng, có rất ít người
quen biết thì họ sẽ trở nên rụt rè, lúng túng do không xác định được vị thế và
thói quen giao tiếp mới, từ đó ngại ngùng, ít nói hơn. Hai tính cách này tuy
trái ngược nhưng chúng không hề mâu thuẫn với nhau, vả lại càng khẳng định
sự linh hoạt trong ứng xử, giao tiếp của người Việt Nam.
2. Về quan hệ giao tiếp
Nền văn hóa nông nghiệp điển hình đã đem lại ảnh hưởng sâu sắc đến văn
hóa giao tiếp của người Việt, đặc biệt là ở phương diện quan hệ giao tiếp. Con
người nông nghiệp ưa tổ chức xã hội, đối nhân xử thế theo nguyên tắc trọng
tình, lấy cái tình cảm, tình nghĩa ra làm quy luật trong giao tiếp. Điều này đã
được thể hiện từ thời ông cha trong các câu ca dao:
- “Yêu nhau yêu cả đường đi
Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng.”
- “Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.”
- “Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình.”
Về khái quát, người Việt Nam vẫn ưa chuộng nguyên lí cân bằng âm dương,
tức là tình cảm - lý trí dung hòa, nhưng so với thói quen ứng xử, giao tiếp
trong cộng đồng từ xa xưa, ta dễ dàng nhận ra cái tình vẫn được xem trọng
hơn cái lý. Cái tình đã trở thành một đặc điểm trong cách nghĩ, cách ứng xử
của người Việt, tạo nên một nét riêng trong tính cách, thể hiện được bản sắc
văn hóa, trong đó có quan hệ giao tiếp. Bởi thế, người Việt thường nói “tình
nghĩa”
chứ ít nói “nghĩa tình”. Trong giao dịch, trong xử lí công việc, hay
đặc biệt là trong giao tiếp với người khác, chữ tình vẫn hay được đặt lên trên
chữ lí. Hiện tượng này ở quốc gia nào, dân tộc nào cũng có, nhưng ở Việt
Nam phổ biến hơn, nặng nề hơn.
Cái tình trong quan hệ giao tiếp của người Việt Nam còn thể hiện ở quan
niệm :”Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy” ai giúp mình một chút
đều phải nhớ ơn, ai bảo ban một chút đều tôn làm thầy, khái niệm thầy vì thế 7
mà được mở ra rất rộng: thầy đồ, thầy võ, thầy thuốc, thầy cúng, thầy bói,
thầy địa lý, thầy phù thủy, thầy cãi, thầy rắn.
Người Việt dễ giận dữ khi vi phạm chữ tình và cũng dễ tha thứ khi nhắc
đến cơ sở tình nghĩa. Đây là minh chứng cho sự tình cảm, vị tha, khoan dung
trong ứng xử, mềm dẻo trong đối phó và giao tiếp. Đặc tính trọng tình cảm đã
chỉ ra tính cách chung và nguyên tắc giao tiếp của người Việt, đó chính là tâm
lí hiếu hòa, yêu sự bình đẳng, đề cao cộng đồng. Song, đặc tính này chỉ thích
hợp khi tham gia một cộng đồng quan hệ xã hội nhỏ, không gây ra những hậu
quả nghiêm trọng và dễ giải quyết. Còn trong xã hội hiện nay, cách giao tiếp
trọng tình hơn lý không còn được phổ biến như trước vì nó không thể hiện
được sự khách quan, công bằng, chính trực.
3. Về đối tượng giao tiếp
Đối tượng giao tiếp là người tiếp nhận những thông tin, thông điệp của đối
phương (chủ thể giao tiếp) trong quá trình giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp,
Người Việt Nam có thói quen tìm hiểu, quan sát, đánh giá đối tượng giao tiếp
trên nhiều phương diện như tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội,
tình trạng hôn nhân, gia đình,.. Người Việt Nam thường quen với những
những câu hỏi như “làm nghề gì, lương bao nhiêu tiền, có vợ hay chồng chưa,
có mấy đứa con rồi …”. Đây là những thói quen hoàn toàn trái ngược với văn
hóa giao tiếp của nước ngoài, đặc biệt là các nước phương Tây. Ở nhiều quốc
gia, việc hỏi han các thông tin cá nhân như tuổi tác, thu nhập… với người chỉ
có mối quan hệ xã giao bị coi là bất lịch sự. Điều này có thể khiến đối tượng
giao tiếp khó chịu và không thoải mái, thậm chí đánh giá là tọc mạch, vô
duyên, xâm phạm vào đời sống riêng tư. Đặc tính này đến từ tính cộng đồng
làng xã trong đời sống, và việc thường xuyên giao lưu với cộng đồng đã ăn
sâu vào nếp sống và lối giao tiếp ứng xử của người Việt Nam từ ngàn đời nay.
Người Việt Nam cũng tự thấy mình phải có trách nhiệm quan tâm đến đối
tượng giao tiếp, đặc biệt là những đối tượng mới gặp, vì vậy cần biết rõ hoàn
cảnh, tình trạng của họ. Thói quen quan sát đối tượng giao tiếp đã trở thành
nét đặc trưng trong văn hóa giao tiếp, giúp người Việt Nam đánh giá, nhận
định người đối diện để lựa cách ứng xử sao cho thuận lòng cho hai bên, bày tỏ
sự quan tâm được chân thành hơn. Mặt khác, do hệ thống nhân xưng phong 8
phú của nước ta yêu cầu phân biệt rõ ràng, chi li các mối quan hệ xã hội, gia
đình nên phải nắm bắt thông tin đối tượng giao tiếp để lựa chọn từ xưng hô
thích hợp. Không dễ để lựa chọn cách gọi đối tượng giao tiếp ngay từ lần đầu
gặp qua ngoại hình, vì vậy người Việt sẽ tìm hiểu thông tin tuổi tác, vai vế,
quan hệ,... để lựa chọn cách xưng hô phù hợp nhất, tránh gây hiểu lầm hay
thất lễ. Ví dụ, nếu đối tượng giao tiếp có vẻ ngoài luống tuổi hơn tuổi thật,
nếu gọi sai thì sẽ gây phật lòng đối phương. Trong trường hợp này, những câu
hỏi như “Đã lập gia đình chưa?” sẽ trở nên cần thiết để đoán định tuổi thật đối
phương, từ đó đưa ra ngôi xưng hô đúng, khiến quan hệ hai bên thoải mái, vui vẻ hơn.
Việc biết tính cách, biết người để lựa chọn đối tượng giao tiếp thích hợp
của người Việt được thể hiện qua các câu thành ngữ, tục ngữ như: “Tùy mặt
gửi lời, tùy người gửi của”; “Chọn mặt gửi vàng”; “Ăn chọn nơi, chơi chọn
bạn” . Còn khi không có cơ hội tìm hiểu, lựa chọn đối tượng giao tiếp thì
người Việt dùng chiến lược thích ứng một cách linh hoạt như: “Ở bầu thì tròn,
ở ống thì dài”; “Mềm nắn, rắn buông”; “Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma
mặc áo giấy”; “Tùy cơ ứng biến”; “Tùy mặt đặt tên”; “Lựa gió xoay chiều”.
Có thể nói, cả hai điều này đều thể hiện sự cẩn trọng, không muốn làm mích
lòng người khác trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam.
4. Về chủ thể giao tiếp
Từ góc độ chủ thể giao tiếp, đặc tính nổi bật của người Việt Nam là trọng
danh dự. Điều đó đã được thể hiện trong các câu ca dao, tục ngữ từ xa xưa:
“Tốt da hơn lành áo”; “Giấy rách phải giữ lấy lề”; “Đói cho sạch rách cho
thơm”; “Trâu chết để da, người ta chết để tiếng”
.
Danh dự là sự coi trọng của xã hội đối với cá nhân hoặc tổ chức nào đó.
Danh dự gắn liền với nhân phẩm, uy tín của cá nhân đó và được sự bảo vệ,
ghi nhận của cộng đồng và pháp luật. Có thể nói, ở Việt Nam thì danh dự
được gắn với năng lực giao tiếp, tức là một người có uy tín, có tin tưởng được
hay không là nhờ vào kĩ năng giao tiếp của họ và ngược lại, nếu người đó
phát ngôn không đúng mực sẽ trở thành tiếng dữ ảnh hưởng đến bộ mặt và
nhân phẩm của họ. Vì vậy, danh dự trở thành thước đo tính cách và địa vị của
con người trong xã hội và ai cũng cần phải bảo vệ danh dự của mình. 9
Song, việc quá coi trọng danh dự đã dẫn đến căn bệnh sĩ diện. Phải nói
thêm rằng, “sĩ diện” nghĩa đen không mang ý xấu. Ghép từ hai từ hán “diện”
(bộ mặt) và “sĩ” (người trí thức), “sĩ diện” vốn dĩ là “bộ mặt người có học”
(xem: Từ điển từ và ngữ Hán Việt của Nguyễn Lân, 1989, tr. 580). Một kẻ sĩ
trong truyền thống là người được tôn trọng bậc nhất trong xã hội, từ nhân
cách, đạo đức, phong thái, cho tới tài năng đều vượt xa người thường. Tuy
nhiên thời nay, khi giá trị văn hóa bị mất đi nội hàm vốn có, từ “sĩ diện” chỉ
còn được dùng dưới nghĩa tiêu cực là ra vẻ không thua kém ai để che giấu sự
yếu kém của mình. Bệnh sĩ đã được khắc ghi rất nhiều trong ca dao, tục ngữ:
- Đem chuông đi đấm nước người,
Không kêu cũng đấm ba hồi lấy danh.
- Một quan tiền công, không bằng một đồng tiền thưởng.
Việc coi trọng danh dự bắt nguồn từ cơ chế thứ bậc của làng xã, và từ
quan niệm của Nho giáo về mẫu người quân tử. Ở các làng quê Việt Nam,
thói sĩ diện biểu hiện qua tục lệ ngôi thứ nơi đình trung và tục chia phần. Khi
xưa, trong sinh hoạt làng xóm, người Việt phân chia thứ bậc chốn đình trung
rất chi li, cụ thể qua tài sản, tuổi tác, chức phẩm,... Tài sản, tuổi tác, chức
phẩm cao thì được ngồi ở hàng trên, thấp hơn thì ngồi hàng dưới. Người Việt
thích cái danh và cần cái danh để khẳng định địa vị của mình trong cộng
đồng, vì vậy nên mới có tục chia ngôi thứ như vậy. Hơn nữa, khi xưa trong
làng xã còn có câu “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Không chỉ
đơn giản là có miếng ăn là cái lợi, cái danh, cái sĩ diện còn xếp trên cả cái lợi
đó. Người được ra đến giữa làng ngồi chiếu ăn một miếng thịt nom oai vệ, vị
thế cao hơn hẳn kẻ đứng bếp với cả mâm cỗ đầy. Từ xa xưa, người Việt Nam
đã coi trọng cái tiếng như vậy.
Theo các giáo sư, tiến sĩ, các nhà nghiên cứu văn hóa, cộng đồng nào
cũng đều có tính sĩ diện dù ít hay nhiều. Vì vốn dĩ sĩ diện là cần thiết để thể
hiện phẩm chất, tư cách đàng hoàng, đạo mạo, chân chính. Tuy nhiên, vì
người Việt có tâm lý tiểu nông người Việt do hàng nghìn năm sống dưới cộng
đồng làng xã nông thôn, tính sĩ diện của một bộ phận người lại trở nên cực
đoan đến vô duyên, phản cảm. Bệnh sĩ bào mòn nội tâm, nhân cách của con
người, khiến xã hội ngày một suy thoái, buộc người ta phải sống và hành 10
động khác mình, nhiều khi giả dối với chính mình. Thói sĩ diện xuất hiện từ
những câu chuyện dân gian và vẫn còn tồn tại ở một số bộ phận cho đến tận ngày nay.
Việc coi trọng danh dự, coi trọng sĩ diện dẫn đến cơ chế tin đồn, dần dần
tạo nên “dư luận”. Người Việt Nam rất sợ dư luận: “Người ta chỉ dám lựa
theo dư luận mà sống chứ ai dám dẫm lên dư luận mà đi theo ý mình”. “Ở đời
này người ta chỉ sẵn sàng chết đói, chết rét, chết bom, chết đạn để che chở,
nuôi nấng cho con mình tai qua nạn khỏi, con mình được sung sướng, được
vinh hoa chứ không ai chịu tai tiếng, chịu sỉ nhục để con mình được tự do
theo ý nó” (theo “Thời xa vắng” - Lê Lựu). Đặc biệt, thời điểm mạng xã hội
phát triển như hiện nay, dư luận xã hội ngày càng có sức mạnh định hướng hơn.
5. Về cách thức giao tiếp
5.1. Khái niệm / Phân loại
Ta có thể hiểu cách thức giao tiếp là phương thức giao tiếp giữa con người
với con người, cách truyền đạt và trao đổi thông tin, suy nghĩ, tâm lý của bản
thân với người đối diện thông qua các hình thái ngôn ngữ, cử chỉ, hành động, biểu cảm, tâm lý…
Cách thức giao tiếp có thể chia thành ba loại:
- Giao tiếp truyền thống là giao tiếp giữa các mối quan hệ người với
người trong quá trình phát triển xã hội (điển hình là các loại giao tiếp
quan hệ họ hàng trong gia đình)
- Giao tiếp chức năng là giao tiếp theo chuyên hoá trong xã hội, ngôn
ngữ,…bao gồm những quy tắc, thông lệ chung trong xã hội ta phải tuân
thủ khi giao tiếp (chánh án - bị cáo, sếp - nhân viên…)
- Giao tiếp tự do là giao tiếp không có quy tắc và quy định trước như
khuôn mẫu, phát triển tự do theo quá trình tiếp xúc của từng mối quan hệ.
Xét về hình thức, tính chất, giao tiếp được chia ra làm bốn loại dựa trên các khía cạnh: 11
- Khoảng cách tiếp xúc bao gồm hai loại trực tiếp và gián tiếp. Giao tiếp
trực tiếp là yêu cầu khoảng cách mặt đối mặt, sử dụng ngôn ngữ nói và
phi ngôn ngữ . Giao tiếp gián tiếp là phương thức giao tiếp thông qua
một phương tiện khác như: thư từ, fax, email,…
- Số người tham dự gồm giao tiếp song phương (hai người giao tiếp với
nhau), giao tiếp nhóm (tập thể giao tiếp với nhau) và giao tiếp xã hội (quy mô toàn cầu).
- Tính chất giao tiếp bao gồm hai loại: chính thức và không chính thức.
Giao tiếp chính thức là quy trình giao tiếp được xác định trước trong
toàn tổ chức. Giao tiếp không chính thức không mang nặng tính cá
nhân hay ràng buộc, nhưng vẫn tuân theo các quy ước thông thường.
- Theo nghề nghiệp có giao tiếp sư phạm, giao tiếp ngoại giao, giao tiếp kinh doanh...
5.2. Đặc trưng trong cách thức giao tiếp của người Việt - Ưa tế nhị
Theo truyền thống “miếng trầu là đầu câu chuyện” từ xa xưa của cha ông,
người Việt Nam hay đưa đẩy theo hướng lịch sự, tế nhị để mở đầu câu
chuyện. Điều này thể hiện tính cách sự tế nhị, nhẹ nhàng trong giao tiếp của
người Việt. Cũng vì thế mà người Việt còn vướng vào thói quen giao tiếp dài
dòng, rườm rà, “vòng vo tam quốc”, khác với người phương Tây là vào thẳng
vấn đề. Dần dần, “miếng trầu” mở đầu câu chuyện cũng được thay thế bằng
những câu chào hỏi xã giao, hỏi mà không cần trả lời để tăng sự thân mật, qua
lại, đặc biệt là đối với mọi người trong cùng bản làng, xã, ngõ xóm. Ví dụ:
“Bác đi đâu đấy?” - “Vâng, tôi đi có tí việc!”
Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng tình trong các
mối quan hệ. Vì thế, người Việt Nam có tính kiêng nể, cẩn trọng trong lời ăn
tiếng nói. Các câu ca dao tục ngữ đã thể hiện điều này: “Ăn có nhai, nói có
nghĩ”; “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”; “Chim khôn hót
tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”... Sự đắn đo cân nhắc
này khiến cho người Việt Nam nói vòng vo và đôi khi thiếu quyết đoán khi
giao tiếp, nhưng như vậy sẽ giữ được hòa khí với người đối diện, gia tăng tình cảm nghĩa tình. 12
- Hay nở nụ cười
Người Việt Nam có thói quen cười. Nụ cười trở thành công cụ giao tiếp
quan trọng dùng được trong nhiều hoàn cảnh. Vì thế, người ta có thể gặp nụ
cười Việt Nam vào cả lúc ít chờ đợi nhất.
Nụ cười của người Việt Nam có thể tạo nên bầu không khí hòa nhã, vui vẻ
với đối phương, giúp cho việc giao tiếp dễ dàng hơn, ví dụ như trong chúc
mừng, chào hỏi, xã giao... Khi đắn đo, thiếu quyết đoán không biết phải tỏ
thái độ thế nào trong cuộc trò chuyện, nụ cười lại trở thành cơ chế để tránh sự
ngượng ngùng. Trong hoàn cảnh trang trọng, nụ cười cũng góp phần xua tan
không khí căng thẳng, giúp tăng tình đoàn kết, gắn bó giữa người với người,
thể hiện sự mến khách, đặc biệt trong các cuộc họp, cuộc đàm phán. Người
Việt Nam ngoài nụ cười thân thiện còn có tâm lý ưa hòa thuận dẫn đến chủ
trương nhường nhịn: “Một điều nhịn là chín điều lành”. Sự nhường nhịn ở
đây cũng lại càng củng cố cho sự tế nhị, tinh tế trong cách thức giao tiếp ấy của người Việt Nam.
6. Về hệ thống nghi thức lời nói rất phong phú
6.1. Nghi thức trong hệ thống xưng hô
Tiếng Việt có một hệ thống nhân xưng vô cùng phong phú mà có lẽ không
quốc gia nào trên thế giới sánh bằng. Trong khi hầu hết các bằng hữu quốc tế
sử dụng các đại từ nhân xưng (“bạn” và “tôi”) khi giao tiếp thì người Việt sử
dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng để xưng hô, và những
danh từ thân tộc này phổ biến đến mức lấn lướt các đại từ nhân xưng. Khi
nhìn vào hệ thống xưng hô này, ta thấy được các đặc điểm nổi cộm như sau: - Tính thân mật hoá:
Người Việt vốn trọng tình cảm, giàu lòng yêu thương nên dùng những từ
ngữ xưng hô giữa thân bằng quyến thuộc đối với cả người ngoài. Điều này có
ý nghĩa dân tộc ta coi mọi người trong cộng đồng thân thuộc như bà con họ
hàng trong một gia đình. Trước tiên, cách xưng hô trong phạm vi gia đình
phân bậc theo độ tuổi thế nào thì ngoài xã hội ta cũng áp dụng thế nấy. Cụ thể
theo cây phả hệ trong gia đình ta gọi: anh, chị, em, cô, chú, ông, bà,... Hệ
thống đại từ trên được áp dụng rộng rãi và được hiểu trên toàn quốc, nhưng 13
tuỳ theo vùng miền địa phương sẽ có các biến thể khác nhau. Điều này tuỳ
vào văn hoá của mỗi vùng, phải sống ở địa phương đó thì ta mới hiểu và dùng
đúng được. Những từ ngữ trên được áp dụng để xưng hô với cả người ngoài,
tạo ra sự thân mật, nghĩa tình. - Tính cộng đồng hoá:
Nếu văn hóa phương Tây đề cao, xem trọng cá nhân thì người Việt làm gì
cũng phải tính đến tập thể, hai người giao tiếp với nhau nhưng không chỉ
xưng hô đơn thuần bằng tên gọi mà đôi khi còn thể hiện cả mối quan hệ ràng
buộc của người đó trong cộng đồng. Ví dụ như người Việt gọi nhau bằng tên
con, tên cháu, tên vợ, tên chồng, gọi theo vai vế của người đó trong gia đình
“bố thằng Bin, mẹ cái Tí…” và bậc phụ huynh có thể xưng thay cho con, cho
cháu khi giao tiếp với người lớn hơn con cháu mình: “Cháu nó đã 3 tuổi rồi
anh ạ”. Đó là một cách để cho đối phương biết mình đã là bậc ông bà, cha mẹ
cho người kia tiện việc xưng hô. Ngoài ra, do nhu cầu giao tiếp ngày càng phổ
biến, các mối quan hệ cộng đồng ngày một phong phú mà lại không thể dùng
đại từ nhân xưng chung chung như phương Tây, người Việt buộc phải thay
đổi cách xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian
giao tiếp cụ thể: “chú khi ni, mi khi khác”. Cùng là hai người, nhưng cách
xưng hô có khi đồng thái tổng hợp được hai quan hệ khác nhau “chú - con”
(gọi người trong gia đình kiểu tình cảm, thân mật), “anh - tôi” (gọi bằng hữu
kiểu xã giao, nghiêm túc)… Như vậy, các cách xưng hô vốn đã phong phú
còn có thể linh hoạt thay đổi phụ thuộc theo nhiều yếu tố nêu trên nhờ vào
tính cộng đồng hoá trong hệ thống xưng hô. - Tính tôn ti kĩ lưỡng:
Người Việt Nam xưng và hô theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn (khi xưng
thì khiêm nhường - thể hiện mình ở tuổi ít hơn hoặc vị trí xã hội thấp hơn
người đối thoại, khi hô thì tôn kính, đặt người đối thoại ở vị trí cao hơn, lớn
tuổi hơn mình). Về cách gọi đối phương, đặc biệt trong trường hợp không
quen thân, người việt rất hạn chế dùng các đại từ nhân xưng vai dưới. Người
trẻ đi ra đường sẽ gọi người trẻ khác là anh chị và gọi người lớn tuổi là ông
bà, cô bác. Ví dụ như khi đi nhà hàng gọi món, nhân viên phục vụ thấy khách
trẻ hơn mình nhưng vẫn gọi khách là “anh”, “chị”. Trong trường hợp đối 14
phương trẻ quá, gọi “anh”, “chị” không nổi thì sẽ gọi bằng “bạn”. Cách gọi
như vậy không còn giống với đại từ nhân xưng trong gia đình phân theo độ
tuổi nữa, mà để thể hiện sự tôn trọng đối phương. Hơn nữa, còn có khi cùng
một cặp giao tiếp nhưng cả hai người đều cùng xưng là vai dưới và gọi nhau
là vai trên, ví dụ cùng xưng là em và cùng gọi nhau là chị, biểu thị cả hai cùng
đề cao nhau, coi nhau như tiền bối của mình. Cũng chính vì sự tôn trọng, kính
nể đối phương, một số tục lệ đã ra đời. Điển hình là tục kiêng huý: con cháu
phải kiêng đặt tên giống với những người bề trên trong gia tộc, đặc biệt là cụ
tổ. Không những kiêng trong nhà mà còn cả ngoài xã, hay còn có tục nhập gia
vấn huý, cụ thể là khi vào nhà ai thì phải hỏi tên chủ nhà để không lỡ lời mà nói động vào từ đó.
6.2. Nghi thức trong các cách nói lịch sự
Các cách nói lịch sự của người Việt cũng phong phú và nhiều nghi thức
như trong xưng hô. Không giống như phương Tây chỉ có hai từ “cảm ơn”,
“xin lỗi”, người Việt Nam sử dụng rất nhiều mẫu câu khách sáo mang tính
linh hoạt trong nhiều trường hợp khác nhau.
Cụ thể: “Chị chu đáo quá” (cảm ơn vì món quà), “Bác bày vẽ quá” (cảm
ơn khi được tiếp đón) , “Quý hóa quá” (cảm ơn khi khách đến thăm) , “Anh
quá khen” (cảm ơn khi được khen)... Những cách nói lịch sự này rõ ràng tạo
cảm giác gần gũi hơn giữa hai đối tượng giao tiếp thay vì lời cảm ơn, xin lỗi
cứng nhắc, lại càng phù hợp với lối nói vòng vo và tính hay ngại ngùng của
người Việt. Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định , sống chú trọng đến không gian,
nên người Việt Nam phân biệt kĩ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc
thái tình cảm như vậy. Trong khi đó, văn hóa phương Tây ưa hoạt động, rõ
ràng trong lời nói lại phân biệt kĩ các lời chào theo thời gian như chào gặp
mặt, chào chia tay, chào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối.
III. SO SÁNH ĐẶC TRƯNG TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT
NAM VỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á

1. Điểm tương đồng 15
Cùng thuộc khu vực Đông Nam Á, văn hóa giao tiếp của người Việt Nam với
các nước lân cận có khá nhiều điểm tương đồng ở những quy tắc , chuẩn mực
chung. Sau đây là ba điểm tương đồng dễ thấy: - Trọng lễ nghi:
Các nước Đông Nam Á đều có chung đặc tính tôn trọng lễ nghi, nghi thức
trong giao tiếp. Mỗi quốc gia có một cách chào riêng: người Việt Nam
khoanh tay cúi chào, người Lào, Campuchia, Thái Lan chắp hai tay trước
ngực cúi đầu kết hợp ngôn ngữ chào hỏi và thái độ giao tiếp hòa nhã. Một
điểm chung có thể thấy là tất cả các kiểu chào đều thể hiện sự trang nghiêm,
tôn trọng đối phương. Người Việt Nam coi trọng lời chào: “ Lời chào cao hơn
mâm cỗ ” nên cho rằng việc đi qua không chào hỏi là thể hiện cho sự bất nhã,
vô lễ. Ngoài ra, các cử chỉ , tác phong trong giao tiếp cũng phải thể hiện được
sự trân trọng với người đối diện. Khi giao tiếp bằng mắt, ở các quốc gia Đông
Nam Á đều coi việc nhìn thẳng vào mắt ai quá lâu là khiêu khích, bất lịch sự, khiếm nhã -
Đề cao tính tôn ti, trật tự
Khác với phương Tây có thói quen ôm hôn, vỗ vai khi chào hỏi, người Đông
Nam Á trọng lễ nghi nên rất cẩn trọng tính tôn ti trật tự, đặc biệt giữa những
người khác nhau về lứa tuổi, giới tính, địa vị xã hội. Vị trí giao tiếp thường
được căn cứ thông qua vị trí của chủ thể giao tiếp và đối tượng giao tiếp trên
cương vị xã hội, giới tính, độ tuổi và quan hệ thân hữu ( quan hệ dựa trên cơ
sở thứ bậc trong gia đình, tính chất mối quan hệ thân mật hay xa cách ). Từ
đó, người Việt Nam có thể lựa chọn các hình thức như bắt tay, gửi lời chúc,
cúi đầu chào ... Vì vậy , trong giao tiếp cũng như nhiều lĩnh vực khác , Việt
Nam và các nước Đông Nam Á thường thể hiện sự kính trọng đối với người
già, những người có kinh nghiệm, có địa vị xã hội.
2. Điểm khác biệt
Mỗi quốc gia Đông Nam Á sẽ lại có những phong tục, tập quán và nghi
thức giao tiếp riêng để khẳng định bản sắc văn hóa đa dạng của mình. - Cử chỉ “ chạm ”: 16
Mỗi quốc gia có một quy định về cách biểu hiện sự thân mật khác nhau.
Nếu ở Việt Nam người già có thể xoa đầu trẻ nhỏ, người bề trên xoa đầu
người bề dưới để biểu lộ sự thân mật, trìu mến thì nhiều nước Đông Nam Á
không chấp nhận hành vi này. Người Campuchia, Thái Lan cho rằng đầu là
nơi linh thiêng nên không được chạm hay xoa đầu trẻ em. Đối với người Lào,
sờ đầu / vỗ đầu ai đó là sự xúc phạm, và người Indonexia cũng không ngoại lệ
khi coi hành động chạm tay lên đầu ai là biểu hiện sự khinh bỉ coi thường người đó. - Nghi thức tặng quà
Người Việt thường trọng nghi thức cho – nhận , và thường sẽ tỏ ra áy náy ,
ngại ngùng khi được nhận quà từ phía người khác hay nếu phải mở quà trước
mặt người tặng. Khi đến thăm nhà cần mang theo chút quà cáp để gửi tặng
cho gia đình hay để góp vui. Tuy nhiên, với người Indonexia, từ chối bất kì
món quà gì cũng sẽ bị coi là bất nhã. Bên cạnh đó, những sản phẩm làm từ da,
thịt lợn cũng kiêng không nên tặng người khác bởi 90 % dân số theo đạo Hồi.
Người Lào cũng không chấp nhận món quà là dao và tuyệt nhiên không được
đưa đồ bằng tay trái vì theo họ, tay trái là biểu hiện của sự dơ bẩn.
IV. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA NHỮNG ĐẶC TRƯNG NÀY
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1. Ưu Điểm
- Thái độ trong giao tiếp: Việt Nam có thái độ cẩn trọng, nhẹ nhàng trong
giao tiếp, không có tính ích kỷ tranh giành quyền lợi nên có mối quan
hệ hợp tác hòa bình, hữu nghị với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới. Dù rụt rè khi bắt đầu giao tiếp nhưng người Việt luôn sẵn sàng mở
rộng quan hệ và không ngại giao tiếp với bằng hữu quốc tế. Điều này
càng được khẳng định qua đặc tính hiếu khách, cởi mở, chu đáo mà em
đã nhắc đến trước đó. Lòng mến khách ấy bắt nguồn từ cách cư xử
trọng tình nghĩa, cái tình mộc mạc, chân thật, chứ không phải cái tình
như một cử chỉ giao tiếp lịch sự hay thủ pháp để chinh phục, gây ấn
tượng và xây dựng được nhiều mối quan hệ chân thành với người nước
ngoài khi hội nhập quốc tế, giao lưu với các quốc gia khác. 17
- Cách thức trong giao tiếp:
Người Việt Nam hầu như rất coi trọng thể diện, danh dự của bản thân
trong quá trình giao tiếp. Vì vậy, khi giao tiếp với người nước ngoài,
người Việt biết giữ ý tứ, chừng mực để không làm xấu hình ảnh bản
thân, từ đó, bạn bè quốc tế có thể đánh giá cao hình ảnh người Việt
Nam và đất nước Việt Nam.
- Quan hệ trong giao tiếp: Một trong những ưu điểm trong đặc trưng văn
hóa giao tiếp của người Việt Nam đó chính là việc lấy tình cảm làm
nguyên tắc ứng xử. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cách ứng
xử tinh tế, tình cảm chân thành của người Việt dễ dàng lấy được thiện
cảm của bạn bè quốc tế. Những du học sinh tại nước ngoài nhờ tình
cảm và sự thân thiện, tính hiếu khách, có thể hòa nhập vào môi trường
đa văn hóa, đa quốc gia; và hơn nữa là sự nỗ lực của công tác ngoại giao toàn cầu. 2. Hạn chế
- Sự rụt rè, thiếu tự tin kết hợp với tính sĩ diện cao và việc trọng tình hơn
lí có thể là rào cản ngăn người Việt có cơ hội được tiếp xúc, trải
nghiệm với các nền văn hóa đa dạng khác nhau, đồng thời khó tiếp thu,
bảo thủ trong việc chấp nhận cái mới, nền văn hóa mới, đặc biệt là
trong những môi trường doanh nghiệp, các tập đoàn đa quốc gia, văn
hóa doanh nghiệp luôn đòi hỏi sự chuyên nghiệp, kỉ luật và chỉn chu.
- Lối giao tiếp ưa tế nhị khiến người Việt Nam có thói quen giao tiếp
“vòng vo tam quốc”, không đi thẳng vào vấn đề, gây mất thời gian và
tạo không khí gượng gạo cho nhiều đối tượng nước ngoài, đặc biệt là
người phương Tây. Cách giao tiếp này đôi khi sẽ khiến bạn bè quốc tế
tránh giao tiếp với người Việt để tiết kiệm thời gian cho công việc cá nhân.
- Một nhược điểm khác đó là sự tìm hiểu thân mật đến mức tò mò hay
tọc mạch đôi khi sẽ trở thành một rào cản trong việc làm quen, tiếp cận
bạn bè ở các đất nước khác nhau trên thế giới. Đặc biệt ở các nước
phương Tây với lối sống cởi mở, chủ nghĩa cá nhân được đề cao, họ sẽ
không đặt nặng các yếu tố về hoàn cảnh, gia thế khi giao tiếp hay đánh 18
giá mọi người. Ngược lại, chúng ta có xu hướng tìm hiểu kĩ càng một ai
đó trước khi trò chuyện hay làm việc cùng họ. Điểm khác biệt này đôi
khi sẽ tạo ra mâu thuẫn hay bất đồng quan điểm trong công việc.
- Hệ thống ngôn từ và nhân xưng quá phong phú, phức tạp: Khó có quốc
gia nào có hệ thống nhân xưng và ngôn từ nhiều như Việt Nam “Phong
ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam” . Dù là niềm tự hào và nét
đẹp dân tộc, điều này đôi khi gây ra sự nhầm lẫn hay khó khăn trong
quá trình giao tiếp, dễ đi đến hiểu lầm, mích lòng nhau. C. KẾT LUẬN
Trong khuôn khổ của một bài tiểu luận, ta đã thấy được những yếu tố làm
nên nét đặc sắc trong văn hóa giao tiếp của người Việt so với các quốc gia
toàn cầu, bao gồm sáu khía cạnh mà em đã phân tích. Cùng với đó là những
ưu, nhược điểm của những đặc trưng này trong quá trình hội nhập quốc tế,
minh chứng bằng những ví dụ thiết thực, dễ thấy trong cuộc sống hằng ngày.
Là những sinh viên theo học tại Học viện Ngoại giao, chúng ta phải nhận thức
rõ được những đặc điểm này và biết phát huy những điểm tốt, khắc phục điểm
xấu, tạo nên phong thái ngoại giao thanh lịch, xứng đáng với màu áo trường.
Trước hết, sinh viên phải trang bị cho mình một trình độ hiểu biết nhất
định về nhiều lĩnh vực khác nhau như chính trị, văn hóa, xã hội, nghệ thuật,
khoa học,... Ngoài những kiến thức chuyên môn được lĩnh hội trên giảng
đường, chúng ta cần tìm hiểu thêm và cập nhật bản thân mình với những thay
đổi chóng mặt của thông tin toàn cầu.
Thứ hai, ta cần trau dồi Ngoại ngữ, đặc biệt là Tiếng Anh. Ngoại ngữ giờ
đây không còn là rào cản mà là công cụ đắc lực trong việc giao lưu, đối ngoại,
tiếp bước các nền văn minh, văn hóa đa quốc gia. Việc giỏi ngoại ngữ giờ đây
vừa là một điều kiện gần như bắt buộc, cũng như trở thành một trong những
ưu thế của sinh viên Học viện Ngoại giao.
Cuối cùng, ta phải biết tin vào chính mình, nhận thức những mặt ưu điểm
và hạn chế, cũng như tự hào về giá trị của con người Việt Nam nói chung, của
bản thân nói riêng trước bạn bè quốc tế. Chúng ta cần biết mình là ai, mình
đang ở đâu để ứng xử, giao tiếp cho phù hợp, tinh tế. 19
Trong khuôn khổ của bài tiểu luận, em đã chỉ ra những đặc điểm chung
nhất về văn hóa giao tiếp của người Việt Nam cũng như những ưu, nhược của
những đặc điểm ấy trong quá trình hội nhập quốc tế, đề xuất những phương
án và phương hướng giải quyết các vấn đề, hạn chế hiện nay. Dù tiểu luận
chưa đủ chuyên sâu và còn thiếu sót, em xin được quý thầy cô chỉ dạy thêm.
Em xin chân thành cảm ơn! 20